Phận nghèo
Mùa gió bấc năm Mậu Tuất 1898, trong một mái lều tranh vách lá che tạm ven bờ sông Cà Ty thuộc làng Đức Thắng, đứa con thứ chín của một ngư dân nghèo cất tiếng khóc chào đời. Trời trở bấc hơn 3 tháng, người cha không đi biển được, nhà không còn một hạt gạo, tám đứa con nheo nhóc bữa đói bữa no cũng chừng ấy thời gian. Người mẹ nghèo sinh đến đứa con thứ 9 nên sức cùng lực kiệt, ngất đi hơn 1 ngày. Người chồng đã sang nhà người bạn ghe mượn tạm một ít gạo về nấu cháo cho vợ. Để có chất tẩm bổ cho vợ, có sữa cho con bú, thứ thực phẩm duy nhất mà người chồng có được là vò nước mắm chôn dưới đất. Cháo loãng và nước mắm giúp người mẹ nghèo có được những dòng sữa ngọt nuôi con trong cảnh khốn cùng. Nghèo, chữ nghĩa chẳng có, không biết đặt tên con là gì, thôi thì đặt tên xấu dễ nuôi. Cái tên Trương Thị Tuất của người con gái thứ chín ra đời như thế.
Cũng như các anh chị mình, từ nhỏ Trương Thị Tuất phải theo phụ mẹ gánh cá mướn. Nhờ trời phú cho Tuất sức khỏe. Cô làm việc quần quật suốt ngày mà không biết mệt. Dậy sớm từ tinh mơ để đón ghe cá vào, rồi gánh cá đổ vào thùng lều cho chủ, sau đó theo anh chị đi cào muối thuê, chiều về dọn dẹp vệ sinh lều mắm,... Bất kể việc gì cô cũng không nề hà. Không như những cô gái thời đó, do nhà nghèo, một phần lo phụ mẹ cha đến ngoài 20 Tuất mới nghĩ đến việc lập gia đình và người chồng của cô cũng là một trai lều(*) hay làm hay làm. Đó cũng là chàng trai chưa bao giờ nói với cô một lời sổ sàng, khác biệt với bao nhiêu trai lều trong vùng ưa bởn cợt, trêu chọc đàn bà, con gái mỗi khi có dịp. Một đôi lần tình cờ gặp nhau trước lều mắm, anh lúc nào cũng nhìn Tuất rồi tủm tỉm cười. Nụ cười của anh mới hiền lành làm sao! Từ đó mà trái tim Tuất thường đập thình thịch, tay chân trở nên bối rối mỗi khi gánh cá vào lều gặp anh và được anh phụ đổ cá cho. Một hai người biết chuyện nói vào, vì vậy khi cha mẹ hỏi Tuất về chuyện Cang- tên của anh- cậy người mai mốt thì Tuất đỏ nhừ mặt không nói gì! Cũng từ việc lập gia đình với anh Nguyễn Văn Cang một cách trể tràng (lâu) này mà mọi người thời đó gọi đùa cô bằng cái tên Chín Lâu. Chín Lâu rồi trở thành tên thường gọi của cô Tuất lúc nào không hay!
Khởi nghiệp
Vợ chồng ra riêng không có một mảnh đất cắm dùi. Bí quá, đôi vợ chồng trẻ xin chủ lều mắm che tạm một mái nhà bên cạnh vừa để ở, vừa để canh lều cho người ta. Được một thời gian ngắn thì phải dọn đi vì con của chủ lều không cho. Lại phải đi tá túc hết nơi này đến nơi khác. May mắn thì ở được lâu, không thì vài tháng. Cuộc sống nay đây mai đó, trăm bề cực khổ đã làm cô Chín Lâu quyết tâm tằn tiện, dành dụm. Năm 1923, vợ chồng mua được một mảnh đất nhỏ với số bạc 10 đồng ở một nơi hẻo lánh của làng Đức Thắng thời ấy. Ngoài thời gian đi làm thuê, vợ chồng muối một vài mái nước mắm tại nhà để bán lẻ. Từ bé đã gắn bó với con cá, hạt muối, thùng lều,... cùng khả năng thiên phú, nước mắm của vợ chồng Chín Lâu làm ra ai cũng khen ngon và mua ủng hộ. Từ vài mái mắm nhỏ, vợ chồng từng bước mở rộng cho đến ngày trở thành có được một thùng lều rồi hai thùng lều… làm mắm. Nước mắm của vợ chồng được sản xuất bởi kỹ thuật cổ truyền, nhưng cao hơn cả nó kết tinh sự cẩn thận, sự kỷ càng về thời gian muối cá, về lượng muối có độ mặn vừa phải, về sự nén, sự trộn, sự pha chế…Dần dần trở thành một loại nước mắm được người dân xóm chợ ưa thích, tìm mua. Tiềng lành đồn xa. Năm 1927, khi lượng nước mắm bán ra ngày một chiều, vợ chồng Chín Lâu chính thức đặt tên nước mắm của mình là Hồng Hương. Vì sao có tên Hồng Hương thì người phụ nữ giỏi giang của làng biển Đức Thắng xưa giải thích: Vì nó luôn có màu hồng tươi của loại nước mắm được muối đúng quy trình và luôn tỏa hương thơm của tinh chất cá vốn là cá tươi nguyên trước khi muối…
Với bản tính ham làm, chịu khó và quý trọng chữ tín, chỉ vài năm sau nước mắm thương hiệu Hồng Hương với “lô gô” hình con tôm của vợ chồng bà Hồng Hương ( sau đây gọi bà Chín Lâu là bà Hồng Hương ) đã có mặt tại Sài Gòn.
Lừng tiếng Hồng Hương.
Thời ấy, các hãng nước mắm khác phải thuê ghe hoặc chỉ sắm 1- 2 chiếc ghe bầu để vận chuyển nước mắm đi bán, riêng hãng Hồng Hương có một đội ghe hơn 10 chiếc, chở nước mắm ngược ra miền trung, miền bắc và xuôi vào Sài Gòn và Nam kỳ lục tỉnh. Từ năm 1933, tại Phan Thiết nước mắm Hồng Hương luôn là thương hiệu nổi tiếng nhất về chất lượng và sản lượng sản xuất ra. So với sản phẩm cùng loại thì nước mắm Hồng Hương luôn cao giá hơn nhưng được người tiêu dùng chấp nhận. Hồng Hương phải mở nhiều cơ sở phát hành tại Sài Gòn và các tỉnh Nam kỳ. Điều đặc biệt nước mắm Hồng Hương từ Phan Thiết vào Sài Gòn được người Hoa ở Chợ Lớn mua sĩ và phân phối khắp vùng Chợ Lớn. Hầu như cộng đồng người Hoa thời kỳ này khi dùng nước mắm chỉ sử dụng nước mắm thương hiệu Hồng Hương. Hàng sản xuất ra không kịp bán. Tại Phan Thiết từ 1 sở lều ban đầu chỉ trong vòng 15 năm hãng nước mắm Hồng Hương đã phát triển ra hơn 20 sở lều, mỗi lều rộng hàng hecta tại Phan Thiết và Phan Rí. Con đường Duy Tân (đường Nguyễn Văn Trỗi ngày nay) trước 1975 hầu hết là sở lều của nước mắm Hồng Hương.
Bí mật của hãng.
Trong quá trình tìm hiểu về những hàm hộ xưa tại Phan Thiết, chúng tôi có nêu thắc mắc tại sao cũng cá, cũng muối và đều được làm tại Phan Thiết nhưng nước mắm Hồng Hương lại nổi tiếng thơm ngon như vậy. Họ có bí quyết gì chăng? Nhiều bậc cao niên trong nghề nước mắm kể lại trước đây hầu như dân hàm hộ ai cũng nghe nói câu chuyện bí quyết nghề của nước mắm Hồng Hương: Nước mắm thành phẩm trước khi xuất bán được bà Hồng Hương chứa trong thùng lớn 12.000 lít sau đó bà cho đổ vào 3 - 4 xe bò nước hến lấy từ giếng dọc ( nước giếng đào trên động cát có màu trắng đục ) ở khu vực xóm lò tỉn ( nay là đường Trần Quý Cáp thuộc phường Đức Long, Phan Thiết ) rồi trộn đều. Sau khi pha với lượng nước hến này thì nước mắm trở dịu, có vị ngọt đặc trưng riêng biệt của nước mắm Hồng Hương và đặc biệt để lâu không hư. Hầu như các hàm hộ khác đều biết chuyện này nhưng không ai bắt chước thành công. Đem câu chuyện này hỏi con cháu bà Hồng Hương thì chúng tôi được trả lời là họ trước đây cũng có nghe nói nhưng không biết thực hư thế nào (?!)
Những công trình kiến trúc.
Năm 1932, thị xã Phan Thiết được chính quyền thuộc địa kiến thiết lại để phù hợp với tính chất là tỉnh thành quan trọng của Trung Kỳ lúc bấy giờ. Khi ấy, chính quyền thuộc địa có chủ trương khuyến khích phát triển đô thị Phan Thiết nên đã kêu gọi và hỗ trợ những thương gia, nhất là các thương gia địa phương mở đường, xây phố, lập chợ. Nhiều phố xá và chợ búa ở Phan Thiết được xây dựng giai đoạn này.... Cũng như ông Bát Xì và bà Lục Thị Đậu, tiền làm ra từ sản xuất nước mắm bà Hồng Hương đầu tư hết vào nhà cửa, đất đai để bán hoặc cho thuê. Từ năm 1945, trên tuyến đại lộ Trần Hưng Đạo là tuyến đường đường to đẹp nhất đô thị Phan Thiết thời đó, đoạn từ trường Nam Phan Thiết ( nay là trường tiểu học Đức Thắng ) đến bờ sông Cà Ty ( thời đó chưa có cầu Trần Hưng Đạo ) hơn 90% nhà cửa, đất đai dọc tuyến đường này là của bà Hồng Hương. Vị trí ngân hàng Sacombank ngày nay trước đây là phòng ngủ ( khách sạn ) của Hồng Hương. Năm 1973 khi Hiệp định Pari được ký kết bà Hồng Hương cho thuê toàn bộ khách sạn này làm trụ sở của Ủy ban 4 bên. Tòa nhà góc đường Ngô Sĩ Liên - Trần Hưng Đạo cách đó mấy căn cũng thuộc sở hữu của bà. Trong lịch sử hình thành trường trung học Phan Bội Châu, những năm đầu mới thành lập trường cũng thuê lại tòa nhà trên đường Trần Hưng Đạo của bà Hồng Hương để làm trường, về sau trả và người khác thuê để làm trường Tiến Đức, hiện nay vị trí này là trụ sở UBND thành phố Phan Thiết. Đặc biệt, 2 tòa nhà kiến trúc Pháp có mái vòm nằm ở hai bên trụ sở UBND thành phố Phan Thiết được bà Hồng Hương xây dựng từ năm 1954. Có một thời trụ sở chính của hãng nước mắm Hồng Hưng được đặt tại đây. Hai công trình kiến trúc Pháp này hiện còn khá đẹp và được xem như một trong những công trình kiến trúc đẹp nhất đô thị Phan Thiết hiện nay.... Ngoài ra, bà Hồng Hương còn bỏ tiền đầu tư xây dựng hàng trăm căn nhà phố liền kề ở các đường Chu Văn An, Triệu Quang Phục, Ngô Sĩ Liên, Đồng Khánk ( nay là Trần Phú ) để bán hoặc cho thuê.
Với người thân.
Các người con đều được ông bà Hồng Hương truyền nghề và giúp đỡ tạo dựng ra các hãng nước mắm riêng và khá thành công như hãng nước mắm Hồng Sanh của người con gái thứ bảy, hãng Hoa Hương của người con gái thứ ba, cơ sở của người con thứ tám. Người con rể là ông Dương Quang Thiết (nước mắm Hồng Sanh ) trước 1975 là chủ tịch nghiệp đoàn hàm hộ Phan Thiết. Đặc biệt người em gái ruột thứ mười của bà Hồng Hương là bà Trương Thị Mao cũng được bà giúp đỡ mở hãng nước mắm Hồng Xuyên nổi tiếng không kém. Ngoài việc kinh doanh nước mắm bà Hồng Xuyên còn được nhiều người dân Phan Thiết thời ấy biết đến khi có 2 người con trai hy sinh khi tham gia kháng chiến và có người con rể là bác sĩ Lê Văn Phụng làm đến chức thứ trưởng Bộ Y tế sau năm 1975 và là mẹ ruột của sư bà chùa Bình Quang - Phan Thiết. Trong số các người con của bà Hồng Hương có người con trai đầu là ông Nguyễn Văn Sâm tham gia kháng chiến, tập kết ra Bắc sau đó trở vào Nam công tác tại Quân khu 7 với quân hàm đại tá quân đội nhân dân Việt Nam.
Một thời vang bóng.
Năm 1957, ông Nguyễn Văn Cang mất, bà Hồng Hương vẫn tiếp tục điều hành hãng nước mắm Hồng Hương thêm một thời gian rồi giao lại cho vợ chồng người con trai thứ hai là ông Nguyễn Văn Ngọ và bà Lương Nguyệt Quyên. Sau năm 1975, thì vợ chồng người con gái lớn của bà Quyên là bà Nguyễn Thị Ngọc Ngân và ông Phan Gia Tự tiếp tục thừa kế thương hiệu Hồng Hương. Tuy nhiên, điều đáng tiếc là thương hiệu nước mắm Hồng Hương nổi tiếng gần 100 năm giờ đã không còn thuộc sở hữu của gia đình bà Hồng Hương do một bạn hàng ngày xưa của nước mắm Hồng Hương tại Tiền Giang đã nhanh tay đăng ký và đã được Cục Sở hữu công nghiệp cấp chứng nhận độc quyền thương mại năm 1994. Sau năm 1995, gia đình bà Nguyễn Thị Ngọc Ngân có tiếp tục làm nước mắm nhưng phải lấy thương hiệu mới là Ngân Hương và đã chấm dứt nghề nước mắm cách đây vài năm do lớn tuổi và con cái không còn ai theo nghề nữa.
Câu chuyện về bà Hồng Hương giờ vẫn được nhiều người nhắc đến như một tấm gương về một người phụ nữ nghèo khó vươn lên từ nghề nước mắm cổ truyền của địa phương và là người đã góp phần to lớn tạo ra nhiều thương hiệu nước mắm Phan Thiết nổi tiếng khắp cả nước. Cũng chính bà đã kiến tạo và để lại cho đời sau nhiều công trình kiến trúc đẹp, góp phần hình thành một đô thị Phan Thiết giàu đẹp ngày nay.
LÊ HUÂN