Thursday, April 21, 2022

Đại Tá Vũ Văn Lộc

Tin cho biết: "nhà văn Vũ văn Lộc" sắp mời tướng Lương Xuân Việt nói chuyện" cảnh báo bài viết nầy:
Kính gửi Đại Tá Lộc,
Tôi nhận được e-mail của Ông Tường Phạm cho biết đêm 30 tháng 12 năm 2011 tại nhà hàng Phú Lâm, Đại Tá QLVNCH Vũ Văn Lộc, Giám Đốc cơ quan IRRC đã tổ chức lễ tất niên“35 năm nhìn lại” không có chào quốc kỳ và cũng không có phút mặc niệm để tưởng nhớ chiến sĩ trận vong và đồng
bào bỏ mình trên đường vượt biên tìm tự do. Quyết định không chào Quốc Kỳ Quốc Gia làm ngở ngàng “hơn 400 quan khách” trong đó có sự hiện
diện của Đề Đốc Trần Văn Chơn, Thiếu Tướng Nguyễn Khắc Bình, và những sĩ quan cấp Đại Tá. etc.. Được biết tại buổi tiệc tất niên trên, ba
cựu quân nhân gồm có Ông Nguyễn văn Báu, Tiểu Đoàn 2 Pháo Binh/ Sư Đoàn Nhảy Dù, Bà Thu Nguyệt và Bà Cương, cựu Nữ Quân nhân QLVNCH rời khỏi buổi tiệc vào lúc 8 giờ tối cùng ngày để phản đối Đại Tá.
Quyết định không làm lễ chào cờ và lễ mặc niệm để tưởng niệm các chiến sĩ trận vong là quyền tự do chọn lựa của Đại Tá nếu ở nhà riêng tư của
Đại Tá mà không thể được nêu lên nơi công cộng. Nhưng trong trường họp này, Đại Tá là Giám Đốc trung tâm IRRC ở San Jose với ngân khoảng do
dân Hoa kỳ cung cấp để phục vụ cho người tỵ nạn Cộng Sản. Hành động và tư tưởng của Đại Tá như thế trước 400 thực khách cũng làm ngỡ ngàng dư
luận.
Trước đây khi đọc bài Cô Gái Bình Long mà Đại Tá là tác giả, tôi rất
suy nghĩ và không hiểu mục đích thực sự của Đại Tá qua bài trên như thế nào vì Cố Đại Úy Lê Bắc Việt đã hy sinh hơn 43 năm qua rồi và đại ý chánh của bài viết có phải thực sự để ca tụng sự hy sinh anh dũng và cao cả của cố Đại Úy Việt hay không? Sau đó Đại Tá xác nhận có buổi tổ chức Văn Nghệ tình Thương mà không có chào cờ trước khi trình diễn văn nghệ làm tôi bị "shocked."
Qua hai sự việc trên, tôi tự hỏi, có thể trong tình thế chính trị của nước Việt Nam hiện nay và chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ liên quan đến Đông Nam Á dẫn đến việc Đại Tá có quyêt định quá khôn khéo để chính phủ Hoa Kỳ nhìn thấy sự uyễn chuyễn của Đại Tá như không làm lễ chào cờ Quốc gia trong những sinh hoạt của IRCC thì Đại Tá hy vọng họ
sẽ bổ nhiệm Đại Tá vào chức vụ mà Hoa Kỳ cần nhân vật khôn ngoan như Đại Tá để “deal” với VC? Thí dụ như Đại Tá có thể đi làm Tổng Lãnh Sự
một sứ quán của Hoa Kỳ tại nơi nào đó ở Việt Nam, đúng hay không Đại Tá?_ Nếu được như vậy thì cũng tốt thôi. Với tài trí thông minh của một sĩ quan cao cấp trong QL/VNCH và giàu kinh nghiệm khôn khéo trong cơ quan hành chánh, Đại Tá có khả năng làm việc cho Mỹ thì lúc ấy Đại
tá không chào Quốc Gia Việt Nam cũng được?
Sau khi Ông Tường Phạm, [tuong phamvh@...] phổ biến e-mail liên quan đến vấn đề trên, Đại Tá phổ biến hai Thông Báo vào ngày 31 tháng 12 năm 2011 và ngày 4 tháng 1 năm 2012. Đọc qua hai Thông Báo trên tôi có những ý kiến như sau với Đại Tá.
Trong thông báo số I của cơ quan IRCC đề ngày 31 tháng 12 năm 2011, Đại Tá cho biết:
1/ “Chiều thứ sáu 30 tháng 12-2011 cơ quan IRCC chúng tôi có tổ chức tiệc Tất niên ghi dấu 35 năm phục vụ di dân tỵ nạn tại miền Bắc tiểu bang California. Chương trình đã hoàn tất trong không khí văn nghệ gia đình.” Qua đoạn văn này, rất tiếc, Đại Tá không có định nghĩa cho dư luận biết thế nào là “không khí văn nghệ của gia đình.” Khi phổ biến thông báo này Đại Tá dùng e-mail address của Trung Tâm IRCC như
giaochi...@sbcglal.netirc...@yahoo.com như vậy buổi tiệc không có
mang tính cách cá nhân hay gia đình ở đây mà là của Trung Tâm IRCC. Vã lại thông thường những buổi tiệc tất niên của các đoàn thể hay cơ quan
thiện nguyện đều có lễ chào cờ nghiêm chỉnh và theo sau là phút mặc niệm để tưởng nhớ những chiến sĩ bỏ mình vì tổ quốc. Đại Tá đã mời
trên 400 trăm người tham dự buổi tiệc trong đó có các vị tướng lãnh VNCH và những giới chức tên tuổi trong cộng đồng người tỵ nạn thì đâu có còn là tính cách gia đình được! Hơn nữa gia đình của cơ quan IRCC không phải hiểu đơn giản như là “gia đình riêng của Đại Tá!” Lấy lý do buổi tiệc của gia đình để biện hộ việc làm của Đại Tá như là “Chương trình đã hoàn tất trong văn nghệ của gia đình” là không chính đáng hay nói trắng ra là ngụy biện.
Lễ chào quốc kỳ và lễ tưởng niệm chiến sĩ trận vong phải được diễn ra trong những phút đầu tiên của buổi lễ và không thể đồng nghĩa buổi lễ
tất niên của Trung Tâm IRCC là “văn nghệ trong gia đình.” Nếu Đại Tá nghĩ lại việc làm của Đại Tá vừa qua là có sự thiếu xót thì xin lỗi dư luận. Dư luận cũng không khó tính lắm vì biết Đại Tá có tuổi cao nên tâm trí không còn minh mẫn và tinh thần cũng đang xuống theo ánh tà dương. Còn ngụy biện là điều không nên vì làm như thế Đại Tá xem
thường dư luận trong cộng đồng hải ngoại. Hoặc Đại Tá thách thức dư luận vì trong Thông Báo thì Đại Tá cũng đã xác nhận không có lễ chào cờ trong một buổi tiệc văn nghệ "Tình Khúc Cho Em" trước đây.
2/ Chính vì ở tuổi quá xế chiều cho nên khi bị ba thực khách phản đối và bỏ buổi tiệc ra về, lẽ ra Đại Tá cảm thấy xấu hổ chớ sao quá “khôn ngoan” cho rằng, “Một chuyện bên lề cần trình bầy: Có bạn hỏi về chào cờ mặc niệm.” Thưa Đại Tá, sự thắc mắc của ba cựu quân nhân trên không phải là "chuyện bên lề" trong buổi tất niên của một Trung Tâm “phụ
trách việc chung của đồng bào hải ngoại.” Cơ quan này không phải là nhà hàng, hay tiệm phở, hoặc tiệm bán cá biển, hoặc một quán café, hoặc một công ty riêng mà là Trung Tâm phục vụ cho đồng bào hải ngoại, phải hiểu ngầm là có màu sắc chính trị mặc dầu có sự tránh né về chính trị ở đây, cho nên những buổi lễ liên quan đến cộng đồng phải có chào cờ và phút mặc niệm. Là một Đại Tá của Quân Lực VNCH, ông phải dư biết điều đó hơn là ba vị quân nhận dũng cảm trên.
3/ Hơn nữa ngoài công tác xã hội Trung Tâm IRCC cũng phải biết được đời sống tinh thần hoặc sinh hoạt chính trị của người tỵ nạn. Chính phủ Hoa Kỳ có luật pháp để bảo vệ Trung Tâm vì thế Đại Tá bảo là không chào cờ trong những buổi lễ có người tham dự đông đảo để tránh sự “đánh phá” của kẻ xấu là một ngụy biện thứ hai mà một vị Đại Tá không thể nào đưa ra lý luận hàm hồ như thế được. Nếu Đại Tá đã hiên ngang trã lời,“Xin trả lời:Buổi họp mặt tất niên của IRCC tháng 12 cũng như
văn nghệ Tình Khúc Cho Em vào tháng trước. Chúng tôi không có tiết mục chào cờ và mặc niệm. Lý do: Không thích hợp” thì tôi e ngại là không
ổn chút nào hết. Thế nào là "không thích hợp" vậy Đại Tá? Sự không thích hợp này mới xãy ra vài tháng nay phải không Đại Tá? Phần này tôi xin dành cho quý vị cao kiến hơn phúc đáp cho đại Tá. Nếu Đại Tá giữ quan điểm như trên, có thể từ nay về sau, Đại Tá tổ chức những buổi lễ có quan khách đông đảo, tôi tin là đồng bào tỵ nạn sẽ tránh xa và
không phải đóng góp một vé vào cửa nào theo lời mời của Đại Tá. Có thế thôi! Đã biết ý đồ, thái độ và cách cư xữ của Đại Tá như trên thì không ai còn gì phải lo ngại nữa; và họ cũng không thể chấp nhận Đại Tá lợi dụng lòng hy sinh vì tổ quốc của một quân nhân QL/VNCH để tổ chức văn nghệ thu tiền đồng bào tỵ nạn nữa.
4/ Những việc làm của Đại Tá trong quá khứ không thể chứng minh cho ý nghĩ và hành động ở hiện tại như thế được. Thời gian thay đổi, tình huống chính trị hôm nay khác với lúc xưa nhưng chính sách của VC với người tỵ nạn cũng đã thay đổi theo kế hoạch lửa đảo của họ. Vì vậy qua hành động và tư tưởng của Đại Tá nêu trên làm cho đồng bào hải ngoại có sự hoài nghi về Đại Tá. Một lý do rất giản dị nữa là đã có người trong năm 2004 thay đổi quan điểm chính trị của người đó nhất là ở tuổi về chiều hoặc vì một lý do ích lợi hay bị lừa đảo cho rằng VC sẽ bỏ điều 4 của Hiến Pháp năm 1992 và cho tự do ứng cử và bầu cử. Người đó đã trở về nước (không hiểu có phải vì lý do trên hay không?) và bị
đồng bào ngoài nước và trong nước phản đối. Khối người hải ngoại không còn ủng hộ người đó nữa. Sau cùng, người đó đi xuống tuyền đài với nổi
niềm óan hận của một người có một lần nữa bị lừa đảo. Riêng trường hợp của Đại Tá hôm nay, Ông Trần Khắc Huyền đã viết một e-mail với nội
dung như sau: “Trước đây nhiều người đặc nghi vấn với tôi về Đại Tá Lộc, tôi không tin nhưng nay hết chối cải.” Đại Tá nghĩ sao?
Một khi Đại Tá nói,“Với tư cách cá nhân và những hoạt động bên ngoài IRCC chúng tôi đã bày tỏ tấm lòng trung kiên với quốc kỳ và QLVNCH
suốt 35 năm qua. Chúng tôi đã từng đấu tranh với chính quyền tiểu bang CA trong hai năm vào cuối thập niên 80 để được phép dựng kỳ đài San Jose đầu tiên trên nước Mỹ. Đã phải đấu tranh 5 năm cuối thập niên 90 với các cơ quan liên hệ tại San Jose mới được phép dùng kỳ đài thường trực và vĩnh viễn tại Viện Bảo tàng VNCH tại San Jose.” Đọc qua đoạn văn này tôi thật bái phục Đại Tá qua việc làm phù hợp với lý tưởng của nạn nhân Cộng Sản, giả dụ như không vì danh lợi mà vì lý tưởng Quốc Gia. Từ đó dân tỵ nan có cảm tình với Đại Tá mà họ không thấy ý đồ... của Đại Tá trong việc làm kể trên. Nhưng tại sao bây giờ Đại Tá lại hành động khác với lúc xưa? Hay là ở mổi thời điểm, lập trường chính trị của con người cũng thay đổi. Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ đã từng chỉ huy đánh Cộng Sản tơi bời trong cuộc chiến bảo vệ Miền Nam được tự do. Đích thân Ông Kỳ oanh tạc miền Bắc rất hào hùng nhưng trong năm 2004 Ông Kỳ quyết định về Việt Nam chắc cũng có lý do thầm kín... nào đó nhưng Phó Tổng Thống Kỳ đã thất vọng vì VC đâu bao giờ chịu bỏ điều 4 của chúng năm 1992 để Ông Kỳ ra ứng cử (tác giả của bức thư này được một môn đệ của Ông Kỳ cho biết vào năm 2004).
5/ Lý do mà Đại Tá cho rằng,“…những buổi họp trong phạm vi cơ quan thiện nguyện chính thức tại Hoa Kỳ. Chúng tôi không chấp nhận làm lễ chào cờ cho có lệ để khỏi bị đánh phá.” Thế nào là chào cờ cho có lệ? tư tưởng này để lộ nguyên hình một lập trường chính trị của một công dân hoăc một phong thái thiếu suy nghĩ của vị Đại Tá trong QL/VNCH. Có phải từ xưa đến nay Đại Tá nhìn thấy những buổi lễ chào cờ trong cộng đồng người Việt hải ngoại là có lệ? Tôi xin kể ra một câu chuyện trong
tù Cộng sản sau đây và Tôi hy vọng là Đại Tá cảm mến họ. Có một nhóm 4 người tù cải tạo tại Hoàng Liên Sơn, khi đi đốn nứa trong rừng họ vẫn
hát bản quốc ca hay những bản hùng ca như Lục Quân Việt Nam, Cờ bay, Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ và Bình Long Anh Dũng khi vắng bóng những tên "VC bảo Vệ." Qua một trại tù khác, tôi rất kính nể một hạ sĩ I Nhãy Dù, Nguyễn Văn H.. Người có nếp sống và tư cách rất đáng phục
trong trại lao tù K4... ở miền Băc. Anh H. không mang cấp sĩ quan trong Quân Lực VNCH nhưng bị VC giam chung với anh em sĩ quan, anh ta không bao giờ tham lam của ai. Anh ấy không bao giờ để ý đến những buổi chia thức ăn hàng ngày trong tù và cũng không bao giờ lãng vãng với VC hay làm ăn ten cho VC vì anh H. là một người không có ý tham lam ẩm thực của ai dù quá đói, không lợi dụng người khác và có lập trường chính trị chống Cộng vững khi bi xa cơ vào quân thù. Là một vị
Đại Tá của Quân Lực VNCH đang sống trong nước Hoa Kỳ mà lại phát biểu,“ Cũng không chào cờ trong các buổi văn nghệ tình ca. Và những buổi họp trong phạm vi cơ quan thiện nguyện chính thức tại Hoa Kỳ.
Chúng tôi không chấp nhận làm lễ chào cờ cho có lệ để khỏi bị đánh phá.” Nói như thế này thiên hạ nghe không được chút nào hết Đại Tá ơi!
Tôi không hiểu Đại Tá tốt nghiệp trường sĩ quan nào trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa mà có lòng dũng cảm quá ư tức cười vì dám phát biểu
như thế? Có lẽ tôi không còn xứng đáng để đối thoại với một chiến si có lòng dũng cãm cao độ như thế nữa.
6/ Sau những lời chỉ trích Đại Tá được phổ biến trên Internet, Đại Tá cho rằng,“không bao giờ kinh xuất” trong việc không chào cờ trong buổi tiệc tất niên vừa qua. Điều này có nghĩa là Đại Tá đã chủ tâm làm điều đó và vẫn còn ngoan cố ngụy biện qua lý lẽ trong hai thông báo trên.
Có phải vì tự ái của một người đã mang cấp bực cao trong Quân Lực VNCH là không bao gờ lầm lổi nên không sửa lỗi. Thí dụ, trong bài Cô Gái
Bình Long, Đại Tá viết là Bình Long bị bỏ ngỏ sau mùa hè đỏ lửa năm 1972. Than ôi! Làm sao mà Đại tá không quan tâm đến Mặt Trận An Lộc và
sự hy sinh của những chiến sĩ Quốc gia để bảo vệ Bình Long cho đến ngày "đứt phim" được? Có e-mail của ông Long Vân cho biết Sự thật là những chiến sĩ VNCH trong tỉnh Bình Long đã giữ Bình Long cho đến những ngày cuối tháng tư năm 1975 nhưng Đại Tá không bao giờ đính chính e-mail chỉ trích của anh Đoàn Trọng Hiếu, Đại Úy BĐQ, một trong những người chiến đấu để cho những vị chỉ huy tuyệt vời dễ dàng đào thoát khỏi nanh vuốt Việt Cộng trước ngày “đứt phim.” Sống trên đất Mỹ
lâu năm và làm việc cho Trung Tâm IRCC mà không có tinh thần phục thiện và tôn trọng ý kiến đóng góp của người dân thì Đại Tá quá ư là quan lại.
7/ Trong Thông Báo số 1, nhân danh là Giám Đốc IRCC Đại Tá cho rằng,“Trong bao năm qua đã nhiều lần cùng anh em tổ chức lễ thượng kỳ
VNCH bay trên cột cờ các thành phố khắp Vịnh Cựu Kim Sơn. Thực sự cũng chỉ là tạm thời trong một ngày hay một tuần. Và được thể hiện vì lý do
chính trị. Khi các nhà dân cử Hoa Kỳ muốn lấy phiếu của bà con ta.” Rõ ràng như hai với hai là bốn trong môn toán Algebra not Boolean
Algebra, Đại Tá đã có sự “lấn cấn” chính trị trong tâm trí. Đại Tá đã vỗ ngực xưng lên công trạng trong việc xây dựng Kỳ Đài tại San Jose và Bảo tàng Viện cho VNCH etc. nhưng Đại Tá cho rằng việc thượng kỳ của VNCH trên các cột cờ trên đường phố San Francisco là do các ứng cử
viên của Mỹ muốn hốt phiếu của dân ta? Như vậy những việc làm trên của Đại Tá là hoàn toàn thỏa mãn theo nguyện vọng và kế hoạch của các ửng
cử viên của Hoa Kỳ? Đại Tá nhớ rằng ý niệm thượng kỳ VNCH và hạ kỳ của Cộng Sản trên toàn thế giới nơi có người Việt tỵ nạn là do lòng quyết
tâm của họ chớ không phải do ngươi nước ngoài. Ở trong nước đồng bào không thực hiện được vì bạo quyền Cộng sản nhưng ngoài nước người Việt
tỵ nạn phải làm mọi phương sách kể cả phương sách thỏa hiệp với các ứng cử viên của Mỹ để được vương cao ngọn cờ Quốc Gia mà không có cầu
lợi hay cầu danh cho một cá nhân nào. Hiểu như thế nên ứng cử viên của Mỹ hy vọng gười tỵ nạn chỉ bỏ phiếu cho họ vì họ đã hổ trợ ý chí đấu
tranh vì tự do, nhân quyền, và dân chủ cho Việt Nam. Được cơ hội thượng kỳ VNCH là phải thượng kỳ, phải phất kỳ VNCH bay phất phới chứ
tại sao Đại lại chỉ trích điều đó trên dư luận công cộng? Lý do mà Đại Tá vừa nêu trên làm cho VC cười khoái chí tử. “Oh! thấy chưa đã có một
Đại Tá VNCH nói thay cho chúng ta.” Vì vậy nghe Đại Tá nói,“Xin đừng bao giờ nói chúng tôi không tôn trọng quốc kỳ VNCH” chắc đồng bào cũng
cần phải có thời gian để mua câu nói đó.
8/ Bị đồng bào hải ngoại chống đối qua quyết định không chào cờ và không có phút mặc niệm để tưởng nhớ đến những chiến sĩ bỏ mình vì tổ
quốc dù đã có Thông Báo số I, Đại Tá lại phổ biến Thông Báo số II để giải thích thêm việc làm của Đại Tá. Đại Tá cho rằng,“Ngày thứ tư, 4 tháng 1-2012 ông Hoàng Thưởng đã có dịp liên lạc trực tiếp với tôi và chúng tôi đã có sự thông cảm với các nhận định chung. Chúng tôi đã thỏa hiệp để giữ đoàn kết giữa anh chị em trong tình thân hữu của
người quốc gia chống Cộng” Như vậy đã có sự tương nhượng giữa Đại Tá và Ông Hòang Thưởng. Đó là điều tốt nhưng Đại Tá lại cho rằng,” Chúng
tôi sẽ không để các phần tử bên ngoài xuyên tạc và chia rẽ giữa hàng ngũ anh em” là điều không tốt đẹp chút nào hết. Xin Đại Tá cho biết người ngoài là ai? Đại Tá phụ trách Trung Tâm IRCC để phục vụ cho người tỵ nạn. Việc làm này không những chỉ có liên quan đến người tỵ nạn ở San Jose mà còn ảnh hưởng đến tinh thần của đồng bào tỵ nạn trên
Hoa Kỳ và trên toàn thế giới. Nếu Trung Tâm IRCC có lời nói hay hành động xúc phạm đến ý nguyện hay lý tưởng chống Cộng của người tỵ nạn
thì họ lên tiếng chỉ trích Đại Tá là đúng. Việc Đại Tá không có làm lễ chào quốc kỳ VNCH là sai. Và Đại Tá không nên quên họ phản đối ông vì họ là nạn nhân của chế độ Cộng Sản. Trong nước Hoa Kỳ, Trung Tâm IRCC có trách nhiệm giúp đở về sinh hoạt và đới sống của người tỵ nạn nếu
họ cần đến. Nhưng nếu Trung Tâm IRCC có những hành động và lời nói đi ngược lại lý tưởng chính trị của người tỵ nạn thì họ phải lên tiếng và như thế họ là người trong cuộc chứ không phải là ngoài cuộc..
9/ Lời kết luận của Đại Tá trong Thông Báo số II như:“Không thể có bất cứ sự hoài nghi ngộ nhận nào, không thể có bất cứ sự xuyên tạc nào của
bọn phá hoại bên ngoài làm chia rẽ hàng ngũ người Việt quốc gia chân chính tại miền Bắc tiểu bang California.” Có phải Đại Tá chỉ trích những cựu quân nhân phản đối ông trong việc không chào cờ vừa qua là “bọn phá hoại làm chia rẽ hàng ngũ người Quốc gia” hay không? Sự phản đối của họ là "làm chia rẽ hàng ngũ Quốc Gia hay sao? Đây là lý luận để "bịt miệng" người phản đối Đại Tá. Kinh nghiệm sống trong QL/VNCH, lý luận trên làm cho tôi nhớ lại ở một buổi thuyết trình về tình hình
chính trị và an ninh lãnh thổ của Cục Chính Huấn tại Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 3 trong năm 1971, Trung Uy Hưởng, sỉ quan Chính Huấn của Quân
Đoàn hỏi Đại Tá ĐĐĐ, nếu trong tương lai VC dùng tanks tấn công các đơn vị VNCH, chúng ta có loại vũ khí nào để chống tanks không? Một câu
hỏi rất đơn giản và một câu trả lời rất giản di là Yes or No nhưng Đại Tá 3Đ nói lớn giọng là VC không có tanks... và đe doạ Trung Úy Hưởng bằng cách ra lệnh cho người ghi tên người hỏi câu hỏi ấy. Than ôi! Sau đó mùa hè đỏ lửa đến, tanks VC gầm thét đến Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 5BB tại An Lộc.
Ngày hôm nay, Đại Tá đi vào tuổi quá cao; quyết định không chào cờ và không tưởng niệm các chiến sĩ trận vong vừa qua của Đại Tá là quyết định không thể chấp nhận được vì đi ngược lại nguyện vọng và lý tưởng chống Cộng của đồng bào tỵ nạn. Không thể nói việc này đã qua và đồng bào cũng nên bỏ qua việc làm của Đại Tá. Quyết định của Đại Tá có ảnh hưởng rất lớn trong sinh hoạt của các Hội Đoàn tại hải ngoại nhất là khi thế hệ của Đại Tá qua đời kế tiếp trong thế hệ trẻ có thể xãy ra
một cuộc khủng hoảng với quyết định có làm lễ hay không làm lễ chào cờ trong những buổi sinh hoạt của các hội đoàn. Đại Tá phải có trách nhiệm qua quyết định không làm lễ chào cờ trong hai buổi sinh hoạt như đã nói trên. Sống trong nước dân chủ như Hoa Kỳ, tôi kêu gọi Đại Tá phải từ nhiệm chức vụ Giám Đốc IRCC và nhường lại cho người có nhiều nhiệt quyết và minh mẫn để có những quyết định sáng suốt và thích hợp với viễn ảnh phức tạp trong sinh hoạt của Cộng Đồng càng ngày càng bị
áp lực của kẻ thù trong nước thả vòi ra nước ngoài.
Trân trọng kính chào.

Sunday, April 10, 2022

Tỵ Nạn sau năm 1975

Trần Gia Phụng

(Trình bày tại Viện Việt Học, California ngày 23-7-2011)

Trong lịch sử Việt Nam, có một số trường hợp, người Việt ra nước ngoài tập thể: Ví dụ khi nhà Lý sụp đổ năm 1225, hoàng thân Lý Long Tường (nhà Lý) lo ngại bị nhà Trần đàn áp, nên cùng đoàn tùy tùng qua Triều Tiên lập nghiệp năm 1226. Năm 1789, vua Quang Trung chiến thắng oanh liệt ở Đống Đa; vua Lê Chiêu Thống (nhà Lê) sợ bị trả thù, liền cùng các cận thần qua Trung Hoa lưu vong.

Dưới thời Pháp thuộc, trong thế chiến I (1914-1918) và thế chiến II (1939-1945), Pháp đưa hàng trăm ngàn binh sĩ Việt qua Pháp chiến đấu. Sau khi chiến tranh chấm dứt, một số người ở lại bên đó sinh sống rải rác nhiều nơi. Ngoài ra, trong thập niên 30 của thế kỷ trước, nhiều người Việt bị thực dân Pháp mộ phu, đưa qua quần đảo Tân Calédonie, ngoài khơi Thái Bình Dương, rồi ở luôn bên đó.

Tuy đã nhiều lần ra nước ngoài, nhưng chưa lần nào người Việt tổ chức thành cộng đồng như Cộng đồng Người Việt Hải ngoại (CĐNVHN) sau năm 1975.

1. Nguyên nhân

Có hai nguyên nhân chính đưa đến sự thành lập CĐVNHN sau năm 1975.

Thứ nhất là sự sụp đổ của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) ngày 30-4-1975, khiến nhiều người Việt bỏ nước ra đi.

Thứ hai, người Việt di tản và vượt biên có cùng một mẫu số chung là tỵ nạn cộng sản, nên người Việt tự động tập họp với nhau, đầu ít, sau nhiều và dần dần đưa đến sự hình thành CĐNVHN.

2. Di tản và vượt biên

Cuộc ra đi lần nầy của người Việt có thể chia thành bốn giai đoạn. Những số liệu dưới đây dựa vào thống kê của Cao Uỷ Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc (United Nations High Commissioner for Refugees = UNHCR)

Giai đoạn 1: Trước khi cộng sản kiểm soát được Sài Gòn ngày 30-4-1975 và sau đó vài ngày sau nữa, khoảng 150,000 người di tản ra nước ngoài, trong đó 140,000 qua Hoa Kỳ, 10,000 đến các nước Âu Châu và các nước khác.

Giai đoạn 2 (từ 1975 đấn 1979): Khi người Việt ra nước ngoài đông đảo, nhất là qua Hoa Kỳ, tổng thống Gerald R. Ford (thay thế tổng thống Richard Nixon từ chức tháng 8-1974) ban hành đạo luật “Indochina Migration and Refugee Act” (Đạo luật về Di trú và Tỵ nạn Đông Dương) được quốc hội thông qua ngày 23-5-1975, theo đó “những người Nam Việt Nam và Cao Miên được phép nhập cư vào Hoa Kỳ theo một quy chế đặc biệt và sẽ được trợ cấp để tái định cư.” Các tổ chức thiện nguyện như Civitan International, The United States Conference of Catholic Bishops, The International Rescue Committee, và The Church World Service, sẽ bảo trợ những người đến định cư.(1)

Từ tháng 6-1975 đến 1979, tổng cộng 326,000 người Việt vượt biên , trong đó có 311,400 thuyền nhân, và 14,600 người đi bằng đường bộ qua Cambodia, Thái Lan.(2) Người ta ra đi nhiều trong thời gian nầy vì Đỗ Mười, bí thư trung ương đảng Cộng Sản Việt Nam (CSVN), vào Nam năm 1978, phát động chiến dịch cải tạo công thương nghiệp, nhưng thực chất là đánh giới tư sản, kể cả tư sản người Việt gốc Hoa. Trong các tháng 3 và 4-1978, khoảng 30,000 doanh nghiệp lớn nhỏ của người Hoa bị đóng cửa.(Wikipedia: “Thuyền nhân”.) Vì vậy, nhiều người Việt gốc Hoa đóng vàng cho nhà nước CS để được thoát khỏi Việt Nam theo chương trình ra đi “bán chính thức”. Phía Trung Quốc gọi là “nạn kiều”.

Giai đoạn 3 (từ 1980 đến 1989, trước thời điểm UNHCR ra lệnh khóa sổ các trại tỵ nạn, không nhận người vượt biên): Trước tình hình người Việt ra đi tỵ nạn đông đảo trên đây, chính phủ Hoa Kỳ ban hành thêm đạo luật “Refugee Act” (Đạo luật Tỵ nạn) ngày 17-3-1980 nhằm “cung cấp quy chế có tính cách hệ thống và vĩnh viễn để tiếp nhận và tái định cư một cách hiệu quả người tỵ nạn dựa trên những nhu cầu nhân đạo đặc biệt.” (3)

Trong giai đoạn nầy, khoảng 450,000 người ra đi, gồm có 428,500 thuyền nhân và 21,500 người đi đường bộ, đến các đảo Hồng Kông, Palawan (Phi Luật Tân), Bidong (Malaysia), Galang (Indonesia), các trại ở Thái Lan, rồi từ đó đi định cư khắp thế giới.

Giai đoạn 4 (từ 1990 đến 1995, tức từ khi Liên Hiệp Quốc khóa sổ năm 1989 cho đến lúc giải tán vĩnh viễn các trại tỵ nạn năm 1996): Số người ra đi vẫn tiếp diễn, tổng cộng khoảng 63,100 người, trong đó 56,400 là thuyền nhân và 6,700 người đi đường bộ.

Như thế từ khi Sài Gòn bị cưỡng chiếm ngày 30-4-1975 cho đến cuối năm 1995, trong bốn đợt ra đi, tổng số người Việt bỏ nước ra đi, theo thống kê của UNHCR là 989,100 người, cả đường biển lẫn đường bộ. Số người tử nạn trên đường vượt biên không thể thống kê chính xác được. Người ta phỏng chừng có khoảng từ 400,000 đến 500,000 thuyền nhân bỏ mình trên biển cả hay bị hải tặc bắt giết.

Những người di tản đầu tiên ngay sau ngày 30-4-1975, được đi định cư tương đối dễ dàng. Những người vượt biên sau đó phải trải qua nhiều thủ tục khó khăn rườm rà mới được đi định cư.

Trong giai đoạn đầu, thoát khỏi Việt Nam, người vượt biên đến tạm cư ở những nước lân cận Việt Nam như Malaysia, Indonesia, Phi Luật Tân, Hồng Kông… và phải trải qua các thủ tục sau đây: Thứ nhất, là UNHCR phỏng vấn. Trong cuộc phỏng vấn nầy, người vượt biên phải chứng minh mình đúng là nạn nhân của chế độ cộng sản, mới được đi định cư. (Người nào không chứng minh được thì không được chấp nhận quy chế tỵ nạn.) Thứ hai, người tỵ nạn còn phải qua cuộc phỏng vấn của đại diện nước mà đương sự muốn xin đi định cư (Hoa Kỳ, Canada, Úc…). Nếu được chấp nhận mới có thể lên đường.

Năm 1989, UNHCR quyết định đóng cửa các trại tỵ nạn Malaysia, Indonesia, Phi Luật Tân, Hồng Kông. Từ đây các thuyền nhân phải trải qua một cuộc thanh lọc chặt chẽ hơn, phải chứng minh đầy đủ giấy tờ là cá nhân hay gia đình thực sự bị chế độ cộng sản ngược đãi. Vượt qua cuộc thanh lọc (tức “đậu thanh lọc”), đương sự mới được đi định cư, nếu không vượt qua cuộc thanh lọc (tức “hỏng thanh lọc”), đương sự sẽ bị trả về Việt Nam. Những người đậu thanh lọc còn phải qua thêm một cuộc phỏng vấn của phái đoàn quốc gia mình muốn xin định cư, và nếu bị bác đơn thì phải xin đi nước khác.

3. Ra đi có trật tự, H.O., con lai, du học, xuất khẩu lao động

Ngoài đa số người ra đi bằng thuyền, còn có khá nhiều người ra đi bằng đường hàng không, theo hai chương trình O. D. P. và H.O. Orderly Departure Program viết tắt là O. D. P. tức chương trình “Ra đi có trật tự” do thân nhân bảo lãnh, bắt đầu từ 1979.

Văn phòng O.D.P. lúc đầu mở tại Bangkok, thủ đô Thái Lan vào tháng 1-1980. Chương trình O.D.P. đã đưa gần 500,000 người Việt tái định cư ở Hoa Kỳ. Văn phòng O.D.P. ở Bangkok ngưng nhận hồ sơ từ ngày 14-9-1994 và đến năm 1999 thì văn phòng nầy đóng cửa. Tòa lãnh sự Hoa Kỳ ở Sài Gòn từ đây phụ trách việc xin cứu xét hồ sơ bảo lãnh.(4)

H.O. là chữ người Việt thường dùng để gọi chương trình The Special Released Reeducation Center Detainee Resettlement Program (Chương trình tái định cư cựu tù cải tạo được phóng thích), hay còn gọi là Humanitarian Operation Program (Chương trình H.O.). Chương trình nầy bắt đầu từ năm 1989, do chính phủ Hoa Kỳ chấp nhận cho các nhân viên và quân nhân VNCH bị ba năm tù cộng sản trở lên, cùng gia đình, tái định cư tại Hoa Kỳ. Có tài liệu cho rằng từ 1989 đến 2002, số cựu tù nhân chính trị cùng thân nhân, kể cả những người đi theo diện tỵ nạn trong chương trình Tu chính án McCain (McCain Amendment Program), đến Hoa Kỳ định cư lên đến hơn 210,000 người.(5)

Bên cạnh đó, còn có chương trình “Con lai” Mỹ. Trẻ Lai Mỹ được chính phủ Hoa Kỳ định nghĩa là “Ngoại kiều sinh tại Việt Nam sau ngày 1 tháng 1 năm 1962 và trước ngày 1 tháng 1 năm 1976 và có cha là công dân Hoa Kỳ” . Số con lai Mỹ cùng gia đình đến Hoa Kỳ định cư lên đến khoảng 100,000 người.(6)

Thêm vào đó, sau năm 1975 có một số người ra đi do du học hoặc xuất khẩu lao động qua Liên Xô và các nước Đông Âu. Khi chế độ cộng sản tại các nước nầy sụp đổ vào những năm 1990-1991, nhiều sinh viên du học hay những người xuất khẩu lao động đã xin ở lại tỵ nạn. Số nầy lên đến khoảng trên 100,000 người (số liệu trong nước cho biết khoảng 300,000 người), rải rác ở Nga, Ba Lan, Tiệp Khắc, Hungaria, Đông Đức… Hiện nay nhiều người trong số nầy đã chuyển qua các nước phương tây định cư.

4. Cộng đồng Người Việt Hải ngoại

Dầu di tản hay vượt biên từ năm 1975, hoặc ra đi theo các chương trình O.D.P., H.O., hay xin tỵ nạn từ các nước Đông Âu, và dầu hiện nay người Việt ở hải ngoại theo nhiều khuynh hướng chính trị khác nhau, nhưng căn nguyên của tất cả người Việt ở hải ngoại trên thế giới hiện nay đều mang tính cách chung là người Việt tỵ nạn cộng sản. Như thế căn cước của Cộng đồng người Việt hiện nay trên thế giới là cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản. Nếu ai cho rằng mình không phải là người tỵ nạn cộng sản thì đã được mời về nước ngay từ đầu. Chính vì cùng một mẫu số chung (tỵ nạn cộng sản), người Việt dễ dàng thông cảm nhau và dần dần tập họp lại với nhau thành những nhóm nhỏ (hội đồng hương, hội đồng nghiệp…), rồi tập họp thành CĐNVHN, chứ sau ngày 30-4-1975, những thành viên cũ trong chính phủ Việt Nam Cộng Hòa không thành lập chính phủ lưu vong nhằm quy tụ người Việt.

Người Việt tỵ nạn tập trung đông nhất tại Hoa Kỳ, sau đó đến Úc Châu, Canada và Âu Châu. Có một số ít ở vài nước Á Châu như Nhật, Singapore, Phi Luật Tân. Riêng tại Hoa Kỳ, thống kê dân số năm 2007 cho thấy người Mỹ gốc Việt là 1,642,950, chiếm 0,55% dân số Hoa Kỳ.(7) Người Việt vốn quen với khí hậu nắng ấm miền nhiệt đới ở Việt Nam, nên sau khi nhập cư vào Hoa Kỳ, tạm thời ổn định đời sống, người Việt thường tìm đến sinh sống ở các tiểu bang nắng ấm miền nam Hoa Kỳ như California, Florida, Texas. Tại California, ở Orange County, các thành phố Garden Grove, Westminster, Santa Ana, Fountain Valley họp thành trung tâm Little Sài Gòn, được xem là thủ đô của người Việt tỵ nạn trên thế giới.

Tính chung, tổng số người Việt ở hải ngoại hiện nay được ước lượng khoảng ba triệu người. Dân số nầy sẽ còn tăng nữa theo thời gian. Nhờ sống tại các nước TỰ DO DÂN CHỦ, người Việt hải ngoại có điều kiện học hỏi, phát triển khả năng, đỗ đạt nhiều và đỗ đạt cao, làm việc chăm chỉ, nên người Việt càng ngày càng thành công tại các nước định cư. Nhờ thế CĐNVHN nhanh chóng lớn mạnh.

Về phương diện tôn giáo, người Việt hải ngoại tiếp tục theo những tôn giáo ở trong nước, và phát triển tôn giáo của mình một cách mạnh mẽ. Nhiều chùa Việt được xây dựng khắp nơi trên thế giới. Nhiều họ đạo Ky-Tô có nhà thờ riêng cho người Việt. Đạo Cao Đài và Phật giáo Hòa Hảo được tự do truyền đạo và hành đạo, không bị đàn áp, ngược đãi như hiện nay ở trong nước.

Về phương diện văn hóa, tại bất cứ nước nào, các cộng đồng người Việt hiện nay đều hoạt động tự phát rất tích cực. Ở một số địa phương, Việt ngữ trở nên một môn học chính thức trong học đường. Nhiều
trường dạy tiếng Việt cho con cháu được mở ra. Tuy không phải là quê hương ruột thịt của mình, nhưng ở một số thị trấn, sinh hoạt hầu như hoàn toàn bằng tiếng Việt.

Nhờ hệ thống chính trị tự do dân chủ nơi quê người, văn học, nghệ thuật, âm nhạc, nghiên cứu, tiểu thuyết, báo chí người Việt hải ngoại rất đa dạng và phát triển mạnh mẽ. Nếu tính theo tỷ lệ dân số, thì ở hải ngoại, văn hóa phát triển mạnh mẽ hơn trong nước hiện nay. Nếu tính theo chiều không gian, thì báo chí, tác phẩm văn học Việt Nam ở hải ngoại bao trùm rộng rãi cả thế giới. Từ Mỹ Châu, qua Âu Châu, đến Úc Châu. Ngoài những tác giả viết sách bằng tiếng Việt, nhiều tác giả viết sách bằng tiếng nước ngoài, cũng như nhiều tác phẩm Việt ngữ đã được dịch ra tiếng nước ngoài.

Về phương diện chính trị, sau khi tạm ổn định đời sống nơi vùng đất mới, đồng bào tỵ nạn hải ngoại tiếp tục cuộc tranh đấu chống cộng đang còn dang dở. Lúc đầu, nhiều người tham gia phong trào võ trang chiến đấu, tìm đường trở về phục quốc. Tuy nhiên, do những yếu tố chủ quan cũng như khách quan, các phong trào nầy đã thất bại. Sau đó, theo cách thức tranh đấu tại các nước tự do dân chủ, người Việt quay qua vận động chính trị bất bạo động và chống cộng sôi nổi khắp nơi trên thế giới.

Sau hai thập niên tỵ nạn, sang đầu thế kỷ 21, CĐNVHN bắt đầu đi vào chính lưu (mainstream) sinh hoạt chính trị tại những nơi mình sinh sống. Nhiều người Việt Hoa Kỳ, Canada, Úc, Anh, Pháp … đắc cử vào các Hội đồng địa phương, các cơ quan hành pháp và lập pháp ở mọi cấp.

Về phương diện kinh tế, người Việt vốn thông minh, chăm chỉ, cần cù, chịu khó, tiết kiệm, giản dị, nên khá thành công trong sinh hoạt kinh tế, đóng góp không ít vào các nước định cư. Hiện nay, nhìn chung đời sống người Việt ở hải ngoại tương đối sung túc, nhất là những người lập nghiệp từ năm 1975. Một số người Việt bắt đầu làm chủ các cơ xưởng vừa, một số bước vào giới triệu phú nhỏ.

5. Biểu tượng Cộng đồng Người Việt Hải ngoại

Khi rời đất nước ra đi tìm dự do, người Việt mang theo trong trái tim mình toàn bộ hình ảnh quê hương gia đình, bà con, bạn bè thân thiết và đặc biệt hình ảnh tượng trưng cho chế độ dân chủ tự do mà mình đã sống, dù chế độ đó chưa được hoàn thiện: đó là lá CỜ VÀNG BA SỌC ĐỎ của Quốc Gia Việt Nam và sau đó Việt Nam Cộng Hòa.

Trong hầu hết các sinh hoạt cộng đồng đều có làm lễ chào cờ quốc gia địa phương và chào cờ VNCH. Dần dần, khi đi vào chính lưu dòng sinh hoạt chính trị Hoa Kỳ, người Mỹ gốc Việt vận động các cấp lập pháp địa phương thừa nhận lá cờ VNCH là biểu tượng chính thức của cộng đồng người Việt.

Đầu tiên, ngày 19-2-2003, thành phố Westminster ở California ra nghị quyết số 3750, thừa nhận Lá cờ vàng ba sọc đỏ là biểu tượng chính thức của Cộng đồng Việt Nam Westminster. Từ đó, nhiều thành phố và nhiều tiểu bang tại Hoa Kỳ đã theo gương Westminster, thừa nhận biểu tượng của CĐNVHN. Cho đến năm 2009, trên toàn nước Mỹ, có 14 tiểu bang, 7 quận hạt (county) và 88 thành phố công nhận Cờ vàng ba sọc đỏ là biểu tượng của CĐNVHN.(8)

6. Ảnh hưởng của CĐNVHN đối với Việt Nam

Ngay từ những ngày đầu được hình thành, CĐNVHN chẳng những đóng góp cho các nước mình đang định cư, mà còn tác động ngược trở về trong nước.

Về kinh tế, sau khi định cư, người Việt cặm cụi làm ăn vừa để nuôi sống gia đình, vừa để có tiền gởi về giúp thân nhân. Lúc đầu là những thùng quà và chuyển ngân bất hợp pháp qua các tư nhân. Sau đó, những đại lý chuyển tiền mọc ra khắp nơi.

Số tiền gởi về càng ngày càng nhiều. Theo nguồn tin của đài phát thanh RFA ngày 05-01-2011, thì vào năm 2010, số tiền người Việt ở nước ngoài gởi về giúp đỡ thân nhân và đầu tư lên đến khoảng 8 tỷ Mỹ kim. (Web đài RFA, trang lưu trữ, ngày 5-01-2011.) Dầu số tiền nầy chỉ để giúp bà con, gia đình, nhưng gia đình là đơn vị căn bản của xã hội, nên viện trợ cho gia đình còn có nghĩa là viện trợ cho xã hội, do đó số tiền lớn lao nầy cũng đã nâng đỡ rất nhiều nền kinh tế hiện nay trong nước. (Năm 1975, để có thể tiếp liệu cho chiến trường, tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, xin chính phủ Hoa Kỳ viện trợ 300 triệu Mỹ kim, mà Quốc hội Hoa Kỳ từ chối.)

Về chính trị, CĐNVHN là những người tỵ nạn CS. Lập trường của đại đa số trong CĐNVHN là lập trường chống cộng. CĐNVHN luôn luôn vinh danh lá Cờ vàng ba sọc đỏ và đồng thời chận đứng sự xuất hiện của cờ CS. Nơi nào có cờ CS xuất hiện là CĐNVHN kiếm cách triệt hạ ngay.

Đặc biệt hơn, vào tháng 5-2004, Hội đồng hai thành phố Westminster và Garden Grove ở Little Sài Gòn đã ra “Nghị quyết không hoan nghênh” (Unwelcome Resolution) buộc cơ quan Cảnh sát địa phương phải thông báo cho Hội Đồng Thành phố trước mười bốn ngày để xin bảo vệ an ninh khi có phái đoàn chính thức của CHXHCNVN đến viếng thăm thành phố.

Ngoài ra, CĐNVHN theo dõi thật sát những diễn tiến chính trị ở trong nước, lên án những vụ vi phạm nhân quyền, những cuộc bắt giam tù nhân lương tâm của nhà nước cộng sản. Những cuộc vận động nầy phần nào tác động đến nhà cầm quyền CS, làm cho họ giảm bớt việc thủ tiêu, hay đàn áp đẫm máu những nhà tranh đấu đối lập như trước đây, đồng thời tạo nên điểm tựa tinh thần, yểm trợ những phong trào đòi hỏi dân chủ ở trong nước.

Ở hải ngoại, sống trên đất nước tự do, mỗi người có quyền tự do suy nghĩ, hành động độc lập, nên trong CĐNVHN có một thiểu số muốn “hòa giải hòa hợp” với cộng sản. Những người nầy có hai lý do: Hoặc họ cộng tác làm ăn với một số tổ chức nước ngoài đang qua Việt Nam đầu tư, nhất là từ khi chính phủ Hoa Kỳ bỏ cấm vận Việt Nam năm 1995. (Chính phủ hay thương nhân nước ngoài hành động theo quyền lợi của riêng họ.) Hoặc chính những người nầy trực tiếp về Việt Nam đầu tư kinh doanh, đưa sản phẩm về tiêu thụ, in ấn sách vở. Tốt nhất, những ai muốn hòa hợp hòa giải với chế độ cộng sản trong nước, nên đem vợ con, gia đình về hẳn trong nước sinh sống, thì sẽ có cơ hội tận hưởng được sự hòa hợp hòa giải nầy, chứ đừng ở nước ngoài xúi người khác làm những điều đầu môi chót lưỡi.

Bên cạnh đó, nhà nước cộng sản Việt Nam đang cố gắng tuyên truyền để triển khai thực hiện nghị quyết 36/NQ-TW ngày 26-3-2004 của Bộ Chính trị đảng CSVN, nhắm lôi cuốn người Việt định cư ở nước ngoài trở về hợp tác với nhà nước CSVN và chia rẽ CĐNVHN. Tuy nhiên, nghị quyết nầy không đạt được tác dụng như ý của CSVN vì qua tin tức gia đình, qua mạng lưới thông tin quốc tế, qua lời truyền miệng của những người đã từng về Việt Nam, CĐNVHN nắm biết rất rõ thực trạng độc tài, tham nhũng và nhất là hèn nhát đối với Bắc Kinh của chế độ hiện nay ở trong nước.

Về văn hóa, khi chiếm được miền Nam, Cộng sản Việt Nam đốt sách miền Nam, quyết tâm tiêu diệt nền văn hóa dân tộc cổ truyền còn được bảo lưu ở miền Nam, và thay thế bằng văn hóa Mác-xít. Ai cũng thấy rõ tình trạng văn hóa và giáo dục đang càng ngày càng suy đồi. Trong khi đó, ra nước ngoài, người Việt làm tất cả các cách phát huy nền văn hóa tự do, nhân bản, khai phóng cổ truyền của dân tộc. Trên nền tảng văn hoá dân tộc, người Việt hải ngoại còn được thêm cơ hội học hỏi, nghiên cứu văn hóa các nước trên thế giới, tạo thành dòng văn hóa và văn học Việt Nam hải ngoại hết sức sinh động.

Ngoài sự tiếp xúc văn hóa trong đời sống bình thường giữa người Việt trong và ngoài nước (thăm viếng, du lịch), dòng văn hóa và văn học Việt Nam hải ngoại được đưa lên các mạng lưới toàn cầu, truyền về trong nước, góp phần làm dồi dào đời sống văn hóa trong nước, giúp mở mang kiến thức giới trẻ, vốn bị CS nhồi sọ trong nền văn hóa Mác-xít.

 

Kết luận

Sự thành lập CĐNVHN là một hiện tượng đặc biệt trong lịch sử Việt Nam. Đặc biệt vì các lý do sau đây:

Thứ nhất, thông thường, khi chiến tranh xảy ra, người ta bỏ xứ đi nơi khác để tránh lửa đạn; đến khi hòa bình trở lại, người ta hồi hương về chốn cũ. Đàng nầy, sau ngày 30-4-1975, chiến tranh chấm dứt, hòa bình trở lại mà người Việt lại bỏ xứ ra đi hết sức đông đảo. Đây là nghịch lý thứ nhất.

Thứ hai, nghịch lý thứ hai là khi người Việt bỏ nước ra đi, nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam ngăn chận, bắn giết, tù đày, ngược đãi, sỉ nhục, chửi mắng những người di tản và vượt biên. Ngay ngày 30-4-1975, Trịnh Công Sơn đã lên đài phát thành Sài Gòn gọi những người di tản là “phản quốc”. Trong khi đó, khi được tái định cư ở một nước khác, người Việt nhanh chóng xây dựng đời sống mới. Chẳng những đóng góp cho quê hương thứ hai của mình, chính những người Việt bị gọi là phản quốc đó đã gởi tiền về cứu giúp thân nhân trong nước, từ đó cứu vãn luôn nền kinh tế suy sụp bấp bênh của Việt Nam dưới chế độ cộng sản.

Thứ ba, khi ra nước ngoài từ 1975, nhờ cùng mẫu số chung là tỵ nạn cộng sản, người Việt hải ngoại dần dần tự động tập họp thành CĐNVHN. Càng ngày CĐNVHN càng phát triển, đưa đến nhiều ảnh hưởng quan trọng ngược về trong nước về kinh tế, chính trị, văn hóa, và thúc đẩy những thay đổi hiện nay ở trong nước.

Trước đây, trong lịch sử thế giới, những người Trung Hoa hải ngoại đã giúp nâng cao trình độ hiểu biết chính trị về thế giới của những người trong nước, ảnh hưởng rất nhiều đến cuộc Cách mạng Tân Hợi năm 1911. Sau đó, những người Ba Lan lưu vong từ năm 1945, đã cổ võ, viện trợ và thúc đẩy cuộc cách mạng ở Ba Lan vào cuối thập niên 80 vừa qua.

Với đà phát triển như hiện nay, chắc chắn CĐNVHN tiếp tục lớn mạnh và tiếp tục tác động mạnh hơn nữa vào xã hội trong nước, cũng như tiếp tay với những phong trào đòi hỏi dân chủ ở trong nước, nhằm chấm dứt chế độ độc tài cộng sản, mới mong xây dựng một nước Việt Nam tự do, độc lập và phú cường.


1. Đợt nầy đa số là người Việt gốc Hoa vượt biên, theo phong trào “bán chính thức”. Khoảng một nửa số qua Trung Quốc, lúc đó đang đối đầu với Việt Nam cộng sản. Số còn lại qua Hồng Kông và các đảo Đông Nam Á.
2. Người Việt Trẻ, “Người Việt tỵ nạn và định cư”, bài 3: “Các làn sóng tỵ nạn Việt Nam”, Người Việt Online, California, ngày 28-10-2004.
3. http://en.wikipedia.org/wiki/Orderly_Departure_Program
4. Phan Đức Thông, “Những làn sóng người Việt định cư tại Hoa Kỳ” (http://www.ninh-hoa.com/LuatDiTruNhungLansongTiNan.htm)
5. David Lamb, “Children of the Vietnam War”, Smithsonian Magazine, Washington DC, June, 2009. Tạp chí nầy được đưa lên web site: http://www.smithsonianmag.com/people-places. Bài báo nầy cho biết số con lai khoảng 26,000 người đi cùng với gia đình và bà con khoảng 75,000 người. Theo tác giả Huỳnh Kim Khánh (New Jersey) viết ngày 17-7-2004, Đàn Chim Việt Online Edition đăng lại ngày 28-11-2010 thì từ 1979 đến 1999 những ngơời đến Hoa Kỳ theo chương trình con lai là 89.700 người
6. Wikipedia, “Người Việt ở Mỹ”. Năm 2007, tổng dân số Hoa Kỳ là 301 triệu. Năm 2010, tổng dân số Hoa Kỳ là 308, 745, 538 người.
7. Diễn đàn sinh viên Quân y, , bài “Tin tức thời sự: Khuyên các cụ”.

Di dân Việt Nam sau 1975

Di dân Việt Nam sau năm 1975 là một sự kiện trong lịch sử Việt Nam hiện đại, là hệ quả của cuộc Chiến tranh Việt Nam. Những người di dân này rời Việt Nam và đã tạo ra nhiều cộng đồng người Việt hải ngoại ở các nước họ đến, đặc biệt là Mỹ và các nước tư bản. Hầu hết người Việt di dân sau năm 1975 vì những lý do kinh tế lẫn chính trị[cần dẫn nguồn].

Cuộc di dân này có thể được phân thành ba giai đoạn với ba khái niệm: "tị nạn" sau chiến tranh là dòng người đi ra khỏi lãnh thổ Việt Nam xung quanh trước và sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975; "vượt biên" là dòng người tiếp tục rời Việt Nam bất hợp pháp bằng đường biển hoặc đường bộ trong những năm sau đó; và dòng người rời Việt Nam theo Chương trình Ra đi có Trật tự (chỉ dành cho người đến Hoa Kỳ).

Dù không có định nghĩa rõ ràng nào về khoảng thời gian của cuộc di dân sau 1975 nhưng có thể nói, kể từ sau mốc sự kiện bình thường hóa quan hệ ngoại giao Hoa Kỳ - Việt Nam (1995) và khi Chương trình Ra đi có Trật tự kết thúc thì việc người Việt Nam rời nước này đến sinh sống tại Hoa Kỳ hay một quốc gia nào khác trên thế giới từ đây được coi là vì lí do kinh tế (chẳng hạn xuất khẩu lao động) hoặc là nhập cư đơn thuần. Về sau cũng có các trường hợp người rời Việt Nam vì lí do chính trị nhưng thường không được xem là di dân Việt Nam sau năm 1975.

Di dân Việt Nam ra hải ngoại

Ngày 30 tháng 4 năm 1975 là ngày Việt Nam Cộng hòa sụp đổ, chiến tranh Việt Nam chấm dứt. Sau đó là hai đợt di dân lớn từ Việt Nam đến Hoa Kỳ và các nước phương Tây. Hơn 125.000 người Việt Nam đến Hoa Kỳ vào cuối xuân 1975 vì sợ chính quyền mới trả thù[cần dẫn nguồn]. Ngoài ra khoảng 20.000 người đến Châu Âu và các nước khác[cần dẫn nguồn].

Năm 1977 bắt đầu đợt thứ hai khi phong trào vượt biển tỵ nạn xảy ra. Làn sóng di dân này kéo dài cho đến giữa thập niên 1980 một phần vì vấn đề kinh tế khó khăn tại Việt Nam do chính sách của chính phủ và các thông tin bên ngoài nước.

Số liệu người tỵ nạn Việt Nam từ sau ngày 30 tháng 4/1975

1. Tháng 6-1975 đến 1979: 311.400. Ðường bộ có 14.600 qua ngả Campuchia, Thái Lan. Tổng cộng 326.000.[cần dẫn nguồn]

2. 1980 đến 1984: 242.000 thuyền nhân và 11.000 tỵ nạn đường bộ. Tổng cộng đợt 2 là 253.100.[cần dẫn nguồn]

3. 1985 đến 1989: 186.500 thuyền nhân và đường bộ 10.500. Tổng cộng 197.000.[cần dẫn nguồn]

4. 1990 đến 1995: 56.400 thuyền nhân và đường bộ 6.700. Tổng cộng 63.100.[cần dẫn nguồn]

Cộng chung 4 đợt ghi nhận được 796.300 thuyền nhân tỵ nạn và 42.900 đi đường bộ. Tổng kết từ cuối năm 1975 đến năm 1995 trải qua 20 năm đã có 839.200 người dân Việt rời bỏ Việt Nam đến các trại tỵ nạn. Con số những người chết trong biển Ðông và núi rừng biên giới Thái Lan – Campuchia là các số thống kê không bao giờ ghi lại được. Con số ước lượng là từ 400.000 đến 500.000 người.[cần dẫn nguồn]

Người định cư tại các trại tỵ nạn

Tổng cộng thống kê ghi được trong suốt 20 năm từ 1975 đến 1995 các trại tỵ nạn Ðông Nam Á đã tiếp nhận và chuyển tiếp định cư các con số như sau[cần dẫn nguồn]:

  • Malaysia 254.000.
  • Hồng Kông 195.000.
  • Thái Lan 160.200.
  • Indonesia 121.700.
  • Philippines 51.700.
  • Singapore 32.500.
  • Nhật Bản 11.100.
  • Macao 7.100.
  • Hàn Quốc 1.400
  • Các nơi khác 3.200.

Tổng cộng cũng là con số 839.200 người của 4 đợt kể trên.

Ðịnh cư tại các quốc gia

  • Hoa Kỳ 424.000.
  • Úc 111.000.
  • Canada 103.000.
  • Pháp 27.100.
  • Anh 19.300.
  • Tây Ðức 16.800.
  • Hà Lan 7.600.
  • Nhật 6.500.
  • Thụy Sĩ 6.200.
  • Na Uy 6.100.
  • Thụy Ðiển 6.000.
  • New Zealand 4.900.
  • Ðan Mạch 4.700.
  • Vương quốc Bỉ 2.000.
  • Phần Lan 1.900
  • Các nước khác 7.100.

Tổng cộng tính đến 1995 quốc tế đã nhận tổng số 754.800 tỵ nạn Việt Nam[cần dẫn nguồn]

Chương trình Ra đi có trật tự

Kể từ 1990 đến nay, các chương trình đoàn tụ, đón tù cải tạo, con lai, tái định cư, tỵ nạn tình nguyện trở về đã đưa vào Mỹ và nhiều nước phương Tây các đợt di dân mới. Những người này không qua các trại tỵ nạn Ðông Nam Á. Riêng tại Hoa Kỳ, con số này tính đến 2005 lên đến 700.000 người và cộng với đợt di tản 1975 (130.000) và thuyền nhân (424.600). Theo thống kê dân số năm 2000[cần dẫn nguồn], hiện đang có 1.223.736 người Mỹ gốc Việt. Họ là người gốc Á lớn thứ năm sau các nhóm di dân Trung Hoa, Philippines, Ấn Ðộ và Hàn Quốc.