Ta chọn làm người lương thiện không có nghĩa là mềm yếu, mà bởi vì ta hiểu rằng lương thiện là bản tính nguyên sơ của mỗi con người, “nhân chi sơ, tính bổn thiện”. Làm người thì không thể chọn con đường trở thành kẻ ác, người ác tất sẽ có báo ứng.
Ta chọn nhường nhịn không có nghĩa là ta đang bị thụt lùi, mà vì ta hiểu rằng, “một sự nhịn, chín sự lành”, nhịn một chút sóng yên biển lặng, lùi một chút biển rộng trời cao.
Ta chọn tha thứkhông phải vì ta nhu nhược, mà bởi vì ta hiểu rằng tha thứ là một trong những đức tính tốt đẹp nhất trên đời, không bao giờ là sai cả.
Ta lựa chọn tha thứ còn một nguyên nhân nữa, không phải vì ta không giữ vững lập trường, mà bởi vì ta hiểu rằng mọi chuyện không nên làm tận, làm tuyệt.
Ta chọn “khờ khạo” không phải vì ta khờ khạo thật, mà bởi vì ta hiểu rằng, khi đối diện với hiểu lầm, oan ức, bất công thì không nên so đo tính toán quá, cứ nở nụ cười mà lặng nhìn thế thái nhân tình.
Tha thứ, lương thiện, lựa chọn, Bài chọn lọc,
Đôi khi giả ngốc không phải là ngốc thật, mà chỉ là muốn cấp cho đối phương thêm một cơ hội nữa.
Ta chọn chân thành và nói lời thẳng thắn là bởi vì ta hiểu rằng, những lời nói dối, trái với lương tâm chỉ dùng để đối phó tình huống, trong khi thật lòng đối đãi, nói lời chân tình mới thật sự giải quyết tận gốc vấn đề và không có hậu họa về sau.
Ta trân trọng nghĩa tình không phải vì ta quỵ lụy, mà bởi vì không nhất thiết phải vứt bỏ khoảng thời gian tốt đẹp giữa chúng ta.
Cuộc đời vốn dĩ có nhiều điều dù ta có muốn hay không chúng vẫn tồn tại. Tuy nhiên khi đối diện với cuộc đời thì bản tính của mình như thế nào mới là điều quan trọng nhất.
Lương thiện không phải mềm yếu hay khờ khạo, nó chính là bản tính nguyên sơ của sinh mệnh con người. Vậy nên, nếu có lúc cuộc sống này bắt ta lựa chọn, đừng ngại ngùng khi lựa chọn trở thành người lương thiện.
- Chỉ mỗi cây chuối mà các dì, các chị ở Tòa Thánh Tây Ninh
chế biến được mấy món, nào là nấu canh chua, bóp gỏi, xào với nghệ, ăn sống với
tương hột,...
Năm nào cũng vậy, cứ sắp đến
Tết Trung thu là khắp các ngả đường, những chiếc xe khách đủ cỡ với đủ biển số
các
tỉnh nối đuôi nhau đổ về
Tòa Thánh Tây Ninh (huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh) để dự đại lễ vía Đức Diêu
Trì Kim Mẫu – một trong hai lễ lớn của đạo Cao Đài.
Nhớ hồi còn nhỏ, cái cảnh
người – xe nườm nượp từ khắp nơi đổ về khiến Tây Ninh vốn bình yên bỗng rộn
ràng hẳn lên làm người bản xứ như tôi cũng nôn nao.
Dịp này, trong đạo tổ
chức triển lãm các loại hoa quả, bánh trái và múa lân, múa rồng nên nếu không đi
học thì coi như bọn tôi lê la ở đó cả ngày.
Do
khách thập phương đổ về dự lễ đông nên trong đạo tổ chức luôn chuyện ăn uống
cho mọi người. Bất kể giờ nào, chỉ cần đến Trai đường là có cơm chay lót dạ
miễn phí. Tụi tôi dù không phải khách thập phương nhưng dạo chơi đói cái bụng
lại vào đây chực cơm.
Chuối
cây vác từ núi Bà Đen phục vụ cho Trai đường những ngày lễ
Rau
quả hầu hết do tín đồ của đạo cung cấp
Thực phẩm ở đây do người địa
phương cung cấp, chế biến là do các dì, các chị, nói chung ai có gì góp nấy.
Người Tây Ninh vốn sùng đạo và thích làm công quả nên Trai đường không bao giờ
thiếu thực phẩm.
Đừng nghĩ cơm chay thì đơn
điệu, qua bàn tay vén khéo của các dì, các chị những thứ rau củ thường ngày
bỗng thành bao nhiêu món ngon. Riêng chuối cây (được mang về từ núi Bà Đen) là
có thể làm gỏi, nấu canh chua, xào với nghệ hay chấm sống với tương hột.
Thực
đơn những bữa cơm ở Trai đường hầu như không trùng nhau. Món mặn chủ đạo thường
là muối sả và mắm sắc còn canh, rau, món xào thì thay đổi liên tục. Cũng bầu
cũng bí, cũng rau muống, bắp chuối nhưng mỗi bữa cơm mỗi cách chế biến khác
nhau.
Các
món kho
Cà
tím chiên
Kèo
nèo bóp gỏi rau tiêu
Rau
sống
Muối
sả
Tàu
hũ ky
Chả
giò chay
Rau
ghém
Cà
tím kho
Mắm
sắc
Còn nhớ hồi còn nhỏ, cứ tới
bữa chực cơm trai đường. Không phải xin xỏ gì, cứ việc đến khu vực để chén đũa
lấy một bộ rồi coi bàn nào trống thì ngồi. Tụi tôi thường phân công đứa lấy
chén, đứa giành chỗ (không phải sợ thiếu đồ ăn mà giành chỗ ngồi gần nhau cho
vui). Nghĩ cũng lạ, chỉ ăn canh chua rau muống, muối sả, rau sống chấm tương
thôi mà ngon thấu trời.
Nhiều khi thấy toàn con nít
lóc chóc, các cô các bác chạy bàn ưu ái cho thêm vài trái chuối, trái quýt
tráng miệng. Sướng nhất đời rồi còn gì.
Lớn lên, đi học rồi đi làm xa
nên đón những cái tết Trung thu ở quê nhà cứ thưa dần. Dù vậy, hễ có dịp về quê
đúng rằm tháng Tám, tôi lại tranh thủ ghé Trai đường “ăn chực”. Dĩ nhiên lớn
rồi có ý thức hơn, trước khi ăn cũng dành thời gian xuống bếp phụ xắt, gọt rau
củ; ăn xong lại phụ rửa chén mới về.
Khu
vực nấu nướng đã hiện đại, sạch sẽ hơn xưa
Chén,
dĩa sạch lúc nào cũng sẵn sàng để người ăn tự phục vụ
Qua bao nhiêu năm, Trai đường
vẫn rộn ràng tấp nập như ngày nào và đồ ăn ở đây thì phải nói ngon hơn, phong phú
hơn gấp bội. Bây giờ đời sống khá giả, người ta hiến nhiều thức ăn hơn xưa nên
cung luôn vượt cầu. Trên bàn ăn Trai đường bây giờ không chỉ 3-4 món như xưa mà
có khi lên cả chục món.
Trai đường bây giờ cũng hiện
đại hơn xưa, nước nôi đầy đủ, bàn ghế khang trang, cơm nấu bằng lò hấp, người
phụ việc ai cũng phải đeo bao tay để bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm.
Cơm
Trai đường miễn phí luôn chào đón tất cả mọi người
Chỉ
là đồ chay nhưng một mâm có đến cả chục món
Lẽ thường cái gì miễn phí thì
hay gặp phải cảnh chen lấy hoặc chất lượng kém nhưng cơm Trai đường ở Tòa Thánh
Tây Ninh thì ngược lại. Ở đây đông thì có đông nhưng không bao giờ có cảnh bon
chen, thức ăn chỉ là món chay nhưng ai ăn một lần cũng phải bất ngờ vì sao mà
ngon quá đỗi.
Vì vậy, Tết Trung, có đi Tây
Ninh đừng quên ghé Tòa Thánh Tây Ninh dùng một bữa cơm chay với người dân xứ
đạo Cao Đài. Bảo đảm bạn sẽ không chỉ ghé 1 lần mà thôi!
(Hồi ký của Viện sỹ Viện Hàn lâm Khoa học Nga Viktor Maslov)
I.
Có
lẽ mọi chuyện đã không trở nên quá phức tạp, nếu như tôi biết được ngay
từ đầu Lê Vũ Anh là con gái của ai. Khi sự thật được làm sáng tỏ thì đã
muộn quá rồi. Tôi đã yêu, yêu đến phát điên đến nỗi không còn biết mình
là ai nữa và không thể từ chối được mối tình đó nữa rồi.
Chúng
tôi gặp nhau ở khoa Vật lý của Trường Đại học Tổng hợp Quốc gia Moskva
mang tên Lomonosov (MGU), nơi Lê Vũ Anh đang theo học. Tại thời điểm làm
quen với nhau tôi đã là giáo sư tiến sỹ toán-lý và là tác giả của một
lý thuyết, mà ở nước ngoài người ta gọi là lý thuyết chỉ số nhóm Maslov
(Maslov-type index theory). Lý thuyết này được sử dụng rộng rãi trong
toán học trừu tượng, cũng như trong cơ học lượng tử, hóa học lượng tử và
quang học. Chỗ làm việc chính của tôi là ở Trường đại học chế tạo máy
điện tử Moskva (МИЭМ), nhưng khoa Vật lý của MGU lại từng là ngôi nhà
thân yêu, nơi tôi đã từng học tập và giảng dạy ở đó.
Bao
nhiêu năm đã trôi qua, cả một cuộc đời. Rất nhiểu sự kiện và ấn tượng
đã mờ dần trong trí nhớ, nhưng hình ảnh cố công chúa xinh đẹp, chói sáng
vào một ngày đang đứng nơi cuối hành lang cho đến tận bây giờ vẫn luôn
hiện về trước mắt tôi. Cô gái không quen biết đang di chuyển bằng các
động tác với vẻ duyên dáng và kiều diễm không thể tả, tôi bước theo nàng
như một kẻ si mê. Đến gần cửa phòng thí nghiệm nàng dừng lại và quay
mặt lại. Nàng thoáng nhìn tôi một giây từ đôi mắt đen huyền, mỉm cười và
ẩn mình vào trong phòng thí nghiệm. Cô gái ngoại quốc, tôi chợt nhận ra
và nghĩ rằng, nàng đến từ Ấn Độ.
Thành
thật mà nói, tôi thường thích phụ nữ phương Đông. Một trong những nhà
vật lý học bạn tôi nói đùa” Maslov của chúng ta là nhà đông phương học
lớn”. Trong MGU có rất nhiều sinh viên từ các nước châu Á theo học,
trong đó có sinh viên từ Việt Nam, đất nước bị tàn phá bởi chiến tranh.
Tất cả họ đều luôn nhận được thiện cảm và sự cảm thông từ mọi người. Ở
khoa Vật lý cũng có nhiều sinh viên Việt Nam, tôi nhanh chóng kết bạn
với họ, đặc biệt là với hai cô gái Phúc và Tình. Phúc là con gái của nhà
quân sự-chính trị nổi tiếng Võ Nguyên Giáp, lúc đó là Bộ trưởng Bộ Quốc
phòng, còn Tình là con gái của Chủ tịch thành phố Hà Nội. Cả hai cô gái
đều giấu giếm bố mình là ai, cũng như các sinh viên Việt Nam khác xuất
thân từ giới quý tộc Việt Nam, họ đề phòng lộ diện để tránh các mưu đồ
và hành động khiêu khích chính trị từ chính quyền Xô viết. Thực tế là
như thế này, quan hệ giữa hai nước chúng ta, bất chấp việc đảm bảo tình
hữu nghị mãi mãi bền vững, nhưng vẫn có thể xảy ra bất đồng, xuất phát
từ phía này hoặc phía kia. Liên Xô vốn quan tâm đến việc mở rộng ảnh
hưởng của mình ở châu Á, trong hoàn cảnh đang gia tăng bất đồng với
Trung Quốc, buộc phải hào phóng viện trợ giúp đỡ “người em” Việt Nam.
Việt Nam hài lòng làm bạn với người anh lớn nhưng không sẵn sàng hy sinh
những lợi ích chính đáng của mình mà trở thành nước lệ thuộc. Các nhà
lãnh đạo tận dụng cơ hội để con cái của họ có được sự giáo dục có chất
lượng ở Liên Xô nhưng họ sợ con cái họ có thể bị bắt cóc để tống tiền
hoặc tạo áp lực chính trị lên bố, mẹ chúng nên yêu cầu giữ bí mật. Có
lẽ, đây là những nguyên nhân chính, nhưng theo cảm nhận của tôi thì các
nhà lãnh đạo Việt Nam đã quá lo xa một cách vô ích. Thật ra thì KGB, với
khả năng của mình, họ thừa biết được hết con cái của những lãnh đạo
nào.
Tôi
thích Phúc, tôi giúp đỡ cô ấy học tốt môn Toán, tôi không chỉ một lần
mời cô ấy đến nhà chơi, lúc thì một mình, lúc thì với các bạn, nhưng
giữa chúng tôi không có chuyện gì cả, dù chỉ là một chút lãng mạn. Cô
gái Việt Nam dễ thương tránh tôi chỗ đông người như tránh lửa vậy.
Có
một lần tôi dẫn Phúc đến gặp và làm quen với nhân viên đánh máy để giúp
cô nhân bản báo cáo khoa học, sau đó cả hai cùng nhau ra về. Đi cùng
tôi trên đường phố Moskva nhộn nhịp, cô thể hiện mình như một nữ du kích
trong hậu phương của địch: tỏ vẻ sợ sệt và suốt thời gian luôn cảnh
giác quan sát tứ phía. Đặc biệt giao thông công cộng làm cô mất bình
tĩnh. Chẳng hạn tại bến đỗ, xe buýt hoặc xe buýt điện vừa đến, cô đã
nhanh chóng ẩn mình vào trong xe ngay.
– Chuyện gì xảy ra vậy – tôi hỏi – em sợ gì chứ?
– Anh nhìn xem, đằng kia hình như có người Việt Nam.
– Có gì đáng sợ ở đây?
– Nếu họ nhìn thấy em đi với người Nga, em sẽ gặp rắc rối lớn.
Tôi
bèn bắt đầu đặt câu hỏi với Phúc. Thì ra là người Việt Nam bị cấm giao
tiếp với người châu Âu, hay nói chung là với “ Tây mũi lõ” như trong dân
gian vẫn gọi. Từ thời xa xưa, mối quan hệ với họ sẽ bị lên án và được
xem là sự phản bội. Một cô gái đi trên phố cùng với một ông “Tây mũi lõ”
sẽ bị kỳ thị hoặc thậm chí bị ném đá. Những người cộng sản, sau khi
dành được chính quyền và thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, thật
không may, vẫn giữ lại truyền thống phong kiến đó. Vi phạm điều cấm giao
tiếp với người nước ngoài có thể bị lên án, đấu tố trong các cuộc họp
đảng, đoàn thể hoặc có thể bị đưa vào trại cải tạo. Ở nước ngoài, các
công dân Việt Nam cũng phải tuân thủ các chuẩn mực đã được chấp nhận
trong nước. Thậm chí múa balê cổ điển cũng bị xem là hình thức khiêu
dâm. Sau này có một lần Vũ Anh nói với tôi, các nhà ngoại giao Việt Nam
khi xem kịch múa balê trong nhà hát lớn ở Moskva đã phải nhắm mắt vì sợ
bị “khiêu dâm” bởi các vũ công mặc đồ bó sát người như không mặc gì.
Các
bạn Việt Nam đã giúp tôi gặp lại và làm quen với cô gái xinh đẹp nhất
đã làm rung động trái tim tôi, nàng là đồng hương của họ. Lê Vũ Anh quan
tâm đến toán học và muốn được nghiên cứu sâu thêm về môn học này. Tất
nhiên, tôi đồng ý giúp đỡ nàng. Nàng đã cuốn hút tôi ngay lập tức từ cái
nhìn đầu tiên, nàng thực sự trẻ trung và hấp dẫn, không giống như những
người phụ nữ Việt Nam điển hình khác: nàng đủ cao, da trắng, với đôi
mắt luôn nhìn thẳng. Nàng giữ mình như một phụ nữ hoàng gia – đơn giản,
nhưng với những phẩm giá không bình thường. Ở Việt Nam, tôi nghĩ nàng
phải được xem như là một trong những người con gái đầu tiên đẹp nhất. Ở
trường tôi, những người trẻ tuổi luôn để ý quan tâm đến nàng.
Sau
này tôi được biết, dòng máu đang chảy trong cơ thể nàng không chỉ có
dòng máu Việt Nam, mà một phần trong đó có dòng máu Trung Hoa. Mẹ nàng,
bà Bảy Vân mang trong người một phần tư dòng máu Trung Hoa.Ở Việt Nam,
không ai biết về điều này, gia đình đã giấu kín “mối quan hệ huyết
thống” với người Trung Hoa của mẹ nàng. Sự thật là nàng khi còn nhỏ đã
sống nhiều năm ở Trung Quốc. Bạn thân của nàng là con gái của Đặng Tiểu
Bình, người đã từng là bạn của bố nàng và là người số 2 dưới bầu trời
Trung Quốc sau Mao. Với người cầm lái vĩ đại, nàng cũng quá quen thuộc.
Nàng đã cho tôi xem một bức ảnh nàng đang ngồi trên đùi của Mao Trạch
Đông.
Thời
tuổi trẻ của mình, mẹ nàng, bà Bảy Vân cũng khá đẹp. Lê Duẩn vì bà mà
ly hôn với người vợ đầu tiên, người vợ mà bố, mẹ ông đã cưới hỏi cho ông
khi còn nhỏ. Người vợ thứ hai của ông xuất thân từ một gia đình có học,
nhưng, như tôi đã đề cập,ông không thể tự hào về một nguồn gốc “tinh
khiết”. Vũ Anh là con gái đầu tiên của họ. Ngoài nàng ra, Lê Duẩn còn có
hai con gái từ cuộc hôn nhân đầu tiên của mình và hai con trai cùng với
bà Bảy Vân. Hai người con của ông, con trai tên Thành và con gái đầu
tên Muội, tại thời điểm đó, sống và học tập ở Moskva. Muội lớn tuổi hơn
nàng nhiều và chịu trách nhiệm chăm sóc em gái của mình. Chị tốt nghiệp
trường đại học ở Liên Xô và là một nhà sinh vật học. Chị đã sống một số
năm tại Moskva cùng với chồng và con gái. Nhưng tất cả điều này mãi sau
tôi mới được biết …
Vì
nàng, tôi đã nhận tiến hành các buổi dạy thêm không bắt buộc về toán
học tại khoa Vật lý. Ban đầu nhiều sinh viên đến nghe tôi giảng. Được
một thời gian, sinh viên bỏ học dần dần, cuối cùng chỉ còn mỗi một mình
nàng. Nàng đã rất cố gắng, nàng có năng lực và chăm chỉ học tập. Cuối
cùng chúng tôi không cưỡng lại được tình cảm của mình. Chúng tôi bắt đầu
hò hẹn, lúc thì ở căn hộ riêng, lúc thì ở nhà nghỉ ngoại ô của tôi.
Chúng tôi nghiên cứu, cùng nghe nhạc và nói chuyện với nhau về các chủ
đề khác nhau. Nàng giữ cho mình được tự do hơn hẳn các bạn gái của mình
và không còn sợ bất cứ điều gì nữa.
II.
Mẹ
tôi nhanh chóng thích nàng. Nhìn chung, bà tôn trọng mọi đam mê của con
trai. Đã từ lâu bà mong ước cưới được vợ cho người con trai duy nhất
của mình.
Cuộc
sống riêng tư của tôi đầy bão tố và thậm chí của cả những bạn trẻ liên
quan đến tôi. Một trong số đó là Sergei Mazarop, đã xảy ra thảm kịch, mà
tôi được chứng kiến. Về cái chết của cậu ấy, theo tôi, báo chí đã viết
nhiều. Sergei di cư cùng với bố mẹ mình sang phương Tây từ đầu những năm
1980. Định cư ở Paris, học đại học, mở công ty và hoạt động trong lĩnh
vực tin học. Ban đầu việc kinh doanh của Sergei không được tốt lắm,
nhưng sau khi ở Liên Xô tiến hành cải cách đổi mới (perestroika), do
Sergei hiểu rõ được những vấn đề về kinh tế ở đó nên Sergei đã trở thành
một giám đốc tài giỏi. Sau một số phi vụ lớn thành công, Sergei trở
thành triệu phú. Sergei sở hữu các bất động sản có giá trị, thậm chí có
hẳn một tiệm thời trang riêng. Sergei sống với một phong cách phóng
khoáng rộng rãi riêng biệt với người vợ – con gái nhà văn Anatoly
Gladilin, người đã sinh cho Sergei hai đứa con. Sergei đối xử rất dịu
dàng với các con tôi. Một thời gian ngắn trước khi chết, Sergei đã trở
thành nhà sản xuất của bộ phim “The Limit” (giới hạn) của Denis
Evstigneev. Ngày 22 tháng 11 năm 1994, Sergei bị bắn chết từ một khẩu
súng máy qua cánh cửa ra vào bọc thép tại căn hộ của mình ở trung tâm
thành phố Paris. Cảnh sát Pháp coi đó là vấn đề có bàn tay của mafia
Nga. Theo như tôi biết, cho đến nay tội phạm chưa tìm ra được và vẫn còn
nhởn nhơ ngoài pháp luật …
Trước
khi gặp Vũ Anh, tôi không có ý định tiến tới một mối quan hệ nghiêm túc
nào cả, dường như đang cố gắng chờ đợi một điều gì đó. Và rồi tôi đã
chờ đợi được. Những người phụ nữ tôi đã từng gặp và quen biết không thể
nào làm cho tôi có được một cảm xúc mãnh liệt, lạ lùng như khi tôi gặp
và tiếp xúc với nàng. Nàng ở độ tuổi đáng ra phải là con gái tôi – nàng
kém tôi chẵn đúng 20 tuổi – nhưng giữa chúng tôi thật sự có cảm giác như
không hề tồn tại khoảng cách chênh lệch về tuổi tác. Nàng giới thiệu
rất ít về tiểu sử của mình: nàng đến từ miền Nam Việt Nam (nàng thuộc
danh sách lưu học sinh bí mật không thuộc sự quản lý của đại sứ quán
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, lúc này Việt Nam chưa thống nhất thành một
quốc gia riêng). Nàng đã sống trong vùng nông thôn có các hoạt động du
kích. 17 tuổi nàng gia nhập Đảng Cộng sản. Tôi sau này có nói đùa: “Vợ
của tôi là đảng viên cộng sản từ năm 17 tuổi đấy”. Nói thật, điều này
làm tôi rất ngạc nhiên. Theo tôi biết, ở Việt Nam vào Đảng ở độ tuổi quá
trẻ như vậy rất hiếm, chỉ dành cho những thanh niên có những cống hiến
đặc biệt mà thôi.
Nhưng
không chừng, nàng đã giúp đỡ du kích và lập được chiến công hiển hách
nào đó. Khi tôi hỏi về vấn đề này, nàng im lặng. Cũng tương tự như vậy
khi tôi hỏi về các thành viên gia đình của nàng. Chỉ có một lần khi đã
sống cùng nhau, nàng cởi mở một chút khi thổ lộ với tôi: “Ông nội em làm
thợ mộc”. Nàng nói tiếng Nga tồi tệ khá buồn cười. Khi tôi chê, nàng
cười lớn: “ Ở Liên Xô, em càng nói tiếng Nga tồi bao nhiêu thì em càng
được đối xử tốt bấy nhiêu” . Khó khăn lớn nhất ở nàng là khi phải nói họ
và tên của người Nga. Tôi nhớ, có lần y tá chăm sóc sức khỏe hỏi nàng
về họ, tên và tên lót của con gái, nàng thản nhiên một cách tuyệt đối,
nghiêm túc trả lời: “Tôi còn chưa học thuộc được tên cháu”. Nhưng tôi
một lần nữa dự đoán trước được điều này…
Khi
nàng ở lại một mình với tôi, nàng luôn khiêm tốn, giữ khoảng cách và
giữ mình rất đúng mực, nhưng tôi có cảm giác nàng đang phải đấu tranh dữ
lắm với những cảm xúc của mình. Có một lần trong buổi hẹn hò định kỳ ở
nhà nghỉ ngoại ô của tôi, suýt chút nữa thì nàng đã không thể làm chủ
được mình. Tôi không thể biết được, kết quả sau đó sẽ ra sao khi chúng
tôi quấn chặt lấy nhau với những nụ hôn sâu đắm nồng nàn nếu như không
có tiếng chuông gọi cửa bất ngờ vang lên của người hàng xóm. Tôi ra và
nói chuyện ngoài cổng với người hàng xóm chỉ khoảng 5 phút không hơn,
lúc quay lại thì phòng trống không. Nàng đã vọt ra ngoài qua cửa sổ,
thức tỉnh từ sự quyến rũ của tình yêu và bỏ chạy về nhà.
Tôi
hiểu, nàng đã phải trải qua thử thách quá lớn như thế nào khi tìm và
đạt bằng được tình yêu của mình với một người đàn ông châu Âu. Nhưng tôi
không thể nhận thức được phạm vi và mức độ các vấn đề đặt ra trước mặt
nàng, trong đó có các tiêu chuẩn đạo đức truyền thống kéo dài hàng thế
kỷ, kỷ luật nội bộ trong Đảng và còn liên quan đến các quan hệ quốc tế
khó hiểu. Lúc bấy giờ, tôi thậm chí còn không thể ngờ rằng mình lại đang
yêu con gái của Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Lê Duẩn. Xác định
theo họ và tên của nàng là điều không thể, họ Lê của người Việt quá
nhiều. Sau này tôi mới phát hiện ra khi sự việc của chúng tôi vỡ lở, ở
khoa Vật lý, ngoài một số sinh viên đồng hương thân thiết của nàng, biết
nàng là con của lãnh tụ Việt Nam có một người duy nhất là Trưởng khoa
công tác sinh viên nước ngoài.
Tình
yêu của chúng tôi có thể làm tổn thương đến ba của nàng, trở thành con
át chủ bài của các đối thủ trong cuộc đấu đá quyền lực. Phía sau lưng
ông là Trường Chinh, đối thủ chính trị cạnh tranh đã từng là Tổng bí thư
trước ông. Lê Duẩn định hướng phát triển kinh tế của đất nước theo mô
hình Liên Xô, còn Trường Chinh muốn theo mô hình của Trung Quốc. Nàng
tính toán rằng, Việt Nam sẽ sụp đổ nếu đối thủ của ba nàng giành được
quyền lực. Và Liên Xô cũng đặc biệt không mong muốn điều đó xảy ra. Tuy
nhiên thực tế, sau cái chết của ba nàng, Trường Chinh lên làm Tổng bí
thư Đảng Cộng sản Việt Nam, những điều tồi tệ nàng nghĩ tới đã không xảy
ra.
Cô gái khốn
khổ đã không thể tự nghĩ ra, mình cần phải làm gì. Để cố quên tôi, nàng
bắt đầu hẹn hò với một chàng trai đồng hương học ở khoa Cơ học (tôi sẽ
gọi tên cậu ấy là Văn), nàng không hiểu rằng điều đó không những không
ngăn cản được tình cảm mà chỉ làm tăng thêm những cảm xúc trong lòng
nàng đối với tôi.
Cuối
cùng thì điều gì đến cũng phải đến, trong một lần gặp gỡ, chúng tôi đã
gần gũi nhau. Ngay lập tức, tôi đề nghị nàng cưới tôi làm chồng:
–
Điều này là không thể được – nàng buồn rầu trả trả lời – Giữa hai nước
chúng ta đã có thỏa thuận ngầm không chính thức là cấm công dân Xô Viết
và Việt Nam kết hôn với nhau.
– Anh nghĩ rằng, chúng ta sẽ vượt qua được sự ngăn cấm này.
– Không, không thể được.
– Tại sao?
– Tại vì em không yêu anh!
Nhưng
qua ánh mắt của nàng, tôi hiểu nàng đang nói dối, nàng nói vậy nhưng
không phải là vậy. Tôi quyết định không vội vã ép nàng đẩy nhanh sự
việc, cho nàng thời gian để nàng suy nghĩ, để nàng tự giải quyết những
cảm xúc, tình cảm của mình. Và rồi nàng biến mất. Trước đây điều này
cũng đã xảy ra khi nàng tự cho phép mình làm một cái gì đó “thêm” vượt
quá giới hạn như nàng thường nghĩ khi ở bên tôi và nàng cảm thấy ăn năn
về hành động này. Sau đó tất cả mọi thứ trở lại bình thường. Nhưng lần
này khác hẳn, tôi không thể tìm thấy nàng. Kỳ nghỉ hè bắt đầu. Các sinh
viên phân tán khắp nơi, nên tôi không biết có thể hỏi ai về nàng. Tôi
thật khó khăn khi nóng lòng chờ đợi năm học mới, nhưng nàng đã không
xuất hiện ở MGU, ngay cả sau ngày 1 tháng Chín.
Tôi không thể chịu đựng được nữa và quyết định gọi điện thoại tới bà Trưởng khoa quản lý sinh viên nước ngoài:
–
Bà có thể cho tôi biết sinh viên Lê Vũ Anh hiện đang ở đâu không ạ? Cô
ấy học ở Khoa chúng tôi và cô ấy đã đạt được nhiều kết quả tốt.
–
Vũ Anh đã lấy chồng là đồng hương, cậu ấy cũng là sinh viên của trường
ta, cô ấy đã về nước. Tên cậu sinh viên ấy là Văn. Họ sẽ trở lại vào
cuối tháng này cùng với ba của cô ấy. Ông ấy sẽ gặp Breznhep – Bà trưởng
khoa khẽ nói trả lời.
Tôi
gần như ngã quy khi nghe điều này. Gặp gỡ với Breznhep cuối tháng này
ư, chắc chắn phải là Lê Duẩn. Thời khắc đột nhiên trở nên phức tạp,
nhưng dễ dàng để lý giải rõ ràng những điểm kỳ quặc trong các câu chuyện
và hành vi của người tôi yêu khi chúng tôi ở bên nhau. Vũ Anh của tôi –
con gái của lãnh đạo cao nhất của những người cộng sản Việt Nam! Nhưng
làm thế nào nàng có thể phản bội lại tình yêu của chúng tôi cơ chứ.
Sau
này Vũ Anh đã giải thích tất cả mọi thứ với tôi. Khi chúng tôi trở nên
thân thiết và gần gũi với nhau, tôi đã giang tay và nguyện hiến trái tim
của mình cầu hôn nàng, điều này làm cho nàng phải trải qua những giây
phút căng thẳng lớn, nàng cảm thấy hoang mang. Nàng thú nhận với người
bạn trai là Văn. Nàng nói rằng nàng chỉ muốn quan hệ với tôi trên tinh
thần bạn bè: nhưng rồi, vâng – chuyện đó đã xảy ra ngược với với ý chí
của mình và nàng cảm thấy hối tiếc về điều này. Văn yêu nàng, bỏ qua
chuyện nàng đã gần gũi với tôi và đề nghị kết hôn ngay lập tức. Dẫu sao
thì nàng đã từng có hẹn hò gần đây với Văn khi nàng muốn quên tôi nên
nàng đồng ý, nàng nói rằng nàng sẽ cố gắng để yêu Văn nhiều hơn. (Nàng
nói như thế này: “Em sẽ cố gắng để yêu anh nhiều hơn.”)
III.
Cuộc
hôn nhân này là một đòn giáng mạnh vào Lê Duẩn, có khả năng, ông đã
nghĩ đến việc có được một chàng rể vừa có lợi cho Đảng nhưng lại phù hợp
hơn cho con gái yêu quý của mình. Vũ Anh đã thu hút được sự quan tâm,
chú ý của một số “hoàng tử” từ các nước láng giềng. Văn là một chàng
trai thông minh, một nhà toán học tài năng, nhưng không đáp ứng yêu cầu
môn đăng hộ đối với nàng và gia đình. Về phía nàng, nàng muốn quên hẳn
tôi nên muốn ở lại Việt Nam và cố gắng yêu Văn để có thể tiếp tục sống
tốt cùng với Văn. Lê Duẩn đã tha thứ cho con gái về hôn nhân không tương
xứng, nhưng phản đối mạnh mẽ mong muốn của nàng ở lại Việt Nam. Nàng
cần phải học tiếp để có được bằng tốt nghiệp của trường Đại học Tổng hợp
Moskva. Kết thúc năm học vừa rồi ở Khoa Vật lý, nàng chỉ cần ở lại thêm
một năm là tốt nghiệp. Trong khi đó, Văn cũng muốn đi học sau đại học ở
Moskva ngay tại MGU. Nàng đã buộc phải tuân theo lời ba mình, trong
lòng hy vọng cuộc hôn nhân của mình sẽ có thể thay đổi tất cả mọi thứ và
giúp cho nàng không thể tiếp tục mối tình lãng mạn của mình với tôi.
Sau
một số ngày khi nàng quay trở lại Moskva, tôi đã thuyết phục được nàng
đến nhà nghỉ ngoại ô của tôi cùng với Phúc. Nàng không thể từ chối,
nhưng vẫn giữ thái độ ngại ngùng và cư xử kiềm chế miễn cưỡng. Tôi đã cố
gắng để xoa dịu tình hình. Tôi bông đùa bằng các câu chuyện tiếu lâm,
nói cười thật thoải mái, và sau đó mời các cô gái dạo hồ trên một chiếc
thuyền, mặc dù thời tiết không phải là thật tốt – lúc này đang là cuối
thu. Khi chúng tôi đang tiến gần đến bờ, Phúc không chèo thuyền thành
công để quay trở lại và rơi tõm xuống nước. Tôi vội nhảy xuống hồ kéo cô
ấy lên và bế chạy đến ngôi nhà gần nhất để thay quần áo ấm. Chủ nhà đưa
cho chúng tôi một cặp áo khoác, chúng tôi thay quần áo đã ướt và khoác
áo khô vào người Phúc. Tôi và nàng đưa Phúc về nhà nghỉ của tôi, xức cồn
và xoa bóp bằng rượu cho ấm người. Được một lát thì Phúc cảm thấy buồn
ngủ và cô ấy vào giường nằm nghỉ.
Lúc
này trong phòng khách chỉ còn lại tôi và nàng tâm sự với nhau. Nàng thú
nhận rằng trong mấy tháng qua, nàng đã sai lầm khi nghĩ rằng cứ lấy
chồng thì nàng có thể quên được tôi. Nhưng đời thật trớ trêu, trái tim
nàng đã không hề muốn tuân thủ lý trí của nàng. Hàng đêm nằm bên chồng
mà nàng luôn nghĩ về tôi. Nàng thổn thức, vừa muốn ở lại Việt Nam để lẩn
tránh tôi, lại muốn bay sang ngay Moskva để được gặp tôi, được nằm gọn
trong vòng tay vững chắc và thưởng thức nụ hôn cháy bỏng của tôi.Trong
đầu nàng luôn tái hiện lại hình ảnh và những cảm giác lần đầu tiên gần
gũi với tôi, đã trao trinh tiết quý giá của người con gái cho người mà
nàng yêu quý nhất. Nàng bảo với tôi, con gái Việt Nam coi trọng điều này
lắm, bởi họ quan niệm trong truyền thống từ cả ngàn năm là nó rất
thiêng liêng trong tình yêu, nó thể hiện lòng chung thủy. Nàng cảm thấy
có lỗi với Văn, dù thật ra nàng đã không lừa dối anh ấy, nàng đã tâm sự,
thổ lộ hết với Văn và Văn đã chấp nhận vì hiểu được hoàn cảnh éo le từ
mối tình lãng mạn không có hồi kết của nàng và tôi. Đặt chân xuống sân
bay ở Moskva, những kỷ niệm với tôi lại ùa đến khiến nàng không thể
cưỡng lại được tình cảm của mình và ngọn lửa tình yêu trong tim nàng với
tôi lại được dịp bùng lên dữ dội. Bây giờ gặp lại tôi, nàng thừa nhận
rằng nàng muốn được chung sống mãi mãi với tôi, làm một người vợ hiền
chăm sóc cho tôi, nhưng nàng lại không dám tin vào một khả năng có thể
dẫn đến hiện thực như vậy, nàng nói:
–
Vài năm trước, chính quyền không cho phép con gái của một bộ trưởng
nước em kết hôn với con trai của thủ tướng một nước châu Âu. Đôi trai
gái yêu nhau này đã chấm dứt cuộc sống và mối tình lãng mạn của mình
bằng cách cùng nhau tự tử. Trường hợp như vậy ở Việt Nam nhiều lắm khi
các đôi trai gái vì quá yêu nhau nhưng bị ngăn cản bởi gia đình mà tìm
đến cái chết. Anh không thể tưởng tượng được đâu, rằng đã có bao nhiêu
người chết vì truyền thống này!
–
Thôi mà em, rồi tất cả sẽ tốt đẹp với chúng ta! Em hãy ly dị chồng và
chúng ta sẽ cố gắng đấu tranh để được kết hôn! Anh có niềm tin vững chắc
vào điều đó.
Tôi
an ủi xoa dịu nàng, rồi nhẹ nhàng ôm nàng vào người thật chặt, đặt lên
đôi môi hé mở của nàng một nụ hôn ngọt ngào, say đắm. Nàng nhắm mắt,
người nàng mềm nhũn và run nhẹ. Bỗng nàng chợt bất ngờ xô tôi ra, thảng
thốt:
– Ôi, anh và em đã làm gì thế này, em là gái có chồng rồi mà. Thôi anh, nhỡ Phúc tỉnh dậy nhìn thấy thì không hay.
Thời
gian tiếp sau, do không kiềm chế được, tôi và nàng vẫn tìm cách bí mật
để gặp được nhau. Nàng quyết định ly thân với Văn, nói thẳng với Văn là
nàng đã cố gắng nhiều nhưng không thể nào yêu được Văn. Nàng có nằm bên
cạnh Văn thì cũng chỉ hờ hững mà không thể, không một chút cảm xúc. Cuối
cùng thì Văn cũng phải chịu, vì dù sao nàng là con gái Lê Duẩn nên
không thể ép gì được nàng, để kệ cho nàng được tự do, muốn làm gì thì
làm. Văn tập trung vùi đầu hết thời gian vào việc làm luận án tiến sỹ
cho quên đi mọi chuyện. Tất nhiên, chúng tôi không quảng bá mối quan hệ
của chúng tôi cho bất cứ ai, bởi nó không phù hợp với truyền thống đạo
đức vì dù sao thì nàng cũng là người đã có chồng, chưa kể đến việc đây
mối quan hệ với người nước ngoài. Để có được mỗi lần gặp nhau, chúng tôi
phải dàn dựng công phu, giấu kín không bị lộ. Chúng tôi phải rất thận
trọng để không dẫn đến hậu quả tệ hại là buộc nàng bị trục xuất về nước.
Thông thường, các mối tình lãng mạn Xô-Việt nếu có sẽ khá nhanh chóng
được đại sứ quán biết đến. Những người đang yêu nhau đó sẽ được “chấn
chỉnh” bởi sự cảnh báo của những công dân ưu tú luôn cảnh giác với tình
yêu. Cứ thế chúng tôi vụng trộm trong bí mật như vậy được gần một năm.
Điều gì có thể chứng minh chúng tôi ngoại tình: Nàng chỉ nhìn như một
đứa trẻ, mà việc giám sát “trẻ em” Việt Nam không hề tồn tại, ít nhất
mọi thứ đều nguyên trạng. Sau đó, nàng đã mang thai và không hiểu vì sao
đó mà nàng đã giấu điều đó với tôi. Do không giữ gìn cẩn thận và tự
thương lấy mình nên nàng đã bị sẩy thai. Tôi đã vào thăm nàng trong bệnh
viện và đã rất lo sợ rằng tất cả mọi thứ bị phát hiện và người ta sẽ
mang nàng đi mất. Nhưng tôi còn sợ hãi hơn cho sức khỏe của nàng. Bởi
vậy nên tôi nghĩ, người ta có thể mang nàng đi, miễn là tất cả đều phải
tốt đẹp cho nàng. Và rồi thời điểm đó đã đến.
Sau
khi điều trị ở bệnh viện, người ta gửi nàng đến thành phố Pushkino, vào
Viện an dưỡng chính trị cao cấp. Tại đây nàng được xem như một yếu nhân
có một vị trí đặc biệt, tất nhiên, nàng được đăng ký ăn ở phòng ăn dành
cho những người có đặc quyền. Những người khách nghỉ bình thường ở đây
thường muốn ngó xem trong khay đựng thức ăn gồm những gì được mang đến
cho cô công chúa Việt Nam khi các cô phục vụ bê mang ngang qua phòng
sinh hoạt chung. Nàng khó chịu với đặc ân này của chế độ Xô viết, nhưng
nàng bắt buộc phải chung sống hòa bình với điều này.
Ở
Pushkino vài ngày nàng đã thấy buồn chán, nàng gọi điện đề nghị tôi đến
thăm nàng. Một hồi lâu tôi từ chối, nói rằng chúng tôi có thể bị bắt,
nhưng cuối cùng tôi đầu hàng và chấp nhận lời thỉnh cầu của nàng. Tôi
đến với một con chó – chó săn chồn, và tìm nhà nghỉ trong khu nghỉ mát
gần Viện an dưỡng của nàng. Khỏi phải nói, chúng tôi mừng rỡ khi gặp
được nhau, ôm hôn nhau nồng thắm như thể chưa bao giờ đã từng như vậy.
Rồi một lần chúng tôi gặp nhau trong rừng đã bị một nhân viên an ninh
bắt gặp! Ông ấy đang ngồi nấp trong bụi cây theo dõi chúng tôi thì bất
ngờ bị con chó của tôi phát hiện ông ta ở đó.
– Này anh, anh theo dõi tất cả mọi người hay là chỉ riêng chúng tôi?
– Theo dõi tất cả – Tay nhân viên an ninh trấn an chúng tôi – Chúng tôi ở đây là Gestapo.
Tất
cả bí mật giữa chúng tôi nhanh chóng bị bại lộ, một cách hoàn toàn tình
cờ. Cơ quan an ninh xác định rõ được ngay tôi là ai và nhanh chóng
thông báo cho Lê Duẩn, rằng có mối tình lãng mạn giữa con gái ông với
một nhà vật lý Xô Viết. Vậy là có một cuộc họp gia đình, trong đó mọi
người cùng thảo luận về hành vi ngoại tình của nàng. Nhưng những người
thân trong gia đình sợ nàng bởi cá tính quá táo bạo và độc lập. Nàng có
thể phê bình, chỉ trích mạnh mẽ ngay cả ba mình. Trong tim tôi, nàng là
một người cộng sản lớn hơn cả Lê Duẩn.
Để
ngăn chặn hành động ngoại tình của con gái mình, Lê Duẩn cử một đặc
phái viên – một người bạn của gia đình, người đang làm việc ở Moskva
giúp đỡ giải quyết vấn đề này. Ông này mời nàng đi xem vở kịch ballet
“Anna Karenina” ở Nhà hát lớn Moskva. Buổi đi xem thưởng thức biểu diễn
nghệ thuật này rõ ràng không phải là tình cờ. Khi xem xong quay ra, ông
ấy nhắc nhở nàng về trách nhiệm của gia đình, “Đại sứ thiện chí” gợi
nàng nhớ đến số phận bi thảm của nhân vật nữ chính Anna của Tolstoy:
“Cháu thấy không, cuộc sống của người phụ nữ trong tác phẩm kịch đã kết
thúc với bi kịch ra sao nếu phản bội, thay đổi chồng mình?”. Nàng đã
phải khó khăn lắm mới nhịn được cười.
Trên
cương vị của mình, để giữ uy tín Lê Duẩn đã không thể sử dụng bạo lực
và trục xuất cô con gái yêu. Giải pháp cuối cùng là phải để nàng ly hôn,
cô sẽ kết hôn với tôi và ở lại cùng chồng ở Moskva. Qua một thời gian,
tất cả mọi việc đã lắng dịu xuống, nhưng không thể trì hoãn thêm, chúng
tôi cần thiết phải tiến hành đăng ký kết hôn và tổ chức hôn lễ càng sớm
càng tốt để cuộc sống chúng tôi sớm ổn định.
Mặc
dù đã ly thân, nhưng Văn không muốn ly hôn với nàng. Tôi nghĩ đó không
chỉ do cảm xúc của Văn, mà còn vì lợi ích riêng của người cha, sự nghiệp
của ông ta đã đi lên cao sau khi con trai ông kết hôn với nàng. Tôi đề
nghị nàng thể hiện sự thông minh và tài ngoại giao của mình để cố gắng
đạt được một thỏa thuận với chồng, nhưng nàng không muốn tỏ ra nhẫn tâm
như vậy. Nàng không muốn có thêm lỗi với Văn, mà muốn để Văn tự quyết
định trước thực tế tình cảm của vợ mình. Lỗi là tại nàng, vì nàng đã lợi
dụng Văn để làm cớ quên được tôi trong cuộc đấu tranh với chính bản
thân mình, từ đó mới xuất hiện mối quan hệ không đáng có của nàng với
Văn. Nhưng khi nàng đã có thai lần nữa, câu hỏi nảy sinh về nhiều khía
cạnh. Nàng phải hành động để không phải rơi vào tình trạng không rõ
ràng: nếu nàng trên danh nghĩa vẫn là vợ Văn tại thời điểm ra đời đứa
con của chúng tôi, phía Việt Nam về mặt luật pháp có thể xem Văn là cha
của đứa bé.
Nàng
hứa với Văn rằng, sẽ không để ai biết việc ly hôn của họ ở Việt Nam:
“Em sẽ giữ bí mật, và chúng ta sẽ vẫn là bạn bè thân thiết của nhau như
trước. Anh biết rồi đó, ngay từ đầu em đã không có tình cảm với anh. Anh
nói rằng anh yêu thương em, vậy thì anh nên chấp nhận thỉnh cầu của em.
Anh có muốn em ghét bỏ anh không?”. Cuối cùng thì anh chàng đã phải
chấp nhận từ bỏ nàng. Văn vẫn còn yêu đơn phương nàng. Họ đã cùng đến
một văn phòng đăng ký ly hôn tại Moskva dành cho người nước ngoài, vậy
là họ đã ly dị mà tất cả người Việt Nam và Lê Duẩn đã không được biết
bất cứ điều gì. Cũng không có ai thông báo điều này cho Đại sứ quán Việt
Nam. Văn tỏ ra rất khó chịu, buồn bực bởi việc này, bị khủng hoảng tinh
thần đến mức phải nhờ phòng khám thần kinh chữa trị.
Chúng
tôi giấu việc nàng mang thai con đầu lòng, vì chúng tôi không muốn ai
đó quấy rầy nàng sinh con và đăng ký khai sinh cho con ở Liên Xô. Tại
trường đại học, tôi đã bố trí cho nàng một “chuyến công tác” trong vài
tháng ở một trường đại học ở Kiev và giúp đỡ cho nàng thỉnh thoảng gọi
“từ Kiev” cho chị Muội (nàng vẫn giữ liên lạc với gia đình thông qua
chị), đồng thời nàng gửi thư cho người thân với tem đóng dấu từ Kiev để
họ yên tâm đúng là nàng đang ở đó. Trong toàn bộ thời gian mang thai,
nàng đã sống ở trong nhà nghỉ ngoại ô của tôi và trốn kín, nếu một người
nào đó bất chợt đến thăm tôi.
Trong
thời kỳ trì trệ của Liên Xô, những cuộc hôn nhân của cư dân Vùng Moskva
(bao gồm thành phố Moscow) với công dân nước ngoài chỉ được tiến hành
đăng ký tại hai văn phòng – một ở Moscow và một ở Zagorsk – Việc này cho
phép Ủy ban an ninh quốc gia (KGB ) kiểm tra, kiểm soát dễ dàng hơn.
Tại hai văn phòng này, chúng tôi không thể đăng ký được vì nếu an ninh
biết thì Lê Duẩn chắc chắn cũng sẽ được thông báo ngay. Nhưng thời kỳ đó
pháp luật cũng quy định, ở những nơi nào không có văn phòng đăng ký kết
hôn cho người nước ngoài, các cuộc hôn nhân với người nước ngoài có thể
đăng ký và được thành viên của Hội đồng đại biểu nhân dân địa phương
chứng nhận. Tôi quyết định phải tận dụng lợi thế này và đăng ký kết hôn
của nàng với tôi tại thành phố Troitsk. Ở thị trấn Akademgorodok ngoại ô
Moskva, tôi có rất nhiều bạn bè ở tất cả các Viện nghiên cứu, họ sẵn
sàng giúp đỡ tôi. Tất nhiên, nếu họ biết cô dâu của tôi là ai, thì chắc
chắn không ai mạo hiểm dám giúp tôi để có đăng ký kết hôn với nàng được.
Tôi đã phải né tránh, lừa dối và thậm chí tạo ra một giấy phép giả cho
nàng từ Đại sứ quán Việt Nam. Và quan trọng nhất – tôi phải có đăng ký
cư trú chính thức ở thành phố Troitsk. Mặc dù pháp luật quy định về hôn
nhân yêu cầu không nhất thiết phải như vậy.
Cuộc hôn nhân bí mật đầy bi kịch của con gái Lê Duẫn- hết
IV.
Thời
gian đó tôi đã xây một nhà để xe tại nhà nghỉ ngoại ô – gọi là nhà chứa
xe nhưng trông khá “hoành tráng” với việc mở rộng thêm một phòng ngủ
lớn. Một trong những bức tường của nó được xây hình bán nguyệt. Các cửa
sổ được xây dài và hẹp như kẽ hở lớn, tôi củng cố chúng bằng các song
sắt. Trong căn phòng với những “kẽ hở” như vậy còn có thêm một cánh cửa
bằng thép. Kết quả xây dựng giống như một pháo đài thật sự mà sau này sẽ
đáp ứng đúng vai trò của nó cho việc giải tỏa nỗi sợ hãi của nàng về
mối đe dọa bị bắt đưa về nước. Nhà để xe theo pháp luật
của Liên Xô chỉ có thể được hợp pháp hóa tại nơi cư trú của mình. Tôi đã
đến gặp cảnh sát trưởng thành phố Troitsk:
– Tôi muốn được đăng ký tạm trú tại nhà nghỉ ngoại ô để chính thức hóa nhà để xe. Liệu có thể được không đồng chí?
– Không có vấn đề! Đồng chí hãy đến Sở Cư trú Moskva xác nhận và sau đó đến văn phòng hộ chiếu của chúng tôi.
Tôi
đã đăng ký xác nhận ở Sở Cư trú Moskva, nhưng người đứng đầu văn phòng
hộ chiếu lại yêu cầu cần sự cho phép đăng ký tạm trú của chủ tịch Ủy ban
hành chính thành phố Troitsk, người mà tôi đã có mối quan hệ thân mật
nhất. Tôi đến gặp đúng thời điểm bà chủ tịch sắp đi nghỉ phép, vì vậy bà
ấy dễ dàng ký ngay quyết định theo đơn trình của tôi. Tôi bày tỏ ngay
nguyện vọng xin phép kết hôn khẩn cấp tại nơi cư trú mới, “chúng tôi
không thể chờ đợi lâu được. Cô dâu sắp sinh con. Có giấy chứng nhận của
phòng khám thai đây ạ”. Bà chủ tịch đã viết tay và ký tên vào một mảnh
giấy: “Tôi yêu cầu khẩn trương cấp giấy đăng ký kết hôn cho GSTS Maslov
ngay sau khi có quyết định của Ủy ban Hành chính thành phố về việc cấp
giấy phép cư trú.” Và bà ấy lên đường đi nghỉ phép.
Với
mảnh giấy này tôi đã đi đến gặp ông ủy viên Ủy ban hành chính, người có
trách nhiệm xử lý việc đăng ký kết hôn (ông là một người quen của tôi),
và thú nhận rằng, muốn kết hôn với một cô gái nước ngoài, nhưng tôi
phải giấu kín, không để chuyện này bay ra ngoài khỏi Viện nghiên cứu
khoa học của tôi. Ông hứa rằng mọi việc sẽ được giải quyết kín đáo, ông
sẽ giữ bí mật tuyệt đối và sẽ trực tiếp trao đổi với thư ký của Ủy ban
hành chính – một người phụ nữ trung niên dễ thương. Tôi đã rất vui mừng,
nhưng chưa kịp thực hiện thì có chuyện thay đổi nhân sự xảy ra bất ngờ.
Vài ngày trước khi đăng ký, người phụ nữ trung niên đã được chuyển công
tác và thay vào vị trí đó một nhân viên đã từng là cán bộ Đoàn thanh
niên từ thành phố Podolsk mới chuyển đến. Nghe nói cô gái này là một
công chức mẫn cán, tích cực và rất nguyên tắc. Tôi sợ rằng cô ta sẽ phá
vỡ “âm mưu” đăng ký kết hôn với nàng của mình.
Tôi
quay sang nhờ một người bạn tìm cách vô hiệu hóa cô gái này. Bạn tôi sẽ
tìm một thanh niên đẹp trai nào đó có khả năng tán giỏi, quyến rũ mời
bằng được cô gái đến gặp, đi dạo chơi suốt trong ngày nào đó, làm sao để
cô gái chuyển trách nhiệm giải quyết vụ việc của tôi cho ông ủy viên mà
tôi quen biết. Tại sao ư, tất nhiên, tôi đã không nói. Một trong những
nhà khoa học trẻ – một người đàn ông đẹp trai và đầy hấp dẫn, hợp gu yêu
thích của phụ nữ – đã giúp đỡ. Ngày hôm sau cậu ấy gọi cho tôi: “Ngày
thứ bảy cô ấy sẽ không có mặt tại cơ quan, cô ấy đã xin nghỉ phép. Chỉ
cố gắng kiếm cho chúng tôi một cặp vé xem bất kỳ buổi biểu diễn nghệ
thuật tuyệt vời nào đó.” Tôi gửi cho cậu ta cặp vé đi nghe nhạc jazz
Đức.
Vị ủy viên
đáng kính đã không làm tôi thất vọng, ông đã giúp chúng tôi kết hôn như
đã hứa một cách hoàn hảo – “Không một tiếng ồn và dính tý bụi nào”. Cho
đến những giây phút cuối cùng tôi vẫn còn lo sợ những bất lợi không mong
muốn bất ngờ ập đến có thể ngăn cản mối tình của chúng tôi. Bạn thân
của tôi, Bulat Okudzhava đề nghị: “Nếu có bất kỳ trở ngại nào, hãy gọi
cho tôi. Tôi sẽ đưa các nhà báo nước ngoài đến, chúng tôi sẽ làm um lên
để họ không thể ngờ hậu quả lại như vậy!”. Tôi biết Okudzhava từ khi còn
nhỏ. Các bà mẹ của chúng tôi thân nhau như là chị em ruột. Hồi bé tôi
đã sống trong gia đình Bulat sáu tháng tại căn hộ của họ ở phố Arbat.
Tại sao ư? Tôi không hề biết được. Trong thời kỳ ảm đạm của năm 1937,
nhiều người dân khi đó vì nhiều lý do, buộc phải thay đôi chuyển nơi ở,
họ đã cố gắng trốn tránh để thoát khỏi bị bắt. Người ta đã bắt giam cha
của Bulat – ông Shaliko. Mẹ tôi ly dị với cha tôi và sau đó kết hôn với
Boris Fedorovich Piston, một nhà sử học và triết học nổi tiếng. Cha
dượng đã đóng một vai trò rất lớn trong cuộc sống của tôi. Tôi yêu ông
rất nhiều. Mẹ của Bulat là bà Ashkhen Stepanovna và bà nội Maria
Vartanovna đã nuôi nấng, chăm sóc tôi một thời gian. Bà Ashkhen sau đó
vẫn luôn luôn giúp đỡ tôi. Bà cũng đã đến dự góp vui trong ngày cưới của
tôi với Vũ Anh.
Chúng
tôi tổ chức đám cưới ở nhà nghỉ ngoại ô. Chúng tôi chỉ mời bạn bè thân
thiết gần gũi nhất và những người thân trong họ hàng. Mẹ tôi đã cho con
dâu của mình một chiếc vòng cổ bằng vàng nạm kim cương. Một chiếc vòng
cổ rất thanh lịch, “sang trọng”, nhưng nàng xấu hổ khi đeo nó. Nàng là
một cô gái khiêm tốn. Mẹ tôi còn tặng thêm cho nàng một chuỗi vòng cổ
với các hạt ngọc trai lớn hình dạng không đồng đều – nàng luôn đeo nó ẩn
dưới lớp dưới áo ngoài.
Hôn
nhân của chúng tôi được tiến hành nhanh chóng một cách kỳ lạ nhưng đầy
trắc trở, đặc biệt là tờ giấy phép cư trú gắn liền với toàn bộ một câu
chuyện ly kỳ, mạo hiểm. Đầu tiên là sự ngại ngần, lưỡng lự của bà trưởng
văn phòng hộ chiếu thành phố Troitsk. Bà nói rằng việc đăng ký tạm trú
không cho quyền cư trú, cũng như việc cho phép của chủ tịch Ủy ban hành
chính Troitsk là không đủ thẩm quyền, và gửi hồ sơ xin cư trú của tôi
đến Cục Nội vụ Vùng Moskva. Ở đó, tôi bắt buộc phải chạy khắp nơi đúng
một vòng tròn. Phải công nhận tôi là một người đã rất kiên trì khi đến
quấy rầy một loạt các bộ phận chức năng liên quan, và rồi cũng đạt được
kết quả như ý. Người em họ của bạn tôi là Okudzhava đã giúp đỡ. Người
phụ nữ tuyệt vời này, tôi đã thậm chí chưa bao giờ nhìn thấy, là bạn học
với phó cục trưởng cục Nội vụ Vùng Moskva. Cuối cùng nhờ anh ấy mà
chúng tôi cũng đã nhận được giấy phép cư trú tại vùng ngoại ô Moskva.
Trong
thời kỳ Xô Viết, tất cả mọi thứ có thể đạt được bởi sự quen biết. Tôi
đưa nàng vào nằm ở một bệnh viện phụ sản vừa mới được khai trương ở
Moskva nhờ sự giới thiệu của bạn bè mà không cần có giấy tờ. Bác sĩ,
người trực tiếp chăm sóc nàng, một bác sĩ phẫu thuật tuyệt vời, không
biết cô ấy là ai. Tôi nói với bác sỹ rằng, nàng là tình nhân của tôi,
chúng tôi yêu nhau và có thai, chúng tôi muốn lừa dối người chồng rất
hay ghen, nàng đã phản bội chồng, bây giờ anh ta đang bận công tác trong
một chuyến đi dài ngày. Bảy tháng trước, chồng nàng đã về Moskva vào
dịp nghỉ phép, sau đó lại đi tiếp. Do đó, chúng tôi cần một giấy chứng
nhận rằng đứa trẻ được sinh non bảy tháng. Trong thực tế, tờ giấy chứng
nhận này chỉ nhằm mục đích để phòng chống lại tuyên bố có thể có của
phía Việt Nam. Nàng ly hôn vào tháng thứ hai của thai kỳ, và nếu muốn
người ta có thể nói Văn là cha đứa bé. Thời đó khoa học chưa có phân
tích ADN. Bác sĩ phụ khoa cấp ngay chứng chỉ cần thiết mà không yêu cầu
bất kỳ vấn đề gì. Ông đã bị cuốn hút bởi nàng. Và, tất nhiên, tôi rất
biết ơn ông.
Ngày
31 tháng 10 năm 1977, nàng đã sinh hạ một bé gái, chúng tôi đặt tên bé
là Elena, dựa vào tên của người bạn gái thân của nàng là Liên, con gái
của Bộ trưởng Bộ Tư pháp, người đã giúp chúng tôi bằng nhiều cách, đặc
biệt là một giấy phép kết hôn giả của Đại sứ quán Việt Nam mà tôi đã đề
cập. Tôi ngay lập tức đăng ký khai sinh cho đứa trẻ ở Troitsk, và đến
giây phút này có thể nói rằng “chương trình tối thiểu” đã được thực thi.
Một
thời gian ngắn trước khi nàng sinh, Lê Duẩn đã đến Moskva. Ông đã không
thể gặp được nàng ngay. Điều này làm cho ông tức tối lên cơn giận dữ.
Con gái tôi đâu?, ông hỏi đại diện phía Liên Xô. Thông thường, các
chuyên viên của Ban đối ngoại của Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Liên
Xô sẽ đón và đưa nàng đến gặp ông ngay trong ngày khi ông vừa bay đến
Moskva. Nhưng lần này họ không thể tìm thấy nàng – không ở Kiev, nơi
nàng chính thức được cử đi công tác, cũng như không tìm thấy bất cứ chỗ
nào ở Moskva. Những người phụ trách an ninh giải thích rằng, có thể nàng
đang ở nơi nào đó với Maslov. Sau một tuần, nàng và con gái đã được
xuất viện, nàng ngay lập tức tự mình đến gặp Lê Duẩn, nàng sẽ kể hết
toàn bộ câu chuyện. Tôi đã cố gắng để ngăn cản nàng, nhưng nàng không
chịu nghe.
Nàng
gặp cha mình tại nhà khách chính phủ trên đồi Lenin. Lê Duẩn đã cố gắng
thuyết phục con gái về Việt nam để làm thủ tục ly hôn với Văn, điều mà
nàng đã từng yêu cầu trước đây. Nàng cho biết nàng đã chính thức ly hôn
Văn và kết hôn với tôi. Lê Duẩn tím mặt với cơn giận dữ và bắt đầu la
hét, mắng nàng thậm tệ, đổ lỗi nàng hư hỏng vì mang một phần dòng máu
xấu Trung Hoa, mà nàng được thừa hưởng từ mẹ nàng. Nàng cảm thấy phẫn nộ
kinh khủng, nàng không thể chấp nhận chủ nghĩa dân tộc của ba mình.
Nhưng nàng không muốn tranh luận với Lê Duẩn nữa. Nàng xin phép ba quay
về và bỏ đi thật nhanh.
V.
Khi
nàng đi ra ngoài để đến điểm dừng xe buýt, một chiếc xe “Volga” màu đen
chầm chậm chạy theo nàng, rồi dừng lại cách nàng một khoảng không xa.
Nàng bước thêm vài bước,người lái xe ngay lập tức nhấn ga. Cô vội chạy
nhanh thì chiếc “Volga” cũng tăng tốc thêm. Không ai biết điều gì sẽ xảy
ra nếu nàng không kịp chạy đến bến và lên kịp chiếc xe buýt chạy điện
vừa dừng. Về đến nhà, nàng xuất hiện trước mặt tôi với nước mắt lưng
tròng. Nàng kể lại với tôi nàng đã sợ hãi như thế nào khi bắt đầu thấy
chiếc xe đuổi theo nàng:
– Bây giờ em đã tin chắc rằng, họ muốn bắt và đưa em về Việt Nam!
– Sao em bảo rằng ba mình sẽ không làm điều đó.
–
Như sự việc xảy ra hôm nay, em đã nhận ra rằng ba em đã sẵn sàng đặt
lợi ích chung lên trên lợi ích cá nhân. Điều này có nghĩa, em sẽ phải
cam chịu số phận thôi.
Tôi an ủi, vỗ về động viên nàng, còn nàng vừa khóc, vừa liên tục lắp bắp nói: “Em đã chết! em đã chết!”
Ngày
hôm sau, nàng gọi điện thoại cho chị Muội. Chị nàng nói rằng ba đã bị
sốc và rất lo lắng vì chuyện của nàng đã xảy ra như vậy. Cả đêm ông đã
không thể ngủ được và muốn làm lành, tha thứ cho nàng. Nàng kiên quyết
trả lời chị: “Tốt hơn hết là ba, má và chị nên chúc mừng chúng em. Chúng
em đã có một cô con gái mới sinh.” Chị gái nàng không tin thực tế đó,
cho rằng nàng bịa ra chuyện để gây sức ép cho ba phải thừa nhận hôn nhân
của nàng với tôi. Nàng và chị Muội đã thỏa thuận gặp nhau tại nhà nghỉ
ngoại ô của chúng tôi và cả hai sẽ cùng đi đến gặp Lê Duẩn. Khi đến nhà
tôi, trông thấy Lena, Muội đã bật khóc và đề nghị nàng nên ở nhà, chị sẽ
đến gặp ba một mình. Chị sẽ kể tất cả mọi chuyện cho Lê Duẩn. Lê Duẩn
một lần nữa lại bị sốc khi biết về sự ra đời cháu gái ngoại của ông.
Trong
một thời gian dài sau này, Lê Duẩn không thể chấp nhận sự thật, rằng
con gái mình đã không vâng lời, vi phạm luật pháp và kết hôn với người
nước ngoài. Ông thỉnh cầu Suslov, người gần gũi quen biết nhất của ông
trong Đảng Cộng sản Liên Xô với một yêu cầu giúp tìm ra quan hệ thực
chất của nàng với tôi – mối tình thoảng qua theo cảm xúc nhất thời hay
tình yêu thực sự. Sau đó, KGB đã cử một “chuyên gia về tình yêu.” tiếp
cận chúng tôi. Ông đã bí mật đi lang thang xung quanh nhà, nơi chúng tôi
sống, quan sát, nghe trộm, thu thập thông tin, và đã buộc phải thừa
nhận: đó là tình yêu thực sự.
Mặc
dù biết chúng tôi yêu nhau thật sự, nhưng Lê Duẩn vẫn không tha thứ cho
con gái mình. Tôi đã nghe nói rằng,trong gia đình, Lê Duẩn đã cấm không
cho ai được nói chuyện về nàng, thậm chí chỉ là nhắc đến tên nàng.
Nhưng tất cả quà tặng thủa bé của nàng đều được ông sắp xếp, giữ gìn cẩn
thận trên bàn làm việc của mình. Khi một trong số những món quà đó bị
ai đó lấy mất, Lê Duẩn đã làm ầm ỹ cả nhà, tạo nên một scandal nho nhỏ.
Điều này có nghĩa là trong sâu thẳm lòng mình, ông vẫn rất yêu quý nàng,
thương nàng như xưa mà không hề chối bỏ nàng…
Nàng
đã thay đổi rất nhiều sau sự ra đời của bé Lena. Trước đó nàng luôn tỏ
ra can đảm, độc lập, còn bây giờ nàng không ngừng run lên vì sợ hãi. Lúc
nào nàng cũng có cảm giác như đang trong tình trạng chờ đợi các cuộc
tấn công, bắt cóc, nàng sợ những chiếc xe màu đen và thậm chí nàng sợ cả
các đồng hương của mình. Nàng cho biết, với họ tốt hơn hết là không nên
gặp mặt, không để bị lôi kéo vào cuộc tụ họp, để dành thời gian tập
trung vào làm việc, nghiên cứu. Một thời gian ngắn, người thân của nàng
xa lánh, tẩy chay nàng, gọi nàng là kẻ phản bội. Họ thường xuyên gọi
điện thoại và gửi thư với thái độ giận dữ. Nàng đã phải chịu áp lực lớn,
nàng tin rằng, nàng đã gây ra một tội lỗi khủng khiếp, và nàng sẽ bị
trừng phạt.
Trước
đây nàng không thực sự muốn ở trong căn phòng với những khe hở lớn như
pháo đài tôi đã xây, còn bây giờ nàng lại luôn yêu cầu tôi khóa chặt cửa
và nàng ở trong phòng cùng với Lena suốt cả thời gian khi tôi đi vắng
vì công việc ở Moscova. Nàng luôn giữ bên mình khẩu súng săn của tôi.
Nàng nói rằng căn phòng này là nơi an toàn nhất trong cả nước. Nàng
không còn sợ bị đuổi bắt từ các đường phố, từ bên trong phòng này nàng
có thể thoải mái để bắn ra ngoài. Rõ ràng, nàng có thể đang hồi tưởng về
tuổi trẻ du kích của mình.
Có
một lần nàng làm tôi hoảng sợ suýt chết. Nàng biến mất cùng với Lena.
Tôi lái xe về đến nhà nghỉ, thấy vắng tanh không có ai ở đó cả. Tôi
thiếu chút nữa thì lên một cơn đau tim, nghĩ rằng họ đã bị bắt cóc. Rồi
nàng bất chợt hiện ra và nở một nụ cười rõ tươi.
Tôi
đã có cuộc trò chuyện với một người lính từ một tiểu đoàn xây dựng. Cậu
ấy muốn bán cho tôi một khẩu súng lục bắn bê tông, từ đó có thể chụp
chốt vào tường bê tông. Tôi hỏi khoảng cách bắn được bao xa. Người lính
nghe tôi nói vậy thì tỏ ra sốt sắng: “Bác cần súng bắn được với khoảng
cách xa à? Tôi có thể bán cho bác súng trường tự động kèm với đạn”. Tất
nhiên, tôi từ chối cậu lính. Khi tôi vừa cười vừa nói với nàng về cuộc
trò chuyện đó với người lính, nàng đột nhiên nhận thấy tiếc rẻ về cơ hội
hiếm có đó:
– Sao vậy, anh phải mua chứ.
– Có mà điên? Để cho người ta bắt vào tù à.
–
Nhưng có nó em sẽ bình tĩnh hơn. Anh không hiểu à, Ba em sẽ làm mọi
chuyện có thể. Cuộc hôn nhân của chúng ta làm suy yếu quyền lực của ông
ấy trong Đảng, tiếp tay cho các đối thủ chính trị của ông. Nếu họ hạ bệ
ba em, đất nước sẽ bị sụp đổ.
– Ba em yêu thương em và sẽ không bao giờ phá hoại hạnh phúc của em đâu.
–
Ba yêu thương em, em cũng yêu ba em nhiều. Nhưng điều quan trọng nhất
đối với ba em là lợi ích của đất nước. Em luôn biết em phải đi đến điểm
dừng nào. Trước đây khi chưa có Lena, em không sợ gì cả, nhưng bây giờ
em luôn sợ hãi. Nếu người ta bắt em đi, một mình anh sẽ không thể chăm
sóc tốt cho con.
Ngay
sau đó bé Lêna đã bị ốm, phải nhập viện. Trước khi vào bệnh viện cùng
nằm để chăm sóc bé, nàng đã viết cho tôi một bản tuyên bố chính thức:
“Nếu tôi bị bắt mang đi một mình hoặc cùng con gái và đưa đến Đại sứ
quán Việt Nam, mọi người cần phải biết, điều này được thực hiện bằng vũ
lực, trái với ý muốn của tôi, bất cứ điều gì do người thân trong gia
đình tôi hoặc đại sứ quán phát ngôn đều không có giá trị. Tôi muốn sống
với chồng Viktor Maslov ở Liên Xô, và tôi muốn chồng tôi nuôi dưỡng con
gái của chúng tôi trưởng thành và thấm nhuần nền văn hóa Nga”. Tôi cho
cất giữ tờ giấy này vào một nơi an toàn.
Phần
lớn thời gian chúng tôi sống trong nhà nghỉ ngoại ô và hầu như lúc nào
cũng ở bên nhau. Tôi bắt đầu tham gia giảng dạy ít hơn, cố gắng dành
thời gian nghiên cứu, làm việc tại nhà. Vào ban đêm, đôi khi tôi ngắm
nhìn nàng ngủ và tôi tự nhủ, “Lạy Chúa, tại sao tôi hạnh phúc thế này?
Tôi thật không xứng đáng”. Cũng giống như tôi luôn cảm thấy có quá ít
thời gian được ở bên nàng…
Ban
đầu, tôi sợ rằng nàng buồn vì nhớ gia đình và quê hương. Một lần bạn
tôi là Viện sĩ Mishchenko đã hỏi cô về điều đó. “Em chỉ nhớ khi có khách
đến nhà chơi” – với sự thẳng tính của mình nàng trả lời. Nàng không
thích các nhóm bạn ồn ào, những cuộc tranh luận vô bổ. Tôi cảm nhận được
nàng khó chịu khi nhìn thấy cảnh bạn bè tôi say rượu vui vẻ, mặc dù
nàng không thể hiện ra ngoài sự không hài lòng, nếu có ai mời uống rượu
thì nàng nhẹ nhàng từ chối. Nói chung là nàng không thích uống rượu.
Cùng
sống với nàng tôi đã tự nhận thấy mình thay đổi nhiều, trẻ hơn, dễ
chừng phải đến 15 tuổi. Chưa bao giờ tôi lại làm việc đạt hiệu quả lớn
như lúc này. Chúng tôi hầu như không bao giờ đi đến nơi nào khác (Các
nhân viên Ban quốc tế của Ủy ban Trung ương Cộng sản Liên Xô đã khuyến
cáo chúng tôi không nên xuất hiện ở những nơi công cộng), nhưng không
cảm thấy mình có gì đó sai trái. Các bạn gái và em trai thường vẫn đến
thăm nàng. Nàng vẫn đến trường Đại học Tổng hợp Moscova, cố gắng hoàn
thành chương trình nghiên cứu sau đại học. Nàng có khả năng làm việc tốt
hơn nhiều so với tôi, và nếu nàng tham gia vào nghiên cứu khoa học, tất
cả mọi thứ hóa ra không đến nỗi quá phức tạp như tôi tưởng. Nàng đã bảo
vệ luận án thành công và trở thành phó tiến sỹ khoa học vật lý và toán
học.
Một lần,
tôi nhớ, chúng tôi đã đến dự xem buổi hòa nhạc của Vladimir Vysotsky,
được tổ chức trong trường Đại học chế tạo máy điện tử Moscova (МИЭМ).
Chúng tôi ở xa, không ngồi ở hàng ghế đầu, nhưng sau khi biểu diễn xong
ca sỹ ngay lập tức đã đi tới gần nàng. Vysotsky thấy nàng khi anh hát và
suốt thời gian biểu diễn chỉ nhìn nàng. Nàng ngạc nhiên và nghĩ rằng,
có lẽ ca sĩ nhầm lẫn với ai đó. Và Vysotsky giãi bày tâm sự khi khen
nàng dễ thương, dạt dào tình cảm, và muốn được liên lạc sau buổi biểu
diễn này, nói ngắn gọn, ca sỹ cư xử như thể không có tôi ngồi bên cạnh
nàng. Tôi đã cố gắng để giải vây cho nàng. Khi ca sỹ hỏi nàng có hiểu
hết tất cả nội dung trong bài hát của mình không, tôi trả lời thay cho
nàng: – Vâng, tôi là chồng đang ngồi cùng với cô ấy. Tôi
có thể giải thích cho vợ tôi hiểu. Một cách ngẫu nhiên, chúng tôi với
gia đình anh thực tế là láng giềng của nhau tại khu nhà nghỉ ngoại ô
đấy. Hãy đến thăm vợ chồng tôi, chúng tôi sẽ rất vui mừng được chào đón.
–
Tôi đến đó rất thường xuyên, – Vysotsky ngượng ngùng – đó là Marina
thích nhà nghỉ ngoại ô, còn tôi không thực sự thích lắm. Vâng và không
bao giờ.
VI.
Sau
khi hòa giải với gia đình Vũ Anh quyết định giới thiệu cháu gái lớn với
cha. Khi Lê Duẩn đến Moskva lần sau đó, nàng đem theo Lena đến gặp ông.
Ông ngay lập tức yêu mến cháu. Ông đề nghị để Vũ Anh và cháu ở lại cùng
ông cho đến khi ông về nước. Lúc đầu cháu bé còn lạ, nhưng dần dần
quyến luyến với ông ngoại. Ông chủ ý giấu tất cả chuối trong nhà để tự
mình đãi Lena – mong chiếm được cảm tình của đứa cháu.
Lê
Duẩn luôn yêu cầu đưa Lena đến gặp ông mỗi lần đến Moskva. Còn gặp tôi
thì dứt khoát không muốn. Còn nhớ tôi đưa Vũ Anh và con gái đến thăm mẹ
vợ ở cái đatra cũ của Khrusov ở Rublebka và phải đợi trong xe, trong khi
các cháu đang ở bên ông. Lê Duẩn đưa Lena và Vũ Anh đi xem xiếc rồi đưa
họ đi theo dự lễ khai mạc Olimpic Moskva. Con bé lên cơn đỏng đảnh đúng
lúc long trọng nhất, kêu to: “Mẹ ơi, con muốn đi đái!”.
Lần
khác trong lúc ăn trưa ngồi cạnh Lê Duẩn, đúng lúc đang nói chuyện về
bắt đầu chiến tranh chống chế độ Khmer đỏ ở Campuchia, Lena bỗng nhiên
hỏi: “Ông ơi, thế ông không bị gãy răng chứ?”.
Không
biết có sự liên tưởng nào xuất hiện trong đầu con bé, để đúng lúc nói
chuyện gay cấn nhất lại hỏi như vậy? Ở nhà chúng tôi cũng trao đổi về
cuộc chiến tranh với chế độ Polpot – Ieng Sari. Có thể Lena nhớ lại câu
mà tôi đã nói khi nào đó? Vũ Anh có suy nghĩ khá tốt về Ieng Sary, nhân
vật thứ hai của chế độ ở Campuchia. Có thể trong cuộc nói chuyện ở buổi
tiếp khách Việt Nam đó đã vang lên cái tên này, và gợi lại sự liên tưởng
nơi con bé? Người phiên dịch hiểu câu hỏi theo nghĩa bóng, nín lặng,
nhưng cố gắng truyền đạt tối đa ý nghĩa của câu hỏi. Lê Duẩn không hề
bối rối. Ông cắn chặt hàm răng chắc khỏe của mình và nhe ra với Lena.
Tình huống được giải tỏa.
Vũ
Anh cũng rất trực tính và tiết lộ các “bí mật” xô-viết cho cha một cách
đơn giản. Hơn nữa, ông ấy cũng biết cách để hỏi. Một hôm người cha nói
rằng theo lời Brejnev đất nước vừa thu hoạch một vụ bông kỷ lục. “Vậy mà
vải trải giường nhà con thủng hết rồi”, Vũ Anh nhận xét. Ngay ngày hôm
sau cán bộ phân ban Việt Nam trong Ban quốc tế của BCH TW ĐCSLX dẫn Vũ
Anh đến gian hàng số 200 nổi tiếng của GUM, nơi chỉ bán cho các khách
hàng chọn lọc. Thế là chúng tôi có đồ trải giường mới.
Vũ
Anh không muốn lợi dụng sự ưu đãi, nhưng dù sao vẫn mua đồ ở gian hàng
cấm này của GUM, và tôi thường nhận được các đơn hàng mà nàng đặt. Nàng
không nhận của cha dù một xu nhỏ, ngay cả khi học ở MGU. Chính quyền
chúng ta đề nghị cấp cho nàng một căn hộ rộng rãi ngay trung tâm Moskva,
nhưng nàng từ chối. Chỉ nhận một căn hộ ba phòng bình thường trong một
tòa nhà lắp ghép ở Beliaevo. Để phòng khi nhỡ có việc chúng tôi đột ngột
phải chia tay, thì vẫn có chỗ ở và làm việc.
Nhưng
chúng tôi sống hòa thuận cùng nhau. Trong suốt thời gian chung sống chỉ
cãi nhau vài lần, đấy là Vũ Anh cho rằng thế. Lần đầu tiên là khi Vũ
Anh giận dữ vì tôi chở trên xe hai cô gái, cho dù trong xóm chúng tôi ở
việc cho đi nhờ vẫn hay xảy ra. Nhưng Vũ Anh lại tức giận.
Lần
thứ hai thì xảy ra một chuyện nói chung là ngớ ngẩn. Buổi chiều tôi
nghe “đài địch”. Vũ Anh ngồi cùng tôi, nhưng nàng không hiểu tiếng Anh,
do vậy nhanh chóng đứng dậy và đi vào phòng trẻ con. Tôi nghĩ lũ trẻ đã
đi ngủ, và khép cửa thật chặt để khỏi đánh thức chúng. Sau đó tôi cũng
thiếp đi. Vũ Anh ra khỏi phòng trẻ, kéo cửa, nhưng không mở được. Nàng
cho rằng tôi không muốn gặp nàng, lấy làm khó chịu và sáng hôm sau bỏ đi
đến nhà chị Muội. Đến chiều Vũ Anh trở về, và chúng tôi làm lành. Nàng
không thể sống trong tình trạng xung đột với tôi.
Mẹ
nàng, bà Bảy Vân, cố gắng làm cho con gái chống lại tôi, có lần nói ra
sự không hài lòng với việc chúng tôi sống tằn tiện. Vũ Anh giải thích
cho mẹ: “Bao nhiêu tiền anh ấy gần như dành cho đatra. Luôn cứ phải mua
hay sửa cái gì đó. Con không thể từ chối anh ấy trong chuyện này. Những
người đàn ông khác họ uống rượu hết tiền, còn anh ấy thì xây dựng”.
Vũ
Anh giành lấy việc chăm sóc cho mẹ tôi, khi bà bị đột quỵ, và nàng rất
biết cách chăm sóc. Có lẽ nàng đã từng làm y tá trong thời gian chiến
tranh.
Mùa thu
năm 1980 Vũ Anh lại mang thai, tôi vốn mong có một gia đình lớn. Vào
tháng năm năm 1981 mẹ tôi khá hơn, người ta cho bà ra viện. Chúng tôi
chuyển ra đatra. Tôi thuê một cô y tá, cô ấy ngủ bên cạnh người ốm và
giúp bà đi lại và nói năng. Trẻ con thì có bảo mẫu, được đưa từ Việt Nam
sang theo yêu cầu của Vũ Anh, để lũ trẻ có thể nói chuyện với chị bằng
tiếng mẹ đẻ.
Lê Duẩn chuyển cho nàng một món quà – một con đồi mồi. Vũ Anh rất hoảng hốt khi nhìn thấy món quà cha tặng:
–
Đồi mồi này người ta tặng cả đôi. Đây là biểu tượng của tình yêu và
cuộc sống gia đình hạnh phúc. Một con đồi mồi – đây là dấu hiệu xấu. Làm
sao mà cha lại không nghĩ đến điều ấy.
– Ông ấy không cần nghĩ đến những thứ ngu ngốc ấy. Cha em là người cộng sản.
– Vâng nhưng ông tôn trọng truyền thống và biết rằng đây là dấu hiệu của cái chết. Đã xảy ra chuyện gì rồi …
Kết
quả siêu âm cho biết lần này chúng tôi sẽ có con trai. Vũ Anh cảm thấy
người không khỏe, tôi đặt trước chỗ cho nàng ở nhà hộ sinh “Kremlin” của
Cục 4 trên phố Vesnina. Vũ Anh đã sinh Tania ở đó và nói chung thấy hài
lòng chỗ này. Hồi ấy Vũ Anh có phòng riêng, có TV và điện thoại, nàng
có thể bình tĩnh viết báo khoa học. Bác sĩ hồi ấy đã sửng sốt: “Một phụ
nữ tuyệt làm sao! Nằm nhà hộ sinh còn làm khoa học!”.
Nhưng nàng không muốn nằm tại bênh viện này, sợ hãi điều gì đó. Một lần nàng nói sẽ chết khi sinh nở:
– Ở Việt Nam sắp có bầu cử. Để bầu cha em, họ sẽ làm tất cả.
– “Họ” là ai?
– Là những người luôn can thiệp vào tình yêu của chúng ta.
Tôi không tin vào linh cảm, cho rằng đó là những lo lắng của các phụ nữ mang thai.
Đêm
mùng sáu sang ngày mùng bảy tháng sáu Vũ Anh bắt đầu đau. Để an tâm tôi
gọi liền hai xe cấp cứu, từ Troitsk và từ Moskva – phòng khi bỗng nhiên
có việc gì trục trặc. Xe từ Troitsk lao đến trước, nhưng nó chỉ chở
được Vũ Anh đến Podolsk. Tôi đề nghị họ chở nàng vào Moskva, đến nhà hộ
sinh số 25, gần nhà chúng tôi trên phố Dmitri Ulianov. Khi đến nơi mới
rõ ra một nửa tòa nhà đang phải sửa chữa.
Người
trực nhận giấy tờ của Vũ Anh, nhìn thấy nàng đăng ký ở Cục 4, liền gọi
ngay xe cấp cứu từ đó. Vậy là người ta vẫn chở Vũ Anh đến phố Vesnina. Ở
đấy, các bác sĩ lập tức khám và nói, tất cả đều ổn, quá trình sinh nở
bình thường. Tôi chuẩn bị ngồi chờ ở phòng tiếp nhận thì sực nhớ mẹ tôi
hầu như đang ở ngoài đatra có một mình. Cô y tá chúng tôi đã cho nghỉ
hè, còn chị bảo mẫu người Việt không nói được tiếng Nga. Tôi liền lao về
đó. Tại đatra mọi việc đều bình thường, nhưng mẹ nói rằng xe cấp cứu từ
Moskva không tới. Thật lạ lùng.
Vào
7 giờ sáng Vũ Anh sinh bé trai. Người ta gọi điện cho tôi từ nhà hộ
sinh thông báo điều đó, tôi hỏi tình trạng của người mẹ ra sao, đầu dây
bên kia im lặng. Sau một khoảng im lặng dài, họ đề nghị tôi tới và nói
chuyện với bác sĩ. Ở Moskva tôi được biết rằng Vũ Anh bị chảy máu rất
nhiều, chưa cầm được. “Chúng tôi làm tất cả những gì có thể – Bác sĩ nói
– Sắp tới họ sẽ chuyển máu tới. Ông tốt nhất nên quay về nhà. Đợi ở đây
là vô nghĩa”.
Tôi
chạy đến các bác sĩ quen để hỏi ý kiến. Họ không vui, nói rằng trong
những trường hợp như vậy phải lập tức cắt bỏ tử cung. Nhưng các bác sĩ
Kremlin có lẽ sợ lãnh về mình trách nhiệm đó, bệnh nhân không phải nhân
vật bình thường.
Tôi
quay trở về nhà hộ sinh. Lúc ấy người ta đã phẫu thuật cho Vũ Anh. Bác
sĩ phẫu thuật chính của Cục 4 được mời đến xử lý cho nàng. Khi ông vừa
ra khỏi phòng mổ, tôi lao đến:
– Cô ấy sẽ không chết?
– Cơ thể trẻ trung. Chúng ta hi vọng vào điều tốt nhất …
Vài
tiếng sau đó Vũ Anh qua đời. Người ta cho phép tôi vào phòng bệnh. Vũ
Anh nằm trên giường, phủ tấm ra – trông nàng xinh đẹp làm sao, như đang
ngủ. Một cục gì chẹn lấy cuống họng tôi, tôi quỳ xuống hôn tay người tôi
yêu dấu. Tấm ra phủ di chuyển, hé lộ thân thể vợ tôi, phủ đầy các vết
xanh đỏ. Tôi kêu lên vì sợ hãi. Mọi người chạy đến bên, đỡ lấy tôi và
đưa ra hành lang …
Lần
cuối cùng tôi nhìn thấy Vũ Anh là ở chỗ hỏa táng – mười ngày sau đó.
Quyết định hỏa táng không phải do tôi đưa ra. Nói chung không ai hỏi ý
kiến tôi muốn an táng vợ mình ra sao. Tại sao phải đợi lâu thế vẫn mãi
là câu hỏi. Có thể Lê Duẩn đã bí mật đến Moskva. Tôi không gặp ông, còn
bà mẹ thì bay sang ngay. Tro cốt của Vũ Anh được đưa về Việt Nam, bình
tro được giữ ở nhà bà Bảy Vân, trong một căn phòng riêng.
Sau
cái chết của Vũ Anh các cháu được bà cụ mẹ của Bulat, bà Askhen
Stepanova yêu quý, đã rất già yếu chăm sóc. Bà cụ ở lại cùng chúng tôi
ba tuần. Còn tôi trong thời gian đầu rơi vào một trạng thái quên lãng,
mù mờ sao đó. Trí nhớ của tôi từ chối tin vào những gì vừa xảy ra. Một
lần tôi tỉnh dậy giữa đêm trong hoảng hốt. Trái tim bóp nghẹt trong lồng
ngực. Tôi mơ thấy một luồng sáng: người ta đã đầu độc Vũ Anh. Tôi chia
sẻ phỏng đoán với các bác sĩ. Họ không loại trừ khả năng ấy, nhưng cho
rằng các vết xanh đỏ trên da có thể xuất hiện trong trường hợp chảy máu
nghiêm trọng. Sau đó nhiều năm, khi nằm điều trị tim tại một bệnh viện
tim mạch tôi quan sát thấy người ta đã tiêm geparin cho các bênh nhân để
làm loãng máu, và trên người họ cũng xuất hiện những vết đúng như thế.
Theo quan điểm của tôi đã xuất hiện thêm một phương án khả tín: việc
chảy máu là do tác động cố ý, bằng cách tiêm thứ thuốc đó. Không phải tự
nhiên Vũ Anh đã linh cảm thấy tai họa. Và máu đã chảy cạn…
Trong
đám tang bà mẹ đau khổ đến mất trí. Bà ấy nói rằng cha của Vũ Anh đã
giết con và muốn giúp đỡ tôi – đưa bọn trẻ về Việt Nam. “Không đời nào!”
– tôi trả lời. Tôi biếu bà chuỗi hạt đã từng giữ hơi ấm cơ thể của Vũ
Anh. Bà ấy nhận nó, là để sau này sẽ trao cho vợ của cháu trai, khi nó
lớn lên và cưới vợ.
Tôi
che giấu cái chết của Vũ Anh không nói cho những người thân biết. Mẹ
tôi rất đau ốm, còn các cháu gái thì quá bé. Mẹ tôi có lẽ cảm thấy điều
gì đó, bà bị đột quỵ lần hai, và lần này thì điều trị không lại được.
Tôi nói với Lena là Vũ Anh ở trong bệnh viện, và sau đó – rằng mẹ đã đi
có việc, nhưng con bé cũng hiểu hết. Một lần nó kéo tôi ra bên và thì
thầm hỏi tôi: “Bố ơi, người ta chôn mẹ rồi phải không?”. Lena luôn than
thở về nỗi buồn vắng mẹ, nó khóc: “Bố, hãy đi Việt Nam, mua mẹ cho
con!”.
Bảy Vân
quyết định ở lại Moskva ít lâu. Bà ấy yêu cầu dẫn Tania đến thăm, nói
rằng sẽ đưa trả con bé và cô bảo mẫu về nhà vào hôm sau. Nhưng đã không
cho về. Hai ngày liền tôi gọi cho mẹ vợ, nhưng người ta không gọi bà ấy
nghe điện, viện cớ có công việc quốc gia quan trọng nào đó. Ban đầu tôi
không cảm thấy lo lắng đặc biệt, nhưng sau đó hiểu ra rằng bà đang cố
thực hiện ý định của mình – lấy lũ trẻ khỏi tay tôi. Tôi tìm được địa
chỉ của bà với không ít khó khăn, đem theo một đồng nghiệp biết tiếng
Pháp để hỗ trợ và làm phiên dịch, lên đường đòi lại con gái. Bảy Vân
không muốn trả lại Tania, ngay cả khi tôi nói rằng mẹ tôi sắp mất và bà
cụ muốn vĩnh biệt cháu gái. Tôi buộc phải hứa rằng họ sẽ gặp lại nhau
trong lúc chuẩn bị cho tang lễ.
Mẹ
tôi mất ngay ngày hôm sau. Mẹ vợ chạy đến ngay: “Các cháu sẽ ở với
tôi!”. Tôi phải giải thích rằng các cháu còn đang ốm. Tania thực sự đang
bị sốt. Bảy Vân đề nghị thu xếp chữa cho cháu tại căn hộ của mình,
nhưng tôi không đồng ý.
Tôi
biết rằng bà ta sẽ lại xuất hiện ở đatra vào ngày cử hành tang lễ, lúc
tôi không ở nhà, do vậy đã gửi Lena đến chỗ người quen, còn Tania tôi
khóa cùng với người cháu của tôi trong căn phòng có các lỗ châu mai, và
dặn không được mở cửa cho bất cứ ai, đặc biệt cho bà ngoại nó. Bà bảo
mẫu được dặn phải nói là cả hai cháu đang ở nhà các bạn của tôi. Ngay
khi tôi vừa rời đến chỗ hỏa táng, Bảy Vân đã xuất hiện ở đatra. Không
tìm thấy lũ trẻ, bà ta ra về trong sự tức giận khủng khiếp.
Với
đứa con trai, tôi đặt tên nó là Anton, tình hình phức tạp hơn nhiều. Ở
nhà hộ sinh họ không trao cháu cho tôi. Họ thông báo rằng do tình trạng
sức khỏe của cháu bé, cháu cần ở lại bệnh viện để các bác sĩ chăm sóc.
Tôi chỉ làm được giấy chứng sinh cho cháu, và lập tức tiến hành các biện
pháp. Tại bệnh viện của BCH trung ương, nơi cháu được chuyển đến từ nhà
hộ sinh, cháu đã nhập viện với tên là Anton Maslov: các bạn của tôi đã
giám sát tại lối vào bệnh viện để cháu được đăng ký đúng như đã định.
Đây là một thắng lợi, không lớn nhưng dầu sao cũng là thắng lợi. Bây giờ
đưa con trai tôi ra khỏi biên giới sẽ khó khăn hơn nhiều.
Họ
cho phép tôi vào bệnh viện, đi dạo cùng con trai, nhưng bên cạnh luôn
có người của BCH TW. Một thời gian tôi đã muốn ăn cắp Anton và giấu cháu
trong gia đình chị bạn người Triều Tiên và giả như đó là con của chị.
Còn tôi sẽ đưa về nhà một cháu bé có bề ngoài đông phương khác trong
trường hợp Lê Duẩn quyết định đưa cháu trai ra mà không có sự đồng ý của
tôi. Nghĩ ra đủ phương án, nhưng không thực hiện được. Và lạy Chúa –
tôi sợ trò phiêu lưu này sẽ làm tôi nguy đến tính mạng.
Vị
cán bộ từ BCH TW, người đảm nhận liên lạc giữa tôi và gia đình Vũ Anh,
đề xuất một giải pháp thỏa hiệp – tôi giữ các cháu gái cho mình, còn
trao đứa cháu trai cho ông nó: “Cứ để nó sống ở Việt Nam vài năm, khi
cháu lớn lên, họ sẽ trả cháu về. Ông lúc nào cũng có thể đến thăm người
thân của vợ và gặp Anton”. Cuộc bầu cử mà Vũ Anh lo sợ đang sắp diễn ra.
Xem ra nhóm thân Trung Quốc loan tin rằng không nên tin tưởng vào Lê
Duẩn. Ông ấy không thể theo đường lối độc lập nếu cháu trai ông ấy đang
bị Kremli giữ làm con tin. Trong cơn sóng gió trước bầu cử người của ta
có thể bắt đi tất cả các đứa con của tôi, chỉ để giúp Lê Duẩn còn giữ
được quyền lực. Tôi hứa sẽ suy nghĩ, cố kéo dài thời gian. Nhưng áp lực
ngày một gia tăng. Họ đe dọa tôi bằng những điều bất tiện trong công
tác. Người cán bộ nói anh ta đã biết “phương án Triều Tiên” – tức phương
án bắt cóc con trai tôi với sự giúp đỡ của chị bạn người Triều Tiên.
Tình thế trở nên nghiêm trọng. Bà ngoại Bảy Vân một lần đã nói thẳng:
“Không muốn tốt – cũng chẳng cần”.
Chống
đối tiếp tục đã thành vô nghĩa, và tôi quyết định phải có sự đảm bảo –
soạn một tuyên bố chính thức về việc cho phép đưa con đi trong hai năm. Ở
sân bay tôi đã khôn khéo lấy hộ chiếu của Anton từ nhân viên an ninh
cửa khẩu, chụp ảnh tất cả các trang và đút trả lại. Bạn của tôi chụp ảnh
ghi lại cuộc ra đi của thằng bé. Vào đúng ngày hôm ấy Lê Duẩn đến
Moskva. Ông đã gặp Brejnev. Vì cuộc hội kiến này (có vẻ rất quan trọng)
nên mới có sự vội vã như vậy.
Chẳng
bao lâu tôi lăn ra ốm. Ban đầu là viêm phổi, sau đó phát hiện có một
khối u. Nghi ngờ đến khả năng xấu nhất, nhưng rồi mọi việc cũng qua –
khối u hóa ra lành tính. Tôi nằm viện khá lâu, Muội có đến thăm tôi. Chị
chắc có nói chuyện với bác sĩ, biết về các chẩn đoán của tôi và kể cho
những người thân biết. Những người này lập tức chạy vạy – nhờ cậy những
người bạn xô viết nhờ nhận lại các cháu gái từ người cha “đang sắp
chết”.
Nghĩ lại
thấy thật đáng sợ, không biết chuyện gì sẽ xảy ra nếu tôi không xuất
viện đúng một ngày trước khi các thanh tra về công việc với vị thành
niên đến nhà tôi. Một bà mặc sắc phục đại úy cảnh sát đến nhà với yêu
cầu chính thức từ Ủy ban vùng – xem xét khả năng xác nhận đưa Elena và
Tatiana Maslovye vào cơ sở nuôi dạy trẻ. Tôi không thể nói với bà ta
toàn bộ sự thật, nhưng cho bà ta hiểu rằng trong câu chuyện này mọi việc
không đơn giản, khuyên ta bà đừng vội vã.
Sau
hai năm người ta vẫn không đưa Anton trở lại. Tối đấu tranh thêm hai
năm nữa để họ cuối cùng đưa cháu trở lại Moskva. Tôi yêu cầu việc này
với tất cả người thân của Vũ Anh. Cuối cùng Thành, em trai nàng bay sang
Moskva. Chúng tôi gặp nhau và đã tìm được tiếng nói chung. Thành nói
chuyện với Lê Duẩn, và ông ta quyết định đưa cháu trai về với cha nó và
các chị. Nhưng con trai tôi trở về đã không phải với tên là Anton
Maslov, mà là công dân Việt Nam Nguyễn An Hoàn và hộ chiếu Việt Nam. Lê
Duẩn không có ý định trao cháu cho tôi. Ngược lại – ông hy vọng sẽ mang
luôn cả các cháu gái về.
Con
trai không nói được tiếng Nga, nó lạ tôi và không rời bà bảo mẫu người
Việt đã nuôi cháu từ trứng nước. Ở Việt Nam Anton thực sự là hoàng tử:
nó được ở cả một tầng nhà.
Tôi
hi vọng sẽ thu xếp được với con trai, nhưng người bà Việt Nam bay sang,
sau khi quyết định đi nghỉ lại Krưm tuyên bố rằng ở Moskva không tốt
cho thằng bé. Sau kỳ nghỉ bà ta sẽ đưa cháu trở lại Việt Nam, còn tạm
thời cần đưa cháu vào một nhà trẻ tốt trong suốt mùa hè. Bà ta sẽ cho
phép tôi và các cháu gái tới đó. Trong cuộc nói chuyện của chúng tôi có
mặt một cán bộ khá cao cấp của Ban quốc tế BCH TƯ, làm nhiệm vụ phiên
dịch. Ông đã thấy tôi giận dữ như thế nào, và khuyên tôi đừng nổi cáu,
cố gắng đạt được thỏa thuận với người bà quyền lực. Bắt cóc Anton thật
vô nghĩa: cháu là công dân Việt Nam và họ sẽ ngay lập tức đưa cháu đi
khỏi nhà tôi.
Nhưng
tôi không có ý định đầu hàng. Bây giờ đã là thời khác, lãnh đạo đất
nước Liên Xô không còn là Brejnev, mà là Gorbachev. Hơn nữa sau những
năm tháng ấy tôi đã kịp trở thành Viện sỹ hàn lâm và được trao Giải
thưởng Lenin. Tôi viết đơn yêu cầu trả lại con trai và đi khắp các cửa,
còn thiếu đâu nữa: Bộ Nội vụ, Bộ Ngoại giao, BCH TƯ ĐCS LX. Khắp nơi
người ta thông cảm với tôi, nhưng giúp đỡ thì đều từ chối. Họ nói rằng
việc đó ngoài khả năng của mình. Một lần tôi chia sẻ với một chị bạn tốt
– thư ký của Chủ tịch Viện Hàn lâm khoa học. Chị ấy khuyên tôi nên cầu
cứu Anatolia Gromưco – con trai Chủ tịch Xô viết tối cao Liên Xô Andrei
Andreievich Gromưco, một người thân cận với Gorbachev, và chị ấy sẽ giúp
thu xếp cuộc gặp này.
Gromưco-con
là giám đốc Viện Phi châu thuộc Viện HL KH LX. Tôi kể cho anh nghe về
câu chuyện của tôi và Anh, đưa cho anh xem các bức ảnh chụp cùng vợ con.
Anatolia Andreevich tỏ ra cảm động. Anh nói: “Anh hãy viết đơn gửi cho
chính Gorbachev. Tôi hứa rằng ông ấy sẽ nhận được và sẽ đọc. Nhớ kèm
theo cả những bức ảnh, đặc biệt bức chụp cùng bọn trẻ này. Nó mạnh hơn
bất kỳ bức thư nào”. Tôi làm theo những gì anh chỉ dẫn, và cùng với các
bức ảnh tôi còn để cả bản tuyên bố của Vũ Anh viết năm 1978. Vài hôm sau
không chờ đươc, tôi gọi điện cho Gromưco. Anh nói: “Họ đã biết quan
điểm của anh”. Tất cả chỉ có thế. Tôi không biết sẽ phải nghĩ gì và hành
động ra sao.
Để
bà ngoại yên tâm, tôi thu xếp gửi Anton vào nhà trẻ của Cục 4, khá xa
đatra của tôi. Tôi thỏa thuận với bà giám đốc rằng bà không được giao
đứa bé cho ai, trừ tôi. Những người bảo vệ hứa sẽ gọi điện nếu thấy xuât
hiện những “kẻ đột nhập” vào khu vực nhà trẻ. Tôi dúi cho họ bốn chai
vodka Smirnov, hồi đó chỉ bán theo chỉ thị của nhà thờ, và họ nóng lòng
chờ sự xuất hiện của “kẻ đột nhập Việt Nam”. Chẳng bao lâu sau kẻ đột
nhập xuất hiện thật. Bảy Vân nhận được sự từ chối thẳng thừng và buộc
phải rút lui. Nhưng giám đốc nhà trẻ nài nỉ tôi phải đưa Anton đi: “Tôi
sẽ không chịu đựng được cuộc tấn công sau đâu. Anh không tưởng tượng
được là chúng tôi đã căng thẳng ra sao đâu”.
Tôi
nói chuyện với bạn bè, và họ tìm được cho chúng tôi một ngôi nhà ở
Belorussia – ở tít tận xó rừng sâu Belovejskaia Pusia. Tròng vòng bán
kính 5 km quanh đó không có ai cả. Chúng tôi ở đó chừng vài tháng –
Lena, Tania, Anton, bà bảo mẫu của chúng, và tôi. Pusia quả thật là một
chốn thiên đường. Lũ trẻ đến giờ còn nhớ khu rừng nguyên thủy, những bãi
cỏ đầy nấm và quả rừng, có thể sờ tay vào lũ thú rừng và chim chóc. Lũ
hươu kéo đến tận nhà, làm bà bảo mẫu sợ chết khiếp. Lũ bò rừng nhởn nhơ
đi lại đằng xa. Anton trở thành một đứa trẻ khác hẳn khi ở Belorussia,
chơi với các chị và bắt đầu nói một ít tiếng Nga.
Tôi
không nhận được tin tức gì từ Moskva, nhưng hi vọng vào những điều tốt.
Tôi nghĩ rằng Gorbachev không muốn có một Sakharov – viện sĩ – nhà bất
đồng chính kiến thứ hai. Để giành lại các con, tôi sẵn sàng làm tất cả,
kể cả một scandal quốc tế. Mấy tháng trôi qua tôi biết được từ một người
bạn Việt Nam, gần gũi với gia đình của Vũ Anh, rằng Lê Duẩn đã từ bỏ ý
định bắt cháu về. Ông nói: “Nếu cha chúng nó yêu chúng như vậy, thì cứ
để chúng sống với anh ta”. Có vẻ hai nước đã đi đến một nhận thức chung
về chuyện này, Gorbachev và Lê Duẩn đã thỏa thuận để gia đình chúng tôi
được yên. Sự đau khổ của tôi kết thúc. Mấy năm sau Lê Duẩn từ trần.
Vào
cuối những năm 80-90 tôi có dịp đi khắp thế giới. Với tư cách là giáo
sư mời tôi đã giảng bài ở Mỹ, Anh, Pháp. Đất nước tôi hồi đó ở trong
giai đoạn không dễ dàng gì. Khoa học thoi thóp, các nhà bác học được trả
bằng xu, mà trong tay tôi – ba đứa trẻ. Cần phải kiếm tiền bằng cách
nào đó. Nhưng tôi chưa bao giờ nghĩ sẽ ở lại sống ở nước ngoài. Bọn trẻ
luôn đi cùng với tôi, cũng như người vợ sau Irina. Chúng tôi cưới nhau
năm 1991. Tôi quen Ira đã lâu, từ khi Vũ Anh còn sống. Cô ấy cùng tuổi
với Vũ Anh. Ira là nhà ngôn ngữ, phó tiến sỹ khoa học. Sau khi Vũ Anh
mất, giống như nhiều bạn bè và người thân của tôi, cô ấy đã giúp tôi
trông nom bọn trẻ. Đối với tôi mối quan hệ của cô với chúng cũng quan
trọng không kém tình cảm giữa chúng tôi. Ira là một phụ nữ đáng kinh
ngạc. Sau khi cưới, cô ấy quyết định không sinh thêm một đứa con nữa,
đứa con chung của chúng tôi, để không phải làm dì ghẻ, mà hoàn toàn thay
Vũ Anh làm mẹ của Lena, Tania và Anton.
Các
con tôi hiện sống ở nước ngoài, dù khi còn trẻ không dự định việc này
và chúng đều vào học tại MGU mà không phải một trường đại học Tây phương
nào đó. Nhưng về sau những dòng người có vẻ ngoài châu Á tràn vào
Moskva. Và bắt đầu nảy sinh các vấn đề. Thí dụ đã xảy ra một chuyện
không dễ chịu với Tania ở đatra. Một nhân viên cảnh sát, đến vì một
chuyện hoàn toàn khác, tình cờ nhìn thấy cháu và cho rằng đấy là một
người di cư bất hợp pháp từ Trung Á, và suýt nữa tôi bị cáo buộc vào tội
“che giấu”.
Những
tình huống như vậy khá nhiều, và không hề dễ chịu. Chúng tôi họp gia
đình và quyết định rằng sẽ tốt hơn nếu đưa lũ trẻ sang châu Âu, ở đó đã
quen với việc có nhiều sắc tộc. Kết quả là Tania và Anton sang sống ở
Anh, còn chị cả Lena – ở Hà Lan. Cháu lấy chồng là người Hà Lan xuất
thân từ một gia đình quý tộc tỉnh lẻ lâu đời. Chồng cháu là một người
làm phân tích nghiệp vụ và có thời gian là khách hàng của một hãng máy
tính của Anh, nơi Lena làm việc. Mối tình bắt đầu ở nước Anh.
Sau
khi cưới đôi trẻ chuyển sang sống ở Hà Lan, trong một thị trấn nhỏ cách
Amsterdam chừng một giờ đi xe. Lena là kiến trúc sư – lập trình, đã đạt
được đỉnh cao nhất trong nghề. Cháu là một chuyên gia độc nhất, được
đánh giá cao ở hãng, được tạo các điều kiện làm việc thuận lợi nhất.
Lena có một con nhỏ – cháu sinh con gái Anna năm ngoái. Còn Tania năm
nay sinh được cậu con trai Oskar. Tania tốt nghiệp MGU ở Moskva chuyên
ngành “ngôn ngữ”, khi sang Anh thì chuyển nghề và, giống như Lena, làm
về lập trình. Sống với chồng là người Anh ở thị trấn ngoại ô Bristol.
Tania từ bé đã yêu súc vật và đem theo cùng mình đến Anh hai con chó và
một con mèo. Anton tốt nghiệp MVK – khoa Toán học tính toán và điều
khiển học MGU. Cháu cũng làm việc liên quan đến máy tính và ở không xa
chị gái. Cậu chàng chưa cưới vợ, và tôi sợ sẽ còn lâu. Có vẻ cháu giống
tính tôi.
Tất
nhiên tôi sẽ vui mừng nếu có các con ở bên, chứ không phải cách xa hàng
ngàn cây số. Nhưng cuộc sống là như vậy. Tôi vẫn trò chuyện với các con
hàng tuần, qua Skype. Mùa hè nào chúng cũng trở về Nga và về ở Selinger,
nơi chúng tôi có một căn nhà ngoại ô. Tôi và Ira sống phần lớn thời
gian ở đatra. Ở đấy nghỉ ngơi và làm việc đều tốt. Tôi tiếp tục làm khoa
học, điều đem lại cho tôi niềm vui lớn, tôi còn có nhiều công trình dở
dang.
Tôi vẫn là
nhân viên toàn thời gian của MIEM. Học viện đã được củng cố đáng kể,
trở thành một phần của trường đại học – nghiên cứu “Trường Kinh tế Cao
cấp”. Điều này hoàn toàn trùng hợp với các kế hoạch khoa học của tôi và
cổ vũ trong tôi niềm say mê sáng tạo. Ngoài ra tôi còn là cộng tác viên
khoa học của Viện các vấn đề cơ học – RAN và chủ nhiệm bộ môn thống kê
lượng tử và lý thuyết trường tại khoa lý của trường MGU ruột thịt. Năm
2013 tôi nhận giải thưởng nhà nước lần thứ 3 do những đóng góp vào việc
xây dựng cơ sở toán học cho ngành nhiệt động học hiện đại.
Khi
làm việc, tôi luôn cảm thấy Vũ Anh đang nhìn mình. Trong phòng làm việc
đã nhiều năm vẫn treo bức ảnh chân dung lớn của nàng. Tôi cản thấy Vũ
Anh hài lòng về cuộc sống của các con chúng tôi. Tuy rằng cái nhìn của
nàng nghiêm nghị, nhưng theo tôi, có nét tán đồng. Tôi thường mơ thấy
nàng, trẻ trung và hạnh phúc.
Đôi
khi tôi có cảm tưởng rằng Vũ Anh không chết, nàng chỉ đang đi đâu đó.
Có thời gian tôi đã nghĩ đến việc làm gì đó để vinh danh vợ: đến “với
nàng” tại Việt Nam. Vào cuối những năm 90 tôi được mời dạy ở Hong Kong.
Khoảng cách từ đó đến TP Hồ Chí Minh, nơi bà Bảy Vân sống, không quá xa.
Nhưng sau khi suy nghĩ, tôi đã từ chối. Đối với bon trẻ, việc di chuyển
đến Hong Kong có thể tạo nên stress lớn, cần phải thích nghi với khí
hậu, nước uống, đồ ăn hoàn toàn khác biệt. Tôi sợ chúng sẽ bị ốm.
Về
sau, khi đã trưởng thành, Lena, Tania và Anton đã hai lần về Việt Nam
để gặp những người ruột thịt. Chúng được đón tiếp như các vương tôn công
tử. Ở đất nước này người ta vẫn còn lưu giữ ký ức thiêng liêng về Lê
Duẩn, giống như trong thời xã hội chủ nghĩa ở nước ta nhớ về Lenin.
Trong mỗi thành phố đều có các con phố hay quảng trường mang tên ông. Và
các cháu của lãnh tụ được đối xử một cách trọng thị. Bảy Vân, bà vợ góa
của ông vẫn còn sống. Bà nay đã gần chín mươi tuổi.
Anh
giao phó cho tôi các con của chúng tôi. Nàng mong muốn các cháu sống ở
Liên Xô và được giáo dục theo các truyền thống văn hóa Nga. Không có Ira
tôi không thể thực hiện được sự ủy thác của nàng. Cái chính là bọn trẻ
không lúc nào cảm thấy chúng là trẻ mồ côi. Và nếu không có Ira chúng
không thể thấm nhuần văn hóa và tâm hồn của chúng ta. Do vậy chúng vẫn
là những người Nga, cho dù sống ở đâu.
BBC PHỎNG VẤN BÀ BẢY VÂN, VỢ BÉ THỨ 2 CỦA TỔNG BÍ THƯ LÊ DUẨN
BBC Phỏng Vấn Phần 1 Thân Thế
BBC Phỏng Vấn Phần 2 Sự Nghiệp
BBC Phỏng Vấn Phần 3 Hiện Tình
BBC Phỏng Vấn Phần 4 Hồi Ký