Wednesday, June 3, 2015

Tình người, lòng tri ân Ký ức còn lại sau 36 năm vượt biên / 40 Năm thăm thẳm đoạn trường - Phan Nhật Nam

Từ trái: Nhà văn Nhật Tiến, ông Hoàng Huy Thành (phải)
cùng con trai và vợ của ông
(Hình: Hoàng Huy Thành cung cấp)

WESTMINSTER, California (NV) – “Tình người trong cơn tuyệt vọng, sự can đảm của các thuyền nhân, nhất là những người phụ nữ, và lòng tri ân những người đã cứu chúng tôi, như ông Ted Schweitzer, là những gì tôi muốn lưu giữ.” 

Câu trả lời đó của ông Hoàng Huy Thành, hiện là giám đốc Công ty tư vấn về software Northwest EIS-OLAP ở Oregon, khiến tôi ngạc nhiên.
Bởi lẽ, khi đặt câu hỏi, “Giờ đây, trong thời khắc này, hồi tưởng lại hành trình tìm tự do đầy khốc liệt của mình từ 36 năm trước, điều anh còn lưu giữ trong ký ức là gì?”, tôi cứ ngỡ mình sẽ nghe được hồi ức đau thương, tàn khốc nhất của những phận người tưởng chừng đã rơi vào tận cùng của tuyệt vọng sau 11 ngày lênh đênh trên biển và 20 ngày kinh hoàng trên đảo Kra, trong đó có nhà văn Nhật Tiến, tác giả của Thềm Hoang, của Chim Hót Trong Lồng… từng làm say sưa biết bao trái tim độc giả.
Và, đặc biệt hơn, câu chuyện đi tìm lại vị ân nhân Ted Schweitzer của ông Thành sau hơn 35 năm, để ngỡ ngàng khám phá ra ông cùng 156 thuyền nhân khác đã được giải thoát như thế nào trong thời điểm ấy càng vẽ lên những nét đậm nhất, lãng mạn nhất, đẹp đẽ nhất về lòng người, tình người dù trong hoàn cảnh nào.
Ngược dòng quá khứ
Ông Thành, đang sống tại Portland, Oregon, rời Việt Nam vào ngày 19 Tháng Mười, 1979 từ Vũng Tàu, cùng 80 người khác, “thuộc giới văn nghệ sĩ, giới khoa học kỹ thuật, cả thầy tu, ni cô, các sĩ quan đào thoát khỏi trại cải tạo của Cộng sản, nhưng đông nhất là giới sinh viên.”
Nhà văn Nhật Tiến, hiện ở Quận Cam, người có mặt cùng chuyến hải hành đó, nhớ lại:
“Mới ra khơi được một ngày thì biển động dữ dội. Sang ngày thứ ba thì thuyền chết máy, đành phó mặc cho sóng gió đưa đi. Tám ngày lênh đênh trôi giạt, thiếu ăn thiếu uống trầm trọng. 7, 8 con tàu đi qua nhưng không một tàu nào quan tâm tới dấu hiệu báo nguy của chúng tôi. Cho tới ngày thứ 10 của cuộc hành trình thì chúng tôi gặp một tàu đánh cá, khi đó chúng tôi mới biết là mình đã trôi giạt vào vịnh Thái Lan.”
Trong bài “Hành trình đi tìm tự do bằng tàu thuyền qua ngã Thái Lan”, nhà văn Nhật Tiến có ghi nhận:
“Chiếc tàu đầu tiên này sau khi lục soát tịch thu tất cả đồ nữ trang, đồng hồ và một số quần áo mà họ ưng ý, đã cho mượn bình điện để nổ máy và chỉ tọa độ cho chúng tôi đi vào đất liền. Sau đó, lại gặp thêm hai chiếc tàu đánh cá Thái Lan khác cũng lục soát, và một chiếc tàu dòng giây qua thuyền của chúng tôi để kéo vào hoang đảo Kra nơi cách địa phận quận Pakpanang thuộc tỉnh Nakornsri thamaraj chừng 5, 6 giờ tàu chạy.”
Cơn sợ hãi vì đắm thuyền giữa biển cả kéo dài từng giờ, từng phút triền miên trong 11 ngày đêm liên tiếp của 81 con người trên chiếc thuyền mỏng manh của ông Thành, của nhà văn Nhật Tiến kể như đã chấm dứt.
Tuy nhiên, sau hai ngày trên đảo hoang, những người này phát hiện ra dấu tích của nhiều nhóm người vượt biên Việt Nam trước đó từng đặt chân đến hòn đảo này. Những dòng chữ được ghi lại sơn trắng, bằng dấu than củi đã phai lạt trên bốn bức tường vôi của một căn chòi cho biết “phụ nữ khi lên đảo phải tìm cách trốn lên núi cao hay rừng sâu để khỏi bị hãm hiếp.” Đồng thời cũng qua những dòng chữ được viết vội đó, mọi người còn được biết “ngư phủ Thái Lan quanh vùng vừa là đánh cá vừa là cướp biển, ban ngày họ có thể cho gạo cho cá, nhưng ban đêm thì kéo phụ nữ đi hành hạ tập thể.”
Và từ đêm ấy, những gì khủng khiếp nhất bắt đầu xảy ra cho những phận người liều chết đi tìm tự do.
 
Ảnh ông Ted Schweitzer chụp các thuyền nhân đảo Kra từ trên trực thăng. Người đầu tiên trong ảnh, tay cầm bao vải là nhà văn Nhật Tiến.
(Hình: Hoàng Huy Thành cung cấp)

“Tối hôm ấy chúng tôi bị ba toán cướp vào lục soát liên tục. Riêng toán cuối cùng sau khi moi móc đã dồn tất cả đàn ông, thanh niên vào hết trong hang đá rồi canh giữ bằng súng ở bên ngoài. Sau đó bọn chúng lùa đàn bà đi một chỗ xa để hãm hiếp…. Cơn kinh hoàng tột độ đó kéo dài tới gần sáng mới chấm dứt. Những phụ nữ được kéo trở về nằm bết bát trên nền sỏi đá san hô. Nhiều người tấm tức khóc. Nhiều người lả đi trong vòng tay nghẹn ngào tủi nhục của thân nhân.” Tác giả “Chim Hót Trong Lồng” kể.
Ông Thành vẫn nhớ “Trong số những phụ nữ trở về thiếu một người. Chúng tôi phải cùng nhau đốt đuốc đi tìm. Sau mới phát hiện ra cô gái đó trong lúc bị bọn cướp lôi đi đã vùng chạy lên bờ đá cao ở ven biển rồi lao mình xuống nước tự tử. Nhưng cô không chết mà bị sóng đẩy dạt vào bờ, kẹt vào một hốc đá. Cô gái ấy đã nhất định không chịu ra khỏi hốc đá ấy cho đến ngày có người đến cứu chúng tôi.”
“Hãy thử tưởng tượng một phụ nữ sống như vậy, trong hốc đá ẩm ướt đó 18 ngày. Lúc kéo được cô ấy ra, hai chân cổ như teo đi, không bước được. Tôi vẫn còn nhớ hình ảnh ông Ted Schweitzer đã cắn môi ổng đến bật máu khi chứng kiến cảnh đó.” Ông Thành hồi tưởng trong nỗi xúc động lẫn sự cảm kích đến vô cùng về sức chịu đựng của người phụ nữ.
Ngày 8 Tháng 11, tức khoảng 10 ngày sau khi thuyền ông Thành bị đưa vào đảo Kra, thêm một tàu tị nạn có 20 người được ngư phủ Thái Lan kéo vào. Qua ngày hôm sau, thêm một tàu có 37 người nữa lên đảo. Tới ngày 15 Tháng 11, một chiếc tàu vượt biên có 34 người nhưng bị hải tặc Thái Lan xô xuống biển làm chết đuối 16 người, còn lại 18 người bơi được vào nơi đây.
“Nhưng chưa kịp nghỉ ngơi, phụ nữ đã bị lôi đi hành hạ ngay.” Nhà văn viết lại bằng nỗi bàng hoàng, đau xót.
Ông Thành nói, “Tôi nhớ có một người phụ nữ trốn trong bụi rậm, bị bọn hải tặc phát hiện. Chúng kêu cô ấy ra, cổ nhất định không ra. Chúng tưới dầu đốt. Cổ lăn dưới đất, tấm lưng bị phỏng hết.”
“Cũng trong ngày 15 Tháng 11, chúng tôi phát hiện một trực thăng bay qua đảo, mọi người xô ra vẫy nhưng họ bay mất. Tình thế tưởng như không còn hy vọng gì thì hai hôm sau họ trở lại, đổ xuống bãi biển cho chúng tôi gạo, cá khô và thuốc men.” Dịch giả của “Thân Phận Dư Thừa” tiếp tục câu chuyện.
“Việc chúng tôi được tiếp tế, các ngư phủ Thái Lan đều nhìn thấy rõ. Họ lục lọi để kiếm chác thêm ít quần áo đã xơ xác của chúng tôi, lấy đi từng cái áo mưa rách, từng cái áo len của trẻ con, và phụ nữ nào mệt mỏi quá không đủ sức đi trốn nữa phải bò về thì lại bị tiếp tục hãm hiếp. Có người bị cả ngày lẫn đêm.”
Tuy nhiên, ông Trời cũng có mắt, không đày con người ta vào tận cùng của nghiệt ngã. Địa ngục kinh hoàng đó chỉ kéo dài thêm đúng một ngày nữa là chấm dứt.
Chiều ngày 18 Tháng 11 nhóm người tiếp tế bằng trực thăng hôm trước nay trở lại bằng một tàu tuần của Hải quân.
Nhà văn Nhật Tiến cho biết, “Đó là Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc (UNHCR) ở Thái Lan do ông Theodore G. Schweitzer III (tên đầy đủ của Ted Schweitzer) là đại diện. Chính ông Theodore Schweitzer đã chứng kiến cái cảnh chúng tôi lôi từng phụ nữ từ khe đá lên mặt đất. Ai nấy nhìn thấy ánh sáng mặt trời đều ngất xỉu đến nỗi chính ông cũng phải xúc động quay đi không dám nhìn. Trước tình cảnh cùng cực của chúng tôi, ông Schweitzer đã an ủi, khích lệ chúng tôi rất nhiều, ông tuyên bố mọi sự hãi hùng từ nay sẽ chấm dứt.”
Tổng số 157 người của 4 tàu tị nạn được cứu khỏi đảo Kra ngày 18 Tháng 11, 1979. Chấm dứt những ngày đen tối nhất của hành trình tìm đến tự do của những người như ông Thành, như nhà văn Nhật Tiến.
 
Đi tìm ân nhân 
Sau hơn 8 tháng ở trại tị nạn Songkhla, Thái Lan, ông Thành đến Mỹ vào Tháng Bảy, 1980 và bắt đầu làm lại cuộc đời, tạm quên đi những biến cố đau thương đã xảy ra, quên đi cả những người đã từng cứu mình thoát khỏi hòn đảo ma quỷ, ngoài việc nhớ tên người đại diện cho UNHCR ở Thái Lan là Ted Schweitzer.
“Cho đến khi trung tâm Thúy Nga lên kế hoạch tổ chức chương trình Tôi Là Người Việt Nam 2 nhân tưởng niệm 40 năm biến cố 30 Tháng Tư, trong đó muốn vinh danh những người đã từng cứu thuyền nhân Việt Nam. Tôi nhớ đến ông Ted Schweitzer và nhận lời sẽ đi tìm tung tích của ông, dù hơn 35 năm qua tôi chưa một lần liên lạc, cũng không biết giờ ông đang làm gì, còn hay mất.” Ông Thành cho biết lý do ông muốn tìm về vị ân nhân xưa.
 
Cựu viên chức Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc tại Thái Lan, ông Theodore G. Schweitzer III. (Hình: Hoàng Huy Thành cung cấp)

Ông Thành kể, sau hai ngày tìm kiếm trên Internet, ông tình cờ thấy có quyển sách tựa đề “The Forgotten Pirate Hunter: Câu chuyện thật về Ted Schweitzer, người quản thủ thư viện đeo đuổi mục tiêu giải thoát người tị nạn Việt Nam,” viết bởi tác giả Reagan Martin do nhà xuất bản CreateSpace Independent Publishing platform phát hành năm 2013, có nhắc đến tên Ted Schweitzer.
“Khi tôi đọc trang đầu tiên của cuốn sách này, tôi đã thấy cả người mình như có luồng điện chạy qua, bởi, tôi thấy tôi ở trên hòn đảo đó, Tháng 11 năm 1979. Và tôi chợt hiểu thì ra bốn tấm ảnh mà ông Ted tặng tôi lúc ông ghé thăm chúng tôi ở trại tị nạn Songkhla từ đâu mà ra. Tôi đã giữ những bức ảnh đó để làm kỷ niệm suốt hơn 35 năm qua và thật không bao giờ có thể ngờ được là giờ đây mình đang được đọc xuất xứ của chúng, qua một quyển sách.” Ông Thành, thuyền nhân 20 tuổi ngày nào, nói trong sự vui mừng lẫn xúc động.
Quả thật, ngay trong lời giới thiệu của quyển “The Forgotten Pirate Hunter”, tác giả đã kể lại: ngày 16 Tháng 11, 1979, viên phi công lái trực thăng của một hãng dầu đã bay ngang qua đảo Kra trên đường trở về nhà. Từ trên máy bay nhìn xuống, người phi công thấy thấp thoáng hàng trăm con người mà không có chiếc tàu nào. Ngay lập tức ông hiểu chuyện gì xảy ra, bởi lẽ ông từng nghe nói đây là nơi bọn hải tặc Thái Lan giam cầm những người Việt Nam vượt biên.
Nghĩ rằng cần phải thông báo cho một ai đó biết tin này, nhưng báo cho nhà cầm quyền Thái Lan thì thật là vô ích, vì họ chẳng quan tâm chuyện gì đã xảy ra cho những con người này. Nghĩ vậy nên viên phi công gọi báo cho UNHCR ở Thái Lan hay những gì ông nhìn thấy.
Một người đàn ông phía đầu dây bên kia đề nghị người phi công đưa ông ta đến nơi hòn đảo ấy. Viên phi công thoạt đầu miễn cưỡng, không muốn dính líu vào, nhưng sau đó, cũng đồng ý.
Hai ngày sau, người đại diện của UNHCR cùng viên phi công bay trở lại đảo Kra. Từ trên máy bay nhìn xuống, người đại diện này cảm thấy lòng mình quặn đau. Ông không chỉ thấy những chiếc tàu của bọn hải tặc, mà còn thấy cả những xác người trôi trên biển. Từ trên máy bay, ông chụp lại những gì mình trông thấy (những tấm ảnh ông Thành có được chính là ảnh chụp từ đây - NV). Không thể thuyết phục người phi công đáp xuống đảo lúc ấy, vị đại diện của UNHCR chỉ biết rằng mình sẽ phải trở lại, bằng cách nào đó.
Viên chức đại diện cho UNHCR Thái Lan đó chính là Theodore Schweitzer, người mới nhận công việc này chưa bao lâu.
Ngay lập tức, ông Ted Schweitzer buộc Cảnh sát tuần duyên Thái Lan phải đưa ông trở lại đảo Kra. Và ông đã cứu được 157 thuyền nhân Việt Nam có mặt trên đảo lúc đó, như nhà văn Nhật Tiến kể trên.
Bàng hoàng lẫn xúc động khi thấy tên nhà văn Nhật Tiến cùng chuyện vượt biên của nhóm thuyền nhân ở trên đảo Kra ngày nào được nhắc đến, ông Thành đã thức suốt đêm để đọc cho hết quyển sách.
Ông kể, “Sáng hôm sau, tôi email cho nhà xuất bản để hỏi thăm tung tích của ông Ted, nhân vật được nhắc đến trong quyển The Forgotten Pirate Hunter. Ba ngày sau câu trả lời từ nhà xuất bản là họ cũng không biết ông ấy đang ở đâu. Họ đề nghị tôi nên tìm ở ‘public record.’”
Bằng cách này, ông Thành có được địa chỉ và số điện thoại của rất nhiều người cùng tên Ted Schweitzer. Tuy nhiên, mọi liên lạc cho biết đó không phải là ông Ted mà ông Thành muốn tìm.
“Trong lúc tưởng chừng tuyệt vọng, thì tôi tìm được một website chuyên tìm kiếm người. Tôi trả tiền và họ đưa một số email để tôi thử liên lạc. Hơn một tiếng đồng hồ gửi email đi trong tâm trạng không mấy hy vọng thì tôi nghe tiếng điện thoại reng. Linh tính cho tôi biết đó là Ted Schweitzer. Tôi bắt phone, người phía đầu dây bên kia nói anh ta là con trai của Ted Schweitzer, tên Max Schweitzer, và xác nhận cha anh ta chính là người mà tôi đang muốn tìm.” Ông Thành kể lại với đầy niềm vui của người hoàn thành sứ mạng được giao, dù không được nói chuyện trực tiếp với ông Ted Schweitzer do ông đang có nhiệm vụ ngoài nước Mỹ, mà đều qua trung gian con trai ông.
 
Nhà văn Nhật Tiến ngồi viết lại thảm trạng vượt biên qua ngã Thái Lan
sau 5 này được cứu thoát khỏi đảo Kra.
(Hình: Hoàng Huy Thành cung cấp)

Cũng từ những trang sách này, người ta còn biết thêm rằng, sau nhóm thuyền nhân đầu tiên mà ông Ted Schweitzer cứu, trong đó có ông Thành và nhà văn Nhật Tiến, ông còn một mình quay trở lại đảo Kra nhiều lần, tự bỏ tiền túi mướn tàu đánh cá chở ông vào đảo vì cảnh sát Thái Lan không muốn giúp đỡ ông. Ông cũng bị hải tặc Thái Lan đánh hội đồng dã man đến bất tỉnh, gãy xương, chảy máu thận và sau khi bị chính phủ Thái trục xuất về Mỹ ông vẫn phải tiếp tục điều trị những thương tích này.
“Tôi nghĩ nếu chính phủ Thái không trục xuất ông thì có lẽ ông sẽ không còn sống đến ngày hôm nay, vì với lòng thương yêu thuyền nhân vô bờ bến, chắc chắn ông sẽ còn tiếp tục một mình đi ra đảo Kra để tiếp cứu thêm rất nhiều thuyền nhân Việt Nam và như thế khó mà bảo toàn tánh mạng với bọn hải tặc.” Ông Thành nhận xét.
Cũng trong “The Forgotten Pirate Hunter”, người ta ước tính rằng ông Ted Schweitzer đã quay trở lại đảo Kra trên 20 lần và một mình ông đã cứu được ít nhất là trên 1,200 thuyền nhân Việt Nam. Năm 1981, UNHCR được trao giải Nobel Hòa Bình, một phần do công lao của Ted Schweitzer. Khi nhận được giải thưởng cao quý nầy, các nhà lãnh đạo Liên Hiệp Quốc đã gởi tặng ông một tấm sao của huy chương Nobel để tỏ lòng biết ơn về những sự hy sinh của ông trong công tác cứu vớt thuyền nhân Việt Nam.
Cũng theo ông Thành, trong lúc đi tìm kiếm lại vị ân nhân xưa, ông được biết một nhà sản xuất phim đang dự định làm phim về cuộc đời và những công việc mà ông Ted Schweitzer từng làm, từ một quản thủ thư viện ở một trường học tại Thái Lan, một người từng được gửi sang Cambodia trước khi chính quyền rơi vào tay Khmer Đỏ để làm nhiệm vụ thu nhặt lại những tài liệu, những thiết bị đã bị phá hủy của quân đội Hoa Kỳ trong thời chiến tranh Việt Nam, và đặc biệt là người có vai trò nhất định trong việc đưa đến sự bang giao giữa Hoa Kỳ và Việt Nam vào năm 1995.
 
Tình người trong cơn tuyệt vọng 
Ngoài sự can đảm của các thuyền nhân, nhất là những người phụ nữ, và lòng tri ân những người như ông Ted Schweizer, thì tình người là điều được cả nhà văn Nhật Tiến và ông Thành nâng niu trong ký ức suốt mấy mươi năm qua.
“Tình người. Tôi thấy thấm thía hơn về chữ nhường cơm xẻ áo, nhất là trong tình trạng tuyệt vọng như thế, thì đó không phải ai cũng có thể làm được.” Ông Thành nói về điều mình còn lưu giữ về chuyến vượt biên từ hơn 35 năm trước.
Tác giả Nhật Tiến kể, ngày mới lên đảo Kra ông còn mặc một chiếc áo len dầy để có thể chịu qua được những đêm mưa lạnh hay ngủ ngoài trời. Tuy nhiên, chiếc áo đó đã bị một tên hải tặc lột đi.
“Những ngày sau đó, tôi lạnh run những lúc đêm về, nhưng may mắn sao, vào một lần đi quanh đảo, tôi bắt gặp cái áo nỉ cộc tay của ai đó vứt ngay trên bờ cỏ. Tôi đã lượm lên và mặc nó suốt những ngày còn lại trên đảo và cả hàng tháng trời sau khi nhập trại Songkhla.”
Cho tới khi nhận được tiền tiếp tế của thân nhân, ông mua được cái áo ấm khác để thay. Đến khi đó mới có một người phụ nữ đi cùng ghe với ông đến xin lại chiếc áo làm kỷ niệm. Bởi: “Bà cho biết cái áo nỉ ấy là của bà, bị hải tặc lấy đi, nhưng sau chắc mặc không vừa nó vứt đi và vì thế tôi lượm được. Những ngày sống trên đảo, chủ nhân của cái áo ấy đã nhìn thấy tôi mặc, nhưng thấy tôi ốm yếu, trời lại lạnh, nên bà lẳng lặng nhường cho tôi mặc. Nay mọi sự đã ổn định, bà xin lại chiếc áo để giữ làm kỷ niệm.”
“Tôi đã ứa nước mắt trả lại cho bà, và những ngày sau, tôi vẫn còn khóc được mỗi khi nghĩ đến tấm lòng nhường nhịn chia sẻ của bà, đã dành cho tôi ở trong cái hoàn cảnh mà ai nấy đều đói, lạnh và yếu đau hết. Tình người quả là thứ quý giá biết bao và không một thứ vật chất nào có thể so sánh được.” Nhà văn của “Thềm Hoang” nhớ lại.
Với ông Thành thì “Có một hình ảnh mà tôi không thể nào không nhắc tới, đó là khi được ông Ted Schweitzer đến cứu, mọi người đều muốn nhanh chân chạy xuống tàu. Vậy mà chú Tiến (nhà văn Nhật Tiến – NV) lại quành trở lại vừa đi vừa tìm những cục than rồi leo lên căn chòi nơi chứa những bình gaz để thắp sáng cho ngọn hải đăng duy nhất trên đỉnh núi để ghi lại chỉ chỗ gạo giấu ở đâu, lấy nước ở chỗ nào.”
“Nghĩa cử đó, trong hoàn cảnh đó, nói lên được rất nhiều điều về nhân cách của một con người.” Ông Thành nhận xét.
Gần bốn thập niên trôi qua, nếu mãi hoài niệm về nỗi đau thì sẽ thấy “dân tộc này sao quá nhiều đắng cay”. Nhưng bước qua nỗi đau, cất lại tất cả oan khiên cay nghiệt nhất của đời người vào ngăn tủ của ký ức, để chỉ nâng niu, trân quý và nhớ đến những điều cao cả nhất về tình người, sự quả cảm và lòng biết ơn là điều trái tim con người mong hướng tới. Và nhiều người đã bước tới.
Wednesday, April 29, 2015
Ngọc Lan/Người Việt



Phan Nhật Nam 
40 năm thăm thẳm đoạn trường
Bức hình gây chấn động báo giới Hoa Kỳ với tựa đề “Lên tàu” do một thủy thủ chụp được trên chiến hạm USS White Plan Tháng 7 năm 1979. Đấy là hình ảnh một người đàn ông Việt Nam được vớt đang leo lên thang dây bên mạn tàu với tất cả hành trang của gia đình trong túi vải cắn chặt trong miệng. Cuối năm 1979 tin tức về tàu Mỹ vớt người tỵ nạn bay về Việt Nam, cả Sài Gòn lên cơn sốt. Nhà nhà vượt biển, người người vượt biển. Đó cũng là năm cuối cùng của thập niên 70 với người phụ nữ có bầu cũng ra đi, sanh trên tàu Mỹ, đặt tên con theo tên tàu có khai sanh công dân Hoa Kỳ do thuyền trưởng ký.

Trong thời gian hải quân Thái làm việc, bọn cướp vắng mặt nhưng ngay sau khi lính Thái vừa bỏ đi thì lập tức bốn chiếc tàu hải tặc tràn người lên đảo. Bọn cướp lại lục soát thêm nhiều lần nữa. Dĩ nhiên những nạn nhân VN khốn khổ chẳng còn gì để chúng cướp bóc nữa. Để bù trừ chúng luân phiên nhau hãm hiếp phụ nữ tại chỗ giữa ban ngày. Bọn hải tặc Thái chẳng cần tìm chỗ nào kín đáo để diễn trò thú vật... Năm bé gái: KH, 15 tuổi, BT 17 tuổi, AH 12 tuổi, NỴ 11 tuổi và MT 15 tuổi bị chúng cưỡng hiếp tập thể ngay trước mắt mọi người. Thảm kịch trên đảo Kra may thay được chấm dứt vào ngày 6 Tháng 1 năm 1980, khi nhóm người tuyệt vọng được phát hiện bởi trực thăng của Cao Ủy LHQ bay qua đảo. Vị cứu tinh là Ông Scheitzer, Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc đã đến đảo Kra trên một chiếc tàu cảnh sát Thái, đưa thuyền đón người tỵ nạn vào quận Pakphanang thuộc tỉnh Nakorn Sri Thamaraj. Ở đây 18 ngày làm thủ tục với cảnh sát Thái, thì nhóm người tỵ nạn được đưa về trại Songkhla ngày 23 tháng 1, 1980.
Ngày 10 tháng 4 năm 1980, nhân ngày giỗ thứ 100, ngày người vợ và các con cùng những đồng bào chết thảm trên Biển Đông để đi tìm Tự Do. Tại trại tỵ nạn Songkhla, Cha Tuyên Úy Joe Devlin đã dâng Thánh Lễ cầu nguyện cho gia đình ông và những người bị chết oan khốc tại nhà thờ trại. Người Việt Nam khổ nạn điển hình Vũ Văn Thái dâng lời cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin Chúa hãy xót thương cho những linh hồn đã chết đớn đau trong thảm họa hung của cả Dân Tộc Việt Nam. Xin Chúa hãy cứu vớt linh hồn vợ con, các con của con để đưa tất cả về nơi an nghỉ bình an hạnh phúc đời đời nơi nước Chúa. Xin Chúa hãy giúp con đầy đủ can đảm để đứng vững sau cơn gió bão khủng khiếp của đời người, để cho con còn đầy đủ minh mẫn, đủ sức khỏe để lo lắng cho đứa con trai duy nhất của con còn đang sống ở Đài Loan. Con đã chịu đau thương quá nhiều. Con cầu nguyện Ơn Chúa ban xuống cho tất cả thân nhân còn lại của con, các đồng bào của con, những người sẽ vượt biển ra đi đều tới bến bờ bình an”.
Thảm kịch của gia đình ông Vũ Văn Thái hoàn toàn là không đơn lẻ, cùng thời điểm của thập niên 80, trên biển Đông, vùng Vịnh Thái Lan đã là một địa ngục có thật đối với khối Người Việt khổ nạn vì họa cộng sản phải phá thân ra khỏi nước... Những thảm cảnh như sau tiếp diễn hiện khắp nơi với những nhân chứng, nạn nhân thuộc nhiều quốc gia, nhiều giới người, nhiều lứa tuổi...
Ông Ted Schweitzer là người Mỹ đầu tiên đã cập bến vào một đảo sào huyệt hải tặc và mục kích chuyện 238 thuyền nhân Việt Nam bị đắm ghe, dạt vào đấy. Có 80 người bị giết, tất cả các phụ nữ đều bị hãm hiếp và buộc khiêu vũ khỏa thân cho chúng xem. Ông Schweitzer can thiệp yêu cầu họ chấm dứt tấn tuồng vô nhân đạo này thì bị bọn cướp xúm lại đánh đập đến như gần chết. Thật may mắn mà ông còn sống sót để thuật lại. Khi tỉnh lại, ông thấy trước mắt những cánh tay, đùi chân còn rải rác đây đó. Đấy cũng là bằng chứng có vụ ăn thịt người.
Cô Nguyễn Phan Thúy cùng với mẹ, dì và người em gái đã bỏ tiền ra mua chổ trên tàu để vượt trốn. Sau mười ngày lênh đênh trên biển cả, tàu bị mắc cạn, hết nước, hết thức ăn. Hải tặc đến bắn chết người dì. Một ông già có răng vàng bị chúng lấy kìm vặn khỏi miệng. Một người đàn bà đang có bầu bị chúng ném xuống biển. Các người sống sót bị chúng lột hết quần áo, xua cả lên bờ, và tàu bị nhận chìm. Chúng bắt các phụ nữ xếp hàng. Cô Thúy cùng một cô gái khác tên Liên bị chúng lựa ra rồi đưa sang chiếc thuyền đánh cá của chúng. Suốt ba tuần lễ sau đó, hai cô liên tiếp bị hãm hiếp. Cô Liên chịu không nổi, bị chúng chán rồi vứt cô xuống biển; còn cô Thúy chúng đem bán cho một động mãi dâm trong làng mang tên là “Phòng đấm bóp nơi thiên đường”. Ở đây cô mang thai và bị bọn người man rợ người ta lấy một que tre trục bào thai ra. Cuối cùng cô thóat được và được cơ quan Cứu Trợ Liên Hiệp Quốc tiếp nhận.
Năm 1989, một chiếc ghe chở 84 thuyền nhân bị hải tặc đến cướp. Tất cả đàn bà và trẻ con bị chuyển qua thuyền hải tặc và từ đó không còn nghe một tin gì về số phận họ nữa. Những người đàn ông thì bị nhốt dưới khoang tàu rồi, từng người một, chúng lôi lên đập cho đến chết. Sau cùng, những người còn lại liều mình sấn vào bọn cướp thì tàu hải tặc nhào đến đâm vào tàu thuyền nhận xuống cho chìm đi. Một số người cố thóat liền bị chúng dùng cây sào nhận chìm xuống nước. Còn lại 13 người thóat chết nhờ bơi ra xa và được bóng đêm che phủ.
Vào tháng 4 năm 1989, có bảy tên hải tặc trang bị súng ống, đao búa đến tấn công một chiếc tàu nhỏ chở 129 thuyền nhân. Tất cả đàn bà đều bị hãm hiếp, đàn ông bị sát hại, trừ một thiếu niên tên là Phạm Ngọc Nam Hưng. Anh này sống sót nhờ bám được vào một chiếc bè kết thành bởi ba xác chết.
Cuối cùng chính phủ Thái bị Cơ quan Cứu Trợ Quốc Tế cưỡng bách tìm biện pháp đối phó. Các tàu đánh cá phải ghi tên bằng chữ lớn ngay mũi tàu. Các tàu đều phải được chụp hình lúc ra khơi và lúc về cảng. Biện pháp này đã khiến nhiều hải tặc lo sợ, nhưng những bọn còn lại bèn trở nên tàn nhẫn, hung dữ hơn trước! Chúng thủ tiêu hết mọi nhân chứng để không còn một ai nhận diện được chúng nữa. Vào cuối thập niên tám mươi các vụ hải tặc dần dần chấm dứt do con số người tỵ nạn giảm đi.

3. Đoạn Kết của Bi Kịch Thuyền Nhân Người Việt 
Cuối cùng, làn sóng người tị nạn Việt Nam bằng đường biển đã viết lên thiên bi sử của thuyền nhân, và những câu chuyện hãi hùng của các cuộc vượt biển của người tị nạn Việt Nam đã đánh động được lương tâm thế giới. Vào tháng Ba 1979, chương trình Ra Đi Có Trật Tự (ODP) ra đời để cố gắng ngăn chặn những làn sóng vượt biển. Ngoài ra, cũng vào thời gian này, các chương trình cứu người vượt biển đã được một số tổ chức thiện nguyện quốc tế phát động hai chiếc tàu cứu vớt thuyền nhân ngoài biển là Anamur do một tổ chức từ thiện Đức Quốc vận động vào năm 1979 L’Ile de Lumiere của tổ chức từ thiện Pháp Medecins du Monde điều hành vào năm 1980 đã cứu mạng được nhiều thuyền nhân Việt Nam lênh đênh ngoài biển cả trong khoảng thời gian từ 1979 cho đến 1990.
Đoạn kết thúc nhân đạo được khởi từ những sự kiện sau đây: Tin tức thời sự loan báo ba thuyền tỵ nạn với 443 người mới đến Hồng Kông bị cảnh sát Macao kéo ra biển khơi gặp trận bão Hope chết không còn người nào. Nhưng người Việt vẫn tiếp tục ra đi. Riêng tháng 5 và 6, năm 1979 đã có 110 ngàn người vượt biển. Bão tố, hải tặc và các tàu viễn dương không cứu vớt đã làm cho số người đến các trại vào tháng 7 chỉ còn 22 ngàn người. Không những các tàu buôn dân sự làm ngơ mà ngay cả tàu chiến của Mỹ trên Thái Bình Dương cũng không cứu thuyền nhân. Xót đau vì cùng máu đỏ, da vàng, người Việt ở Mỹ và khắp nơi kéo về Hoa Thịnh Ðốn thắp nến cầu nguyện trước Bạch Cung.
Nước mưa hòa trong nước mắt nhỏ giọt xuống những ngọn nến lung linh. Những linh mục và những thượng tọa đi lại đọc kinh suốt đêm. Từ cửa sổ trên lầu của Bạch Cung, Tổng Thống Jimmy Carter đã nhìn thấy tất cả thảm kịch biển Ðông. Lòng người từ nhân thúc dục - Lệnh từ Phủ Tổng Thống Hoa Kỳ được ban hành. Bộ An Sinh và Xã Hội sẽ nhận cấp khoản Tỵ Nạn Việt Nam vào Mỹ từ 7 ngàn nay tăng lên 14 ngàn một tháng. Bộ Quốc Phòng ra lệnh cho Ðệ Thất Hạm Đội dành riêng năm tuần dương hạm để cứu vớt thuyền tỵ nạn. Tất cả các chiến hạm đều phải cứu thuyền nhân hoặc tiếp tế rồi báo tin cho các con tàu trách nhiệm khác.
Bức hình gây chấn động báo giới Hoa Kỳ với tựa đề “Lên tàu” do một thủy thủ chụp được trên chiến hạm USS White Plan Tháng 7 năm 1979. Đấy là hình ảnh một người đàn ông Việt Nam được vớt đang leo lên thang dây bên mạn tàu với tất cả hành trang của gia đình trong túi vải cắn chặt trong miệng. Cuối năm 1979 tin tức về tàu Mỹ vớt người tỵ nạn bay về Việt Nam, cả Sài Gòn lên cơn sốt. Nhà nhà vượt biển, người người vượt biển. Ðó cũng là năm cuối cùng của thập niên 70 với người phụ nữ có bầu cũng ra đi, sanh trên tàu Mỹ, đặt tên con theo tên tàu có khai sanh công dân Hoa Kỳ do thuyền trưởng ký.
Tổng Thống Jimmy Carter, còn đi xa hơn một bước nữa. Nhân dịp hội họp với Thủ Tướng Do Thái Bergin, vị nguyên thủ Mỹ đã đưa ra vấn đề thuyền nhân Việt Nam. Thủ Tướng Bergin nồng nhiệt đáp ứng: “Nước Do Thái đã có những kinh nghiệm riêng về vụ việc này. Năm 1939, trước khi thế chiến đệ nhị bùng nổ, con tàu The St. Louis chở 900 dân Do Thái trốn khỏi Ðức Quốc đã bị xua đuổi trên khắp mọi hải cảng. Không một nước nào nhận. Ngày nay tuy chúng tôi là một nước nhỏ, mới lập quốc nhưng sẵn sàng chào đón thuyền nhân Việt Nam”. Tháng 10 năm 1979, một tàu Do Thái trên đường đi Nhật đã cứu được 60 thuyền nhân. Thuyền trưởng nói rằng các bạn phải cảm ơn Carter. Tính đến nay, dù là quốc gia sống giữa vùng Trung Ðông khói lửa sôi động, Do Thái cũng có cả ngàn thuyền nhân Việt Nam lập nghiệp.
Năm 1981, Tổng Thống Carter mãn nhiệm kỳ, đến năm 1988 có một thuyền trưởng chiến hạm USS Dubuque trên đường qua Trung Ðông đã gặp con tàu vượt biên ra đi từ Bến Tre với 110 người ngày 22 tháng 5-1988. Sau nhiều giông bão, gặp nhiều tàu đại dương nhưng không được cứu, đến ngày thứ 19 gặp tàu chiến Mỹ thì thuyền nhân hoàn toàn kiệt quệ. Hạm trưởng không hề biết lệnh của Tổng Thống Hoa Kỳ 8 năm về trước nên ông chỉ tiếp tế nước và thực phẩm nhưng không vớt. Con thuyền Bến Tre trôi dạt trên đại dương trước sau tổng cộng 37 ngày, chỉ còn sống 52 người sau khi đã ăn thịt những người khác.
Tàu đánh cá Phi cứu vớt con thuyền Bến Tre khốn khổ đưa về đảo Bolinao. Ông Hạm trưởng chiến hạm USS Dubuque phải ra tòa quân sự của hải quân vì không làm tròn bổn phận. Nạn nhân còn lại của thảm kịch Bolinao phải ra tòa làm nhân chứng. Tên hòn đảo hoang trên Thái bình Dương với 52 người còn sống. Sống bằng thân xác của gia quyến và đồng loại. Bolinao 52 chỉ là một trong hàng ngàn thảm kịch khác đã xảy ra mà chúng ta không bao giờ biết hết. Nếu như không có một người như Jimmy Carter vào những ngày cuối thập niên 70 niềm đau thương của biển Ðông còn chất ngất đến chừng nào.

Phần Hai: Sống là chiến đấu
I. Người Việt Trên Thế Giới 
Tính đến năm 1999, đã có khoảng 3 triệu người tị nạn từ các nước Việt, Lào và Cam Bốt, trong đó có tới 1.75 triệu người Việt Nam bỏ nước thóat nạn cộng sản bằng đường bộ và đường biển. Nhóm tỵ nạn này đã được định cư hầu hết ở các nước Tây Phương và Úc Châu. Riêng chương trình United States East Asian Refugee Admissions Program (Chương Trình Tiếp Nhận Tị Nạn Đông Á Của Hoa Kỳ) đã định cư hơn 1.4 triệu người tị nạn của ba nước Đông Dương sau khi vùng này bỏ cộng sản chiếm đóng vào năm 1975. Trong số người định cư theo chương trình kể trên có khoảng 900,000 người từ Việt Nam. Thập niên cuối thế kỷ 20, Cao Ủy Tỵ Nạn LHQ chính thức tuyên bố đóng cửa Trại Tị Nạn Galang vào ngày 9 tháng 9 năm 1996. Tính chung, đảo này đã đón nhận hơn 120,000 thuyền nhân Việt và Cam Bốt kể từ những năm 1970s.
Nhóm cuối cùng 486 người Việt rớt thanh lọc đã rời Trại Galang trong tháng 9, 1996. Từ đó, nhà cầm quyền Nam Dương biến Đảo Galang thành một khu kỹ nghệ đặc biệt. Trang sử thuyền nhân khép lại, mở sang trang mới về lần hình thành các Cộng Đồng Người Việt Hải Ngoại, nơi lý tưởng Tự Do, Dân Chủ-Nhân Quyền được trân trọng gìn giữ, củng cố bởi những định chế cính trị đại nghị dân chủ của các nước sở tại mà Mỹ, Anh, Pháp, Gia Nã Đại, Đức, các nước Tây, Bắc Âu là những quốc gia tiêu biểu. Để từ đây hy vọng sẽ có một ngày ngọn lửa Tự Do, Dân Chủ-Nhân Quyền được chuyển về lại quê nhà. Bóng đen cộng sản sẽ cáo chung trên quê hương nước Việt.
Người Việt tỵ nạn/Người nhập cư gốc Việt hiện có mặt tại 103 quốc gia đều đã được các chính phủ sở tại cho phép cư ngụ, nhập cư dưới những hình thức khác nhau. Từ đấy Cộng Đồng Người Việt Hải Ngoại hẳn nhiên nhận lãnh một nhiệm vụ cao thượng dẫu không mấy cá nhân, tập thể cá nhân đặt nên những định chế, phát ngôn chính thức – Nhiệm vụ đối với quốc gia đang cư ngụ, nhập cư và với quê nhà mà chắc hẳn luôn là những nỗi niềm canh cánh âu lo. Mối lo lắng này rất cụ thể đối với thành phần thế hệ thứ nhất - Thành phần Người Việt gánh chịu đủ khối nặng chiến tranh và khổ nạn Việt Nam suốt hơn nửa thế kỷ qua, trước và sau 1975. Kể cả thế hệ 1+ ½ và thế hệ Thứ Hai mà ngày ra khỏi nước đang độ tuổi ấu thiếu những cũng đã phải chịu đủ dấu ấn khốc liệt của chế độ cộng sản đè nặng trên đường vượt biên tìm sống qua lần chết. Nhưng Sống có nghĩa Sống trong Hiện Tại hướng về Tương Lai. Chúng ta hãy nhìn lại đoạn đường mà ba, bốn thế hệ người Việt đã kinh qua một cách rất bình thường với tính chất cao quý của Con Người/Người Việt Nam trong suốt 40 năm 1975-2015.
Thống kê tổng quát về tình trạng di dân thế giới vào đầu thập niên của Thế Kỷ 21 trên báo chí tại Pháp nêu con số gần hơn 2.5 triệu người Việt Nam hiện đang sinh sống trên gần chín mươi quốc gia. Lượng người đông nhất là ở vùng Bắc Mỹ, kế tiếp ở Âu-Châu, sau cùng là ở Châu Đại-Dương và quanh vùng Đông Nam Á. Số người Việt hiện đang ở Trung-Đông và Châu-Phi cũng lên tới con số ngàn. Ngoài ra còn có một thành phần khác thuộc Cộng Đồng Người Việt ở nước ngoài là thành phần người Việt ở các nước Đông Âu và ở Nga. Đây là những đối tượng ra khỏi nước trước 1975 với tư cách công dân của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Hà Nội), và sau 1975 đi theo diện xuất khẩu lao động, du học sinh của nhà nước cộng sản Việt Nam. Thành phần này không là đối tượng của bài biên khảo vốn chỉ tập trung vào tập thể người Việt miền Nam tỵ nạn cộng sản/Công dân Việt Nam Cộng Hòa rời khỏi nước sau 30 tháng 4, 1975.

I-1. Người Việt tại Mỹ
Người Mỹ gốc Việt là người có quốc tịch Mỹ với nguồn gốc khai sinh dân tộc Việt Nam. Lượng người này chiếm hơn một nửa của tổng số người Việt hải ngoại, và là cộng đồng lớn thứ tư của nhóm người Mỹ gốc Á Châu sau các cộng đồng người Mỹ gốc Hoa, gốc Ấn, và người Mỹ gốc Phi Luật Tân. Theo Điều Tra Dân Số năm 2010 (Census 2010) thì tổng số người Việt gốc Mỹ được nêu chính xác là 1,548,449 nếu tính về mặt chủng tộc Việt thuần túy, hoặc 1,737,433 nếu bao gồm những chủng tộc người khác đã sinh sống trên lãnh thổ việt Nam trước khi đến Mỹ.
Người Việt di cư đến Hoa Kỳ với số lượng đông kể từ sau biến cố 30 Tháng 4, 1975 là đợt người tỵ nạn cộng sản từ miền Nam Việt Nam được chính phủ Hoa Kỳ di tản. Tiếp theo là những thuyền nhân trong thập niên 70, 80 như phần 1 đã trình bày được cộng đồng quốc tế cứu vớt. Tiếp theo trong thập niên 90 là khối người Việt nhập cư vào Hoa Kỳ qua Chương Trình Đoàn Tụ Gia Đình của kế hoạch Ra đi Có Trật Tự (ODP ) bao gồm Chương Trình HO và diện con lai. Bắt đầu từ hai bàn tay trắng, Nười Mỹ gốc Việt với một nghị lực và khả năng sinh động mạnh mẽ đã hòa nhập vào xã hội Hoa Kỳ để trở thành một cộng đồng dân tộc thiểu số đáng kể tại quốc gia này trong một thời hạn ngắn nhất.
Lịch sử của người Mỹ gốc Việt chỉ mới diễn ra gần đây trong khoảng hai ba chục năm trở lại. Tính tới năm 2012, số người Việt nhập cư vào Mỹ chiếm 3% của tổng số người nhập cư từ nhiều quốc gia. Số người Việt di cư vào Mỹ năm 1980 là khoảng 231,000 đã tăng tới hơn 1.5 triệu vào năm 2012, như thế tổng số người Mỹ gốc Việt đã trở thành số lượng dân nhập đứng hạng 6 ở Hoa Kỳ, và hạng 4 so với các sắc dân từ Á Châu khác như trên đã nêu.
Theo nghiên cứu năm 2008 của Học Viện Manhattan, người Mỹ gốc Việt là một trong những nhóm người nhập cư ở Mỹ có chỉ số hội nhập cao nhất so với các sắc dân thiểu số khác. Là một cộng đồng gồm phần lớn là những người tị nạn chính trị cộng sản nên hầu hết đồng có quan điểm chống cộng mãnh liệt, việc trở lại Việt Nam là một điều bất khả thi. Từ nền tảng chính trị này, quá trình tham gia vào các sinh hoạt chính trị tại Hoa Kỳ (chống chế độ độc tài trong nước ) đã được thực hiện với tỷ lệ rất cao. Trong một cuộc thăm dò ý kiến của báo Orange County Register năm 2000 thì có đến 71% người trả lời là công cuộc việc đấu tranh chống cộng sản là “ưu tiên hàng đầu” hay “rất quan trọng”; và 77% người được hỏi đồng có ý kiến coi trọng việc thúc đẩy nhà nước cộng sản Việt Nam phải cải thiện chính sách nhân quyền.
Từ nền tảng chính trị này, Cộng Đồng Người Mỹ gốc Việt thường xuyên tổ chức biểu tình chống nhà nước cộng sản Hà Nội, lên án tình trạng vi phạm nhân quyền tại Việt Nam, đồng thời biểu hiện sự chống đối với những cá nhân hay đoàn thể có khuynh hướng thỏa hiệp với phe cầm quyền ở trong nước. Dẫu rằng hằng có những tỵ hiềm, chia rẻ giữa các nhóm người Việt nhưng cuối cùng tất cả đã đoàn kết quanh vấn đề lớn: Bảo vệ Chủ Quyền Việt Nam qua sự kiện nhà nước Trung Cộng chiếm đóng Hoàng -Trường Sa và gần nhất là vụ việc Bắc Kinh hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 trong vùng lãnh hải Việt Nam (Tháng 5, 2014).
Điển hình của tinh thần chống cộng quyết liệt kể trên, vào năm 1999, một cuộc biểu tình lớn đã được tổ chức tại Thành Phố Westminster, Nam California nhằm phản đối Trần Trường khi người này treo cờ Đỏ Sao Vàng và bức hình Hồ Chí Minh trong cửa hàng của anh ta. Số người biểu tình lên đến hơn 30,000 người kéo dài đến 53 ngày là một biểu hiện dẫu còn nhiều điều tranh cải, nhưng hiển nhiên đã minh chứng: Cộng Đồng Người Việt Hải Ngoại không hề chấp nhận chế độ cộng sản Việt Nam dưới bất cứ hình thức, biểu hiện nào cho dù bao lâu sau ngày 30 tháng 4, 1975 cho dù bao xa đất nước.
Cần phải nhắc lại sự kiện đáng tự hào... Đầu năm 2012, hơn 150,000 người Mỹ gốc Việt đã tham gia một chiến dịch ký Thỉnh Nguyện Thư hiện thực cuộc vận động nhân quyền lớn nhất từ trước đến nay của cộng đồng người Việt hải ngoại. Sự kiện đã khiến chính phủ Hoa Kỳ đã phái Thứ Trưởng Ngoại Giao, đặc trách về Nhân Quyền là Michael Posner mở cuộc tiếp xúc với 165 người đại diện CĐNV ở khắp nơi trong ngày ngày 5 Tháng 3, 2012 đồng thời cam kết sẽ tiếp tục đưa vấn đề nhân quyền trong vòng đối thoại với nhà nước cộng sản Việt Nam. Cuộc vận động này cũng bao gồm các cộng đồng nạn nhân cộng sản khác như cộng đồng người H’mong ở Minnesota, người Tây Tạng lưu vong...
Song song với những sự kiện đặc thù kể trên, Cộng Đồng Người Việt ở Mỹ thuộc nhiều tiểu bang đã vận động, xây dựng thành công nên Chiến Dịch Cờ Vàng. Công cuộc đã có kết quả nên một số thành phố và tiểu bang đã ban hành nghị quyết xử dụng Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ của Việt Nam Cộng Hòa làm biểu tượng đại diện cho Cộng Đồng Người Việt tại các địa phương. Đi đầu trong công cuộc vận động có ý nghĩa chính trị to lớn này là trong Tháng 8/2006, chính quyền hai Tiểu Bang California và Ohio đã thông qua Đạo Luận Công Nhận Cờ Vàng của VNCH. Dạo luật đã khiến nhà nước Hà Nội cố tìm cách phản đối nhưng tất cả không đưa đến một kết quả nào. Chiến Dịch Cờ Vàng hiện nay lan rộng qua nhiều thành phố và tiểu bang khác trên nước Mỹ. Hóa ra sau gần 40 đoạt chiếm miền Nam, lá cờ Đỏ Sao Vàng chỉ được treo tại các cơ quan nhà nước cộng sản mà thôi.

Phan Nhật Nam

No comments:

Post a Comment