Saturday, October 30, 2021

Chương trình truyền hình ASIA "Theo Dòng Lịch Sử" | Episode 1 - Hồn Ma Trong Hý Viện Quốc Gia (Phần 1)

Trung tâm Asia hân hạnh giới thiệu cùng quý vị khán thính giả mến mộ, chương trình truyền hình “Asia, Theo Dòng Lịch Sử”, với mục đích, để lưu giữ lại những chi tiết trung thực về các tác phẩm nghệ thuật, giá trị do Trung tâm Asia thực hiện theo dòng lịch sử, cùng tiến trình sinh hoạt của cộng đồng người Việt tại hải ngoại. Đồng thời để bảo vệ lý tưởng chân chính của người sáng lập, cùng toàn thể nghệ sĩ cộng tác, đã chung tay phục vụ khán thính giả yêu nhạc trong suốt gần nửa thế kỷ vừa qua, kể từ sau biến cố 30 tháng Tư, 1975. Chương trình này sẽ được phát hình đều đặn trên Asia YouTube Channel.

Và để mở đầu, nhân dịp lễ Halloween, 2021, “Asia, Theo Dòng Lịch Sử” xin kính mời quý vị theo dõi câu chuyện có thật, xẩy ra trong một buổi thu hình của Trung tâm Asia, câu chuyện có tên là “Hồn Ma Trong Hý Viện Quốc Gia”.

Kính mời quý vị và các bạn theo dõi sau đây:

 


Thursday, October 28, 2021

HỌ đã đến Orange County…

HỌ đây, là những người tị nạn Afghanistan được chính phủ Hoa Kỳ giải cứu khỏi quốc gia này vào những giờ phút cuối cùng. HỌ là những người khách lạ vừa được các Cơ Quan Thiện Nguyện đưa đến định cư tại vùng Orange County. Tuy "người" có lạ, nhưng hoàn cảnh thì rất quen, đó là những gì mà người tị nạn VN đã phải trải qua hơn 40 năm về trước. Không thân nhân, không bạn bè, không cộng đồng, không nhà cửa, không việc làm… Có khác chăng là người VN đã may mắn được những họ đạo, nhà thờ hoặc các nhà bảo trợ giầu lòng nhân ái bảo lãnh, và lo lắng cho những bước đầu của cuộc sống tha hương. Họ thuê nhà sẵn, tìm công ăn việc làm, dậy lái xe, lo trường học cho con cái của những gia đình tị nạn VN v..v…

Tương tự như hoàn cảnh của chúng ta vào thời điểm tháng Tư, 1975. Đa số những người tị nạn Afghanistan được giải cứu, là vì họ có mối liên hệ chặt chẽ với chính phủ Hoa Kỳ. Cộng tác làm việc, và chiến đấu sát cánh bên cạnh quân đội đồng minh trong suốt 20 năm, để chống lại Taliban và ISIS. Nhiều người đã chết trong các công tác yểm trợ, cũng như bảo vệ cho sự an toàn của công dân Mỹ tại Afghanistan. Vì những lý do trên, sau cùng họ cũng đã may mắn được đưa ra khỏi đất nước đầy những rối loạn này.

Tuy nhiên điểm khác biệt lớn lao là, nước Mỹ đã không chuẩn bị cho một kế hoạch di tản có bài bản như 46 năm trước, khi Sài Gòn sụp đổ. Hiện nay, rất nhiều cơ quan thiện nguyện đã ngưng hoạt động, chỉ còn lại khoảng 3 VOLAG có mặt tại Los Angeles và Orange County, nhưng vì thiếu sự tính toán kỹ lưỡng của những người trách nhiệm, khiến cho dân tị nạn Afghanistan đã không được sự hỗ trợ của các nhà thờ hay họ đạo, hoặc các nhà bảo trợ, vì thế họ đang phải sống tạm bợ ở các motel hay hotel quanh vùng LA và OC để chờ khi thuê được nhà.

Khổ một nỗi là những người khách lạ, chân ướt, chân ráo đến đây thì đã làm gì có credit mà các vị landlord đòi hỏi. Việc làm cũng chưa có thì làm sao mà chủ nhà dám cho thuê?

Nhưng nếu có dịp ngồi xuống, để thuyết phục quý vị chủ nhà, thì tôi sẽ phân tích để họ biết rằng: Những người tị nạn Afghanistan này sẽ nhận được tiền định cư là $2275.00 cho mỗi đầu người để chi tiêu trong vòng 3 tháng đầu. Sau thời gian đó nếu chưa có công ăn việc làm thì họ sẽ nhận được chính phủ giúp đỡ qua hình thức trợ cấp xã hội. Và như thế thì xem như họ sẽ có đủ tài chánh để sống (tương tự như cộng đồng người Việt của chúng ta ngày trước).

Họ cũng được phép đi làm ngay sau khi xuất trại, và vì là những thông dịch viên cho quân đội HK, hoặc nhân viên của các công sở Mỹ, cho nên hầu hết đều có khả năng Anh ngữ, sẵn sàng để nhận việc làm.

Chính vì thế mà các cơ quan định cư cùng tổ chức thiện nguyện Afghan Refugee Relief, tha thiết kêu gọi cộng đồng người Việt tiếp tay và giúp đỡ những điều sau đây:

1. Xin quý vị có nhà cho thuê, vui lòng thông cảm và giảm bớt sự đòi hỏi về credit cũng như security deposit trong lúc này cho đến khi họ có công ăn, việc làm.

2. Nếu quý vị chủ nhân các cơ sở thương mại, hãng xưởng hay nhà hàng, cần người giúp việc, cũng có thể cung cấp việc làm cho những người tị nạn mới mẻ này.

3. Nếu quý vị không phải là chủ nhà, nhưng muốn giúp đỡ họ trong bước đầu khó khăn này, thì quý vị có thể: Một là người co-sign để họ được thuê nhà. Hai là giới thiệu họ với các vị landlord mà quý vị đã và đang quen biết. Ba là nếu có dư chỗ thì cho họ được trú ngụ tạm một thời gian.

4. Ngoài ra, quý vị cũng có thể đứng ra bảo trợ một gia đình hoặc giúp đỡ, cung cấp đồ dùng trong nhà, furniture, TV, tủ lạnh hoặc tài chánh v..v…  

XIN QUÝ VỊ HẢO TÂM LIÊN LẠC NGAY VỚI:
Cô SONIK SADOZAI hoặc Cô HOOMAI SAYED
AFGHAN REFUGEE RELIEF
(949) 527-5168
IG: @afghanrefugeerelief 
{tất cả mọi sự đóng góp đều được trừ thuế via Afghan Literacy Foundation, a 501(c)(3) nonprofit organization}

XIN TRẢ ƠN NHỮNG NGƯỜI ĐI TRƯỚC, BẰNG CÁCH GIÚP ĐỠ NHỮNG KẺ ĐẾN SAU.

Nam Lộc
Mùa Tạ Ơn, 2021

Tuesday, October 26, 2021

Người Đi Tìm Quá Khứ Giao Chỉ đọc hồi ký Kiều Chinh

(Đoạn mở đầu viết lúc chưa đọc sách, đoạn sau viết sau khi đọc sách)              

Nhà xuất bản nổi tiếng của Hoa Kỳ Barnes and Noble vừa phát hành cuốn hồi ký 500 trang của Kiều Chinh. Giới văn chương Mỹ gọi cô là nghệ sĩ lưu vong. Tra cứu trên Internet chúng ta thấy bản văn Anh ngữ nhà Barnes khen ngợi tác giả. Bản văn Việt Ngữ khen ngợi cô Kiều Chinh do nữ đại úy Phan của quân lực Mỹ viết. Cuốn hồi ký đặc biệt này đã ghi bán 30 đồng giấy thường và sách bìa cứng giá 40 đồng. Đại úy Phan là nữ quân nhân trẻ hiếm có đọc được cuốn hồi ký tiếng Việt đã ước mong rằng sẽ có phiên bản Anh Ngữ sớm phát hành. Trong cộng đồng Việt Nam cũng đã có khá nhiều hồi ký chính trị của các nhà lãnh đạo và các nhân vật nổi tiếng trong trường văn trận bút. Nhưng rất hiếm những cây bút nữ lưu Việt Nam viết hồi ký văn nghệ. Trong giới điện ảnh thì chỉ có riêng Kiều Chinh. Đã có nhiều tác giả viết về con người thường được coi là đệ nhất minh tinh của màn ảnh miền Nam Việt Nam từ sau cuộc di cư 1954. Bây giờ đến lượt Kiều Chinh viết về mình. Xem ra có phần muộn màng. Một số lớn khán giả của cô không còn nữa. Chẳng còn Mai Thảo để điểm sách hay Nguyên Sa để đọc thơ. Ngay như bạn ta Bùi Bảo Trúc cũng chờ đợi mãi không được, đành bỏ đi. Đặc biệt các danh tài văn nghệ nữ giới dù cao niên bao nhiêu các khán giả muôn đời vẫn thấy còn trẻ mãi nên suốt đời luôn gọi là cô. Cô Thái Thanh. Cô Thanh Nga. Cô Kiều Chinh. Dù cô còn đó hay cô đã đi xa. Tiếc thay các cô đi xa mà chẳng để lại Hồi Ký. May thay cô Kiều Chinh chưa vội đi xa và còn để lại hồi ký. Tác giả mới gọi cho chúng tôi nói là sách đã có rồi. 500 trang bìa cứng thì dù nội dung ra sao quả thực cũng là một tác phẩm nặng ký đấy. Hỏi rằng sách có nói gì đến ông Trump hay Biden không. Không có đâu. Nếu vậy sách này hiền. Có nói đến trận Covid 19 không? Không có. Nếu vậy sách này lành mạnh. Sách đã chích đủ 2 kỳ. Nếu vậy Hồi Ký này khỏe mạnh đấy. Có thể đọc mà không phải đeo khẩu trang. Anh Giao Chỉ sẽ order nhà Barnes để xem Kieu Chinh By Kieu Chinh ra sao. Như vậy sách sẽ không có chữ ký. Bèn đi máy bay xuống nhận sách có chữ ký của tác giả. Tò mò xem cô Kiều Chinh viết về cô ra sao

Một cuộc đời nên quay thành phim: 

Sau cùng tôi đã đọc hết 500 trang sách. Dù đã quen biết đôi chút với đệ nhất minh tinh Việt Nam, và đọc khá nhiều sách và tài liệu viết về Kiều Chinh nhưng phải đọc hồi ký này mới thực sự biết rõ về cuộc đời của cô kiều nữ Nguyễn Thị Chinh. Quả thực không thể thuật sự tóm tắt về cả cuộc đời, nhưng có thể ghi lại những nhận xét để giúp cho quý độc giả muốn biết tin tức. Kiều Chinh không phải là nhà văn. Không phải là cây viết chuyên nghiệp nên tác phẩm đã có người biên tập. Một nhà thơ làm công việc này và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Chúng ta có thể hiểu rằng KC đã ghi chép và ngồi kể lại cuộc đời để người chấp bút viết lại. Một tác phẩm công phu với rất nhiều chi tiết, đầy đủ hình ảnh và những tình tiết éo le hấp dẫn từng phân đoạn. Tôi nghĩ rằng tác phẩm nên ghi tên nhà thơ chấp bút. Các hồi ký danh tiếng của thế giới đều có tên người biên tập. Mai này nếu có ai nghĩ rằng nên quay cuộc đời KC thành phim thì diễn tiến của tác phẩm hết sức đầy đủ và phong phú. Bao gồm cả bi kịch và rất nhiều giây phút vinh quang hào hứng.

Những lần tuyên dương và những giải thưởng.

Kiều Chinh trong suốt cuộc đời đã được gặp biết bao nhiêu danh nhân thế giới. Được nhận sự khen ngợi và tưởng thưởng của rất nhiều lãnh vực và trong nhiều hoàn cảnh. Các vị nguyên thủ quốc gia, các tỷ phú giám đốc công ty thương mại và điện ảnh. Các vị lãnh đạo tôn giáo. Nhưng nếu độc giả lưu ý sẽ thấy trường hợp vô cùng đặc biệt là trước giây phút lâm chung cô dâu Nguyễn Thị Chinh đã được sự khen thưởng của bà mẹ chồng khó tính. Con Chinh đâu rồi, lại đây để mẹ cảm ơn. Không lời khen ngợi nào giá trị hơn. Một tuyên dương đặc biệt khác là giây phút KC cùng với các cựu quân nhân Mỹ tại VN khánh thành trường tiểu học cho trẻ em nghèo làng Mọc là làng quê của thân phụ. Không có ai trao giải hay tuyên dương người tài tử danh tiếng trở về trả nợ quê hương. Nhưng chính hoạt động nhân đạo này đã đem lại oan khiên chính trị khi cô bị lên án theo cộng sản và chịu nhục nhã bị đuổi xuống tại diễn đàn Bolsa khi lên giới thiệu thượng nghị sĩ McCain

Những chuyến bay và những giây phút trên mây. 

Trong suốt cuộc đời KC là người đi mây về gió nhiều nhất. Hàng trăm chuyến bay. Nếu không phải là bạn bè của các tỷ phú thượng hạng làm sao có cơ hội nằm ngủ trên giường bay trên phản lực tư nhân bay về Việt Nam khi đi công tác việc thiện. Ai được mời bữa ăn tối giữa đại đô thị Hoa Kỳ đưa rước bằng trực thăng từ nóc nhà cao ốc này đến nóc nhà cao ốc khác. Cùng với biết bao nhiêu chuyến đi từ phi trường này đến phi trường khác có người đưa đón hay chỉ một mình lẻ bóng. Phải kể thêm cả những chuyến bay vô định vào những ngày vô tổ quốc sau 30 tháng tư 1975. 

Bi kịch của đời người nổi tiếng.

Tác phẩm dành rất nhiều trang để nhắc lại bi kịch đau thương của bà mẹ với người con trai trong tai nạn. Không phải chỉ vì tình thương mà gồm cả lòng can đảm khi đòi hỏi chứng kiến các chuyên viên trực tiếp cứu chữa bệnh nhân. Thêm một chương khác đã viết về niềm thất vọng cùng cực khi KC đã quyết định tự vẫn. Những đoạn đời này tuy là thảm kịch nhưng cũng đã vô tình đem lại quân bình cho một tác phẩm không phải tất cả đều là khải hoàn ca.

Bốn nhân vật trong một cuộc đời.  

Sinh ra trong một gia đình giàu có, nhưng bất hạnh trở thành mồ côi mẹ lúc niên thiếu và xa rời người cha thân yêu lúc trưởng thành. KC trong suốt cuộc đời đã đóng vai một người vợ bị bỏ rơi, một bà mẹ đơn thân. Nhưng đời người đàn bà bị tình phụ lại trở thành cơ hội của định mệnh. Ai đưa con sáo sang sông. Con sáo sổ lồng, con sáo bay xa. Là một tài tử duy nhất của VN đóng hàng trăm phim danh tiếng từ trong nước đến hải ngoại. Trong tất cả các bộ phim đều là hình ảnh của thế giới tự do. Vai trò thứ ba gần như là diễn giả Anh ngữ duy nhất của Việt Nam đi nói chuyện chuyên nghiệp có khế ước thù lao. Hàng trăm lần thuyết giảng đều là các đề tài văn hóa xã hội ca ngợi nhân quyền và quyền bình đẳng của phụ nữ. Sau cùng KC cũng là nhân vật đi làm việc thiện tình nguyện cùng các tổ chức bất vụ lợi Hoa Kỳ hướng về quê hương Việt Nam. Trải qua bao năm chinh chiến người chiến binh Hoa Kỳ và Việt Nam đã chiến đấu bên nhau. Ngày nay cựu quân nhân Mỹ trở lại Việt Nam trên cả 3 miền đất nước qua sứ mạng hòa bình xây trường cho con trẻ. Kiều Chinh là phụ nữ duy nhất miền Nam nhập cuộc. Cô tham dự cuộc chiến tranh chính trị bên cạnh các chiến binh Hoa Kỳ. Cả 4 vai trò đều vượt qua điểm trung bình đến gần hoàn thiện. Điều đáng ghi nhận là trong vai trò làm vợ, làm dâu và làm mẹ Việt Nam, cô bé di cư Bắc Kỳ 16 tuổi đã làm tròn bổn phận. Suốt cuộc đời tài tử, diễn giả và xã hội người mẹ đơn thân không bị lôi cuốn vào những chuyện ái tình tục lụy tuy rằng đã gặp nhiều cơ hội. Nhiều chuyến đi huy hoàng trong những vai quan trọng, tác giả đã dành 1 chương viết về chuyến đi của một phật tử cô đơn, lôi thôi, lếch thếch kéo theo hành trang tìm về nước Phật.

Đặc điểm của hồi ký. 

Đây là cuốn sách mà tác giả tự mình đi tìm lại quá khứ. Sự xuất sắc của một con người không hề được trang bị đầy đủ khi bước vào đời. Tác giả không phải là người có trình độ đại học. Không qua một lớp huấn luyện về kịch nghệ. Khởi sự từ nghịch cảnh, xa cách anh chị và người cha ngay từ tuổi thơ trong hoàn cảnh di cư đất nước chia đôi. Với thân hình cao và thon thả, cô gái trở thành thiếu phụ đi đóng phim và quen biết với giới văn nghệ và lấy trường đời làm lớp học. Người phụ nữ lễ giáo không buông thả đã sống trong tinh thần tự lập và đạo đức để đạt được thành công. Khéo léo trong giao tế, có thiên phú về diễn xuất và Anh ngữ nên đã sớm trở thành một phụ nữ kiểu mẫu và điển hình trong chiến tranh cũng như sau này ở thời hậu chiến. Nhưng cũng phải ghi thêm rằng nàng là người có nhiều tham vọng và nắm bắt được cơ hội qua tình bằng hữu.

 Hoa Kỳ là miền đất của cơ hội. 

KC với sự giao thiệp tinh tế và khôn ngoan nên có rất nhiều bạn bè ở mọi nơi và mọi quốc tịch. Đã gặp nhiều cơ hội giúp cô vượt qua nghịch cảnh. Duy có một điều là người nổi tiếng KC dù có bao nhiêu bạn bè nhưng sau cùng cũng vẫn rất cô đơn. Bao nhiêu người thân được chia xẻ những giây phút vinh quang hay những ngày thăng hoa trong điện ảnh. Ai chứng kiến trong những lần diễn giả nói chuyện với 3 ngàn khán giả đứng lên vỗ tay. Niềm vui này ai là người để chia xẻ. Làm sao người nổi tiếng đã có được những giai đoạn sống đặc biệt như thế. Phải chăng vì cuộc sống riêng tư gia đình không hạnh phúc. Ai đưa lối, ai dẫn đường để tìm những lối đoạn trường mà đi. Phải chăng chính cuộc chiến tranh Việt Nam đã đưa thiên hạ tìm đến một phụ nữ Việt Nam được chọn làm tài tử toàn thời gian lâu dài đến thế. Người nổi tiếng cô đơn trong những chuyện đi về và trong cả những giấc ngủ đợi chờ trình diễn từ những chân trời xa lạ. 

Sau cùng tác giả nào cũng phải về già. Nàng đã cố xây dựng một CÕI TÔI cho tuổi hoàng hôn, nhưng rồi phải thay đổi xuống cấp đến 5 lần. Cõi riêng cứ nhỏ dần. Rồi cũng như mọi người, cõi riêng khi thành cát bụi thì cũng sẽ như chúng ta. Trong lòng đất ai cũng sẽ có ngôi nhà một phòng ngủ cho giấc ngàn thu nhỏ bé. Không cần phóng tắm. Chẳng bận tâm nóng lạnh hay điện nước. Nhưng hơn mọi người nàng để lại một hồi ký 500 trang kể rằng đã có lần buồn muốn chết nhưng rồi phải sống lại để gửi đến bằng hữu. Ra mắt sách để tìm lại chính mình.

Tháng qua, tôi xuống quận Cam gặp một bà già thanh tú ngoài 80 mà sao còn khỏe mạnh, gương mặt quen thuộc lái xe nhanh nhẹn. Ai mà trông như Kiều Chinh sao còn trẻ vậy. Tôi nhận được sách tặng có chữ ký . Xin cảm ơn bằng bài viết chân tình. 

Năm 1954 có anh thiếu úy rất trẻ dẫn lính đi làm phu khuân vác đón di cư. Ngày chẵn công tác ở bến tàu, ngày lẻ ở phi trường. Có nhiều cô gái Hà Nội ngu ngơ tròn mắt ngắm cảnh Sài Gòn. Trong số này có cả cô bé Nguyễn thi Chinh 16 tuổi.

Giao Chỉ San Jose

OCEAN VUONG: MỘT NHÀ THƠ LỚN, THIÊN TÀI GỐC VIỆT Tăng Quốc Kiệt

Giải Nobel văn chương trong tương lai gần? Có lẽ còn quá sớm để tiên đoán điều này, nhưng Ocean Vuong quả là 1 người có tài làm thơ, dù tôi chỉ hiểu chút ít thơ tiếng Anh. Biết chàng trai trẻ này là do con gái muốn có 1 cuốn sách của Ocean như là quà tặng sinh nhật. Đọc xong con cũng khen hay và kể là Ocean có 1 tuổi thơ rất buồn.
Chắc là Ocean không biết nhiều tiếng Việt vì ai dạy cho cậu trong khu đa phần là dân da đen sinh sống?
Chỉ có 1 hy vọng nhỏ là cậu có quan tâm đến số phận người Việt đang hồi rất bi thảm.
__________________
Một người Mỹ gốc Việt (quê mẹ ở Gò Công, Tiền Giang. Sau 30.4.1975 vượt biên và sau đó định cư ở Mỹ) 33 tuổi, vừa được trao một giải thưởng văn chương danh giá của Mỹ trị giá $625.000. Anh được người Mỹ đánh giá là thiên tài văn chương mới của nước Mỹ.
Các tập thơ và tiểu thuyết của anh được phát hành trên khắp thế giới với 30 ngôn ngữ. Giới chuyên môn nhận định anh có khả năng sẽ đoạt giải Nobel văn chương trong tương lai không xa.
Trong số xuất bản năm 2016, tạp chí Foreign Policy (Mỹ) bình chọn anh là một trong 100 nhà tư tưởng hàng đầu của nhân loại.
***
Fb Nguyễn Phú Yên 
 
OCEAN VUONG: MỘT NHÀ THƠ LỚN, THIÊN TÀI GỐC VIỆT
Tăng Quốc Kiệt
“Có những người con làm rạng danh cha mẹ
Có những con dân làm rạng danh Tổ quốc”.
Tôi hỏi 8 người bạn thích đọc sách, có biết Ocean Vuong là ai không? Tất cả đều trả lời là không, vậy là tôi nằm trong khối đa số hơi hổ thẹn, vì không biết đến một nhân tài gốc Việt, sống ở Mỹ, một thi sĩ mà người bản xứ không tiếc lời ca tụng, cho giải thưởng về thơ (genius prize) trị giá 625.000 đô la.
Thơ của em, Night sky with exit wound (Trời đêm với những vết thương xuyên thấu) và quyển tiểu thuyết Trên trái đất chúng ta một thoáng huy hoàng (On the earth, we’re gorgeous) được dịch ra 30 thứ tiếng kể cả tiếng Việt ở VN, quyển tiểu thuyết được báo New York Times cho là “biến cố văn chương” của năm 2019, và nằm trong danh sách best sellers trong 6 tuần liên tiếp. Đó là lý do vì sao tôi viết bài này.
XUẤT THÂN
Từ đây, tôi gọi tên em là Vương Hải, chứ không gọi Ocean Vuong như người Mỹ.
Em sinh năm 1988, bà ngoại tên Lan, mẹ tên Hồng, gốc người Gò Công, gia đình 6 người vượt biên qua trại tị nạn Philippines, ở đó 1 năm, định cư ở Mỹ năm 1990 lúc Hải được 2 tuổi. Gia đình 6 người cư ngụ trong một căn hộ chung cư có một phòng ngủ, ở vùng da đen Harford, Connecticut. Nơi đây đã để lại dấu ấn trong đời và trong thơ văn của Hải. Cho tới khi tiếp xúc với bên ngoài, em cứ nghĩ nước Mỹ là của người da đen.
Tên khai sinh do cha đặt là Vương Quốc Vinh, sau khi người cha đi tù vì tội bạo hành đánh vợ, ly dị mẹ em, bỏ nhà ra đi, người mẹ quyết định đổi tên em là Hải để cắt đứt với quá khứ.
Trong một lần phỏng vấn, được hỏi nguồn thơ của em từ đâu ra, em trả lời là mặc dù mẹ em mù chữ, nhưng khi đặt tên em, bà nghĩ đến Thái Bình Dương, là biển nối liền Mỹ với quê hương VN là có ý thơ rồi (phải chăng bà đã nghĩ đến câu hát: “Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình, dạt dào”). Hơn nữa, em được giáo dục bởi 3 người đàn bà: bà ngoại, mẹ và dì Mai, đã đọc thơ, kể chuyện, hát ca dao cho em nghe, do đó thơ, từ thuở nhỏ đã thấm vào hồn em.
Bà ngoại Lan, là người mù chữ, cũng như mẹ em và dì Mai, có lẽ trong gia đình có gen mang chứng khó đọc chữ (dyslexia) vì người em của Hải đã bị chứng này.
Thời trẻ bà ngoại bỏ nhà ra đi, làm me Mỹ, gặp ông ngoại là người Mỹ da trắng, tên Paul, gốc nông dân ở Michigan, cũng bỏ nhà, đăng lính hải quân, qua chiến đấu ở VN.
Bà ngoại sinh 2 cô con gái, giống Mỹ nhiều hơn giống Việt. Có lúc vì khó khăn, bà phải bỏ con vào cô nhi viện khi chồng về Mỹ năm 1971 và không trở lại.
Chính bà ngoại là người đã kể cho Hải nghe chuyện chiến tranh VN, do đó, dù đến Mỹ năm 2 tuổi, chiến tranh VN bàng bạc trong thơ văn của Hải. Có thể nói, Hải rời VN nhưng VN không rời Hải.
Mẹ Hải, bà Hồng, sống bằng nghề làm móng tay.
Hải là người đồng tính, năm 17 tuổi, lần đầu tiên em thổ lộ với mẹ và được bà chấp nhận.
Người tình đầu của em là Trevor, gốc da trắng, con của một nông gia trồng thuốc lá, là đề tài mà em đã viết trong thơ và trong quyển tiểu thuyết hết sức sống động. Sau đó Trevor chết vì chích ma túy quá liều.
Hình ảnh người cha vắng mặt trong đời em, được tả một cách nhạt nhòa bàng bạc trong thơ văn của Hải.
 
QUÁ TRÌNH HỌC VẤN
Hải đi học mẫu giáo hồi 5 tuổi, nhưng mãi tới năm 11 tuổi em mới đọc và hiểu được tiếng Anh một cách thông thạo.
Sau đó em thường đi thư viện và miệt mài trong sách vở. Em kể khi nghe băng bài diễn văn của mục sư Martin Luther King Jr “I have the dream” thì em bắt đầu có mộng lớn của riêng mình.
Chú bé cô đơn, bị hiếp đáp trên xe bus, trên đường đi học, tìm an ủi trong sách vở, bắt đầu làm thơ. Thầy giáo nghĩ là em đạo văn, ông không thể tưởng tượng một đứa học trò nghèo, xuất thân từ gia đình mù chữ, phát âm chữ THE cũng ngọng thì làm sao có thể làm thơ hay như vậy, nên phạt em về tội ăn cắp, ăn cắp thơ! Nhưng ông giáo đã lầm, một thiên tài vừa xuất hiện mà ông không biết!
Em kể: tôi viết rất chậm, xem từ ngữ như một vật thể, tôi luôn cố tìm từ ngữ trong từ ngữ:
Tôi bước vào đời mình
Cách từ ngữ
Bước vào tôi
Nói về chuyện đọc sách, em viết:
Ôi thằng con ngốc
Con có thể lạc lối trong mọi cuốn sách
Nhưng không bao giờ quên được chính mình.
Vào đại học, lúc đầu em chọn marketing vì hi vọng sẽ kiếm được nhiều tiền để giúp gia đình, nhưng sau 8 tuần thì em bỏ học vì biết mình đã chọn sai, nên đổi qua Brooklyn College của Đại học New York để theo học văn chương Anh thế kỷ 19. Em lấy bằng BA, sau đó tốt nghiệp MFA về thơ của Đại học New York, hiện nay làm giảng sư MFA ở Đại học Massachusetts, TP Amherst.
Quyết định chuyển ngành học từ marketing qua văn chương là điều may cho chính bản thân Hải, cho nước Việt và cho thế giới thi ca: một nhân tài có dịp để thăng hoa.
 
CÁC GIẢI THƯỞNG:
2010 (22 tuổi): Academy of American Poets University and College Poetry Prize.
2012 : Stanley Kunitz Prize for younger poets.
2013 : The Elizabeth George Foudation Fellowship.
2013 : Chad Walsh Prize, Beloit Poetry Journal.
2014 : Pushcart Prize.
2014 : Ruth Lily/Sargent Rosenberg Fellowship.
2015 : The Narrative Prize.
2016 : Whiting Award for Poetry.
2017 : Forward Prize for Poetry Felix Dennis Prize for Best First
Collection
2017 : T. S Eliot Prize
2018 : Kundman Fellowship
2019 : Mac Arthur Fellow (625.000 US $) với lời bình: “kết hợp truyền thống dân gian với những thử nghiệm ngôn ngữ”.
2020 : Dylan Thomas Prize - Shortlist for On earth We’re Briefly Gorgeous.
2020 : NAAAP Pride Award
New Yorker bình luận: “Ocean Vuong là người sửa lại ngôn ngữ tiếng Anh”.
Tạp chí Foreign Policy bình chọn Ocean Vuong là 1 trong 100 nhà tư tưởng hàng đầu của nhân loại, năm 2016.
SỰ NGHIỆP:
Viết tiểu luận cho các báo: Poetry, The Nation, TriQuarterly, Guernica, The Rumpus, Boston Review, Narrative Magazine, The New Republic, The New Yorker, and The New York Times.
* Đã xuất bản: Burning (2011), No (2013), Night sky with exit wound (2016), On earth we’re briefly gorgeous (2019).
 
LƯỢC QUA TẬP THƠ “TRỜI ĐÊM VỚI NHỮNG VẾT THƯƠNG XUYÊN THẤU”
HÌNH THỨC: Khổ nhỏ, dày 84 trang, xb năm 2016, nxb Copper Canyon Press, đề tặng mẹ [và ba tôi] sách đã được dịch sang tiếng Việt ở VN.
NỘI DUNG: gồm 35 bài thơ, tựa các bài thơ đôi khi khó hiểu cho người không rành thần thoại Hy Lạp, vài ví dụ: Tellemachus (tên người con của Ulysse & Penelope trong tập thơ Odysse của Homer), Trojan, Eurydice, Odysseus redux…
Có nhiều ẩn dụ khó hiểu ý tác giả, nhưng khi hiểu được thì ý nghĩa thâm trầm sâu sắc.
Vần điệu theo kiểu thơ tự do, rất du dương, rất thơ.
Ví dụ:
It’s hind legs croshed into the shine of white christmas
In the square below, a nun on fire, runs silently toward her god
Beneath sound of his own.
(Hai chân sau của nó được tạo thành ánh sáng của cây giáng sinh trắng
Ở quảng trường bên dưới, một nữ tu đang bốc cháy, đang lặng lẽ chạy về phía vị thần của mình
Bên dưới âm thanh của riêng mình).
Trong tập thơ, Hải viết bằng tiếng Việt nhiều lần, có cả dấu:
tặng mẹ [và ba tôi]
Ba
Bà ngoại, Hạ Long bay, Củ Chi, Vietnam, Cà pháo, Gia đình
Lan ơi, em khoẻ không. Giờ em đang ở đâu…
Theo Tupelo Quartely: Thơ buồn, đẹp. Sexy một cách dữ tợn, đụng chạm đến chính trị. Biểu lộ nỗi ám ảnh của người đồng tính luyến ái. Người Pháp nói: “traduire c’est trahir” (dịch là phản), do đó độc giả nên tìm đọc nguyên bản tiếng Anh mới cảm nhận được cái hay, cái du dương của ngôn ngữ mà tác giả đã dày công sáng tác.
Tôi xin trích vài bài dịch thơ, nói về các người thân của Vương Hải.
 
VỀ MẸ:
* Trong bài thơ Rồi có một ngày, ta sẽ yêu Ocean Vương
Hải, bạn đang nghĩ gì?
Phần đẹp nhất của cơ thể là bất cứ nơi đâu.
Phủ hình bóng mẹ (trang 82)
* Trong bài thơ Đầu ra trước (head first)
Nhưng chỉ có người mẹ, có thể bước đi, với sức nặng của nhịp đập của quả tim thứ hai (trang 20)
Tôi nghĩ tôi thương mẹ nhiều lắm (trang 70)
Con thương mẹ, mẹ ơi (trang 7)
Không có gì bằng cơm với cá,
Không có gì bằng má với con (thành ngữ VN, trang 20)
 
VỀ CHA:
Đừng lo, cha mày chỉ là cha mày.
Cho đến, khi một người trong nhà quên mất.
Giống như cách mà xương sống,
Không nhớ hai cánh tay.
 
VỀ BÀ NGOẠI :
* Trong tập thơ Burning
Ngoại tôi hôn.
Như thể bom đang nổ sau nhà,
Nơi mà bạc hà và hoa lài toả hương,
Qua cửa sổ bếp,
……….
Khi ngoại tôi hôn, sẽ không
Có âu yếm cầu kỳ, không âm nhạc Tây phương
Của đôi môi mím chặt, ngoại hôn như để hút lấy
Bạn vào trong bà.
Vương Hải như đóa sen, mọc từ bùn, vươn lên và tỏa hương. Em đi từ no one (không là ai) trở nên anyone (bất cứ ai) rồi trở thành someone (một người hơn người).
Tôi theo dõi nhiều buổi phỏng vấn, các buổi đọc thơ của Vương Hải trên các chương trình TV Mỹ, Canada, Pháp, Đức. Điều đập vào mắt tôi là cách em chào cử tọa, em cúi mình thật thấp. Người Nhật bảo: những hạt lúa chín là những hạt lúa cúi đầu - thái độ thật khiêm tốn, ăn mặc giản dị, giọng nói nhẹ nhàng của phái nữ, trầm bổng đầy chất thơ.
Thật khó tưởng tượng một chú bé, thuở nhỏ nói thứ tiếng Anh của người da đen ít học, một lần ở tiệm Sears, người bán hàng hỏi có phải em là con nuôi của mẹ em (vì mẹ là con lai Mỹ rất trắng), em trả lời không, tôi từ asshole của mẹ tôi ra. Ngày nay, em sử dụng thứ tiếng Anh hết sức trau chuốt của giới trí thức khoa bảng.
Em kể lại, thuở nhỏ, bài học đầu tiên mà bà ngoại và mẹ em dạy để sinh tồn ở nước Mỹ là coi chừng, đừng để ai chú ý tới mình. Vì mình là người Việt da vàng đã khác họ rồi, mục đích là mình phải làm sao để trở nên vô hình, mẹ dạy con phải tự biến mất. Em hiểu là người lớn muốn cho em được yên thân, được an toàn (ngày nay với phong trào bài Á, những lời khuyên đó có còn đúng không?)
Có sự khác biệt giữa thế hệ thứ nhất và thế hệ thứ hai. Thế hệ thứ hai muốn người ta biết đến mình, để vươn lên: có chúng tôi đây, chúng tôi tự hào về mình. Thế hệ thứ nhất dạy con mình biến đi, tự vệ bằng cách tự xóa mình.
Theo Vương Hải, để được biết đến em phải trở thành nghệ sĩ.
Tôi mong em sẽ đi xa hơn nữa (vì em còn quá trẻ, 33 tuổi) trong sự nghiệp sáng tác của mình để đạt được Nobel văn học.
Tiếc cho em, khi đã đạt được vinh quang, thoát khỏi cảnh nghèo, thì những người thân lần lượt ra đi: bà ngoại, người đã dạy văn chương bình dân VN cho em, kể cho em nghe về cuộc chiến tàn khốc, đã chết vì ung thư xương giai đoạn cuối, mà em đã tả một cách sống động trong quyển tiểu thuyết.
Người mẹ mà Hải hết lòng thương yêu (Con thương mẹ, mẹ ơi) cũng đã ra đi vì ung thư vú di căn. Người mẹ, làm việc trong tiệm nail, suốt ngày phải cúi đầu giũa móng tay, móng chân cho khách, luôn miệng nói sorry, sợ làm đau khách sẽ không được tip.
Một bữa, sau khi dự buổi ra mắt sách của Hải, nghe con đọc thơ tiếng Anh mà bà chẳng hiểu gì, chỉ quan sát cử tọa, bà mẹ bật khóc nức nở vì sung sướng. Bà nói với Hải: “Má không bao giờ nghĩ là mình sẽ sống để nhìn thấy ngày những người da trắng, đứng tuổi, vỗ tay tán thưởng con của má”.
Hải đã trả hiếu cho mẹ rồi: bằng sự thành công của em, khi em được đánh giá là thiên tài của nước Mỹ. Có chăng một chốn gọi là chín suối? Nếu có, chắc mẹ em đang nở nụ cười mãn nguyện: nhiệm vụ của bà đã hoàn thành.
Cám ơn Vương Hải, đã cho tôi niềm hãnh diện của người Việt Nam.
“Summer in the mind,
God opens his other eye:
Two moons in the lake”.
Vương Hải
T.Q.K.
(1-5-2021)

Đại Sứ Ngô Đình Luyện

  

Ông Ngô Đình Luyện là con út trong gia đình cụ Ngô Đình Khả, ông Luyện đã tốt nghiệp văn bằng kỹ sư tại École Central de Paris, ông là người được hấp thụ nền văn hóa Tây Phương nhiều nhất trong gia đình. Phu nhân ông Luyện cũng thuộc gia đình giàu có, danh giá tại miền Nam Việt Nam.

Trong số các anh em cụ Diệm, ông Luyện là người ít được nhắc đến nhất, nhưng ông lại là người chiếm được nhiều tình cảm của những người xung quanh nhiều nhất. Ngay cả khi ông làm việc ở ngoại quốc, ông cũng đã được những người làm việc chung với ông yêu mến kính phục. Có lẽ vì tính tình ông Luyện phóng khoáng, cởi mở, giản dị và thậm chí còn được coi là người ... ham vui.
Ông bà Luyện cùng các con sống ở ngoại ô thành phố Paris từ năm 1954 cho đến khi qua đời. Và qua nhiều nhân chứng làm việc trong chính quyền thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm nói lại, thì trong số anh em cụ Diệm, ông Ngô Đình Luyện là người có công lớn trong việc xây dựng nền móng nền Đệ Nhất Cộng Hòa lúc ban sơ.
Ông Luyện đã có thời gian cùng học chung với cựu hoàng Bảo Đại tại Pháp, nên hai người rất thân với nhau. Khi ông Ngô Đình Diệm được vua Bảo Đại chọn và đề cử về nước giữ chức vụ Thủ Tướng, lúc đó ông Ngô Đình Luyện còn ở bên Tây làm Đặc Sứ, nhưng ông thường về Sài Gòn giúp ông anh tiếp xúc với người nầy, giao thiệp với người kia, trao đổi với người nọ, thuyết phục, lôi kéo họ thôi chống đối, về hợp tác với chế độ mới, vì khi mới về cầm quyền ở Sai Gòn, ông Ngô Đình Diệm bị nhiều người, nhiều phe phái chống đối, coi như tứ bề thọ địch, nên ông Diệm cần có ông Luyện ở bên cạnh để cùng lo tìm cách đối phó với những khó khăn của thời cuộc, đối phó với những cuộc chống đối của tướng Nguyễn Văn Hinh, của Bình Xuyên, Hòa Hảo v.v …
Tổng Thống Ngô Đình Diệm cũng muốn có một người tài giỏi, tín cẩn làm đại diện cho Việt Nam ở Âu Châu, nên ông Luyện được cử giữ chức vụ Đại sứ Việt Nam tại Anh Quốc. Vì thế trước khi lấy một quyết định ngoại giao quan trọng, đối với bất kỳ một quốc gia nào ở Âu Châu và Bắc Phi, Tổng Thống Ngô Đình Diệm thường tham khảo ý kiến trước với ông Luyện.
Sự bất đồng chính kiến giữa ông Nhu và ông Luyện trở nên rõ rệt, qua vụ truất phế Bảo Đại, vì chính ông Luyện đã đóng vai trò giao liên dàn xếp với Bảo Đại qua vụ chống đối của Tướng Hinh và của Bình Xuyên. Còn ông Nhu thì chủ trương phải truất phế Bảo Đại, để thành lập chế độ Cộng Hòa. Trong thời gian ba tháng qua Pháp để dàn xếp với Bảo Đại vào đầu năm 1955, lúc ông Luyện trở về, thì quyền Cố Vấn đã hoàn toàn nằm trong tay ông Nhu. Tổng Thống Diệm đã dặn riêng mấy người thân cận như Đại Uý Cao, Thiếu Tá Vinh là “ở nhà có chuyện gì xảy ra đừng có kể lại cho ông Luyện nghe". Ý Tổng Thống Diệm không muốn làm phật lòng ông em út, mà Tổng Thống Diệm thương nhất trong nhà.
Việc kẹt nhứt của ông Luyện là ông đã đơn sơ nghĩ là do anh mình mới có vụ truất phế Bảo Đại (*), mà ông Bảo Đại và ông Luyện lại là bạn học chung với nhau ở Paris. Hai ông không những học chung một trường Tây, mà còn học chung chữ Nho với nhau ở tại nhà, khi triều đình gởi qua Pháp một "thầy đồ” để dạy chữ Nho, dạy tứ thư, ngũ kinh, v...v… cho ông Bảo Đại. Vì thế hai người cùng "giồi mài kinh sử" ở trường cũng như ở nhà, coi như "ăn cùng mâm, nằm cùng chiếu.
Khi ông Luyện có bằng kỹ sư, về nước làm việc cho một công ty Pháp. Ông Bảo Đại cũng đã về nước lên ngồi trên ngai vàng. Hai người đi hai con đường khác nhau. Biết rõ ông bạn học rất thân nay đã làm vua, nhưng ông Luyện không tìm đến vua Bảo Đại để cầu cạnh nọ kia. Một hôm tình cờ, vua Bảo Đại gặp ông Luyện ở Quảng Ngãi. Vua mừng lắm, ôm chầm lấy bạn cũ và trách rằng sao đã về nước mà không cho vua hay. Ông Luyện cũng mừng lắm, nhưng chỉ chừng đó, rồi không liên lạc gì với vua nữa.
Sau khi "Trưng Cầu Dân Ý", ông Luyện có gặp lại cựu hoàng Bảo Đại và tưởng rằng cựu hoàng sẽ trách cứ mình nhiều lắm, nên ông Luyện cũng hơi ngại ngùng, nhưng ông Bảo Đại vẫn tự nhiên như không có chuyện gì xảy ra. Khi ông Luyện tỏ ý ân hận vì việc truất phế, thì ông Bảo Đại tự cho rằng lỗi ở ông, và thời cuộc phải diễn tiến như thế, nên không trách cứ gì ông Diệm cả. Thái độ cao thượng đó của cựu hoàng Bảo Đại đã khiến ông Luyện cảm động lắm, ông thường đem chuyện đó kể lại cho nhiều người thân cận nghe.
Đầu năm 1963, khi tình hình miền Nam có nhiều bất ổn, có tin đồn đảo chánh nói đi nói lại nhiều nơi, ông Luyện về Sài Gòn và cũng có ý lo cho anh mình, nhưng không làm gì được. Trở lại Luân Đôn trong một buổi họp nhân viên, ông Luyện hỏi chung chung: "Trong trường hợp hãn hữu mà có một cuộc đảo chánh, thì ông Thính cũng như các anh em khác trong Sứ Quán sẽ đứng đằng sau Tổng Thống chứ?”. Tiến Sĩ Phan Văn Thính đáp lại: “Thưa Đại Sứ, cũng không hẳn là vậy. Chúng tôi ở đây là "công bộc" chứ không phải là "người" của một ai cả. Bao lâu Tổng Thống còn được lòng dân, thì chúng tôi đều đứng sau người. Nhưng khi nào Tổng Thống đi ngược lại ý dân thì chúng tôi không còn phải theo Tổng Thống nữa".
Các nhân viên Tòa Đại Sứ ở Anh lúc đó cho rằng việc làm của Tiến Sĩ Phan Văn Thính là liều lĩnh và gan dạ, vì nói như thế có thể mang họa vào thân. Tuy không đồng ý với T/S Phan Văn Thính, nhưng ông Ngô Đình Luyện cũng không tỏ ra thái độ bất bình hay là sẽ tìm cách trừng phạt. Thật đúng, ông Luyện là người có trình độ, rất hiểu biết, không hay thù vặt.
Nhân dịp ông Ngô Đình Luyện từ Pháp qua Mỹ, anh Nguyễn Linh Tuyên có đón ông đến dự lễ cầu hồn cho Cố Tổng Thống, và hướng dẫn Ông đi thăm mấy nơi ở Orangge County (California), anh Tuyên có nói tôi sang gặp ông Luyện nữa, và tôi đã sang thăm ông.
Trong dịp này tôi được ông kể vài câu chuyện về thời Đệ Nhất Cộng Hòa. Tôi có hỏi tin tức về Bà Nhu bây giờ ra sao, thì ông cho hay Bà Nhu đang sống trong căn Apartment tận lầu 11, ở Paris - Pháp Quốc, và bà vẫn khỏe mạnh.
Ông Ngô Đình Luyện kể: “Có lần tôi ở Pháp về, tôi gặp lại mấy người bạn Pháp và Trung Hoa, họ rủ tôi vô Chợ Lớn ăn cơm, rồi họ mời tôi sang Hong Kong du lịch. Tôi nhận lời và cùng đi với họ. Song lúc tôi trở lại Saigon, về tới Tân Sơn Nhứt, thì có ông Phó Tổng Giám Đốc Quan Thuế và thêm một nhân viên nữa ra đón tôi ở phi cảng. Ông Quan Thuế có vẻ băn khoăn, lo lắng và nói với tôi:
- Thưa Cụ Đại Sứ, xin cụ hiểu cho sự khó khăn của chúng tôi. Nhưng đây là lệnh của Tổng Thống, xin Cụ cho chúng tôi được coi hành lý của Cụ.
Tôi rất ngạc nhiên vì xưa nay tôi đi đâu, kể cả ra ngoại quốc, chưa ai khám xét hành lý của tôi, vì mình đi bằng Thông Hành Ngoại Giao cao cấp, thế mà mình về nước lại bị khám xét bởi lệnh của Tổng Thống. Nhưng tôi bình tĩnh trả lời:
- Tôi đi chơi chứ không phải đi công vụ đâu, chả cần có lệnh của Tổng Thống, các ông cứ làm đúng phận sự của các ông đi.
Sau khi khám xét thấy chẳng có gì, ông Quan Thuế cứ xin lỗi tôi hoài và có vẻ lo lắng. Tôi cảm ơn ông và lên xe ra về.
Về tới Dinh Gia Long, tôi vô thẳng phòng Tổng Thống với vẻ mặt bực bội. Gặp tôi, Tổng Thống cười nói:
- Sao chú? Chắc khó chịu lắm phải không? Tụi nó cứ nói ra nói vào và báo cáo với tôi rằng chú đi Hong Kong gặp tụi Tàu, chuyển bạc về Việt Nam (ngày đó Việt Cộng có nhiều tiền Việt Nam để ở Hong Kong lắm, mà không mang vô Việt Nam được), nên tôi phải cho khám để tụi nó khỏi xuyên tạc và sau này chúng nó không còn báo cáo bậy nữa. Hơn nữa cũng để Quan Thuế biết là họ không phải nể nang một người nào, để cho họ dễ làm việc của mình...”
Kể xong, Ông Ngô Đình Luyện có vẻ thích thú và cười ra tiếng. Ông nói nhiều chuyện về thời Đệ Nhất Cộng Hòa và về cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, và những chuyện vui, buồn trong gia đình. Ông cũng cho biết gia đình ông đông con và sinh hoạt cũng khó khăn lắm, ông kể chuyện từ lúc ông ở Pháp qua Mỹ và trên chuyến bay đến California, cái thắt lưng của ông bị đứt, mà lưng quần của ông thì rộng quá, vì quần áo cũ may lúc còn mập, và nay thì ốm đi nhiều. Biết ông cần có cái thắt lưng, nên một người trên cùng chuyến bay đã lấy thắt lưng của họ đưa ông dùng tạm. Rất tiếc, ông đã không nhớ tên người tặng ông cái thắt lưng đó. 
 
London ngày 11 tháng 11 năm 1958 - Ông Ngô Đình Luyện đại sứ VN tại Luân Đôn có 10 cô con gái, nay có thêm một cậu con trai.
 
Thành ra những lời đồn đãi và dư luận xấu nói về gia đình Tổng Thống Ngô Đình Diệm, thật đúng là xuyên tạc quá đáng. Xem như vậy đều thấy rằng những người trong gia đình Tổng Thống Ngô Đình Diệm, ai cũng có tinh thần tự trọng và trong sạch.

Được biết ông Ngô Đình Luyện đã từ trần tại Pháp ngày 23 tháng 4 năm 1988, hưởng thọ 75 tuổi.
Ngô Đình Châu

NGHỀ BUÔN BÁN BỆNH TẬT (Disease Mongering) bởi các BIG PHARMA

Thực tế chúng ta biết rất ít hoặc hiểu sai bét về các tập đoàn dược phẩm trên thế giới. Sau đây là một trích đoạn từ tác phẩm “Trò Chuyện Với Thiên Thần” của Dược sĩ Trương Văn Dân (Ý). 

PHÁT MINH RA BỆNH 
Cái xác phàm của mỗi chúng ta, của hết thảy nhân loại hiện nay chính là nguồn lợi kếch xù của bọn người kinh doanh trên sự sợ hãi: bệnh tật.
Lãnh vực này hiện nay nằm trong tay các tài phiệt.  Và họ bỏ rất nhiều tiền để tiếp thị.
Một thuật ngữ mới ra đời: Disease mongering (Nghề buôn bán bệnh tật). 
- Khi ủy ban “khoa học” Mỹ tái định nghĩa hypercholesterolemia (có cholesterol cao trong máu) và chỉ cần giảm chỉ số để các bác sĩ cho phép dùng thuốc thì số “bệnh nhân” đột ngột tăng 3 lần.
- Chỉ trong năm 2016 Công ty Pfizer đã chi 1,2 tỷ USD, theo sau là Công ty Bristol Myers Squibb chi 460 triệu USD để quảng cáo và tiếp thị thuốc.
Nhưng đây chỉ là đỉnh của băng sơn.  Trên thực tế rất nhiều các nhà khoa học hướng dẫn cách dùng thuốc đều hưởng lợi nhuận từ các dược phòng.

Thông qua "Disease mongering", những trạng thái như buồn rầu, lo âu, hồi hộp... rất bình thường trong cuộc sống đã bị truyền thông (Big Media) hô biến thành bệnh (?) để làm mọi người sợ hãi, cảm thấy mình phải dùng thuốc.  
Không ai nói với chúng ta là nỗi buồn là một phần của sự sống.
Bạn mất ngủ hả?  Hãy uống thuốc ngủ!  Mà có thật sự cần phải dùng thuốc không?  
Biết đâu không ngủ là một điều tuyệt vời.  Thỉnh thoảng được thức giấc, mở cửa nhìn ra bầu trời đêm mà kẻ ngủ say sẽ không bao giờ biết.
Đã có người nói, "ban ngày để sống còn ban đêm là để hiểu cuộc sống."

Nhưng các tập đoàn dược phẩm chi ra số tiền càng ngày càng lớn cho việc bán thuốc “ảo”, kèm theo quà tặng, mời du lịch... 
Thí dụ bệnh tiểu đường type II, trước đây được xác định là đường huyết phải trên mức 140mg/dL.   Năm 1997, ngạch mức trên bị Cơ quan y tế thế giới OMS rút xuống còn 126 mg/dL (7mmol/L). 
Lập tức có thêm 1.700.000 người Mỹ được xếp vào danh sách bệnh nhân tiểu đường (suốt đời).

Cholestérol: Năm 1998, ngạch mức từ 240mg/dL bị rút xuống còn 200mg/dL.
Lập tức xã hội Hoa Kỳ có thêm 42.600.000 bệnh nhân có cholestérol cao trong máu. Các nhà bào chế có thêm được 86% “khách hàng” mới.

Ba mươi năm trước, Giám đốc hãng dược phẩm Merck, Henry Gadsen, đã từng trả lời trong một cuộc phỏng vấn: “Giấc mơ của chúng tôi là sản xuất thuốc cho những người khỏe mạnh.  Làm được thế, chúng tôi có thể bán thuốc cho bất kỳ ai”. (*)
Một cách nói khác không kém phần trắng trợn, đó là: 
"Trên thế giới, chỉ có hai nhóm người: nhóm người đã bệnh rồi và nhóm người chưa biết họ bệnh”.

Một nghiên cứu mới nhất từ Pháp: 50% thuốc bán hiện nay trên thị trường là vô ích, 20% có hại và nhiều khi nguy hiểm cho người dùng. 
Ai cũng biết sức khỏe tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, khí hậu và thực phẩm chứ không chỉ dựa dẫm vào thuốc men, cách chữa trị hay các kỹ thuật hiện đại. 
Hiện nay nhiều người hễ thấy khó chịu một chút là uống thuốc mà không biết rằng không có loại thuốc nào là không có tác dụng phụ, là: 
“1 PHẨN THUỐC CHỨA 3 PHẦN ĐỘC”.

Sunday, October 24, 2021

THƯ LÊN TIẾNG CỦA NHẠC SĨ NAM LỘC

Kính thưa quý vị đồng hương và quý thân hữu,

Trước hết, tôi xin cảm ơn sự thăm hỏi cùng mối quan tâm của quý vị liên quan đến những lời vu cáo và mạ lị tôi, vừa được phát tán trên mạng trong vài ngày qua.

Là một người hoạt động xã hội, cộng đồng và nghệ thuật không ngừng nghỉ liên tục từ hơn 50 năm qua, nhất là từ khi sống tại hải ngoại. Tôi hãnh diện là đã có cơ hội đóng góp cũng như tham dự  một cách tích cực vào các công tác phục vụ cộng đồng như: Định cư người tị nạn, giúp đỡ đồng hương trong lãnh vực di trú một cách vô vụ lợi. Xây dựng các đài tưởng niệm, tri ân chiến sĩ Việt Mỹ tại Westminster và nhiều nơi trên đất Mỹ. Phát động và tham gia công tác cứu trợ Thương Phế Binh và Quả Phụ VNCH v..v… Nhưng  có lẽ công việc đã gây cho tôi nhiều hệ lụy nhất đó là sự xuất hiện của tôi trong vai trò MC cùng với nhạc sĩ Việt Dzũng qua các chương trình ca nhạc mang chính nghĩa quốc gia, ca ngợi tinh thần chiến đấu cùng sự hy sinh của người lính VNCH, song song với sự hình thành và phát triển tốt đẹp của cộng đồng người Việt tỵ nạn tại hải ngoại. Tôi đã bị báo chí nhà nước CSVN lên án và chỉ trích thậm tệ, kéo theo là bọn tay sai của họ tại hải ngoại liên tục đánh phá tôi trên các diễn đàn và cho dư luận viên phổ biến email, FB đủ mọi chuyện biạ đặt mục đích là để triệt hạ uy tín của tôi.

Lần này cũng không ai khác lạ, cũng chỉ là một vài khuôn mặt đã từng lộ diện đánh phá chúng tôi vài năm trước đây, họ xuất hiện trở lại, chỉ sau chuyến tôi đi Hoa Thịnh Đốn để vận động tranh đấu cho quyền lợi của người tỵ nạn VN được định cư tại Hoa Kỳ, đặc biệt là khi tôi đưa ra lời kêu gọi trợ giúp TPB/VNCH đang gặp khó khăn ở quê nhà qua chương trình “Mỗi Gia Đình, Một Thương Phế Binh”. Những kẻ xấu đó lại xuất hiện lấy cớ về một vụ tranh chấp pháp lý giữa những cá nhân mà không liên quan gì đến tôi. Những khuôn mặt đó không xa lạ gì với cộng đồng người Việt chúng ta. Một người từ VN đến HK trong thời gian sau này không qua diện tỵ nạn, không ai rõ lý lịch của đương sự. Còn một người thì đã công khai xuất hiện trên các đài truyền hình chính thức của nhà cầm quyền CSVN, tố cáo các nhà đấu tranh cho nhân quyền, phỉ báng quý vị tù nhân lương tâm và tiếp tay lên án các hoạt động cổ vũ cho một thể chế tự do và dân chủ trên đất nước VN của tôi. Tuy nhiên họ đều thất bại, nhất là việc vu cáo chúng tôi tham dự vào chuyện đưa người bất hợp pháp đến Canada. Chính phủ Canada đã điều tra kỹ lưỡng, họ không hề thấy điều gì sai trái trong kế hoạch này, vì thế họ đã, và đang tiếp tục phỏng vấn cũng như chấp thuận cho người Việt định cư tại Canada qua những nỗ lực vận động của chúng tôi. Điều đó càng làm cho những kẻ tiểu nhân tức tối và tìm cách tiếp tục triệt hạ tên tuổi cùng uy tín của tôi.

Kính thưa quý vị, với thành quả hơn 46 năm làm việc tại hải ngoại. Là một Phật tử, nhưng được phục vụ sát cạnh các vị Giám Mục của Hội Đồng Công Giáo Hoa Kỳ, tôi may mắn được hấp thụ những giáo lý và truyền thống tốt đẹp của cả hai tôn giáo. Tôi rất hãnh diện khẳng định rằng, tôi chưa hề làm điều gì sai, mà chỉ có những kẻ nói sai về tôi. Họ phổ biến đủ mọi lời đồn đoán vô căn cứ như: Nam Lộc đã qua đời, Nam Lộc sắp vào tù, Nam Lộc đang bị điều tra vì đưa người nhập cảnh lậu… Và mới đây là, Nam Lộc trốn thuế, trốn trách nhiệm, tạo email giả v..v..và v..v…

Đề giải quyết vấn đề này, tôi xin chọn giải pháp IM LẶNG, KHÔNG ĐÔI CO, ĐỐI CHẤT. Vì càng lên tiếng thì bọn chúng càng mượn tên tôi để khai thác và chế biến ra nhiều chuyện khác hầu xuất hiện để câu view hay được mọi người chú ý đến họ. Tôi xin dùng việc làm của mình thay cho câu trả lời. Danh dự và uy tín của tôi xin được sử dụng vào những chuyện ích lợi hơn. Điển hình như hai tuần lễ trước đây, tôi đã hân hạnh được tiếp tay một Giáo Xứ tại Seattle gây quỹ xây dựng ngôi Thánh Đường, chỉ trong vòng 5 tiếng đồng hồ, qua vai trò MC, điều khiển chương trình gây quỹ, chúng tôi đã thu được 1 triệu 300 ngàn dollars. Và chỉ một tuần lễ vừa qua, khi kêu gọi cứu trợ TPB/VNCH trong mùa đại dịch, gần 400 đồng hương đã hưởng ứng chương trình này và email về cho tôi. Tính đến hôm nay, kể từ khi phát động, chúng tôi đã chuyển danh sách khoảng 3000 TPB đến quý vị ân nhân bảo trợ để họ gởi tiền trực tiếp về VN giúp TPB/VNCH.

Tôi xin chân thành cám ơn sự quan tâm của toàn thể quý vị và chúng ta hãy dành thì giờ vào những công tác hữu ích thay vì phải bận tâm đến những lời vu cáo, mạ lị láo khoét, để làm bẩn một cộng đồng tốt đẹp mà chúng ta đã dầy công xây dựng từ 46 năm qua.

Trân trọng kính chào,

Nam Lộc Nguyễn

Tuesday, October 19, 2021

MƯA THU - NGUYỄN THỊ THÊM -

  

 Ngoài hiên, giọt mưa thu thánh thót rơi.

Trời lắng, u buồn mây hắt hiu, ngừng trôi.
Nghe gió thoảng, mơ hồ...
...

Chị nằm yên trên giường, nghe từng giọt mưa rơi trên mái nhà. Những giọt mưa như một điệu nhạc . Nghe gió thoảng, mơ hồ. Trong mưa thu, ai khóc ai than hờ....
     Cali đã trải qua những ngày nắng hạ chói chang. Cây cỏ héo úa, sông ngòi khô cạn. Đây là lần đầu tiên có một cơn mưa lớn. Cơn mưa thật đẹp, mát lòng, mát dạ con người. Cơn mưa báo hiệu mùa thu đã chính thức bước chân về đây.
     Đêm về sáng nằm trong chăn êm nệm ấm. Những giọt mưa ngoài trời rộn rả trên mái nhà, một niềm vui nhẹ dâng lên trong lòng chị.
     Cả tháng nay  báo động. Một cơn động đất lớn có thể đến bất cứ lúc nào. Một vết nứt đang đe dọa toàn thể người dân Cali. Chị lo sợ như nhiều lần lo sợ. Lại chuẩn bị những thức ăn. Kiểm soát những gì cần thiết cho một thiên tai. Bởi vì tai trời, ách nước biết sao mà lường.
     Hôm đến nhà con trai mừng thôi nôi cho cháu nội. Chị đã la vợ chồng con một trận. Chúng chẳng chuẩn bị gì cho động đất. Nó ôm chị cười nịnh:"Thì má qua ở với tụi con đi. Con mua đồ về dự trữ. Chứ tàu con sắp đi rồi, mua về ai ăn cho hết" Cái thằng xạo nhất nhà. Cái gì cũng bàn trớt quớt được hết.
     Ngẫm nghĩ lại nó cũng có lý của nó." Mỗi cây mỗi hoa, mỗi nhà mỗi cảnh". Một cô em thường hay nói với chị câu đó. Cô em có tiếng là giỏi và có tài quán xuyến. Khách tới nhà bất cứ lúc nào cũng có thức ăn để đãi. Cô cười nói với chị" Lúc trước em lo trữ nhiều thứ lắm. Để hoài rồi quá hạn lại bỏ đi. Bây giờ em chỉ trữ nước , gạo và mì gói là chính. Mà thật ra gia đình VN nào thức ăn cũng ê hề. Hổng tin chị để ý mà xem. Một tuần động đất chẳng nhằm nhò gì" Suy gẫm cô ta nói cũng đúng. Cứ nhìn các chị đi chợ thì biết. Cứ như đi chợ Tết chẳng bằng. Thức ăn đầy ngập cả xe.
     Chị lại nghĩ đến thằng con bên Nhật. Nhà nó rất nhiều ngăn tủ, mà hộc tủ nào cũng to. Nó nói bên Nhật quy định trong nhà phải trữ thức ăn dùng cho một tháng. Nhìn tủ đầy thức ăn khô, chị đã hiểu tại sao người Nhật lại không quá khó khăn sau mỗi lần động đất. Nếu mọi việc trên đời mình đều đoán trước và sẵn sàng đối phó, thì khi nó đến ta chẳng hề cảm thấy đau khổ hay tuyệt vọng. Người Nhật là như vậy nên họ chấp nhận những đau thương do động đất gây ra. Họ bình tỉnh và trật tự trong mọi tình huống.
     Cơn mưa đêm nay báo hiệu cho chị biết nỗi lo động đất đã đi qua. Trời sẽ mát và mùa thu đã về. Mùa thu sẽ khiến đất trời dịu dàng hơn. Những chiếc lá sẽ thu mình lại để bắt đầu một chu kỳ mới. Đêm sẽ dài thêm chút nữa. Những người yêu nhau sẽ chờ bữa cơm tối dịu dàng dưới ánh đèn. Một giấc ngủ mát mẻ, lãng mạn sẽ làm tình yêu thêm thăng hoa.
     Nghĩ tới đây, chị bất chợt nhìn qua chồng. Anh vẫn còn ngủ say. Giấc ngủ muộn màng của những người già. Giấc ngủ của đàn ông thường dài hơn phụ nữ. Họ rất dễ ngủ cũng như dễ mau quên. Nhất là những lời hứa.
     Có phải như vậy hay không? Chị có nói quá đáng hay không? Không? chị thấy phần đông đàn ông hay quên lời hứa. Nhất là lời hứa trước Chúa, trước Cha và trước những người chứng kiến trong ngày hôn lễ.
     Chú rễ nắm tay cô dâu thật trang trọng. Hứa sẽ săn sóc và lo lắng cho cô ta hết cả một đời.
     Thế nhưng có bao nhiêu người giữ được lời hứa đó. Bao nhiêu người đàn ông khỏe mạnh để lo cho vợ những ngày cuối đời. Chị đã thấy rồi, xung quanh chị. Rất nhiều ông chồng đã sớm ra đi. Họ để lại cho vợ cuộc sống cuối đời buồn bã, cô lẽ và một trách nhiệm nặng nề.
     Vì sao? Vì họ yêu họ nhiều hơn yêu vợ và gia đình. Họ thao túng sức khỏe. Họ thao túng tình yêu,Họ vui thoải mái với bạn bè và cho như vậy mới là đàn ông.. Họ uống rượu, hút thuốc liên miên. Họ sẽ tự ái khi vợ con nói đến những điều cấm kỵ đó. Thú vui của đàn ông thì nhiều lắm. Uống rượu và hút thuốc là chuyện thường tình. Thế nhưng, nó là một trong những nguyên nhân trả lời cho sự bất tín đối với vợ mình trong ngày hôn phối.
     Chị thật vô duyên khi nghĩ đến những điều này. Nhưng buồn thay đó là sự thật. Ít nhất là trong gia đình chị. Hiện giờ những ngày đoàn tụ chỉ còn lại mấy chị em dâu hiu hắt. Mấy anh của chị đều đã không còn. Ngày giỗ, Tết nhìn lên bàn thờ nhà từ đường buồn rơi nước mắt.

Vài con chim non
Chiêm chíếp kêu trên cành
Như nhủ trời xanh.
Gió ngừng đi, mưa buồn chi,
Cho cõi lòng lâm ly
Hồn thu tới nơi đây gieo buồn lây.
Lòng vắng, muôn bề không liếp che gió về
Ai nức nở thương đời.
Châu buông mau
 Dương thế bao la sầu.

Mưa thu, mưa thu rơi thành nhịp điệu. Chị lạc loài những ý nghĩ miên man. Chị nhớ nhà quá. Nhớ những người anh, nhớ mẹ, nhớ cha. Trong nỗi nhớ vô cùng đó chị giận các anh. Chị thương chị dâu vô cùng. Những người phụ nữ luôn bên cạnh chồng để lo lắng, chăm sóc và yêu thương. Có những đêm trời mưa tầm tả, anh chị về trong cơn say. Người ướt như chuột, ói mửa liên miên. Có ai trong hoàn cảnh đó không buồn cho được. Vậy mà người vợ vẫn đem chồng vào, lau khô, xoa dầu thay đồ và làm tất cả mọi việc bằng tất cả tấm lòng. Khi chồng đã dịu cơn say, người vợ mới có thể an lòng thở phào nhẹ nhõm. Có khi chồng vừa say giấc là người vợ phải lo nấu nướng để lo cho buổi chợ sáng mai.
      Có phải tình yêu là như vậy không hả các anh?. Đừng nói tại phụ nữ sống dai hơn đàn ông? Phụ nữ chúng tôi sinh đẻ tốn biết bao nhiêu sức lực. Nuôi con, cho con bú là chuyền cho con hầu hết nguồn năng lượng của mình. Chúng tôi vất vả không thua các anh. Vậy mà cuối cùng, đa số chúng tôi lại là người tiễn các anh ra đi trong nước mắt. Các anh không phụ bạc chúng tôi. Nhưng các anh đã quên rằng muốn là bờ vai cho chúng tôi nương dựa thì các anh phải giữ gìn sức khỏe của mình.

Người mong mây tan, cho gió hiu hiu lạnh.
Mây ngỏ trời xanh
Chắc gì vui,
Mưa còn rơi.
Bao kiếp sầu ta nguôi

Bài hát cứ vang lên trong đầu chị. Dìu dặt, da diết những âm điệu mượt mà.

Gió xa xôi vẫn về.
Mưa giăng sầu lê thê

Phải rồi. Có những người đi trong cơn mưa lạnh cóng. Rét run và cô độc.  Gió vẫn thổi, mưa vẫn rơi. Nỗi buồn nơi xứ người nặng trĩu nhớ nhung  Chị lại nhớ âm điệu một bài hát trong những ngày nằm trong trại tị nạn Bataan Phi Luật Tân.
     Mưa nơi đây buồn hơn mưa Sài gòn nhiều
      Cả gia đình nằm sắp lớp trên cái sạp gỗ. Mưa rào rào trên mái tôn. Mưa ầm ầm như thác đổ. Cảm giác ly hương tị nạn thấm thía đến ngậm ngùi. Nằm  ở Phi mà hồn trở về chốn cũ.Nhớ vô cùng căn nhà do chính bàn tay mình gầy dựng. Nhớ đàn gà sau cơn mưa bới móc tìm mồi. Nhớ cái ao sau nhà, cá đớp móng sau cơn mưa thật dễ thương. Xòe bàn tay hứng những giọt nước mưa rồi vốc lên mặt. Mát từng thớ thịt. Hít sâu nghe hương thơm trời đất gửi về. Nhớ nhà bao nhiêu, buồn sâu lắng bấy nhiêu.
     Vậy mà thấm thoát đã gần 25 năm xa xứ. Chị nằm đây nghe tiếng mưa réo rắc mà mừng. Cơn mưa hôm nay sẽ làm xanh cây cỏ. Sẽ đem sự mát mẻ đến với miền Nam Cali. Những chậu hoa, luống cải sẽ đón ân sũng từ thiên nhiên, hít thở tự do. Các con đã trưởng thành xa vòng tay chị. Những cánh chim đủ lông, đủ cánh phải tìm cho mình một tổ ấm riêng tư. Con cái chúng sẽ như những cơn mưa mùa thu như hôm nay. Thỉnh thoảng về thăm. Rộn rã tiếng cười làm mát mẻ con tim già héo hắt.
     Còn Sài Gòn? Mưa Sài gòn bây giờ như thế nào? Có còn làm đẹp những tà áo dài quấn quít. Có làm đôi trai gái bất chợt ghé một vỉa hè nào đó trú mưa.Hai bàn tay vụng về len lén tìm nhau. Hay bên ly cà phê nóng hổi bốc hương, ngồi nhìn những giọt mưa Sài Gòn nhảy múa trên đường. Sài gòn thích mưa, yêu mưa và mát mẻ sau mỗi cơn mưa.
     Nhưng nói theo kiểu hiện giờ là: " Chuyện đó xưa rồi Diễm". Sài Gòn bây giờ sợ những cơn mưa. Đường phố ngập như sông, cuồn cuộn nước đổ về dơ dáy và hôi hám.  Người ta nói đùa."Sài Gòn đổi tên đúng thật. Bây giờ đã thành  hồ..Chí Minh" Bởi nơi đâu sau một cơn mưa cũng thành hồ, thành sông, thành suối. Những chiếc xe đi trên đường bị nước lũ cuốn đi. Có những con đường chống lụt bằng cách xây bờ cho cao và căn nhà lọt thỏm bên dưới như một cái hầm.

Sài Gòn mưa, phố biến thành sông.
Nước ngập nhà dân, nước mênh mông
Giữa phố chống xuồng, tưởng rằng sông lớn
Tội quá Sài Gòn "Hòn Ngọc Viễn Đông."

     Tháng Mười chưa cười đã tối. Những cơn mưa tháng Mười làm trái tim chị thắt lại khi nghĩ về quê hương. Miền Trung hiện giờ đang cơn lũ lụt.Tại Hà Tỉnh, Quảng Bình và nhiều nơi khác nước trong một đêm dâng lên không thể nào trở tay cho kịp.
Người dân nghèo lam lũ, đang yên lành trong giấc ngủ thì cơn lụt kéo về. Không thể trở tay, không thể chuẩn bị. Nước tràn về như thác đổ. Biết bám víu vào đâu, đành phá nóc nhà cầu cứu. Những cánh tay đưa lên trong vô vọng.Những ánh mắt sợ hãi thất thần. Những kêu cứu khàn đặc tội tình.
     Nhìn trên màn ảnh truyền hình, xem trên Youtube hay FaceBook. Những căn nhà chỉ còn trơ một chóp của mái ngói. Còn tất cả là nước. Nước Mênh mông, nước đục ngầu. 27.000 căn nhà đã bị hư hại. 35 người chết. Cái chết tức tưởi oan khiên.  Tài sản, của cải trôi theo dòng nước. Điều đau lòng là tai trời, ách nước đã đành mà bàn tay con ngườicũng góp phần  gây nên tội. Nước tràn về nhanh và mạnh là do  đập thủy điện Hố Hô Được xả gấp mà không báo cho dân biết để chuẩn bị.
Sinh mạng và tài sản người dân rẽ đến vậy sao? Nếu mà ở Mỹ Thì người chịu trách nhiệm sẽ bị truy tố ra tòa . Sự đền bù cho người dân không phải nhỏ.
     Trong nước, ngoài nước bao nhiêu tổ chức thành lập để cứu trợ.Nhưng người dân nhận được bao nhiêu? Chừng nào họ mới thoát khỏi ám ảm và xây dựng lại cuộc sống như xưa? Câu hỏi vẫn chưa có ai trả lời.
     Mưa! những giọt mưa tháng mười vẫn nhịp đều trên mái nhà như một điệu nhạc. Điệu nhạc mùa thu bao giờ cũng buồn . Lá xanh, lá vàng , rồi lá rụng. Những chiếc lá vàng lìa cành buồn như những người thầy đã ra đi trong tháng mười. Hai người thầy kính yêu đã nằm xuống. Gia đình thầy mang vành khăn tang trắng . Những người học trò cũ dường như cũng nặng trĩu tang lòng.
        Chị xoay người lại nhìn đồng hồ. 5 giờ sáng, con gái đã dậy chuẩn bị đi làm. Tiếng cửa garage mở ra rồi đóng lại. Một ngày mới đã bắt đầu.Mừng vì mình vẫn còn khỏe mạnh. Mừng cuộc sống vẫn êm đềm trôi.

      Chị nhắm mắt lại nguyện cầu:

      Xin ơn trên ban phước lành đến với tất cả mọi người.

NGUYỄN THỊ THÊM

Saturday, October 16, 2021

Thủy Triều Đen - Ngọc Ánh

 

Hồi mới qua Mỹ, tôi định cư ờ một thành phố nhỏ vùng biển, mà dân chúng đa phần là người Việt, nghe nói nguyên cái làng chài ngoài Trung vượt biển qua hết đây, họ sống túm tụm với nhau, hàng xóm quen biết thân thiện từ hồi nhỏ, gần như nhà nào cũng sống bằng nghề đi biển y như bên nhà, thành phố có việc làm quanh năm cho mọi người khi xây dựng nhà máy chế biến cua ghẹ đóng hộp bán khắp nơi. 


Cuộc sống dân tình ở đây dĩ nhiên khấm khá gấp mấy lần bên quê nhà, vì tánh cần cù chịu khó của người quen với lao động tay chân dầm mưa dãi nắng,  nên bước đầu khởi nghiệp của họ cũng dễ dàng hòa nhập trên quê hương mới, giàu thì sắm được vài chiếc ghe cào tôm, hay tàu cá, nghèo thì theo làm “ bạn ghe” ( người làm thuê  cho chủ trên tàu trong mỗi chuyến ra khơi) cũng có của ăn của để, có nhà đẹp xe sang, nhưng cũng không bỏ được cái tật ham vui những lúc biển động nông nhàn sau những chuyến ra khơi vất vả, tàu về bến nghĩ ngơi là họ lại rủ nhau đi Casino miệt mài vui thú đỏ đen, nghe đâu có người thua sạch một chiếc tàu trong thời gian ngắn, từ chủ ghe lại biến thành “ bạn ghe” sống đắp đổi qua ngày..

Năm 2010 có một vụ tràn dầu ở Vịnh Mexico (Deepwater Horizon oil spill) kéo dài gần 3 tháng trời, môi trường biển bị ô nhiễm nặng, ghe tàu không ra khơi được, xí nghiệp hải sản đóng cửa thợ thầy thất nghiệp... Tập đoàn dầu mỏ BP của Anh chịu trách nhiệm cho vụ tràn dầu gây ô nhiễm môi trường lớn nhất ở Mỹ này, nghe nói số tiền bồi thường cho các tiểu bang bị thiệt hại nặng nề thuộc vùng vịnh Mexico hơn 300 triệu đô la, luật sư gởi hồ sơ đến từng nhà để thu thập thông tin thiệt hại của cư dân trong khu vực bị ô nhiễm, để tính toán chuyện đền bù thỏa đáng.
Dân mình nhạy bén trong vụ này lắm, nhất là ở nhằm  nơi mưa bão năm nào cũng bị, nên ăn tiền mấy hãng bảo hiểm dài dài, huống hồ cái vụ đền bồi tiền triệu này nghe đâu nhà nào cũng ấm.

Đó là những ngày của tháng 4/2010 khi chúng tôi đi bộ trên kè đá của cảng biển Port Arthur nhìn những vết dầu loang trên mặt nước đen ngòm, nghe tiếng quang quác của đàn chim hải âu sà xuống vội vàng săn mồi nhưng vướng víu dầu làm lấm lem đôi cánh trắng và tự hỏi không biết người ta sẽ làm thế nào để khắc phục “ sự cố” này để nguồn nước trở lại trong sạch như ban đầu, nên nhớ đây là biển chớ không phải con mương nhỏ ở quê tôi. Vậy mà chỉ vài tháng sau đó mọi thứ được dọn dẹp sạch sẽ như chưa hề có đợt thủy triều đen nào mà tôi đã từng thấy.
Có lẽ chuyện “vá biển lấp trời “ là có thật ở xứ sở này.

Mới đây thôi California lại bị dầu loang do việc rò rỉ đường ống dẫn đầu trên vùng biển phía Nam của tiểu bang này, nếu so với vụ tràn dầu vùng vịnh Mexico  hơn 10 năm trước thì đây là chuyện nhỏ, nhưng đối với vùng Orange County chuyện tràn dầu này được coi là lớn nhất trong vòng mấy chục năm nay, gây thiệt hại nặng nề cho hệ sinh thái trong khu vực, cũng như ảnh hưởng đến nền kinh tế của khu du lịch với những bãi biển xinh đẹp, thành phố đã ban lệnh khẩn cấp đóng cửa các bãi biển từ Newport Beach đến Huntington Beach vô thời hạn.
Tôi buồn rầu với đợt thủy triều đen lần này thì ít vì tôi biết chắc người ta sẽ khắc phục được mọi khó khăn với tất cả năng lực sức người sức của mà nước Mỹ đã có nhiều kinh nghiệm trãi qua.

Nhưng đau đớn thay trong khoảng thời gian này, Việt Nam tôi cũng có một đợt thủy triều đen đã và đang chảy tràn trên quốc lộ 1A từ Nam ra Trung ra Bắc, hay xuôi về các tỉnh miền Tây, hàng triệu người đã tháo chạy khỏi Sài Gòn như cơn lũ lớn  chỉ 1 ngày khi Sài Gòn có lệnh mở cửa, để vội vàng trở về quê sau mấy tháng trời bị nhốt trong đói khổ thiếu thốn vì các chủ trương, chính sách tồi tệ ngu dốt của chính quyền trong việc chống dịch COVID. Họ đi bất chấp những khó khăn phía trước, họ đi bằng các phương tiện thô sơ xe gắn máy, xe đạp, xe ba gác và cả “lô ca chân” trên đoạn đường dài hàng trăm, hàng ngàn cây số, họ đi lầm lũi  trong nắng cháy mưa dầm, từ sáng tinh mơ đến trời chiều chạng vạng, họ đi với niềm tin sẽ sống sót được ở quê nhà hơn là tha phương ở một nơi mà cái ăn cái ở bị bóp nghẹt đầy khó khăn trong cơn đại dịch, hành trang của họ là những vật dụng nghèo nàn được ràng rịt sau yên xe, và vợ con nheo nhóc, đứa ẵm phía trước, đứa đeo sau lưng, thậm chí họ mang theo cả những con vật thân thiết, thấy đã thương khi chúng ngoan ngoãn thò đầu ra khỏi chiếc giỏ móc lủng lẳng bên hông xe, để cùng chủ đồng hành dọc đường gió bụi, 

Nhà nước hô hào, “không ai bị bỏ lại phía sau” để nói đến chuyện cứu trợ với số tiền tỷ này tỷ nọ, nhưng mia mai thay con số hàng hóa hay tiền bạc đến tay người dân khiêm tốn như ngọn gió lùa nhà trống, có nơi người dân không hề nhận bất cứ thứ gì từ chính quyền trong suốt mấy tháng phong tỏa, Vậy thì họ làm sao để sống đây? Họ là công nhân nghèo hay tầng lớp buôn gánh bán bưng từ quê ra tỉnh, ở nhà trọ, khi chưa có dịch đã mưu sinh vất vả kiếm miếng ăn mỗi ngày, khi tai họa ập tới, họ cầm cự bằng những đồng tiền dành dụm ít ỏi, rồi cũng cạn túi, bữa đói bữa no.

Phải về thôi, biết là quê nhà cũng khó khăn, bởi nghèo túng nên phải bỏ quê lên Sài Gòn tha phương cầu thực mấy năm nay, nhưng trong tình cảnh này, họ không còn sự lựa chọn nào khác để cứu mình.
Về quê tuy sống lay lắt nhưng ít ra họ còn có sự ấm áp bên người thân rau cháo qua ngày.
Nếu dầu loang bên Mỹ là tai nạn thì người ta dễ dàng để khắc phục hậu quả, nhưng vết dầu loang của sự thất vọng phẫn nộ của tầng lớp dân nghèo bên Việt Nam ngay trong thời điểm này thì lại là vấn nạn của chính quyền. Không có cách gì để khôi phục lại niềm tin khi họ đã sống qua những tháng ngày uất ức đói khổ, bị bỏ rơi bị lừa dối bởi thứ nhà nước chỉ chống dịch bằng những khẩu hiệu đình đám, gây áp lực nặng nề thêm trong nỗi lo âu sợ hãi vì dịch bệnh mà cả nước phải chịu đựng, khi chính quyền chỉ biết vun vén phạt vạ mà không có biện pháp hữu hiệu để giúp dân trong cơn đại nạn, 

Tôi và rất nhiều người nằm trong nệm ấm chăn êm bên trời Tây trời Mỹ đã bật khóc khi nhìn đoàn người lầm lũi đi trong mưa để trở về quê, chặng đường xa xôi có cả máu và nước mắt khi nghe tin ai đó bị tai nạn vì kiệt sức ngã xe, tiếng bà Mẹ gào khóc trên đỉnh đèo Hải Vân khi con mình lịm đi vì đói lạnh, Thương quá trên dọc đường về miền Tây biết bao bàn tay nhân ái đã chìa ra tiếp sức, chai nước, hộp cơm hay khúc bánh mì đều là tấm lòng thơm thảo của nghĩa cử “ lá lành đùm lá rách” của dân chúng ven lộ.
Thời chiến tranh người ta cũng bồng bế nhau chạy trốn thảm họa Cộng Sản trên đại lộ kinh hoàng, xác người chồng chất trên quốc lộ 13 máu lửa, hay hàng triệu người đã bỏ nước ra khơi tìm Tự Do sau ngày 30/4 quốc hận, số chết trên biển cả biết là bao nhiêu nhưng điều đó không thể làm chùn bước hải hành. Họ sợ Cộng Sản hơn cả cái chết! 

Bây giờ thời bình,  tuy không còn tiếng đại bác ru đêm suốt bốn mươi mấy năm nay, nhưng  sao người ta vẫn có những cuộc di tản ào ạt như ngày này, họ vượt hàng trăm thậm chí hàng ngàn cây số để trở về nơi họ đã ra đi, họ chạy trốn trong sự thất vọng hoài nghi và tủi nhục khi thấy mình như bị tù tội ngay trước sân nhà.
Họ trở về chưa chắc đã yên thân với đám chính quyền sở tại, lại xét nghiệm, lại cách ly, lại bị moi tiền đến đồng bạc cuối cùng. Có nơi còn không được tiếp nhận như một đồng hương ruột thịt mà xem như một tai họa khi mang mầm mống dịch bệnh về lây lan cho chòm xóm.
Còn nỗi cay đắng, chua xót nào hơn khi họ bị lạc lõng giữa quê nhà, đọc bài thơ đứt ruột của ai đó ôm hũ sành chứa hài cốt vợ, mấy ngày dầm mưa dãi nắng về tới quê thì bị chặn lại 
 

“Chốt quê như cổng nhà tù. 

Chúng mình như thể kẻ thù biên cương

Ôm em ngần ấy đoạn đường

Giờ lưu vong giữa quê hương của mình”

 

Không phải là nhà thơ nổi tiếng nhưng khi quá đau buồn uất hận, người ta cũng có thể bật ra những câu những chữ nghe mà đau thấu tận tim gan.
Khi viết những dòng này thì vụ dầu loang ở California đã được dọn dẹp sạch sẽ chỉ trong một tuần, nhưng dòng thủy triều đen của Việt Nam hôm nay sẽ mãi mãi là nỗi đau buồn của tất cả chúng ta khi thảm họa Cộng Sản vẫn còn tồn tại trên Quê Mẹ oan khiên.

 

Ngọc Ánh 10/2021