Thursday, December 31, 2015

Cơ quan kiễm duyệt “USIA” nhé cạnh chút ít về cuộc chiến VN

 
Từ chuyện thắng và bại chỉ cần đặt hàng cho một đặc ân Huy Đức dự thính đại học Harvard rồi viết chuyện ai thắng cuộc, đồng thời USIA cho đài VOA, BBC mở toang để cho tha hồ cái gọi là Quốc Gia và Cộng Sản tranh luận chửi bới nhau "đã đời" (vì bị nhốt trong hủ ve keo “World Paranoia” đậy nấp lại nên bàn luận lung tung beng trong dung dịch chật hẹp cho vui) đến khi tìm ra chân lý ... chẳng có bên nào thắng cả mà chỉ từ thua tới liệt ... cho thân phận CON RỐi ... KGB/CIA: Nếu chúng tao (cường quốc) không cung cấp đạn AK với M-16 thì làm "đếch" gì mà có kẻ thắng người thua mà chửi nhau như búa bổ ... "nhiêu đó thôi ngừng ngay những cái đầu to mà óc nhỏ" và bớt dịu tự ái dồn dập khi thấy 2 tác phẩm “Lê DươngMới” (The New Legion) nhớ cho cả 2 em Bắc/Nam nhé!
 
      Huy Đức được Secret Society đặt hàng chỉ thuần túy nêu sự kiện, không bình luận, theo đúng với ý đồ của secrets of the Tomb là: phải rõ ràng trong sáng. "Bên Thắng Cuộc" tượng trưng chỉ là tờ điều trần với người đọc không cứ ở phía nào của cuộc chiến; Đọc BTC, người đọc tự tìm ra phần lớn các câu hỏi: Cái gì, ở đâu, khi nào, Ai, tại sao (What, where, when, who, why)... để cuối cùng kết quả Miền Bắc mới thật được GIẢI PHÓNG qua chứng thực sau 30 năm. Với những hệ luận tốt xấu đi theo, người đọc tự tìm ra kết luận cho mình về công lao tự suy diển như đã có lần quyết đoán sai lầm
Ngày nay, là thời đại Internet dù cho gian manh cách mấy cũng không gạt nỗi đọc giả đâu các Cụ ạ ! Trách nhiệm của từng sự việc, từng chặng đường của đất nước. với 20 năm thu góp tư liệu, tôi tin tác giả "BTC" chỉ là phần giới thiệu chứ chưa là phần kết luận của Huy Đức mà cũng chẳng có tì gì gọi rằng một sữ gia. Với tầm nhìn xa, rộng, tâm trong sáng, tôn trọng đọc giả, phương pháp làm việc khoa học, chắn chắn những tác phẩm tới của Huy Đức sẽ được đọc giả nồng nhiệt hưởng ứng. Cái khôi hài nhứt là bên phía Cộng Sản cũng chữi bới và bên phía người Việt hải ngoại cũng không tha tác giả. Có nghĩa tác giả cùng tôi đều dứng giữa 2 lằn đạn ghim vào tim óc … nhưng 2 chúng tôi rất vui. Nhưng Huy Đức thì đặt hàng còn tôi thì không, bởi vì tôi là 1 phi công gián điệp dấn thân không xa mà chỉ tới vỉ tuyến 18 về Lào và Cambodia với những chuyến bay áo bà ba đen và súng ống Tiệp Khắc không số cho đặc vụ. Và chẳng may rơi xuống nơi nào thì phải phi tan cho nổ ngay.
 
Tuy nhiên, Huy Đức thừa hiểu người xưa trọng tín nghĩa, niềm tin vững như núi non, mà còn bị lay chuyển bởi dư luận. Việt nam chỉ là con cờ trong cuộc chiến ý thức hệ của nước lớn và chúng ta đã "đánh thắng chúng ta bằng chính thân xác máu xương của cả dân tộc" đã đổ ra vì lợi ích của chúng nó. Các bạn chỉ cần biết "chủ nghĩa cộng sản" và "thế giới tự do" ai thắng ai đó mới là vấn đề...Nếu không có đạn AK hay M-16 thì làm gì có cảnh nồi da xáo thịt ... Ai ngu hơn ai? Vậy mà người viết đặt tên cuốn sách là "Lê Dương Mới" thì có kẻ vì tự ái dân tộc máu dồn lên tới cổ họng ... oé lên! Nhưng xét cho cùng khi hai kẻ thù cho cái gọi là "không đội trời chung", nhưng khi lật ngửa hai xác chết để nhìn mặt thì là người Việt, nhưng ác nghiệt thay cây súng đem sự chết chóc đó không phải do nước mình làm ra ... ấy vậy thế mà lòng tự ái dồn dập nổi lên cuồn cuộn như muốn ăn tươi nuốt sống tác giả của 2 tác phẫm Lê Dương Mới!
 
Nay ta lại thấy giữa thế kỷ 21, CNCS đã tự tiêu diệt vì ...Internet, TV, thông tin nhiều chiều - Tất cả điều "khó nghe" đều xuất phát từ bộ óc không bình thường bởi một "tôn giáo duy vật biện chứng cuồng tín". Ôi! Có phải khi yêu chế độ, ta không cần đôi mắt? Khi si, ta không cần bộ não. Vì khi yêu, có mắt là thừa thãi; đôi mắt có khi làm hỏng "tình yêu" của ta, khi nhận ra người tình mình khập khểnh sỏ lá như các đồng chí X. Nhưng khi si rồi, ta chẳng cần trí não, vì biết đâu ta nhận ra người yêu mình không được bình thường? Thà mất đi đôi mắt, chẳng cần bộ não, người yêu ta luôn là người đẹp nhất trên đời, và tình yêu ta sẽ như ngọn lữa không bao giờ tắt, luôn đẹp như trong giấc mơ. Thà cứ sống trong giấc mơ, còn hơn để giấc mơ phải sống trong đời rất thật của cuộc đời. Ta say hay ta tỉnh, chỉ biết là ta tỉnh nhưng có thể đang say theo chế độ!
.
Secret of the Tomb muốn ngầm nói ra cái thế "Bên Kẻ Mạnh" (On the strongman side) sau khi mất miền Nam: “là VNCH thua để thắng, và cộng sản thắng để thua” cùng nghĩa Mỹ thua để thắng LX bằng phản tình báo qua thằng bé ... BBC News - MathiasRust: German teenager who flew to Red square 1987 - Tháng Tư Đen 1975 cộng sản thắng trong ồn ào máu lửa để "thống nhứt", nay chúng chết rụi tàn trong bóng đêm cũng vào một tháng Tư Đen 30/4/2016 để có "độc lập tự do" thật sự!?
 
Từ chuyện thắng và bại, nhân tháng TƯ ĐEN thử nhìn lại chiến tranh Việt Nam giai đoạn 1954-75. Liên quan đến cuộc chiến tranh ấy, cho đến nay, hầu như mọi người đều khẳng định: Việt Nam (hiểu theo nghĩa là miền Bắc Việt Nam) đã thắng đế quốc Mỹ. Bộ máy tuyên truyền Việt Nam lúc nào cũng ra rả điều đó. Ngay người Mỹ cũng tự nhận là họ thua, “Thế Mới Thâm!”: Đó là cuộc chiến tranh đầu tiên mà họ thua trận! Điều đó đã trở thành một chấn thương (trauma) dữ dội đối với một siêu cường quốc số một thế giới như Mỹ khiến nhiều người trong họ không ngừng trăn trở là phải. VNCH là “nền văn minh thua một chế độ bần cùng” còn “Mỹ cường quốc thua một nước mà không làm nổi con đinh ốc” Chiến tranh Việt Nam, do đó, với lời chúc từ từ Ngôi Mộ Huyền Bí, trở thành một cuộc-chiến-chưa-kết-thúc (unending war) hoặc một chiến tranh vô tận (endless war) theo cách gọi của các học giả thiết kế sách-lược Eurasia-1.
 
    Dĩ nhiên, nhiều người nghĩ khác. Họ không chấp nhận họ thua trận với một trong ba lý do chính:
*- MỘT, một số người cho, về phương diện quân sự, quân đội Mỹ hầu như luôn luôn chiến thắng, hơn nữa, tính trên tổng số thương vong, họ bị thiệt hại ít hơn hẳn đối phương: trong khi Mỹ chỉ có gần 60.000 người chết, phía miền Bắc, có khoảng từ một triệu đến một triệu rưỡi người bị giết (từ phía người Việt Nam, chúng ta biết rõ điều này: Trong đó có rất nhiều dân sự ở cả hai miền!) Những người này cho họ chỉ thua trên mặt trận chính trị; “Truyền Thông Xám” (Mass media) về phong trảo Phản Chiến do Harriman dựng lên. Và trong chính trị, họ không thua Bắc Việt, họ chỉ “cố tình thua chiến lược”… những màn ảnh TV hằng ngày chiếu những cảnh chết chóc ghê rợn ở Việt Nam trước mắt hàng trăm triệu người Mỹ, từ đó, làm dấy lên phong trào phản chiến ở khắp nơi, cũng do diển viên trung úy phản chiến John F Kerry chịu dấn thân làm vận động viên cho sách lược. Nói cách khác, Mỹ không thua Bắc Việt: Họ chỉ thua chính họ, nghĩa là họ không thể tiếp tục kéo dài chiến tranh trước sự thiếu kiên nhẫn của quần chúng theo như ý đồ của Secret Society: "có vào phải có ra", (khi kiếm đủ lợi nhuận qua chiến tranh qua chương trình CIP), trước quyền tự do ngôn luận và phát biểu của quần chúng, trước nhu cầu phát triển kinh tế trong nước. Nhưng trong sách "The New Legion" của Vinh Trương được chứng minh bằng đáp số trước khi quân Mỹ vào, bằng buổi họp NSC, ngày 21/9/ 1960 với đáp số:
 
The author discusses the three Axioms in the dominant interpretation of the U.S.-Vietnam War that were established by the invisible permanent government right after the National Security Council meeting on September 21, 1960.
- (1) They are: - There was never a legitimate non-communist government in Saigon (dissolution GVN) -
- (2) The U.S. had no legitimate reason to be involved in Vietnamese affairs (Tonkin-Gulf-Incident) -
- (3) The U.S. could not have won the war under any circumstances (U.S. troops honorable withdrawal)
 
*- HAI, một số người khác lại lý luận: Mặc dù Mỹ thua trận năm 1975, nhưng nhìn toàn cục, họ lại là người chiến thắng. Một người Mỹ gốc Việt, được đặt hàng, Viet D. Dinh, giáo sư Luật tại Đại học Georgetown University, trên tạp chí Policy Review số tháng 12/2000 và 1/2001, quan niệm như vậy, trong một bài viết có nhan đề “How We Won in Vietnam” (tr. 51-61): “Chúng ta thắng như thế nào tại Việt Nam.” Ông lý luận: Mỹ và lực lượng đồng minh có thể thua trận tại Việt Nam nhưng họ lại thắng trên một mặt trận khác lớn hơn và cũng quan trọng hơn: Cuộc chiến tranh lạnh chống lại chủ nghĩa Cộng sản trên toàn thế giới (tr. 53). Hơn nữa, cùng với phong trào đổi mới tại Việt Nam cũng như việc Việt Nam tha thiết muốn bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Mỹ, Mỹ cũng đã thắng trên mặt trận lý tưởng và chính nghĩa: Cuối cùng thì Việt Nam cũng đã theo Mỹ ít nhất một nửa: tự do hóa thị trường (Còn nửa kia, dân chủ hóa thì chưa! tr. 61, nhưng trung úy phản chiến John Kerry, bây giờ là BTNG sẽ hoàn thành phần sau cùng)
Một số người khác lại cho, sau khi rút quân khỏi Việt Nam, nhìn lại, người Mỹ thấy Việt Nam đang lủi thủi chạy theo sau mình trên con đường tư bản hóa. Họ khẳng định: “Chúng ta đã chiến thắng cuộc chiến tại Việt Nam bằng cách rút quân ra khỏi nơi đó thật là một sách lược thần sầu quỷ khốc của siêu chiến lược gia thiết kế George Kennan (1904-2005)”
 
*- Ba, một số người khẳng định dứt khoát: Mỹ không hề thua Bắc Việt. Chiến thắng của miền Bắc vào tháng Tư/1975 là chiến thắng đối với miền Nam chứ không phải đối với Mỹ. Lý do đơn giản: Lúc ấy, hầu hết lính Mỹ đã rút khỏi Việt Nam. Trước, ở đỉnh cao của cuộc chiến, Mỹ có khoảng nửa triệu lính ở Việt Nam. Sau Tết Mậu Thân, thực hiện chính sách Việt Nam hóa chiến tranh, lính Mỹ dần dần rút khỏi Việt Nam: Tháng 8/1969, rút 25.000 lính; cuối năm, rút thêm 45.000 người nữa. Đến giữa năm 1972, lính Mỹ ởViệt Nam chỉ còn 27.000. Tháng 3/1973, 2.500 người lính cuối cùng rời khỏi Việt Nam. Làm sao con người bình thường hiểu nổi sách lược Skull & Bones 322, đây là cuộc huấn luyện nuôi quân lớn nhứt trong lịch sử Mỹ để: "Bảo đảm phi đội hàng không dân dụng từ thế hệ chong chóng qua phản lực Boeing không bị Bankruptcy mà đến giờ còn ngon lành hơn là vừa rồi Tập Cận Bình qua order 300 chiếc Boeing 737; vì có khoảng trên 3 triệu hành khách GI booked vé trước theo đúng lịch trình tuần tự qua lại của Lính Mỹ, đồng thời sản xuất được 5.000 trực thăng phản lực Hueys tạo biết bao việc làm cho sự phồn vinh của nước Mỹ? Chưa kể những dịch vụ khác như thí nghiệm vũ khí mới làm cho tư bản Mỹ tha hồ hốt bạc và nước Mỹ mới có quyền bắt nạt các nước khác? Như vậy sao lại thua được mà đứa bé BV hồ hởi hô vang Chiến Thắng ĐBP Trên Không?!
 
Từ đó, ở Việt Nam, Mỹ chỉ còn khoảng 800 lính trong lực lượng giám sát đình chiến và khoảng gần 200 lính Thủy quân lục chiến bảo vệ Tòa Đại sứ ở Sài Gòn. Trong trận chiến cuối cùng vào đầu năm 1975, lúc Bắc Việt tiến vào Sài Gòn, không có cuộc giao tranh nào giữa quân BV và Mỹ cả. Chính vì vậy, một số người Mỹ đặt câu hỏi: Tại sao có thể nói là chúng ta thua trận khi chúng ta đã thực sự chấm dứt cuộc chiến đấu cả hơn hai năm trước đó mà Hà Nội có đánh thắng nổi VNCH đâu nếu còn đạn? Ấy vậy mà Secret Society đặt hàng tiến sĩ Hưng viết "Khi Đồng Minh Tháo Chạy" tạo hoả mù để rút ra nhẹ re như bò kéo xe. “Khách bị chủ xách chủi chà đuổi vì làm ngập hầm cầu… Chớ nở lòng nào Khách bỏ chủ nhà ra đi khi tang gia bối rối …Nhưng sẽ hẹn sẽ trở lại bồi thường vào năm 1995 bởi đòn phép chính trị: “Chất độc màu Da Cam và Người Mỹ mất tích” nghe êm tai hơn.
 
Có thể tóm tắt lập luận thứ ba ở trên như sau: Trong chiến tranh Việt Nam, “Mỹ chỉ bỏ cuộc chứ không thua cuộc”.
 
Một số người phản bác lập luận ấy. Họ cho: bỏ cuộc tức là không hoàn thành được mục tiêu mình đặt ra lúc khai chiến; (Tôi cần phải nhắc lại "định kiến-3" trong cuốn "The New Legion" có viết đáp số cho biết là rút lui danh dự sau khi trả đủa vụ Vịnh BV) không hoàn thành mục tiêu ấy cũng có nghĩa là thua cuộc không có gì khác nhau cả. (Trong tờ "tự khai" khi ở tù, tôi có viết nếu Mỹ trang bị trên AC-119, AC-130 có hệ thống bắn tầm nhiệt 106 ly và đại bác 40 ly như AC-130 của Mỹ, thì chả có chiếc Molotova nào chạy   được đến vỉ tuyến 16 chớ đừng nói vào đến miền nam) Bởi vậy National Military Analysis mới nói chúng ta cần nghe ông TRƯƠNG nói về sự thật Chiến Tranh VN như 3 định kiến trên (axiom) Nhưng ở đây tôi nên nẫy ra một vấn đề: Mục tiêu Mỹ đặt ra lúc tham gia vào chiến tranh Việt Nam để làm gì?
 
Có hai mục tiêu chính:
 
- (1) Giúp đỡ chính quyền Việt Nam Cộng Hòa tại miền Nam trong cuộc đối đầu với chế độ Cộng sản ở miền Bắc. (Lê Duẩn tuyên bố đánh thuê cho TQ và LX)
 
- (2) Ngăn chận làn sóng Cộng sản từ Trung Quốc đổ xuống Việt Nam, và từ đó lan ra toàn bộ vùng Đông Nam Á, mà chính khách Bonesmen thì tự hào: Bỏ VNCH xem như một bửa ăn bị bỏ mứa và sẽ ăn tiếp vào năm 1995, người Mỹ có giàu nhưng không phung phí đâu?
 
Tập trung vào mục tiêu thứ nhất, nhiều người cho Mỹ thua trận ở Việt Nam. Đó là điều không thể chối cãi được: cuối cùng, vào ngày 30/4/1975, chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đã sụp đổ (theo đáp số-1 axiom-1, xem chi tiết trong sách The New Legion)
 
Tuy nhiên, xin lưu ý: trong hai mục tiêu trên, mục tiêu thứ hai mới là quan trọng nhất. Khi lính Mỹ mới được điều sang Việt Nam, họ luôn luôn được nhắc nhở đến mục tiêu thứ hai: “Nếu chúng ta không đến đây để ngăn chận sự bành trướng của chủ nghĩa Cộng sản, chúng ta có thể sẽ phải chiến đấu chống lại nó tại bờ biển Waikiki, Honolulu sau này.” Mục tiêu đầu, nhằm xây dựng một chế độ dân chủ không Cộng sản ở miền Nam làm đầu cầu bằng cú nhử mồi, chỉ thỉnh thoảng mới được nhắc đến, nhưng BTNG John F Kerry đang thực thi cho một VN thống nhứt có dân quyền đầy móng vuốt để trở thành một Do-Thái phương Đông
 
Có thể nói mục tiêu thứ nhất được đặt ra để cụ thể hóa mục tiêu thứ hai. Nói cách khác, chính vì muốn ngăn chận sự bành trướng của chủ nghĩa Cộng sản, Mỹ mới nhảy vào giúp chính quyền miền Nam. Mục tiêu thứ nhất, như vậy, chỉ là hệ luận của mục tiêu thứ hai. Nó chỉ là mục tiêu phụ.
 
Liên quan đến mục tiêu thứ hai, nên nhớ đến thuyết Domino vốn xuất hiện từ năm 1951, thời kỳ đầu của chiến tranh lạnh, và được xem là nền tảng lý thuyết cho các chính sách đối ngoại của Mỹ kể từ đầu thập niên 1960 trở đi nó nằm trên trục Eurasia-1. Dựa trên thuyết Domino, chính phủ Mỹ tin là: Nếu Đông Dương rơi vào tay Cộng sản, Miến Điện và Thái Lan sẽ bị Cộng sản chiếm gần như ngay tức khắc. Sau đó, sẽ rất khó khăn, nếu không muốn nói là bất khả, để cho Indonesia, Ấn Độ và các nước khác tiếp tục nằm ngoài quỹ đạo thống trị của Cộng sản Xô Viết.” Nghĩ như thế, chính phủ Mỹ đã xem Miền Nam như một tiền đồn chiến thuật chớ không phải chiến lược để ngăn chận hiểm họa cộng sản.
 
Nếu chỉ nhìn vào mục tiêu thứ hai này - mục tiêu ngăn chận làn sóng Cộng sản ở Đông Nam Á - không thể nói là chính phủ Mỹ thất bại. Ngược lại. Năm 1972, sau chuyến viếng thăm Trung Quốc của sĩ quan trực thượng phiên, Tổng thống Nixon cùng Kissinger, Mỹ đã thành công ở ba điểm: (1), bước đầu bình thường hóa quan hệ ngoại giao giữa hai nước để, tuy chưa hẳn là bạn, họ cũng không còn thù nghịch với nhau như trước nữa; (2), khoét sâu mối mâu thuẫn giữa Trung Quốc và Liên Xô để hai nước đứng đầu khối Cộng sản này không còn thống nhất với nhau vì tranh giành ảnh hưởng trên đầu VN; và (3), làm giảm bớt sự ủng hộ và trợ giúp của Trung Quốc đối với Bắc Việt ngay thời buổi đó vì hục hặc với LX.
 
Với ba sự thành công ấy, Mỹ an tâm được ba điều:
 
- (1) - khi Trung Quốc và Liên Xô trúng đòn ly gián kế đã bị phân hóa, khối Cộng sản không còn mạnh và do đó, cũng không còn quá nguy hiểm như trước.
 
- (2) - khi khối Cộng sản không còn mạnh, đặc biệt khi Trung Quốc đang rất cần duy trì quan hệ hòa bình với Mỹ để phát triển kinh tế và tranh giành ảnh hưởng với Liên Xô, Trung Quốc sẽ không còn tích cực “xuất cảng cách mạng” ở các nước khác trong vùng Đông Nam Á.
 
- (3) - như là hệ quả của hai điều trên, Mỹ tin chắc: ngay cả khi miền Bắc chiếm được miền Nam và ngay cả khi cả Campuchia và Lào đều rơi vào tay Cộng sản thì chủ nghĩa Cộng sản cũng không thể phát triển sang các nước khác như điều họ từng lo sợ trước đó.
 
Với ba sự an tâm trên, Mỹ quyết định rút quân ra khỏi VNCH. Với họ, mục tiêu thứ hai, tức mục tiêu quan trọng nhất, đã hoàn tất thì mục tiêu thứ nhất trở thành vô nghĩa. VNCH chỉ còn là một nước cờ chứ không phải là một ván cờ. Họ thua một nước cờ nhưng lại thắng ngon lành cả một ván cờ bằng thế "Bên Kẻ Mạnh" (On The Strongman Side) mà LX như cái vỏ gai góc cứng ngắt mà Mỹ đã tét vỏ ra rồi thì TQ chỉ là cái muối to tròn ngon lành sẽ sực sau khi ăn xong phần dinner đã bỏ mứa là chơi món tráng miệng “amuse-gueule”
 
           Thắng ở ba điểm:
-Một, sau năm 1975, chủ nghĩa Cộng sản không hề phát triển ra khỏi biên giới Lào và Campuchia. Các nước láng giềng của Đông Dương vẫn hoàn toàn bình an trước hiểm họa Cộng sản và đang làm ăn phồn vinh nhờ Mỹ chơi trò Huấn luyện GI trong trận chiến thật nhưng không đụng đến đường mòn HCM và không cần chiến thắng. Kennan muốn: công nhân phải đổ mồ hôi mới có dollar, làm lính phải chút màu chớ!
 
-Hai, sau khi chiếm miền Nam, chủ nghĩa Cộng sản ở Á châu không những không mạnh hơn, mà ngược lại, còn yếu hơn hẳn. Yếu ở rất nhiều phương diện. Về kinh tế, họ hoàn toàn kiệt quệ ăn BoBo dù là nước sản xuất gạo. Về quân sự, họ liên tục đánh nhau. Về đối nội, họ hoàn toàn đánh mất niềm tin của dân chúng, từ đó, dẫn đến phong trào vượt biên và vượt biển rầm rộ làm chấn động cả thế giới. Về đối ngoại, họ hoàn toàn bị cô lập trước thế giới với những hình ảnh rất xấu: Ở Khmer Đỏ là hình ảnh của sự diệt chủng; ở Việt Nam là hình ảnh của sự độc tài và tàn bạo; ở Trung Quốc, sự chuyên chế và lạc hậu. Cuối cùng, về ý thức hệ, ở khắp nơi, từ trí thức đến dân chúng, người ta bắt đầu hoang mang hoài nghi những giá trị và những tín lý của chủ nghĩa xã hội: Tầng lớp trí thức khuynh tả Tây phương, trước, một mực khăng khăng bênh vực chủ nghĩa xã hội; sau, bắt đầu lên tiếng phê phán sự độc tài và tàn bạo của nó. Một số trí thức hàng đầu, như Jean-Paul Sartre, trở thành những người nhiệt tình giúp đỡ những người Việt Nam vượt biên.
 
-Ba, vào năm 1990, với sự sụp đổ của Liên Xô, của bức tường Berlin và của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, Mỹ toàn thắng trong cuộc chiến chống lại chủ nghĩa Cộng sản. Ván cờ kéo dài nửa thế kỷ giữa chủ nghĩa Cộng sản và chủ nghĩa tư bản đã kết thúc.
 
Nhìn vào ba sự thành công ấy, khó có thể nói Mỹ đã thua trận ở Việt Nam. Lại càng không thể nói là miền Bắc Việt Nam đã thắng Mỹ.
 
Cũng cần lưu ý đến những sự thay đổi trong bản chất của chiến tranh. Từ giữa thế kỷ 20 trở về trước, hầu hết các chiến lược gia, khi nghĩ về chiến tranh,đều cho cái đích cuối cùng là phải chiến thắng một cách tuyệt đối. Tiêu biểu nhất cho kiểu chiến thắng tuyệt đối ấy là cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất và lần thứ hai. Ở cả hai lần, những kẻ thù của phe Đồng minh đều tuyên bố đầu hàng. Ranh giới giữa thắng và bại rất rõ. Rõ nhất là ở Nhật Bản. Sức tàn phá kinh hồn của hai trái bom nguyên tử do Mỹ thả xuống Hiroshima và Nagasaki đã chứng tỏ sức mạnh vô địch không thể chối cãi được của người chiến thắng. Còn cuộc chiến nhỏ do Mỹ tạo nên Đông Dương và Trung Đông để kiếm lợi nhuận, rồi hô hoảng THUA để thế giới không thịnh nộ, nhưng Mỹ hốt khá nhiều lợi nhuận qua quân sự yễm trợ kinh tế và điểm quan trọng là ngôi vị siêu cường nằm chót vót trên cao, không nước nào bắt kịp. Nếu là nhà thông thái thì mỗi lần Mỹ la thua là tăng thuốc bồi mạnh thêm lên mà nước nào cũng ớn lạnh.
 
Tuy nhiên, sau hai quả bom ấy, bản chất chiến tranh và cùng với nó, ý nghĩa của chiến thắng, hoàn toàn thay đổi. Trong chiến tranh lạnh, cả Mỹ lẫn Liên Xô đều có bom nguyên tử. Lúc nào cũng muốn tiêu diệt nhau nhưng cả hai đều biết rất rõ cái điều Albert Einstein từng cảnh cáo: “Tôi không biết trong chiến tranh thế giới lần thứ ba người ta đánh bằng gì, nhưng trong chiến tranh thế giới lần thư tư, người ta sẽ chỉ có thể đánh nhau bằng gậy và đá.” Thành ra, người ta vừa chạy đua chế tạo thật nhiều, thật nhiều vũ khi nguyên tử vừa biết trước là chúng sẽ không được sử dụng. Không nên được sử dụng. Không thể được sử dụng. Để tránh điều đó, chiến tranh toàn diện (total war) biến thành chiến tranh giới hạn (limited war, 1 người Do Thái thông minh đang học Harvard đã được thống đốc Harriman, New York mướn làm cố vấn an ninh, rồi BTNG là Kissinger nhờ bài Essay “Limited nuclear war”); chiến tranh thế giới biến thành chiến tranh khu vực, ở một số điểm nóng nào đó. Ý nghĩa của cái gọi là chiến thắng, do đó, cũng đổi khác: bên cạnh cái thắng/bại về quân sự có cái thắng/bại về chính trị và bên cạnh cái thắng/bại có tính chiến thuật có cái thắng/bại có tính chiến lược.
 
Với những thay đổi ấy, chuyện thắng hay bại lại càng trở thành phức tạp hơn, nhưng điều chắc chắn để Miền Bắc thắng đở hao dollar hơn Miền Nam thắng. Vì khi bạn đi shop 1 món hàng có giá trị giống nhau thì bạn sẽ trả giá rẻ bằng 1 kí BoBo hơn là phải trả 1 kí thịt bò ?
 
       Phần kết luận, có hai điểm tôi xin nói cho rõ:
 
Thứ nhất, tôi chỉ muốn tìm hiểu một sự thật lịch sử chứ không hề muốn bênh vực cho Mỹ.
 
Thứ hai, dù Mỹ thắng hay bại, sau biến cố tháng 4/1975, miền Nam vẫn là nạn nhân. Trên phạm vi quốc tế, ngoài miền Nam Việt Nam, Đài Loan là một nạn nhân khác, tuy không đến nỗi bất hạnh như chúng ta, đó là lý do tại sao Harriman giải nhiệm chức tư lệnh của thống tướng Mc Arthur và đại tướng Westmoreland để đem Mao vào LHQ mà học luật. 
 
Nhưng về toàn cục nếu nói Mỹ thua trong chiến lược toàn cầu của họ là không đúng. Tôi đã nhiều lần giảng giải về Siêu Chiến Lược Eurasian trên 2 tác phẫm "The New Legion" Mỹ đã rút khỏi VN năm 1973 đúng lịch trình như định kiến-2 (axiom-2) và sau đó phe XHCN tan rã gần như toàn bộ. Về toàn cục Mỹ đã nghiễm nhiên chiến thắng mà không phải tốn một viên đạn mà bằng "tối huệ quốc" (Freedom Support Act). Hà Nội có thể sơ-khởi tự hào về chiến thắng của mình để chuận bị hoàn toàn thua trận trong ván cờ tàn!, nhưng người Mỹ cũng chả phải ray rứt vì sự rút lui ra khỏi VN của họ. Mỹ đã chiến thắng trong "chiến lược toàn cầu Eurasia-1" khi họ bỏ VNCH. Điều nầy minh định rỏ trong sách The New Legion ( militaryanalysis.blogspot.com/2012/04/vinh-truong.html ) do Viện Albert Eistein công bố ngày 12/4/2012, Mỹ thật sự đã nổi lên như một siêu cường số một sau khi họ bỏ VN!
 
       KQ Trương Văn Vinh

Tuesday, December 29, 2015

Vị tướng già (sinh năm 1929) trong nhà dưỡng lão

 Hình Thiếu Tướng Ðỗ Kế Giai 42 năm về trước. 
(Hình: Gia đình cung cấp)

 

“Anh hùng mưu sự chẳng nên
Cúi xuống thẹn Ðất, ngước lên thẹn Trời!”

(Thiếu Tướng Ðỗ Kế Giai)

Huy Phương (Người Việt)

DALLAS 
Một người bình thường lúc về già sống cô đơn trong nhà dưỡng lão đã là một chuyện buồn, một vị tướng lãnh đã từng bao năm trận mạc, hôm nay sống trong một nhà dưỡng lão quạnh hiu đã gây không ít cho chúng tôi những cảm xúc bùi ngùi đau xót khi đến thăm ông.

Cùng với anh Thái Hóa Lộc, chủ nhiệm tuần báo Người Việt-Dallas, chúng tôi đến thăm Thiếu Tướng Ðỗ Kế Giai vào một chiều Chủ Nhật mùa Ðông tại “Pleasant Valley Healthcare and Rehabilication Center, 1525 Pleasant Valley Rd., Garland, TX 75040.” Khi chúng tôi bước vào phòng, thấy ông đang ngồi trên chiếc xe lăn, ông cho biết đang thay y phục, nên chúng tôi tạm lui ra chờ. Khi trở lại, ông đã tươm tất hơn trong bộ đồ mới.

Ký giả Huy Phương và Thiếu Tướng Giai trong nhà dưỡng lão ở Dallas Ft Worth tháng 12, 2015. (Hình: Thái Hóa Lộc)

Nhận ra anh Lộc là người quen, thường thăm viếng ông, ông vui vẻ chuyện trò và nhờ chúng tôi đẩy ông ra ngoài phòng khách ngay lối ra vào, nơi mà các y tá có thể quan sát. Ở đây đã có nhiều ông bà già hiện diện, tất cả đều ngồi xe lăn. Ðây là một thói quen của ông, mỗi chiều, hoặc là ngồi đây vui hơn, hoặc là ông đang chờ ai đó, có thể vào thăm ông. Vào chiều Chủ Nhật, nhưng tôi không thấy có một thân nhân nào đến thăm những bệnh nhân ở đây, ngoài chúng tôi đang ngồi với Thiếu Tướng Ðỗ Kế Giai.

Ông chuyện trò rời rạc, khi đáp những của thăm hỏi của tôi, là người khách lần đầu đến thăm ông.
Lúc còn khỏe và tỉnh táo, trí nhớ tốt, mỗi tuần ba ngày, ông đến sinh hoạt tại Trung Tâm Sinh Hoạt Cao Niên tại thành phố Garland.

Bà Ðỗ Kế Giai qua đời vào tháng 11, 2012 sau khi ông vào bệnh viện được ba tháng. Từ bệnh viện, ông được chuyển thẳng về trung tâm này.

Ông bà có tất cả bảy người con, một gái và sáu trai. Bốn người đều ở các tiểu bang xa, chỉ còn lại ba người con trai ở gần ông. Hiện nay, ông còn có thể tự ăn uống và lo chuyện vệ sinh cho mình. Ông đã ở đây hơn ba năm, và tỏ bày: “Ở đây buồn quá!”

Những vị cao niên nằm trong viện dưỡng lão như hoàn cảnh của ông, còn nhớ chuyện này chuyện nọ, còn biết buồn, biết vui, có lẽ cảm thấy khổ hơn là những người đã mất trí nhớ hoàn toàn.

Thiếu Tướng Ðỗ Kế Giai sinh năm 1929 tại Bến Tre, trong một gia đình điền chủ, ông theo học khóa 5 Hoàng Diệu tại trường Võ bị Liên Quân Ðà Lạt, ra trường vào tháng 4, 1952, và đơn vị đầu tiên của ông là Tiểu Ðoàn 3 Nhảy Dù, đóng tại Bắc Việt.

Lần lượt ông đã giữ các chức vụ tiểu đoàn trưởng Tiểu Ðoàn 6 Nhảy Dù, tiểu đoàn trưởng Tiểu Ðoàn 5 Nhảy Dù, chiến đoàn trưởng Chiến Ðoàn 2 Nhảy Dù (1962), tham mưu trưởng Sư Ðoàn 25 BB, tư lệnh Sư Ðoàn 10 BB (tiền thân của SÐ 18BB-1966). Năm 1967 ông mang cấp bậc chuẩn tướng. Năm 1972, ông là chỉ huy trưởng binh chủng Biệt Ðộng Quân và được vinh thăng thiếu tướng vào tháng 4, 1974.(Ðỗ Kế Giai-1984)

Ngày 28 tháng 4, 1975, Tướng Times bên Tòa Ðại Sứ Hoa Kỳ ngỏ lời sẵn sàng giúp đưa cả gia đình ông đi Mỹ, nhưng ông quyết định ở lại vì trách nhiệm của một tướng lãnh. Ngày 15 tháng 5, 1975, Cộng Sản đến nhà mời ông đi họp và đưa thẳng vào khám Chí Hòa, sau đó đưa ông cùng với các vị tướng lãnh khác ra Bắc Việt. 

Ðến ngày 5 tháng 5 năm 1992, sau 17 năm ông mới được trả tự do, là một trong 4 vị cấp tướng cuối cùng ra trại với Thiếu Tướng Trần Bá Di, Thiếu Tướng Lê Minh Ðảo và Chuẩn Tướng Thiếu Tướng Lê Văn Thân. 

Ông và gia đình được xếp vào danh sách H.40 nhưng cuối cùng được đôn lên H.07, đến Mỹ vào tháng 11 năm 1994 và định cư tại thành phố Garland, Texas.

Theo lời kể của anh Thái Hóa Lộc, không phải là thân thích của ông, người vẫn thường ghé thăm ông, cho biết ông thích ăn các thức ăn Pháp và thích nhâm nhi chút rượu, nếu có thể. Lúc còn khỏe, ông cũng sẵn sàng nói chuyện xảy ra trong thời loạn lạc, một số chi tiết về Ðại Tướng Cao Văn Viên liên quan đến vụ đảo chánh 1963, cái chết của Thiếu Tá Nhung và một số chi tiết nhưng ông yêu cầu không nên đưa lên báo chí.

Bây giờ có chuyện nhớ chuyện quên nhưng ông cho biết vào mùa Ðông thân thể thường đau nhức, “chỉ có Wishky mới trị nổi thôi,” điều mà bác sĩ hoàn toàn cấm, nhưng đôi khi các cô y tá cũng thông cảm cho ông, khi biết ông xưa kia là một tướng lãnh. 

Ông tâm sự với chúng tôi, là ông đã nghĩ đến ngày ra đi và không sợ chết. Ngày ông mất, xin nhờ bên anh em thuộc binh chủng Nhảy Dù lo chuyện hậu sự cho ông tươm tất là ông cảm thấy mãn nguyện rồi. 
Ông đọc cho chúng tôi nghe một bài thơ dài ông đã làm trong nhà tù Bắc Việt sau 9 năm bị giam cầm (khoảng năm 1984.) Bài thơ dài 65 câu, lời thơ đầy bi phẫn, xót xa của một tướng lãnh thất trận và là của một người tù không bản án, vô vọng không có ngày về. 

Chỉ trong vòng mười lăm phút, ông đã đọc đi đọc lại cho chúng tôi nghe bài thơ này ba lần, điều này chứng tỏ ông đã đi vào thời kỳ lú lẫn. Anh Thái Hóa Lộc cho tôi biết, ông thường vào thăm ông, mang thức ăn cho ông, và lần nào, anh Lộc cũng nghe ông đọc bài thơ này. Ông cho biết trong nhà tù ông đã làm bài thơ và ghi nhớ trong đầu, đọc đi đọc lại nên thuộc nằm lòng, mà không dám viết ra giấy.

Trong khi Thiếu Tướng Ðỗ Kế Giai đọc đi đọc lại bài thơ viết trong nhà tù Việt Bắc, chúng tôi đã ghi âm lại và chép ra để các chiến hữu và độc giả hiểu được phần nào tâm sự của ông, một vị tướng già, thất trận đang sống những ngày cuối cùng xa quê hương, lẻ loi trong một nhà dưỡng lão xa lạ. Vì khuôn khổ của trang báo, chúng tôi chỉ xin trích một đoạn trong bài thơ của ông, bài thơ chưa đặt tên:

...“Ý thức hệ miền Nam kiếp nạn
Chín năm (1984) cố quốc dạ nào quên.
Không xoay thế cuộc, anh hùng lụy
Hào kiệt ngục trung, nợ nước đền.
Anh hùng mưu sự chẳng nên
Cúi xuống thẹn Ðất, ngước lên thẹn Trời.
Mài gươm rồi để hận đời
Chôn vùi thế hệ lụy người tù chung.
Oán thế nhân, xin đừng trách nữa
Lỗi lầm này hãy sửa sai chung.
Ðem xương máu học bài đắt giá
Chi đem thành bại luận anh hùng.

NHỚ GIÁNG SINH XƯA

             Tuyến trao tô trứng vừa đánh nổi bông lên cho má . Tuyến và má đang chuẩn bị cho bữa réveillon đêm nay , 24 tháng 12 năm 1974 . Mọi năm , ba má lo hết việc nấu nướng cho ngày Lễ Noel . Năm nay má nói con gái lớn rồi phải biết việc bếp núc một chút , vừa giúp má , vừa tự lo sau này . Tuyến biết má nói “ sau này “ nghĩa là gì rồi , người lớn lúc nào cũng lo xa . Tuyến không thích nấu ăn , mà cũng không ghét . Chỉ là làm bổn phận thôi . Nhưng ba thì khác . Ba thích việc nấu nướng lắm , nhất là trong những dịp lễ , tết , những ngày kỷ niệm trong gia đình . Các món bánh gâteau , các món chè , rồi đến món mặn như gà rô ti , canh chua … ba mà nấu thì ngon tuyệt . Chị em Tuyến ai cũng thích ba nấu ăn vì ba nấu ăn ngon hơn má . Lúc nghe chị em Tuyến nói vậy , má cười rồi bảo thế thì chạy theo ba mà xin ba nấu cơm cho . Tuyến ôm lấy má nhõng nhẽo rằng ba nấu ăn ngon hơn má nhưng thiếu cơm của má thì chị em Tuyến lớn không được .
              Tuyến là chị cả của hai đứa em trai nghịch như … quỷ sứ . Năm nay cô bé học lớp bảy , cậu em kế cũng tên … Kế học lớp sáu , cậu út Tân thì đang ở bậc tiểu học . Làm chị cả của hai đứa em nghịch như … quỷ sứ thì chẳng sung sướng gì . Suốt ngày hò hét luôn miệng với … lũ “ chúng nó “ mà “ chúng nó “ chẳng sợ cho .
              Nói vậy chứ ba Tuyến cũng nghiêm khắc trong việc giáo dục , dạy dỗ các con lắm . Ông giao cho Tuyến nhiệm vụ nhắc nhờ các em học bài và làm đầy đủ công việc mà ba má giao cho như nhặt gạo , nhặt rau , quét nhà . Cu cậu nào mà ham chơi bỏ việc là “ ăn đòn “ trước khi ăn cơm . Tuyến thì giúp má công việc “ cao cấp “ hơn là giặt đồ . Chỉ giặt đồ chung với má thôi chứ má không giao hẳn cho Tuyến vì sợ Tuyến giặt còn dơ . Thế là hai cậu em được dịp chọc Tuyến vì chuyện này . Và Tuyến thường vênh mặt đáp lại rằng có giỏi thì tự giặt lấy đi . Hai cậu nhóc liền nhăn mặt lại , quơ tay , múa chân như … hai con khỉ , rồi vừa kêu khọt khẹt vừa … rút lui . Và Tuyến thường bật cười vì hai đứa em nghịch ngợm của mình . 
- Tuyến ơi ! Ra giúp ba môt chút đi con !
         Tuyến dạ to rồi chạy ra phòng khách . Ba đang chăm chú gỡ những sê ri đèn chớp tắt mới mua về . Tuyến nhanh nhẹn treo lên cây Noel . Cây thông và máng cỏ được làm xong từ hôm 20 / 12 , những sê ri đèn này ba mới mua thêm để thay thế những sê ri cũ hư . Nhà Tuyến hay làm hang đá trước lễ Giáng Sinh khoảng bốn , năm hôm và để hết lễ Ba Vua mới dẹp . Tuy gia đình khá giả nhưng ba má dạy chị em Tuyến biết sống tiết kiệm . Chỉ có lúc đầu tiên mới sắm đồ trang trí lễ Giáng Sinh là tốn kém nhiều , mấy năm sau này , hễ hư cái gì là chỉ thay cái đó thôi . Năm thì thay một , hai sê ri đèn như năm nay nè . Năm thì thay vài dây kim tuyến – tên của Tuyến đó . Năm thì vài trái châu . Y phục mặc mừng lễ Giáng Sinh là mặc cho tết luôn . Tuyến thấy thương tính chăm làm và tiết kiệm của ba má lắm . Lúc nào ba má cũng nhắc nhở là trên thế giới còn có nhiều người đói rách , khổ sở lắm . Thực tế nhất là Việt Nam mình đây , có biết bao nhiêu gia đình tang thương , đói khổ vì chiến tranh do bọn giặc Cộng gây ra . Những ai sống xa hoa lãng phí đều có tội . Có tội về đạo cũng như đời .
            Ba Tuyến là giáo sư dạy học ở trường Quốc Gia Nghĩa Tử Sài Gòn . Tuyến hãnh diện vì điều này lắm . Hãnh diện hơn là ba dạy ở bất cứ trường nổi tiếng nào . Tại sao cơ à ? Tại vì Quốc Gia Nghĩa Tử : Vì Nước Quên Thân .
                          Vì Dân Quên Mình .
                 Những học sinh học ở Quốc Gia Nghĩa Tử đều có Cha , Anh hy sinh vì Tổ Quốc . Ngôi nhà QUỐC GIA NGHĨA TỬ là nơi những cô nhi của các Chiến Sĩ Cộng Hòa tìm được tình thương gia đình , được nuôi dạy giáo dục về mọi mặt : Thể Chất cũng như Tinh Thần . Được dạy học và làm việc ở Viện Quốc Gia Nghĩa Tử là một Vinh Dự Lớn cho những người thầy , người cô . Những thầy giáo , cô giáo ở Quốc Gia Nghĩa Tử cũng như là Cha Mẹ thứ hai của các học sinh ở đây vậy . Vinh Dự Lớn Lao và Trách Nhiệm Cũng Lớn Lao theo .
                 Ba Tuyến rất thương yêu học trò của mình . Mỗi khi chấm bài làm của học trò , ông thường hay nói vài điều về học trò của mình với giọng điệu trìu mến , thương yêu . Ba Tuyến dạy sinh ngữ . Ông thông thạo cả hai sinh ngữ Anh và Pháp . Ba Tuyến bảo hồi ba học ở bậc tiểu học là đã nói tiếng Pháp rồi , sau này có lúc ba đi làm , đã có người Pháp khen ba là phát âm giống giọng người Paris chính gốc . Ba ghét cái giọng đọc tiếng Anh chẳng ra tiếng Anh , tiếng Pháp chẳng ra tiếng Pháp của Tuyến . Ba bảo “ Hổ phụ sanh hổ tử “ nên Tuyến phải cố gắng để giống ba một chút chứ !
            Trời ạ ! Tuyến chẳng muốn làm hổ tý nào . Tuyến chỉ muốn làm con chó con của ba thôi . Mỗi lần Tuyến ốm , ba đi dạy về là đến thăm Tuyến ngay , ba hỏi :
- Con chó con của ba thế nào rồi ? Khỏe chưa con ?
        Và Tuyến thường phụng phịu :
-  Con mệt lắm . Con không ăn uống gì được hết ba à !
          Sau đó , ba dỗ cho Tuyến ăn một ít bánh giò hoặc phở , cháo mà má đem đến . Má đã dỗ dành Tuyến ăn một ít rồi , bây giờ Tuyến nhõng nhẽo với ba .
             Nhóc Kế chứng kiến cảnh đó liền thì thầm với nhóc Tân :
- Ôi trời ! Nuôi con gái mệt nhỉ ! Cứ õng à , õng ẹo với ba má hoài . Thật mất thời giờ ! Cứ như hai anh em mình mà lại hay …
              Và khi mạnh khỏe lại rồi , Tuyến thường “ gầm “ lên với hai em :
- Thế thì mai một có đứa nào bị ốm thì đừng có mà năn nỉ ỷ ôi chị Tuyến ơi em đắng miệng lắm , chị pha nước chanh dùm em đi . Rồi lại chị Tuyến à …
           Thường thì hai cu cậu cười rúc rich rồi thì … biến .  
- Tối nay có gia đình bác Đạo đến dự lễ Giáng Sinh với mình đấy . Cả chú Dũng nữa . Hai má con xem làm thêm món gì đi nhé !
            Ba vừa nói vừa kết thúc việc xem xét lần cuối mấy sê ri đèn .
           Tuyến vâng dạ rồi vui vẻ chạy vào nhà trong với má . Mái tóc dài tung bay sau lưng . Bác Đạo là cảnh sát Quốc Gia , quen biết ba Tuyến trong đám cưới của một người bạn và vì “ Đồng thanh tương ứng . Đồng khí tương cầu “ : Tổ Quốc , Danh Dự và Trách Nhiệm nên hai ông thành đôi tri kỷ từ đó . Năm nay ba Tuyến mời gia đình bác đến mừng lễ Giáng Sinh là vì bác phải trực vào Đêm Thánh này . Bọn  giặc Cộng hay tấn công chúng ta vào mấy dịp Lễ lắm . Ba muốn chăm sóc và chia sớt chut hạnh phúc trong Đêm Thánh này với gia đình Người Giữ Gìn An Ninh Trật Tự cho Quốc Gia . Gia đình bác là gia đình Phật tử nên các con của bác háo hức lắm vì cái gì đối với các bạn nhỏ ấy cũng mới lạ cả . Không phải là gia đình bác chưa tổ chức tiệc Giáng Sinh bao giờ , mà vì chưa bao giờ gia đình bác dự lễ Giáng Sinh với gia đình một người Công Giáo . Lúc đầu ba chưa biết ý của bác ra sao nên chỉ mời bác và gia đình đến dự réveillon khi tan lễ thôi . Không ngờ bác vui vẻ nhận lời ngay và còn nói thêm là bác phải  trực đêm Giáng Sinh , nên bác sẽ đưa gia đình đến nhà Tuyến sớm để chúc mừng Giáng Sinh rồi gửi  ( nguyên văn lời bác nói ) cả bác gái , cả bọn trẻ nhà bác cùng đi nhà thờ và dự réveillon với gia đình Tuyến luôn . Còn bác thì trở về làm nhiệm vụ . Ba đang vui mừng vì điều này thì chú Dũng cũng vừa đến . Chú xuất thân từ Quốc Gia Nghĩa Tử và hiện đang phục vụ trong quân đội  . Chú được nghỉ phép vài ngày nên về thủ đô mừng lễ Giáng Sinh luôn . Chú Dũng là em của một người bạn cũ của ba Tuyến . Hồi chú còn đi học , ba Tuyến đã từng kèm cặp môn Anh ngữ và Pháp ngữ cho chú . Nên ba Tuyến đối với chú vừa như người anh , vừa như người thầy . Và mọi người đúng là hữu duyên với nhau , anh của chú Dũng cũng làm trong nha cảnh sát với bác Đạo .
                 Gia đình Tuyến đã sửa soạn khoảng chục ổ bánh mì , một con vịt quay to mua ở hiệu vịt quay quen thuộc , một ổ bánh gâteau to ở nhà tự làm , thêm mấy hộp bánh biscuit và một rổ to đầy nho , cam . Bây giờ khui thêm mấy hộp pa tê , phô mai và rô ti thêm miếng thịt heo là xong . Đám con nhà bác Đạo không xa lạ gì với chị em Tuyến vì cũng hay tới chơi nhà nhau mà . Tuấn , Hưng , Vũ cùng trạc tuổi với chị em Tuyến nên cũng nghịch ngợm lắm . Ba anh chàng này nhập bọn với mấy cậu em của Tuyến thì phải gọi là “ ngũ quỷ “ mới đúng , nhưng bọn hắn không chịu mà tự xưng là “ ngũ hổ “ .
                Giáng Sinh năm nay chị em Tuyến thấy vui hẳn lên . Chưa bao giờ “ gia đình “ Tuyến đông đến vậy , cùng đi dự lễ đêm , cùng về dự tiệc Giáng Sinh trong tiếng nhạc Giáng Sinh tưng bừng , hoan hỷ . Bộ quân phục binh chủng Biệt Động Quân của chú Dũng nồi bật oai phong giữa những tà áo thướt tha muôn màu sắc của những cô thiếu nữ Sài Gòn . Vài  cô cười khúc khích nhìn mấy chàng lính trẻ đang ngơ ngác giữa quang cảnh Lễ Giáng Sinh tưng bừng nơi Sài Gòn hoa lệ. Các chàng chiến binh trẻ tuổi cố dấu đi sự bối rối của mình đưa tay chào các cô theo kiểu nhà binh làm các cô càng cười khúc khích và chen nhau nấp sau … lưng nhau trông thật đáng yêu .
                Tuyến chợt thấy xúc động bồi hồi khi nghĩ đến những gian khổ mà các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa phải trải qua để giữ gìn sự bình yên cho tổ quốc , giữ gìn sự bình yên cho thủ đô và cho Đêm Thánh này . Như cùng chung ý nghĩ , ba nói với cả nhà :
- Chúng ta hãy cầu nguyện cho quê hương , đất nước , cầu nguyện cho các chiến sĩ của chúng ta nghe .
                    Những lời cầu nguyện thì thầm vang lên , những đôi mắt đăm chiêu , những gương mặt trẻ thơ hướng về máng cỏ với Chúa Jêsu Hài Đồng bé thơ , thánh thiện …
                    Đó là đêm Giáng Sinh vui vẻ , hạnh phúc nhất của Tuyến và cũng là đêm Giáng Sinh cuối cùng trên Miên Nam Tự Do thân yêu .
                                                
 Tác giả : Ấp Chiến Lược

Friday, December 25, 2015

Việt Nam Cộng Hòa & những Mùa Noel cũ

Không khí lễ Christmas đang rộn ràng khắp trời Bắc Mỹ có lẽ cũng gợi đôi chút nhớ nhung cho không ít độc giả người Việt, nhất là quý vị cao niên, về những mùa Noel cũ ở Miền Nam Việt Nam, vào thời Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng Hòa, lúc người Việt quốc gia còn nắm quyền điều hành xứ sở.

alt

Mặc dù chinh chiến điêu linh, quê hương ngập tràn khói lửa, mỗi mùa Giáng Sinh về, cách riêng đối với người dân Sài Gòn, đã trở nên một dịp lễ hội đặc biệt. Tại trung tâm thủ đô, người ta tưng bừng bày bán thiệp Chúc Mừng Giáng Sinh và Năm Mới Dương Lịch khắp các vỉa hè, nhiều nhất là trên con đường Lê Lợi, còn gọi là Bonard. Từ thời thập niên 50, 60, những tấm thiệp thiết kế mỹ thuật, đa dạng, thường được in ấn tại ngoại quốc rồi nhập cảnh về, với nhiều màu sắc hình ảnh lung linh đã trở nên rất hấp dẫn đối với giới trẻ Sài Gòn. Đường Lê Lợi, cũng như đường Nguyễn Huệ và đường Tự Do thường không cho xe cộ lưu thông vào buổi chiều trước đêm Giáng Sinh. Cả khu vực như chỉ dành cho những người đi bộ vui chơi đêm Noel. Các quán cà phê đều đông đúc giới trẻ, vừa túm tụm nhâm nhi cà phê, vừa ngồi ngắm thiên hạ ngược xuôi.

alt
Đúng buổi chiều Giáng Sinh 1964, khủng bố VC gài nổ xe bom tại Cư Xá Brinks này (nằm trên đường Hai Bà Trưng Quận 1 Sài Gòn) giết hại 2 binh sĩ Đồng Minh và nhiều thường dân Việt. Ngày nay, nơi này thành Park Hyatt Hotel.

alt
Giáng Sinh 1965, binh sĩ VNCH và đồng minh tặng quà cho trẻ cô nhi một trại mồ côi của Công Giáo tại Xuân Lộc.

Chủ nhân các quán cà phê cũng thường trang trí với cây thông nho nhỏ đặt trên quầy và mở nhạc Noel. Xen lẫn những giai điệu Giáng Sinh rộn ràng của Âu Mỹ thế nào cũng có lẫn những nhạc phẩm về mùa Noel của các nhạc sĩ Việt. Không ít người Việt lớp cũ có lẽ vẫn còn nhớ những năm xưa Đài Phát Thanh Sài Gòn thường phát lại nhạc phẩm “Mùa Sao Sáng” của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông qua giọng hát Giao Linh: “Một mùa sao sáng / đêm Noel Chúa sinh ra đời / người hẹn cùng tôi / ngày về khi đất nước yên vui…” Lời hát thường vang lên vào dạo đầu tháng 12, nửa như báo trước một mùa lễ lớn sắp về, nửa như nhắc nhớ hoàn cảnh loạn ly của xứ sở.

alt
Nhà Thờ Đức Bà Sài Gòn chiều Noel 1964.

alt
Binh sĩ Đồng Minh phát quà cho trẻ em Việt trong vùng chiến sự mùa Noel 1965.

Thời đó, tuổi trẻ nam giới không mấy người tránh được đời quân ngũ, làm bổn phận của người thanh niên, bảo vệ đồng bào, bảo vệ miền Nam Tự Do, khi quê hương đang lâm vào cơn nguy biến. Từng năm từng năm qua, hết động viên từng phần, và đến năm 1968 thì toàn phần Tổng Ðộng Viên. Với những chàng thư sinh phải xếp bút nghiên theo việc đao binh, thì cảnh “anh tiền tuyến, em hậu phương” cũng càng lúc càng thêm phổ biến. Có lẽ có phần từ thực tế này mà nảy sinh một dòng nhạc riêng biệt gọi là “Nhạc Giáng Sinh” qua tiếng hát của các ca sĩ thời thượng hồi đó như Thanh Lan, Thanh Thúy, Khánh Ly, Lệ Thu, Carol Kim... Nhạc Giáng Sinh Việt không rộn ràng như nhạc Noel Âu Mỹ, trái lại còn có thể ảm đạm, thậm chí buồn bã. Giai điệu lẫn ca từ ám ảnh nỗi buồn chiến tranh (những cuộc tình phân ly, những người tình cùng đi lễ nửa đêm, cùng quỳ thề nguyện trong giáo đường, những yêu nhau rồi lại xa nhau, v.v...)

alt
Gót chinh nhân một chiều Noel 1966

alt
Nữ lưu VNCH những ngày Noel cuối năm 1970.

Dòng nhạc Giáng Sinh hay những mùa Noel cũ dễ khơi gợi niềm luyến tiếc một thời Việt Nam Cộng Hoà cách chung và một thời tuổi trẻ rất riêng tư của không ít người Việt. Trong hơn 20 năm, dù gặp hoàn cảnh bất lợi, người Việt quốc gia đã kịp giúp xứ sở của mình thăng hoa: giáo dục khai phóng, xã hội năng động, cầu tiến chưa từng thấy. Bây giờ, gần nửa thế kỷ trôi qua, nhưng tâm lý... hoài cổ có lẽ càng khiến dòng nhạc Giáng Sinh, cũng như những kỷ niệm Giáng Sinh xa xưa của một thời chinh chiến càng thêm tha thiết. Xem lại những hình ảnh Sài Gòn xưa cũng có thể vừa để hoài niệm, vừa để trân quý một thời đại tốt đẹp mà những giá trị của nó chưa hẳn đã mai một qua thời gian.

alt
Tạp chí LIFE ghi lại hình ảnh một người trai Việt thời loạn bắt tay binh sĩ Đồng Minh.

alt
Một góc Sài Gòn mùa Noel 1972