30
tháng 4, ngày nầy 37 năm về trước, như một cơn “Đại Hồng Thuỷ”, Cộng Sản Đỏ
miền Bắc xua quân vượt vùng giới tuyến với đại “cuồng binh” trang bị
xe tăng, thần công súng lớn súng nhỏ đủ loại khí giới giết người, huỷ hoại
những cái gì tốt đẹp và đời sống thanh bình, đem đến cho dân miền Nam
những tang tóc, đổ nát, chia lìa...Một ngày đau buồn khốn khổ nhứt
cho đại gia đình miền Nam. Hàng triệu người dân phải từ bỏ tất cả
tung ra những cuộc di cư tìm một thế giới tự do; biết là một sự mạo
hiểm đầy gian nguy nhưng họ vẫn thử thách với số phận. Có người may
mắn đến được bến bờ Tự Do, ngược lại phải bỏ mình trên Biển Đông
hoặc trong mảnh đất hoan du rừng sâu nào đó trên hành trình. Số phận
những người còn kẹt lại trong nước đã phải gánh chịu một sự trã thù vô
cùng tàn nhẩn. Cộng Sản dùng từ “ mỹ miều”, để che đậy cái “ác tâm” mà
chúng gọi là “đăng ký học tập ngắn ngày”. Học tập ở đây chỉ là bị
chúng bỏ tù biệt xứ, đài đoạ, lao động khổ sai trong đói khát,
không thuốc men khi bịnh tật, khác nào một sự “trả thù”! hèn.
30
tháng 4 nầy nhớ về ngày 30.4.75. Là những người may mắn thoát khỏi Cộng Sản Đỏ;
chúng ta hãy cùng dành một phút nghiêng mình mặc niệm tưởng đến các vị
danh tướng anh hùng, đã noi gương “Võ Tánh” tử tiết theo thành, đến
các chiến sĩ anh hùng cầm súng chiến đấu thà chết không hàn giặc Cộng, đến
các đồng bào gan dạ thà hy sinh mạng mình còn hơn sống với Cộng sản.
Chúng
ta nguời dân Việt Nam đang có đòi sống TỰ-DO trên thế giới hãy
lên án “những kẻ vô liêm sĩ" đã từng bị giặc Cộng rượt đuổi
trốn chui nhủi, được thần Tự Do ra tay nâng đở cho được
một đời sống sung túc hạnh phúc, nay quây lưng trở mặt với chúng ta, vì
chút lợi nhuận, đi tưng bóc hùa theo Cộng Sản, ca ngợi ngày nầy, (30/4) là
ngày “chiến thắng”. Nhứt là số nam nữ ca sĩ, doanh thương qua đường văn nghệ,
họ vì tiền bạc mà quên đi cái ngày nào bị Cộng Sản lên án, phân biệt “nhạc
xanh nhạc vàng”, văn nghệ đồi truỵ, bây giờ có ca sĩ vát mặt đến ca
tụng cái “nghĩa địa hoành tráng” của Cộng Sản, mà không hổ thẹn.
Vô
luân thay! Cho những kẻ “phản bội” nầy, lại ngu muội “nghe những gì Cộng Sản
nói”.
Kính mời quí vị xem tiếp: Cộng Sản đã thí mạng bao nhiêu sanh
linh, để đổi lấy Tỉnh Kontun-Pleiku (Vùng 2) để mở đường
tấn công chiếm lấy miền Nam
thân yêu của chúng.ta.
Công
Tác Pleiku
Rời Phù Cát từ sáng sớm, đoàn tăng cường
thêm 2 chiếc xe (GMC), lấy từ Phù Cát, theo Quốc Lộ (QL) 19 lên An Khê, trên
đường còn lưu lại nhiều dấu vết chiến tranh, nhiều nhà bị vết đạn trên tường,
xác xe nhà binh bị đốt cháy nằm ngả nghiêng bên lề đường.
An Khê nằm trên QL 19, giữa Quy Nhơn và
Pleiku, là một địa điểm chiến lược quan trọng trong thời chiến tranh. Quân Lực
Hoa Kỳ lập một căn cứ lục quân, Sư Đoàn Đệ Nhứt Kỵ Binh đóng tại đây vào
năm 1965, đến năm 1968, Lữ Đoàn 173 Dù Hoa Kỳ tiếp tục đóng chốt tại đây để
ngăn chặn sự xâm nhập của quân đội Cộng Sản Bắc Việt xuống miền biển và đồng
bằng. Từ trên cao nhìn xuống căn cứ còn thấy được đường bay và vô số doanh trại
nằm phía dưới triền đèo.
Qua An Khê, đường tiếp tục đi lên, lên cao
dần, xuyên qua nhiều vách đá núi. Khí hậu trở nên lạnh hơn, càng lên cao, càng
thấy nhiều dấu tích tàn phá, huỷ hoại của cuộc rút quân khỏi Pleiku vừa qua.
Bây giờ, chúng tôi bắt đầu lên xứ Thượng. Đường lên vùng cao có nhiều thung
lũng và cầu bắc qua suối, phần nhiều cầu hư hỏng, ván lót bị long lở, hoặc bị
mất, gãy gập ghềnh. Mỗi lần đi qua, phải thật hết sức cẩn thận, cứ lên non cao rồi
lại xuống ghềnh là một con suối chạy ngang, một lần đang đổ đèo, xe đang ngon
trớn tuôn xuống gần hết đèo, bất ngờ, trước mặt chúng tôi là một cây cầu không
còn ván lót, chỉ còn hai khung thành cầu chơ vơ trên con suối, tất cả chúng tôi
đều hốt hoảng, vì với sức tuôn mạnh của xe đang đổ dốc ngon trớn mà đâm ầm vào
thành cầu, lọt xuống suối, chắc không còn ai có thể trở về với vợ con, anh tài xế
rà chân vào bàn thắng, tiếng xe gầm, lẫn mùi khét của bố thắng bốc khói, còn độ
vài thước là đụng đầu cầu, anh tài xế nhanh mắt, bẻ tay lái sang lề phải vô đám
rừng thưa, thì ra, ở đây đã có một con đường mòn vừa vặn cho chiếc xe tuôn vào.
Cành cây, chồi quẹt vào thành xe bần bật, xe chậm rãi chạy bình thường, từ từ
lăn bánh trên cát, băng qua suối, theo vết của những người đi trước, lên lề an
toàn. Thật may mắn, thoát được hiểm nguy, chúng tôi ra khỏi xe, thở phào thư
thả, mọi căng thẳng vừa rồi đã tạm qua, anh trưởng đoàn đến vỗ vai khen ngợi
anh tài xế vài lời rồi mời anh điếu thuốc lá.“Hành khách”, chúng tôi tìm chỗ
ngồi tựa nghỉ lưng, phì phà thuốc lá, trong khi anh tài xế chui xuống gầm xe,
kiểm tra an toàn để còn phải tiếp tục leo đèo nữa.
Chợt đâu trong bụi rừng chồi, từ hướng suối
đi lên, một người đàn ông Thượng, da đen xạm, chỉ đóng chiếc khố, người để
trần, tay xách một con cá giống loài cá bông ở miền đồng bằng, tay kia anh cầm
một cái “nôm”, chúng tôi vây quanh vừa xem cá, vừa xem người, đó là một con cá
thật lớn, mà tôi chưa từng thấy bao giờ, nó to gần bằng bắp về người thường,
một anh bạn tôi hỏi:
- Có bán không?
Với
giọng miền Thượng “lơ lớ”, anh ta đáp:
- Không bán! Không bán, đổi muối!
Sau
khi anh tài xế, kiểm tra xe xong, đoàn cũng đã tranh thủ …giải khát, lót lòng,
chúng tôi tiếp tục lên đường, xe chạy không xa bao lâu bắt kịp người Thượng lúc
nãy, tay vẫn xách con cá nặng nề, qua khỏi khu rừng chồi đến một cánh đồng
láng, một làng của dân Thượng, đồng loạt nhà sàn sát nhau, mái chóp cao, vách
tháp bằng nẹp tre mây, một cái thang bắt ngay cửa ra vào để đi lên xuống, vài
đứa bé trần truồng chạy đùa giỡn, cạnh cái cầu thang, hai cô gái Thượng, vào
tuổi cập kê, đang cùng nhau giã thóc trong một cái cối bằng hai cái chày gỗ,
ngực trần, đôi “non bồng" cùng nhịp nhàng theo động tác lên xuống.
Anh bạn ngồi cạnh chợt hỏi tôi:
-
Đố bồ, tại sao mấy cô gái đó để trần
-
Nóng nực
-
Không phải đâu, người Thượng có phong tục là “xấu che, tốt khoe”, mấy cô chưa
chồng, họ tự hào là “của” họ đẹp, còn mấy người đã có chồng, có con, họ cho là
xấu nên đem giấu đi, khác với dân miền quê của tụi mình, có con đem ra ngoài
sân, ngoài ngõ, vác vú cho con bú. Còn độc hơn nữa là mấy bà mê "ông
Tướng" (bài Tứ sắc) đang trong cuộc chơi, có cả đàn ông mà mấy bà cũng vạch vú cho con bú, rất tự nhiên.
- Vậy chắc mấy ông thua "Đứt
Chến"!
Trong
xe, mọi người lục đục tìm áo ấm mặc thêm, xe bắt đầu nặng nề leo dốc, tiếng máy
nổ gầm gừ to hơn, bây giờ thì đi lên, đường rất nguy hiểm, nhiều khúc quẹo rất
nhặt, hai bên vách núi càng lên cao, càng cảm thấy lạnh hơn, gió và khí lạnh
bắt đầu thổi đến, gió giựt từng cơn tạt rào rào qua khung cửa xe đóng kín.
Chúng tôi lên đến đỉnh cao nguyên, ngọn núi cao Mang-Yang là một huyện thuộc
Tỉnh Gia Lai- Kontum, dân số độ 45,000 phần đông là người thiểu số, Gia Rai và
Barma, có diện tích 1,226 Km2. Tên Mang-Yang có từ tiếng người Gia Rai (có
nghĩa là Cổng Trời). Mang-Yang nơi thường xuyên bị địch phục kích đánh trộm,
bên đường còn nhiều xác xe nhà binh, xe đò, xe dân sự, nằm nghiêng ngửa bên
triền núi.
Lợi dụng địa thế hiểm hóc này, nơi đây quân đội Pháp cũng có nhiều lần bị phục
kích, lần nặng nhứt vào ngày 24-7-54. Một trung đoàn quân đội Pháp được lệnh từ
bỏ đồn An Khê, rút về Pleiku. Đoàn công-voa di chuyển trên Quốc Lộ 19, lên đèo
Mang Yang, cách Pleiku khoảng 80km bị Việt Minh phục kích, chận đường nơi cây
số 15, trận chiến diễn ra trong 5 ngày, quân đội Pháp chống trả quyết liệt, để
giải vây, mở đường tiến về Pleiku, suốt con đường dài 55 km dầy đặt quân
Việt-Minh, sau 5 ngày trung đoàn binh Pháp thua nặng số binh sĩ còn sống
thoát chạy về Pleiku. Hiện nay quanh ngọn đồi nầy có nhiều “am thờ cô hồn”
cho những người đã chết trong hai lần chiến tranh
Chúng tôi an toàn qua khỏi đèo Mang-Yang đang tiến dần đến
Pleiku, nếu không biết trên đỉnh núi cao vút kia đang có một thành phố thì
chắc chắn không bao giờ tôi có thể tưởng tượng được là có sự sung túc của
một thành phố. Từ dưới nhìn lên chỉ thấy một phong cảnh đẹp như trong
tranh vẽ của một hoạ sĩ lừng danh, từng chùm mây trắng đục như khói sương
vần vũ trên đỉnh núi chen lẫn với rừng thông xanh mượt trải dài theo triền
núi. “Ôi! đẹp làm sao”. Một thành phố núi cao, thành phố đầy sương,
quả là một nơi tuyệt vời cho những ai muốn sống gần thiên nhiên.
Pleiku
một thành phố nằm trên đồng bằng của những ngọn núi cao ở Trung Tâm
Tây-Nguyên, Trung Phần Việt Nam thuộc tỉnh Gia Lai-Kuntom, cao hơn mặt biển
750m, có mặt bằng là 261 km2, nằm trên trục lộ đường Liên Tỉnh 19, hướng Đông
giáp Tỉnh Bình Định, hướng Tây giáp nước Cambodia và đường Liên Tỉnh 14, hướng
Bắc giáp Kontum và hướng Nam giáp Ban-Mê-Thuộc, có dân số là 186.763 người, sắc
dân chính là người Kinh, Balma, và Jarai.
Sau hơn một giờ đoàn xe chúng tôi đi vào cửa ngõ thành
phố, nhằm tháng Mười trời cuối Thu nên đêm xuống mau. Những tia nắng
chiều ẻo lả vẫn còn đủ cho chúng tôi nhìn quanh thành phố là một
vùng đẹp của quê hương, cây xanh đang chuyển mình thay lá, những
chiếc lá úa vàng hồng nhiều màu sắc một cơn gió vô tình cuốn lá rơi lã chã
trên đường phố vắng người qua lại. Đánh một vòng qua cái giếng nước
(fountain), trên con đường chánh của thành phố, những cây phượng vĩ
cũng đang chuyển mình thay lá với cành còn đầy nụ hoa đỏ, giống những chiếc tàn
lọng to vươn ra như đôi tay khổng lồ dang rộng che chở cho mái Nhà Thờ
Thiên-Chúa cao ngất nóc hình chữ “V” ngược, xây cất theo kiểu Châu Âu
vào thời Pháp Thuộc.
Đoàn xe ra ngoại ô đi về hướng Phi Trường Cù Hanh,
cách thành phố 10km, dọc hai bên đường nhìn thấy nhiều trái xu-xu xanh
mướt lủng lẳng đeo theo những dây leo kết chằng chịt quanh hàng rào. Nhà
nào cũng có trồng xu xu, đu đủ, đậu rồng trái to, nơi đây
(Pleiku) đất đỏ và dẻo mưa trơn trợt như trét “mỡ bò” lại rất thích
hơp với loại rau trái nầy, người ta nói “chỉ cần bỏ hột giống xuống tự nó mộc
lên và sinh quả”. Đi ngang qua một vườn trồng khoai mì (sắn), có
lẽ đang đúng mùa thu hoạch, vô số thân cây bật gốc nằm ngả nghiêng
trên mặt đất, nhìn cảnh nầy nhắc tôi nhớ lại lời của một anh cố vấn “xây
dựng nông thôn” lúc làm công tác về miệt thôn quê ở Xã Hiệp Hoà, Biên Hoà,
anh nói: “Đất ở xứ nầy tốt lắm , chỉ cần cắm một cái "que" xuống là
có ăn”. Ý anh nói “que” ở đây là một khúc thân cây
khoai mì (sắn).
Xe
chúng tôi tiếp tục đi về hướng phi trường, trước mặt chúng tôi từ xa, bốn
giàn ‘radar” có hình bầu dục, trắng như bạch kim, to lớn khổng lồ sừng sững
vượt lên như thi đua cùng núi cao, phản chiếu ánh nắng mặt trời lấp lánh
như hàng vạn tấm gương phát ra ánh sáng lập loè. Ngừng xe ngay trước
cổng phi trường, anh bộ đội nhảy xuống làm thủ tuc an ninh; nhìn qua cửa
sổ, bỗng tôi thấy có bốn thanh niên trên người chỉ mặt cái quần “xà lỏn” che
thân, họ đang ngồi chồm hổm hai cùi chỏ gác lên hai đầu
gối, đầu cuối thấp, thân người co cụp lại để tránh những mũi nhọn kẽm
gai đang lởm chởm trên đầu và chung quanh họ, các anh nầy bị nhốt
trong cái rọ “hay chuồng cọp” chiều cao độ một mét, ở giữa ban ngày
nắng nóng, đêm xuống thì rất lạnh của núi rừng Cao Nguyên. Tại sao
họ lãnh cái hinh phạt tàn nhẫn như thế! Giữa người với con người sao
nỡ đối xử tàn tệ như thuở còn man di, lạc hậu! Chúng tôi chỉ biết nhìn họ
mà ái ngại, tội nghiệp, không ai dám mở lời hỏi tai sao?
(Phi Trường Pleiku còn có tên gọi là Phi
Trường Cù Hanh. Vào thời gian Cộng Sản Bắc Việt mở màn những đợt phá hoại, tung
ra nhiều trận tấn công lớn vào miền Nam
Việt Nam.
Vào năm 1962, Phi Trường Pleiku là Căn Cứ 62 Phi Đoàn Quan Sát của Không Quân
Việt Nam, với loại phi cơ L19 Cessna, tình hình chiến tranh ngày càng leo
thang, đến 1964, một phân-đoàn chiến đấu cơ A1 Skyraiders từ phi trường Biên
Hoà được đưa ra yểm trợ. Từ đấy, Căn Cứ 62 được tăng cấp số lên gọi là: Không
Đoàn Tác Chiến 62.
Binh đội Cộng Sản Bắc Việt càng tăng cường, xâm nhập vào
miền Nam qua biên giới Lào, Cambochia. Pleiku là tuyến đầu chận sự tràn qua
biên giới của quân Cộng Sản Bắc Việt. Do đó phi trường được nâng cấp, bành
trướng lớn hơn. Không Quân Hoa Kỳ xây lại mặt bằng nối dài đường bay lên
1,829m, và các hạ tầng cơ sở được xử dụng chung giữa Không Quân Việt Nam và Không Quân Hoa Kỳ.
Ngày
6-2-1965, phi trường bị tấn công, pháo kích nặng, cộng quân bám sát vào hàng
rào phi trường, nhưng bị hoả lực phòng thủ vòng đai chận đứng. Không có trận nổ
súng nào mà không đổ máu. Kết quả Không Quân Hoa Kỳ bị 9 tử trận, 128 bị
thương. Thua keo này, VC bầy keo khác, chỉ chực ăn tươi nuốt sống Pleiku, vì
nơi này là một chướng ngại lớn cho ý đồ đưa binh đội Bắc Việt đi xuyên qua Lào
và Cambochia, theo Đường Mòn Hồ Chí Minh (xưa Việt Minh gọi là Đường Trường
Sơn) tràn xuống đồng bằng và tiến xa hơn nữa là vào miền Nam. Quan sát tình
hình chuyển động quân sự của Bắc Việt quanh vùng, Cố Vấn Trưởng của Vùng II,
Quân Đoàn II Chiến Thuật và Trung Tướng Ngô Dzu, Tư Lệnh Quân Đoàn II cho biết
tình hình trở nên nguy kịch trầm trọng, Cộng Sản Bắc Việt điều động đến khoảng
60,000 quân di chuyển vào vùng tam biên “Việt-Miên-Lào”, dùng chiến thuật “biển
người” công đồn, đả viện để biến Cao Nguyên và Kontum thành một Điện Biên Phủ
thứ II, ông John Paul Vann, Cố Vấn Quân Sự Cao Cấp của Hoa Kỳ tiên đoán: “Cộng
Sản sẵn sàng hy sinh 10,000 binh để chiếm cho được vùng Cao Nguyên, trận chiến
sẽ trải dài từ thành phố Kontum đến Pleiku, tràn đến Bình Định…
Mở màn cho ý đồ
nầy, Cộng Sản Bắc Việt chọn một ngọn đồi cao nhứt trong vùng là Đồi 937.
Sau
tổng tấn công Tết Mậu Thân (1968), Bắc Việt đưa binh đội chính quy vào
Cao
Nguyên Trung Phần Việt Nam, chiếm những ngọn đồi cao nhứt để làm căn cứ
chiến lược, ngọn 937, cao 937 mét, tính từ độ mức mặt biển, đứng riêng rẽ với các
ngọn đồi khác, ngọn đồi này được bao quanh bởi những rừng cây dày đặc và tre
rừng cao ngất trời, vì thế mà nơi đây rất khó dò tìm được mục tiêu, là một địa
hình rất thuận lợi để lập căn cứ. Biết
được ý dồ của Bắc Việt, quân đội Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hoà mở cuộc hành quân tiểu
trừ.
Sau lần đụng
trận đầu tiên với binh Cộng Sản, do địa hình nhiều cây cao không tiện
cho trực thăng vận đổ quân, vì vậy quân đội đồng minh Hoa Kỳ và
Việt Nam phải bám lấy địch quân từng bước từ dưới chân đồi tiến lên,
những trận chiến đấu cày răng lược, giáp lá cà... quyết liệt đến tàn
nhẫn. Được sự yểm trợ mạnh của pháo binh và oanh tạc cơ, sau 15 ngày
chiến đấu Cộng Sản rút binh chạy sang biên giới Lào. Đại đội C
(Charlie là mật mã liên lạc qua vô tuyến) tiến chiếm ngọn đồi đầu tiên,
lấy tên “Charlie” đặt
cho Đồi 937. Kiểm điểm sau cuộc chiến tìm thấy: 65 xác binh sĩ Bắc Việt
rải rác quanh vùng, nhiều nón cối, súng AK47, lựu đạn chày và nhiều cuộn
băng cứu thương đẫm máu; vô đến trung tâm đồi đếm được 15
binh Bắc Việt chết treo lửng lờ từ ngọn cây, những người nầy là xạ thủ đại
liên, bị xích chân vào súng lớn. Sau khi kiểm điểm ngọn đồi có tất cả
633 xác chết binh Bắc Việt, nhưng không thể đoán biết đươc bao nhiêu
người bị thương được mang đi, và số người chết vùi dập bởi đại
pháo làm sập hầm trú ẩn. Thiệt hại về phía Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hoà
:73 người chết, 372 người bị thương. Sau khi làm chủ ngọn đồi,
quân đội Hoa Kỳ còn đặt thêm một tên cho ngọn đồi là “Hamburger”.
Trận chiến thắng đồi
Charlie đã chứng tỏ sự vững mạnh của quân lục Việt Nam Cộng Hoà và Đồng
Minh Hoa Kỳ, nhưng trái lại đã gặp không ít khó khăn ở truyền thông
báo chí và Quốc Hội Hoa Kỳ, gây trong dân chúng Hoa Kỳ có phản ứng không
tốt cho sự chiến đấu chống Cộng Sản ở miền Nam Việt Nam. Do
nhiều áp lực, nên Tư Lệnh Quân Lực Hoa Kỳ ở Việt Nam quyết định
bỏ Đồi Charlie, bàn giao lại cho Liên Đoàn 81 Biệt Kích Dù,
từ đây đảm đang việc phòng thủ giữ Đồi Charlie.
Cộng Sản vẫn nuôi mộng đánh chiếm
vùng Cao Nguyên Trung Phần để làm bàn đạp đánh xuống vùng đồng
bằng, kế đó là miền Nam
Việt Nam.
Vào đầu tháng 2 năm 1972, binh Cộng Sản Bắc Việt theo con đường mà
chúng đã mở sẵn từ tam biên (Việt-Miên-Lào) xuyên qua vùng đồi núi
phía Nam đồn Tân-Cảnh, cách QL14 độ 2km để tiến về Quân Đoàn II. Trong
lúc nầy tình hình mặt trận Tây Bắc tỉnh Tây Ninh bị áp lực mạnh của Cộng Sản
và An Lộc đang bị địch bao vây, nên Liên Đoàn 81 Biệt Kích Dù được điều động
về giải vây. Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn II xin tiếp viện, Sư Đoàn Dù phái Tiểu Đoàn 11
Dù, chỉ huy bởi Trung Tá Nguyễn Đình Bảo lên thế chổ trấn thủ Đồi
Charlie. Binh Cộng Sản đoán được sự phân tán lớn của Quân Đội
Việt Nam Cộng Hoà, chúng liền cho mở mặt trận tấn công thăm dò, chiến sĩ
VNCH ở đồi Charlie phải nhiều ngày oanh liệt “cắn răng” giáp chiến
chống lại với chiến thuật “biển người” của binh Cộng Sản Bắc Việt, cố gắng
giữ vững căn cứ. Nhưng cuối cùng, tất cả đã vĩnh viễn ở lại Charlie với cố Đại
Tá Nguyễn Đình Bảo, vị chỉ huy trưởng anh hùng cùng nằm lại với các chiến sĩ
anh em đã anh dũng hy sinh.
Sau Charlie, binh Cộng Sản
tiếp tục trên đường tấn công, nằm trong chiến dịch “Mùa Hè Đỏ Lửa”.
Sư Đoàn 2 Cộng Sản được yểm trợ bởi chiến xa T54 ào ạt mở trận
chiến vào hướng Tây của Bộ Tư Lịnh Tiền Phương của Sư Đoàn 22 Bộ Binh tại Tân
Cảnh cách biên giới Viêt-Miên-Lào 5km, là nơi mở màn “Chiến Dịch Mùa
Xuân" của Bắc Việt Cộng Sản. Mưa pháo 82 ly, hoả tiễn 122 ly kéo dài hơn 3
tiếng đồng hồ, lúc 10:30 sáng ngày 23-4-72 thì hầm chỉ huy hành quân bị trúng
hoả tiễn, hệ thống điều khiển chỉ huy bị thiêu huỷ, nhiều sĩ quan chỉ huy
bị thương nặng, đến 11:00 giờ đêm, cánh quân tiền phương của Cộng Sản bị
Sư Đoàn 22 Bộ Binh phát hiện, cách Đakto 1km, có 3 chiến xa T54 yểm trợ,
lập tức yêu cầu Phi Trường Nha Trang cho tăng cường phi cơ hoả lực (ÁC130
gunship) lên bắn cháy tất cả chiến xa T54 của Cộng Quân nhưng vẫn không
chận được sự tấn công của binh Cộng Sản. Đến nửa đêm, độ một
trung đoàn ( độ trên 2.000 ) binh Cộng Sản ào ạt tràn vào tiền đồn Tân Cảnh, mặt
khác một trung đoàn binh Cộng Sản thứ hai xuất hiện cách Tân Cảnh độ 3 km
về hướng Tây Bắc, chúng tiến hành đánh chiếm QL14 cắt đường giao
thông giữa Dakto và Tân Cảnh làm bốn đoạn, khiến cho sư liên lạc giữa hai
thành phố bây giờ chỉ nhờ vào máy vô tuyến. Mặc dầu thời tiết xấu các phi
cơ chiến đấu Skyraider A1E, A37 xuất phát từ Phi Trường Cù Hanh
lên oanh kích Cộng Quân đang chiếm giữ QL14. Gần sáng Cộng Quân vừa pháo
kích vừa xua quân vào Đồn Tân Cảnh, gặp phải hoả lực mạnh của các chiến sĩ
Trung Đoàn 42 mãnh liệt chống trả, nhờ vậy Tân Cảnh đứng vững đến
khi trời sáng. Trời sáng sương mù nhiều lại thấp không thuận lợi cho phi cỏ yểm
trợ. Trước tình thế quân địch quá đông, về phía ta thì bất lợi vì thời tiết
xấu, tướng Ngô-Dzu ra lệnh di tản chiến thuật Đồn Tân Cảnh và các đồn phía Tây
QL 14. Cùng với đông bào lui về tái lập giới tuyến cách Kontum 20 km,
chiến đấu dũng cảm của Trung Đoàn 42 Bộ Binh đẩy lui nhiều đợt tấn
công “biển người” của Cộng Quân với khối bộ binh gấp ba lần và thêm 60 chiến xa
T54 yểm trợ. Trận chiến kéo dài suốt 24 tiếng đồng hồ không ngừng nghỉ; ở
Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 2 liên lạc được với căn cứ đến 8:00 tối ngày
24-4-72 thì mất liên lạc. Một số quân sĩ thoát khỏi quận Dakto về cho biết Căn
Cứ Tân Cảnh đã bị Cộng Sản tràn ngập đêm 24 tháng 4 năm 1972. Sau khi
hai quận Dakto và Tân Cảnh bỏ ngỏ cho Cộng Sản, thành phố Kontum càng
bị áp lực nặng nề của quân Bắc Việt; con đường QL 14 nối liền giữa
Kontum và Pleiku bị cắt đứt, Kontum bị cô lập, thiếu dầu thiếu điện,
lương thực tiếp tế không đến được, phi cơ không đủ để
chuyển lương thực, ngày càng khó khăn dân chúng phải di tản về Pleiku bằng phi
cơ và đường bộ cách giữa Kontum và Pleiku 45 km
Lần lượt Cộng Sản Bắc Việt chiếm
các căn cứ quan trọng tiền đồn phòng thủ Kontum và Pleiku. Muốn tiến chiếm
Kontum và Pleiku thì chúng phải triệt hạ một chướng ngại vật lớn là: Lệ Khánh,
căn cứ nầy còn có tên là (Polei-Kleng). Lệ-Khánh là tên một con đồi lớn,
nằm về phía Tây Bắc, cách Thành Phố Kontum khoảng 22
km, chung quanh Đồi Lệ-Khánh có những đồi thông khác, nằm rải rác, tạo nên
một khung cảnh thật thơ mộng. Để ngăn ngừa áp lực của Cộng sản đối với Kontum và Pleiku, trên đồi Lệ-Khánh quân đội Hoa Kỳ đặt một căn cứ hoả lực kiên cố. Doanh trại căn
cứ xây theo hình tam giác, có một hệ thống giao thông hào chìm lẫn nổi, có 13
lô cốt phòng thủ quanh trại, căn cứ Lê Khánh có chức năng chận
đứng mọi xâm nhập của Cộng Quân từ biên giới Việt-Miên-Lào qua con đuờng Mòn Hồ Chí
Minh. Vì vậy, bất cứ
giá nào CS Bắc Việt cũng quyết tâm san bằng Lệ Khánh. Cộng Quân Bắc Việt khơi
mào tấn công Lệ Khánh vào những ngày đầu tháng 5/72 bằng những trận pháo không
ngừng nghỉ, với những đại pháo 82 ly và 122 ly, suốt tuần dồn dập rót đại pháo
vào đồn Lệ Khánh.
Đến
ngày 7-5-72 cộng quân tăng cường độ pháo kích nặng hơn, từ 8:00 sáng đến nửa đêm,
chúng chuyển sang tấn công ở sườn phải vòng đai. Biệt động quân giữ vững vị
trí, đánh trả nhiều đợt tấn công trong đêm, đến sáng Cộng binh lui binh để phục
hồi lực lượng, bỏ lại trên 300 xác treo rải rác quanh vòng đai phòng thủ. Sau
một giờ kiểm binh, cộng quân tăng cường, tấn công tới tấp. Lần này, chúng dùng
đại pháo 105 ly, rót hàng ngàn quả vào căn cứ hàng nhiều giờ, trước khi thả 20
chiến xa T54 yểm trợ bộ binh tấn công căn cứ. Mặc dù đã hết sức mệt mỏi, sau
nhiều giờ chiến đấu không nghỉ, Biệt Động Quân sẵn sàng với M-72 chống chiến
xa, đợt tấn công lần 2 này có 5 chiến xa T-54 bị bắn cháy, nhiều xác cộng quân
ngã gục tại chỗ. Lần nữa cộng quân tháo lui, chiến trận giằng co mãi đến 20
ngày, binh sĩ BĐQ phải sống ẩn núp dưới những giao thông hào chìm để tránh mưa
pháo liền tay của binh CS. Quang cảnh đồi Lệ Khánh không còn được đẹp như tranh
vẽ của trời Cao Nguyên nữa, căn cứ Lệ Khánh bi bầm dập thành mảnh bởi đạn pháo
của cộng quân, kho đạn của đồn bị trúng pháo nổ tanh banh, trung tâm hành quân
xụp đổ, những binh sĩ BĐQ vẫn cô đơn kiên cường chống giặc, lương thực, nước
uống dự trữ chỉ dùng đủ 3 tháng. Căn Cứ Lệ Khánh hoàn toàn bị cô lập, không
tiếp tế, không tải lương được. Biệt phòng BĐQ vẫn chiến đấu, ai bị thương nặng thì
nằm bệnh xá, còn cầm súng được vẫn tiếp tục bắn địch quân, vợ con binh sĩ cũng
tham gia chiến đấu, người tay súng, người tải thương, người tải đạn, người quan
sát canh phòng, v.v.
Cả
tháng trời, Lệ Khánh không có ban đêm, khi mặt trời vừa khuất bóng, những trái
hoả châu thả xuống liên tục soi sáng cả một vùng quanh căn cứ, một tiểu đoàn
pháo binh của Sư Đoàn 22 bộ binh bên kia sông Poko bắn pháo yểm trợ cánh quân
trụ phòng chỉ độ 20km, xác địch quân rải dãy hàng rào phòng thủ hơn 20 ngày
trước, giờ thì sình thúi, pha trộn mùi khói thuốc súng, làm cho căn cứ nặc nồng
mùi tử khí. Từ ngày 20 cho đến về sau, căn cứ mất liên lạc với Quân-Đoàn II, các đồi cao điểm bị quân CS chiếm đặt cao xạ trực chỉ vào căn cứ, cây ăn-ten (antenna)
dù căng lên là đích cho súng pháo của địch. Chỉ huy căn cứ Lệ Khánh quyết
định rút lui khỏi căn cứ. Trong số các lô cốt, lô cốt số 13 là an toàn hơn,
tiểu đoàn được lệnh sẵn sàng lên đường, đến gần sáng, phá hàng rào kẽm gai
chằng chịt của lô cốt số 13, trong khi quân CS vẫn tiếp tục nã pháo như mưa vào
trại. Toán tiền phương mở đường máu tiến ra ngoài, toán trước, trợ cho toán sau,
dẫn dắt gia đình, binh sĩ và thương binh… thoát được ra ngoài vòng pháo của
địch, hai toán chia nhau đi hai hướng khác nhau, nhờ liên lạc được vô tuyến
gọi phi cơ quan sát vị trí địch quân, đem phi cơ oanh tạc cộng quân đang vây
căn cứ. Hai cánh quân rút lui mãi đến chiều hôm sau mới đến con sông Poko, một
cánh quân bảo vệ cho gia đình binh sĩ cố gắng qua sông để đến tạm trú tại căn
cứ Liên Đội 385 Địa Phương Quân, một cánh vừa rút lui vừa chống đỡ yểm trợ cho
đoàn qua sông, tiếng con nít khóc làm lộ mục tiêu, Việt Cộng rượt đuổi theo đoàn
đang vượt qua sông, nhờ mùa khô, nước cạn ngang ngực nên cả đoàn và gia đình
cũng lướt băng qua sông, một bà mẹ người Thượng đai đứa con còn trong nôi trước
ngực, bị trúng đạn chết tức khắc nằm thả ngửa trên mặt nước, trong khi đứa con
còn đang ngậm vú mẹ. Cộng Quân đuổi kịp đến bờ sông, chúng dùng súng cối 61 ly
nã đạn, không chút thương tiếc vào đoàn vượt sông, thật dã man, giết chết cả
đàn bà con nít, mặt nước sông Poko nhuộm đỏ máu của những người dân vô tội, 360
người cùng vượt sông, sang đến bờ chỉ còn lại 97 người sống sót.
Từ
đồi Charlie, Dakto, Tân Cảnh, nay đến Lệ Khánh thất thủ, mục tiêu của CS là
Pleiku, bây giờ còn lại Kontum, đầu giới tuyến, binh CS bắt đầu tấn công căn
cứ : 41 và 42, là hai căn cứ then chốt cho an ninh của QL 14 giữa Pleiku và Kontum cách nhau 15km, âm mưu
của CS là cắt đứt mối tiếp tế, liên lạc, lưu thông giữa 2 thành phố, nếu 2 căn
cứ then chốt nầy mất thì Pleiku sẽ rơi vào sự kiểm soát của CS Bắc Việt, vì
vậy, một bên trong tư thế tấn công, một bên trong thế thủ, dù cho có bao nhiêu
thân xác phải hy sinh. Vào lúc nửa đêm, cộng quân pháo hàng trăm quả vào căn
cứ, sau đó một đại đội đặc công của Sư Đoàn 2 Sao Vàng và một trung đoàn trợ
chiến, đặc công của Việt Cộng còn rất trẻ tuổi khoảng từ 15-16… đã bị chích
thuốc kích thích, nên rất liều mạng sống, chúng đeo vào người khoảng 50 kg chất
nổ, nhào vô hàng rào căn cứ tấn công, phá rào dọn đường cho trung đoàn bộ binh,
có trung đoàn pháo yểm trợ, tấn công đẫm máu vào căn cứ ở hướng Đông, chiến sĩ
của Sư Đoàn 23 Bộ Binh (VNCH) từ hướng Tây đánh lên, nhờ sự quan sát tốt trên không
của L19 và C7 chỉ điểm cho pháo binh yểm trợ rất chính xác, thêm hoả châu soi
sáng vùng chiến địa, nhờ đó mà phi cơ C130 vũ trang (C130 gunship) và phi cơ
oanh tạc F104 trực xạ chính xác vào các cánh quân Cộng Sản, trận chiến kéo dài đến
sáng, Cộng Quân lơi tiếng súng, dần dần rút lui, biến mất vào các triền núi.
Chiến sĩ các căn cứ hoả lực phải đi chôn 160 xác Cộng Quân quanh vòng rào phòng
thủ và 40 xác khác trên bờ suối, nhiều xác đặc công CS còn trẻ trong lứa tuổi
học sinh nhưng lại bị đem xử dụng liều mạng chết thật thảm thương.
Sư Đoàn 23
Bộ Binh cho tăng viện về Kontum, cả một đoàn xe vận chuyển và các đơn vị Thiết
Giáp đều bị phục kích trên tuyến đường dài từ Sơn Trà cho đến đồi Chu Pao. Vào
đầu tháng 6, 1972 quyền kiểm soát đỉnh đồi Chú Pao bị rơi vào tay Cộng Sản Bắc
Việt.)
- Ê! Ê! Nó đang dòm bồ cà.
Anh bạn khều vai trong khi tôi đang suy tư
nhìn những người đang bị đối xử tàn tệ trong cũi kia. Anh bộ đội mặc đồ chiến
đấu màu xanh ô-liu, nón cối, đeo sao vàng nền đỏ trên vai đang đếm từng người
chúng tôi. Xe tiến vô phi trường, đến khu nhà độc thân, đó là những dãy nhà
tiền chế, sơn phết màu trắng, sạch sẽ phân ranh đều đặn bằng những hàng cây đu
đủ hoặc chuối, đang được mùa sai quả, trước sau không một bóng người, cả một căn
cứ mênh mông, lạnh tanh như nơi hoang phế, rác rến, giấy báo, gỗ ván, bàn ghế
nghiêng ngửa, bàn ngồi cầu tiêu lăn lóc ngoài sân, chén đĩa bể tung tóe, có lẽ
đó là dấu vết của cuộc tháo chạy, bị phá hoại, hôi của dữ dội vừa qua, sau khi Quân-Đoàn II bỏ ngỏ.
Chúng
tôi được phân cho một căn nhà để nghỉ tại đây, thời gian là bao lâu thì không
biết, phải xong hết việc mới biết có được về hay không. Ra công quét dọn, chúng
tôi nhặt được nhiều sách, sách học tiếng Anh, văn thơ, tiểu thuyết, nhứt là
loại tự luyện văn hoá, tự học. Tôi nghĩ, nơi đây, cảnh vật tịch mịch, quanh năm
với núi rừng - một thành phố buồn - các anh chàng “hào hoa” lấy sách để tự trao
đổi kiến thức, giải khuây. Vuốt lại tờ giấy con dán ở vách, một câu thơ của ai
đó còn lưu lại:
Bây
giờ anh ở Pleiku
Cỏ
xanh là núi, mây mù là sương….
Kẻng cơm reng lên. Chúng tôi tập họp để gặp
trưởng đoàn, dặn dò những điều cần phải làm để giữ an toàn khi có báo động. Anh
ta cho biết:
Vì
bọn địch “FULRO” (Lực Lượng Biệt Kích người Thượng, được trợ cấp bởi Chính Phủ
Hoa Kỳ) còn đang lẩn náo gần đây âm mưu phá hoại chúng ta, nếu có báo động,
các anh ở đâu thì cứ ở tại chỗ, không chạy lộn xộn ra ngoài, tránh lẫn lộn, nếu
không bị địch đâm chết thì cũng bị bạn ta bắn lầm.
Cơm
xong trời đã tối, không đèn, phải nhờ mấy cây đèn bin, lấy đầy bi-đông nước
chín, chúng tôi quay về chỗ nghỉ, tạm yên tâm và hy vọng sẽ có được một giấc
ngủ ngon lành. Đã 3 đêm xa nhà, thật không nỗi buồn nào hơn! Những giọt mưa rơi
chạm vào mái tôn ngân tiếng ton…ton… đều đều như nhịp đệm cho một bản nhạc buồn
đưa tôi vào giấc ngủ lúc nào mà không hay. Đang chập chờn, nửa tỉnh, nửa mê,
bỗng tiếng còi “tu hít" rít lên vang dội, tiếng kẻng chát chúa xé màn đêm,
chúng tôi tung mền ngồi dậy nghe ngóng. Im lặng, nhớ lời dặn ban chiều “Ở đâu,
ở đó”, thì bên ngoài, tiếng chân chạy thình thịch, tiếng người la ó, tiếng cò
súng lên đạn róch rách:
-
Đừng ra ngoài.
Anh
bạn tôi nhắc nhở khẽ. Không có chuyện gì xảy ra tiếp, báo động độ nửa tiếng
đồng hồ kết thúc, có lẽ cũng gần sáng, tiếng chim rừng ríu rít vừa đánh thức
chúng tôi dậy. Sau đêm nghỉ ngơi, thì bắt tay vào việc. Nhờ tập trung vào công
việc, nên cũng tạm quên nỗi nhớ nhà, toán Biên Hoà chúng tôi được giao việc
thống kê vật liệu trong các kho, các nhóm khác được phân công phục hồi máy
điện, phục hồi cơ khí và phi đạo tháo gỡ vũ khí trên các phi cơ có vũ trang.
Bây giờ, chúng tôi mới có cơ hội nhìn qua cảnh vật, còn nhiều phi cơ nằm ụ, nằm
rải rác trên phi đạo, những C-48, C-130, C-141, trực thăng UH-1, nhìn thấy
những chiếc phi cơ này còn “đứng vững” trên các “bánh đáp”, chứng tỏ chúng chỉ
bị hư hỏng nhẹ, hoặc có cái còn tốt. Có lẽ do vội vàng rút chạy chỉ được phá
huỷ không triệt để, số phi cơ và các tài sản còn lại này đáng giá hàng khối
dollars khổng lồ, đang chờ “chủ mới”! Những ngày nghỉ cuối tuần, chúng tôi thả
nhau đi mọt sách cũ trong trại, hoặc đi bộ ra hàng rào phòng thủ, từ các vọng
gác cao, nhìn xuống các cô gái Thượng tắm suối, giặt đồ, họ chỉ mặc độc nhứt
chiếc xà rong, để ngực trần, vui đùa, tát nước lẫn nhau, đặc biệt không có đàn
ông.
Công
việc tiến triển thật tốt, hàng thu nhặt được chuyển dần về Phi Trường Phù Cát,
có lẽ những người “chủ mới” nầy xài lại hay bán đi các tài sản bạc tỷ đồng
dollar nầy. Trong những chuyến vận chuyển tài sản về Phù Cát, ban đầu suông sẻ,
bất ngờ, một hôm có tin xảy ra tai nạn, một chiếc xe tải GMC từ Pleiku đổ đèo
Mang-Yang, xe đụng vào vách núi ở khúc quẹo ngặt, anh tài xế (lính KQ cũ) bị
hất tung qua chỗ ngồi của người tháp tùng áp tải, anh cán bộ áp tải, bị văng
qua thế chỗ người tài xế, anh bị cái "vô-lăng”(Volant) đập chết, người tài
xế bị thương, tất cả đều được đem về Phi Trường Phù Cát, “Tử đâu, táng đó”, anh
cán bộ được chôn tại đây, anh lính KQ.nằm điều trị đến ngày bình phục.
Tính ra, thời gian công tác đã ngoài 2
tháng, một hôm cuối tuần, chúng tôi được lệnh áp tải lương thực, theo xe đi chợ
thị xã, nơi mà ngày xưa, Bộ Chỉ Huy Quân Đoàn II, Vùng II Chiến Thuật trú đóng,
ngày nào, đường phố rộn rịp, xe cộ nhà binh, dân sự, dân chúng và binh sĩ sinh
hoạt tấp nập, vui vẻ, đời sống an lành, sung túc của thành phố màu xanh, bây
giờ phố mưa buồn, ướt át, những con đường trơn trượt như trét mỡ bò mà vắng vẻ
người qua lại, chẳng bù cho ngày xưa, khu vực này là Trung Tâm Thương Mại sầm
uất, ồn ào...
Nơi
cái bồn binh phun nước (fountain) ở đầu con đường chánh, thẳng tắp, chúng tôi
đang mệt mỏi với cái cần xé đầy rau quả trên vai, thì thấy bên kia vỉa hè gần đường
có một cái quán lộ thiên, kê vài cái bàn, ghế con thấp lè tè mặt đất, một
cô gái trẻ độ tuổi trăng tròn, trong bộ đồ bà ba, ngoắt tay, miệng mời chúng
tôi:
-
Ngồi nghỉ chân, uống cà phê đi các anh. Tiện nơi ngồi nghỉ mệt, chờ xe đón.
Chúng
tôi ngó lẫn nhau như hỏi ý. Cô gái tiếp tục mời vồn vã luôn tay, luôn miệng:
-
Vô ngồi nghỉ mệt đi các anh, ở đây có cà phê"cứt chồn". Đặc biệt ngon lắm.
Người con gái miền cao nguyên, thanh
nhã. Dáng cao, làn da trắng mịn, giọng nói miền Nam thanh tao, dịu dàng rất để
gây cảm tình, không ai bảo ai, chúng tôi đồng loạt đặt cái “ của nợ ” trên vai
xuống, kéo ghế ngồi quanh cái bàn con vuông vứt, anh bạn hỏi:
- Cà
phê cứt chồn là sao hả cô?
- Là con chồn ăn hột cà phê, sau đó “Ị” ra,
người đi rừng lượm về phơi khô, rang lên rồi xay ra cà phê.
- Ở đây chắc có nhiều chồn lắm phải không
cô?
Chúng
tôi cùng cười rộ, làm hai má của cô gái đã hồng lại hồng thêm. Lần lượt, cô
bưng 5 tách cà phê đặt lên bàn, trong thao tác nhẹ nhàng, lịch sự, với những
ngón tay thon thon, dong dài, búp măng.
-
Các anh người Miền Nam,
Sài Gòn?
- Còn cô quê ở đây? Cô có biết Bộ Tư Lệnh
Quân Đoàn II ở chỗ nào không?
Không
chút ngập ngừng, chứng tỏ là rất quen thuộc địa phương này, Cô chỉ về hướng xa
xa trên con đường nối dài với nơi chúng tôi đang ngồi:
-
Đằng kia kìa, chỗ mấy ngôi nhà sập nát bình địa, còn lại mấy tấm tường vôi vàng
lẫn trong đám cây, nơi đó là Quân Đoàn II, họ đánh nhau dữ quá, năm 72, rồi năm
75, họ bỏ hết không còn gì.
- Rồi bây giờ còn lại cô.
Cô
gái lại thẹn thùng, cười mỉm, quay chiếc lưng “ong” vội vã vào trong. Nhìn thân
hình người con gái cao nguyên với mái tóc dài kẹp thả lỏng tận thắt lưng, chiếc
áo bà ba trắng chật vừa phải, ôm xát thân mình cô nổi bật những đường nét mà
những phụ nữ thi hoa hậu cần phải có, chiếc quần đen láng lóng lánh, bóng lộn,
ôm gọn cả thân hình tròn trịa, cân đối. Tôi nghĩ: Giá mà cô ta mặc bộ đồ tắm,
thì chắc chắn không thua gì các nàng dự thi trên sân khấu để giám khảo ngắm
nhìn, cho điểm, đôi má hồng, đôi môi đỏ tự nhiên hiện trên khuôn mặt tròn trái
soan, đôi chân mày vòng cung hình lá liễu cân đối trên cặp mắt hạt huyền tròn
xoe, ẩn hiện dưới cặp lông nheo cong vút, nhấp nháy, mỗi lần cô chớp mắt thì:
ôi! Thật tuyệt vời.
Thảo
nào, lúc đang vào thời chiến tranh nóng bỏng ở vùng Cao Nguyên, một vị cố vấn
trưởng đầy quyền lực trong tay đã phải luỵ vì tình với một phụ nữ của Thị Xã
Pleiku.
Ông
John Paul Vann, trong thời gian làm cố vấn cho Tướng Ngô Dzu, Tư Lệnh Quân Đoàn
II, Vùng II Chiến Thuật, phải lòng một cô gái “má đỏ môi hồng” nên đã thay đổi
cuộc đời của Ông. Sóng gió của mối tình muộn và đầy ngang trái nầy, đã ảnh
hưởng mạnh mẽ đến tận “Tòa Nhà Trắng ở Hoa Thịnh Đốn”, vì Ông đang là một nhân
vật quyền thế đương thời, tình yêu này sẽ ảnh hưởng lớn trên vận mạng quốc gia
bạn, mà giữa lúc Cao Nguyên trong cảnh khói lửa ngút trời chiến tranh, Ông đã
nói lên tâm sự của mình, thổ lộ cùng mọi người về sự lựa chọn cho đời Ông: “Sau khi tình hình của Cao Nguyên sáng sủa,
tôi sẽ làm đám cưới với nàng, tôi sẽ ở lại đây với nàng cho hết cuộc đời và
Việt Nam sẽ là quê hương thứ hai của tôi”.
Vì
thế, từ lúc đó bạn bè của ông đều nghĩ rằng: ông đang phục vụ một cách hăng say
cho quê hương Việt Nam
của ông, chớ không phải làm cố vấn cho một quốc gia bạn. Sự ước nguyện của ông
chẳng bao giờ thành. Vào “Mùa Hè Đỏ Lửa”, Bắc Việt Cộng Sản cho mở cuộc tấn
công vào tận Thị Xã Kontum, Ông cùng người quan sát viên Hoa Kỳ trên chiếc phi
cơ trực thăng, rời Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II ở Pleiku đi quan sát mặt trận. Trên
đường bay đi Kontum, chiếc trực thăng OH-58 bỗng phát nổ cháy trên bầu trời
Pleiku, lúc đó là 9:20 đêm 09-6-1972, ông Vann, người quan sát viên và phi
công đều chết. Tai nạn gây ra là lúc trực thăng bay trong mưa, sương mù, máy
bay đang bay ở cao độ thấp nên đụng cây rừng phát nổ.
Ông
Vann được đưa về Hoa Kỳ, an táng tại Arlington National Cemetery, Tiểu Bang Virginia. Ông thọ 48
tuổi. Tổng Thống Hoa Kỳ Richard Nixon thăng cấp cho ông từ Đại Tá lên Cố Thiếu
Tướng.
Sau buổi tiệc chia tay vào ngày cuối tuần,
chúng tôi hớn hở thu dọn hành trang, nhìn lại lần nữa quang cảnh điêu tàn, xơ
xác, vắng tanh, những chiếc phi cơ phơi mình, dầm mưa, dãi nắng, lòng chua xót
cho những chiến lợi phẩm đáng giá bị bỏ phế này.
Từ giã phi trường, trên đường trở về, chúng
tôi phải đi qua một vòng nữa: xuyên qua thành phố, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II nơi
bị san thành bình địa, chỉ còn lại những đống gạch vụn to tướng. Nơi đây ngày
xưa, đã từng là đầu não chỉ huy chống lại những cuộc lan tràn xuống miền Nam của Cộng
Sản Bắc Việt. Nhưng bây giờ thời oanh liệt nay còn đâu? Tất cả đã tan tành
trong khói lửa, máu và chết chóc. Con lộ dẫn chúng tôi quanh trở lại vùng bồn
binh, nơi quán "cóc" bên đường mà anh em chúng tôi đã có được một lần cùng ngồi
uống tách cà phê thơm có cô chủ xinh đẹp. Cuộc gặp gỡ như bèo nước, mây trôi,
rồi vĩnh viễn không còn gặp nhau nữa.
Mặt trời vẫn mọc trên cao, sinh hoạt đời
sống con người vẫn tiếp tục bình thường, dáng điệu dịu dàng của cô gái Pleiku đang
loay hoay chuẩn bị cho một ngày mới, “ Giã Từ Pleiku ” của “ còn chút gì để
nhớ, để quên …”
Không phải chỉ có Ông Tướng Cố vấn cảm nhận
được cái đẹp, cái thuỳ mỵ dễ thương của người con gái Pleiku, mà nhiều du khách
đến đây, dù chỉ một lần thôi, cũng phải cảm xúc trước cái đẹp của con người, của
cảnh vật thiên nhiên, của cây xanh, núi cao mây phủ mù mờ. Trước những cảnh đẹp
xúc tích, hữu tình này, nhà thơ Vũ Hữu Định đã không cầm lòng, bộc phát một bài
thơ mô tả gần như thật của sự quyến rũ ở đây:
Phố
núi cao phố núi đầy sương
Phố
núi cây xanh trời thấp thật buồn
Anh
khách lạ đi lên đi xuống
May
mà có em đời còn dễ thương
Em
Pleiku má đỏ môi hồng
Ở
đây buổi chiều quanh năm mùa Đông
Nên
tóc em ướt và mắt em ướt
Nên
em mềm như mây chiều trong
Phố
núi cao phố núi trời gần
Phố
xá không xa nên phố tình thân
Đi
dăm phút đã về chốn cũ
Một
buổi chiều nào lòng vẫn bâng khuâng
Xin
cảm ơn thành phố có em
Xin
cảm ơn một mái tóc mềm
Mai
xa lắc trên đồn biên giới
Còn
một chút gì để nhớ để quên
Thơ: Vũ Hữu Định, Phạm Duy: phổ nhạc
Ca sĩ: Sĩ Phú, Khánh Ly, Thanh Lan….
Nguyễn Uyên Hưng
(Cary,
North Carolina. USA)
Sách Tham Khảo:
·
“Chinh
Chiến Điêu Linh”: Kiều Mỹ Duyên
·
A
Bright Shinning Live: Neil Sheelan
·
Việt
Nam
War