Huỳnh Văn Lang
(Bài nói chuyện ở Hội Tác giả VN Hải ngoại, ngày 08-11-2009)
Nội
dung của bài nói chuyện hôm nay là những sự kiện hay những biến cố quan
trọng nhứt đã đưa đến sự hình thành ra Đệ nhứt Công hòa của miền Nam VN
(1956-1963), mà cái ID của nó là Hiến Pháp năm 1956, cũng là phần kết
của bài nầy.
Hưởng
ứng lời kêu gọi của thủ tuớng Ngô đình Diệm (NĐD) về giúp nước,
từ Chicago, Illinois, tôi về đến Sài gòn ngày 24 tháng 8, 1954 và liền
sau đó vì thời cuộc đưa đẩy, thủ tướng NĐD đã đặt để tôi vào những địa
vị, nếu gọi được là địa vị hay đúng hơn là cương vị, để tôi thành ra
chứng nhân cho những sự kiện tôi muốn ghi lại ra đây. Những sự kiện tôi
trình bày sau đây có ba giá trị khác nhau: là chứng nhân, không chứng
nhân nhưng biết thật chắc chắn và một ít chuyện không biết chắc, quí vị
sẽ phân biệt được 3 giá trị khác nhau
đó.
1.- Cương vị thứ nhứt. (Phụ tá Bí thư của thủ tướng NĐD)
Đầu
tiên tôi tạm thời thay thế anh Võ văn Hải là bí thư của Thủ tướng, để
anh tạm thời giữ chức Chánh văn phòng, thình lình bỏ trống. Ba ngày đầu
tôi ăn ngủ trong dinh Gia long, sau được đưa ra ngủ nghỉ ở khách sạn
Kinh hoa, Chợ lớn, nhưng luôn luôn về dinh Thủ tướng ăn cơm trưa và tối
cho đến khi Thủ tướng cho lệnh bộ Tài chánh cấp cho villa số 140, đường
Hai bà Trưng, SG. Cho nên tôi may mắn làm việc bên Thủ tướng cho đến
ngày 10 hay 11 tháng 10, 1954. Chính trong thời gian ngắn ngủi 45 ngày
nầy đã xảy ra biến cố Nguyễn văn Hinh, Tổng tham mưu quân đội Quốc gia
VN muốn đảo chánh.
Để
dễ hiểu rõ biến cố nầy thiết nghĩ cũng nên nhắc lại, trước đó, ngày
16, tháng 6, ông Ngô đình Diệm được Quốc trưởng Bảo Đại bổ nhiệm làm thủ
tướng, lập nội các VN thay thế chánh phủ hoàng thân Bửu Lộc. Thiết nghĩ
khi bổ nhiệm NĐD, Quốc trưởng Bảo Đại (BĐ) có hội kiến với bộ Ngoại
giao Mỹ và cũng có thể với chánh phủ Pháp nữa, vì Pháp dù có thua trận ở
Điện biên phủ trong tháng 5 rồi, nhưng vẫn còn nắm quyền Ngoại giao và
Quốc phòng ở VN với một đạo quân viễn chinh dù đã thua trận nhưng vẫn
còn hùng hổ, đang khi anh em NĐD lại có tiếng là chống Pháp.
Cũng
chắc chắn là chánh phủ Hoa kỳ không có liên quan trực tiếp gì đến
chuyện bổ nhiệm nầy, vì dù ông Diệm có bôn ba ở Hoa kỳ gấn 3 năm đi
nữa, ông có quen thân với nhiều nhận vật có tiếng nói trong chánh trường
Hoa kỳ, nhưng thật ra Hoa kỳ chưa nghĩ đến chuyện thay thế Pháp ở Đông
dương, cho đến khi chạm mặt với Nga/Tàu ở hội nghị Genève trong tháng 7,
1954.
Sau
khi được bổ nhiệm, bất chấp lời can gián của ông Ngô đình Luyện ở Pháp
và ông Ngô đình Nhu ở VN, Thủ tướng NĐD về Sài gòn ngày 26, cùng tháng
6, 1954. Tổng liên đoàn Lao công VN cổ động đón tiếp, nhưng số người
đến phi trường TSN chưa đến 500. Bốn ngày sau Thù tướng bay ra Hà nội để
xem xét tình hình và tiếp xúc chánh khách ngoài Bắc, để rồi trở về Sài
gòn thành lập Nội các, ra mắt ngày 7 tháng 7, 1954: Thủ tướng kiêm bộ
Quôc phòng và Nội vụ. Chánh phủ chưa kịp làm gì thì ngày 20 cùng tháng
Hiệp định Genève ký kết giữa Pháp và Việt minh (VM) thoạt
đến, toàn dân dở khóc dở cười, có hòa bình hay đúng hơn chì là đình
chiến giữa hai phe, nhưng đất nuớc lại bị chia đôi. (1)
(1)
Ngày 21-07-54, đang khi Tồng thống Eisenhower họp báo để giải thích
hiệp định Genève cho quốc dân Mỹ, thì ngoài đường có một nhóm sinh viên
VN biểu tình lên án các cường quốc chia đôi đất nước của họ. Hôm sau ở
trước trụ sở Liên hiệp quốc (UN), New-york, cũng có một nhóm sinh viên
VN biểu tình, đông hơn. Cả hai cuộc biểu tình đều do ĐVL, ĐTC & HVL
tổ chức, hình HVL có lên báo, lên T. 55 năm sau nhìn lại...
Bao nhiêu vấn đề chánh trị xã hội cả văn hóa…đổ dồn về miền Nam với
36,000 quân viễn chinh Pháp và trào lưu Bắc kỳ di cư chạy giặc CS bắt
đầu, người Pháp dự đóan là khoảng 60,000 người, Thủ tướng NĐD hy vọng
100, 000… không dè trào lưu chạy giặc CS bộc phát như thác lũ, quá sự
tuởng tượng của mọi người, nghĩa là trong vòng 300 ngày do Hiệp định
Genève qui định số người Bắc kỳ di cư lên trên 860,000. Thủ tướng vui
bao nhiêu thì càng lo nhiều hơn nữa…
Khi
về đến VN, tôi cảm thấy rõ ràng tình trạng quá yếu kém của chánh
phủ NĐD cũng như uy tín của tân Thủ tướng quá thấp. Không thấy chánh phủ
Bửu Lộc bàn giao lại cái gì, ngoài cái dinh Gia long và sở Nội dịch với
năm bảy chiếc xe cũ kỹ, không có một tiểu đội canh gác. Thủ tướng kiêm
bộ Quôc phòng, mà không có quân đội, bộ Nội vụ không có Công an Cảnh
sát, trong lúc đô thành Sài gòn - Chợ lớn là Bình xuyên, miền Tây Nam kỳ
lục tỉnh là Hòa hảo, miền Đông là Cao đài, quần chúng người Nam nghe
nói đến NĐD, nhưng không biết NĐD là ai. Ngoài ra sau lưng tướng Ely,
Cao ủy
Pháp là cả một tập đoàn thực dân đang hôi quyền thế, hôi cả tài sản như
buổi chợ chiều. Trong lúc người Mỹ mới nhảy vào chánh trường VN chưa có
một chủ trương rõ ràng... Tắt một lời, xã hội miền Nam đang ở trong một
tình trạng vô cùng hỗn mang gần như tuyệt vọng, vô phương cứu vãn. Dư
luận Quốc tế cho chánh phủ NĐD không thọ quá 6 tháng.
Ưu
tư số 1 của Thủ tuớng NĐD là phải nắm lấy quyền hành, là thủ tướng kiêm
Quốc phòng, cho nên đầu tiên ông phải nắm quân đội. Tham mưu trưởng
Nguyễn văn Hinh (vợ đầm tức nhiên là dân Pháp), cần phải thay thế. Và
chính tướng Hinh lại khai chiến trước, ngày 09-09-54 chỉ trích Thủ tướng
trên đài phát thanh Pháp Á do anh Phan cao Phái (anh của chị Minh Châu
bạn của người viết) quản lý và đòi cải tổ chánh phủ. Thủ tướng Diệm phản
pháo ngay, ngày 11-09-54 chỉ thị tướng Hinh phải đi Pháp trong vòng 24
tiếng, gọi là để khảo sát tổ chức quân đội Pháp trong vòng 6 tuần.
Tướng Hinh từ chối và
vận dụng quân đội trong tay mình để làm loạn, muốn đảo chánh, cho 1
tiểu đội thiết giáp chạy chung quanh dinh Độc lập (mới được Cao ủy Ely
giao trả tuần trước) vửa hăm dọa, vừa chửi bới, cùng một lúc cho đài
phát thanh quân đội ra rả tố cáo chánh phủ nào là độc tài, nào là tham
nhũng v,.v. (Những đêm đó tôi ngủ trong dinh Thủ tướng, sẵn sàng để
Thủ tướng xử dụng như một thông dịch viên và đi đêm với CIA Mỹ, khi đại
tá Landsdale từ Manila qua VN, đóng đô ở hộp đêm Ma Cabane, trước cửa
vườn Tao đàn, cách dinh Thủ tướng một con đường. Đại tá Lansdale có
nhiệm vụ giúp chánh phủ NĐD ổn định tính hình). Nội các NĐD sắp sụp
đổ đến nơi, vì ngày 20-09-54, 9 trên 18 bộ trưởng yếu bóng vía đệ đơn từ
chức. Nên lưu ý
là cuộc khủng hỏang nầy xảy ra đúng lúc cuộc Bắc kỳ di cư bộc phát như
lũ lụt sông Hồng, CS Hà nội chận đường, đe dọa, bắt cóc, thủ tiêu…vẫn
không be nổi.
Nhưng
với sự hợp tác chặt chẽ giữa CIA và tòa Đại sứ Mỹ, Thủ tuớng NĐD giải
quyết được cuộc khủng hoảng do tướng Nguyễn văn Hinh gây ra, nhưng không
phải là không đổ mồ hôi hột: đại sứ Heath cho tướng Hinh biết là nếu có
đảo chánh trong tình thế nầy thì Mỹ sẽ cúp viện trợ quân sự ngay, đang
khi đại tá Lansdale tìm cách tách tuớng Hinh ra khỏi tham mưu của ông ta
là 2 nhơn viên phòng nhì của Pháp, Lansdale biếu hai sĩ quan nầy hai vé
máy bay đi Manila du hí năm ngày.
Qua tháng sau, 1954 thủ tướng NĐD cất chức tướng Hinh và bổ nhiệm tướng Lê văn Tỵ lên thay. (Cũng
là lúc thủ tướng NĐD gửi tôi qua bộ Tài chánh có công tác khác, nên
những chuyện sau đây tôi không phải là chứng nhân, nhưng biết được rõ
ràng.)
Đại
sứ Heath và tướng O’Daniel, trưởng đoàn cố vấn quân sự Mỹ, lại yêu cầu
thủ tướng Diệm nên giữ tướng Hinh lại trong quân đội. Ông Diệm từ chối.
Trước sự cứng rắn của Thủ tướng, đại sứ Heath thay đổi thái độ, từ bạn
ra thù ngay và gửi điện tín về Washington, tố cáo thủ tướng là bất tài,
không có khả năng dung hợp…cần phải thay đổi.
Nhưng
lúc bấy giờ tổng thống Eisenhower và Hội đồng an ninh Quốc gia, cả đa
số Lưỡng viện Quốc hội lại nhận thấy Thủ tướng Diệm có thể lãnh đạo mặt
trân chống Cộng ở Đông nam Á châu, nên hoàn toàn bác bỏ đề nghị của đại
sứ Heath và Tông thống Eisenhower gửi đặc sứ qua thay thế là tướng
Collins, bạn thân tin của ông. Đặc sứ Collins đến Sài Gòn mang theo bức
thơ của Tổng thống Mỹ xác nhận ủng hộ một mình Thủ tướng NĐD và muốn
thảo luận với Thủ tướng một chương trình viện trợ kinh tế quân sự qui
mô hơn.
Nhưng
lại không dè tướng Collins và tướng Ely là huynh đệ chi binh từ Đệ nhị
Thế chiến. Tai hại là đặc sứ Mỹ bị Cao ủy Pháp chi phối hoàn toàn, ngày
một ngày hai tuớng Collins thay đổi thái độ đối với Thủ tướng NĐD, có
nghĩa là ủng hộ mưu đồ “Diệm must go’’ mà thực dân Pháp đã dàn dựng từ
4, 5 tháng nay.
Ngày
08-12-1954, hai tướng Collins và Ely vào dinh Độc lập chính thức đề
nghị với Thủ tướng NĐD nên bổ nhiệm Phan huy Quát làm bộ trưởng Quốc
phòng và Bảy Viễn làm bộ trưởng Nội vụ. Tất nhiên Thủ tướng NĐD từ chối
và phải từ chối, vì nếu ông chấp nhận thì chẳng hóa ra ông chịu thua và
mất gần hết quyền hành - Quốc phòng và Nội vụ là hai bộ quan trọng nhứt
của chánh phủ nên ông đã kiêm nhiệm - để cho người Mỹ, qua ông Quát, Đại
việt và người Pháp, qua Bảy Viễn, tướng cướp tha hồ giựt dây.
Thế là lại khủng hoảng! Collins còn cực đoan hơn nữa. là đề nghị với
Washington: Nên đưa Bảo Đại về, đem Phan huy Quát lên làm thủ tướng
thay thế NĐD và ban hành tình trạng khẩn trương, tập hợp các lực lượng
quốc gia để thống nhứt hành động. Nếu không thực hiện giải pháp nầy
được, thì tốt hơn Mỹ nên rút ra khỏi VN.
Không
dè tướng Collins lại dứt khoát đến thế. Trong quan hệ giữa Collins
và Ely, làm như có bóng một người đàn bà, tôi không rõ lắm nên không
nói ra đây. Tuy nhiên trong khủng hoảng nầy tôi biết rõ một việc, ai là
người đã giúp chánh phủ Mỹ khỏi sai lầm trầm trọng, đó là Thương nghị sĩ
Mansfield. Nhận được phúc trình và đề nghị dứt khoát, nếu không nói là
cực đoan hay ngu xuẩn của đặc sứ Collins, TT Eisenhower, Hội đống An
ninh Quôc gia và Foster Dulles, bộ ngoại giao, hội nhau lại, hết sức
hoang mang, như bị một búa bổ vào đầu, tóa hỏa tam tinh, nên phải kêu
gọi đến ý
kiến của bên Dân chủ đối lập, mà người có thớ nhứt là Thương nghị sĩ
Mansfield: TNS Mansfield đến tòa Bạch ốc góp ý: Ông Diệm là một tích sản
mình vừa thu nhận, dù có nhỏ bé cách mấy đi nữa thì cũng là một tích
sản, tại sao mình phải phiêu lưu đi đổi với những giá trị khác, mà mình
mù tịt không hiểu biết hay chưa hiểu biết mảy may gì hết.
Thế
là Thủ tướng NĐD lại thắng, tất cả chánh phủ Mỹ đều chấp nhận ý kiến
của TNS Mansfield vì là khôn ngoan nhứt và ngày 14-12-54 chánh phủ Hoa
kỳ chỉ thị cho tướng Collins: Trong tình thế hiện nay, không có một chọn lựa nào khác hơn là tiếp tục viện trợ cho VN và ủng hộ Thủ tướng Diệm.
Nhưng chưa hết, tướng Collins với thực dân Pháp còn quậy nữa, mà năng nổ quyết liệt nhứt là bảy Viễn, Bình Xuyên.
2.- Cương vị thứ hai. ( Công cán ủy viên bộ Tài chánh)
(a) Tiền.
Cuộc
khủng hoảng Nguyễn văn Hinh giải quyết chưa xong hay gần xong
(10-10-54) thì thủ tướng NĐD gửi tôi qua bộ Tài chánh để giúp bộ trưởng
Trần hữu Phuơng, cũng là bạn thân của tôi từ khi còn ở Paris, làm Công
cán ủy viên, để hằng ngày theo dõi diễn tiến Hiệp định Paris, mới hợp
lại để thay thế Hiệp ước Pau, cũng có nghĩa là phủ định tất cả những ký
kết của Hiệp ước nầy. Nhờ đường lối dứt khoát của thủ tướng
Mendès-France như ở Hội nghị Genève (20-07-1954) , trong một thời gian
kỷ lục hôi nghị Paris kết thúc, ký kết giữa 4 nước đêm 30 tháng 12,
1954: Pháp nhìn nhận toàn vẹn chủ
quyền tài chánh và tiền tệ (hối đoái) của 3 nước Việt-Miên-Lào và cho
thi hành việc bàn giao ngay trong vòng 3 ngày, tức là ngày 02-01-1955.
Từ
rày viện trợ quân sự, kinh tế, nhân đạo của Mỹ và các nước sẽ đi thẳng
vào tay VN, không phải qua tay Pháp nữa. Nhờ theo dõi diễn tiến của hội
nghị Paris rất sát– ngày 23 hay 24 tháng 12-54, bộ Tài chánh nhận được
điện tín của phái đoàn VN do ông Duơng tấn Tài cầm đầu, đại khái “hoàn
toàn thắng lợi và sẽ kết thúc trong vòng 7 ngày’’, và ông bộ trưởng Tài
chánh dành cho tôi cái danh dự được mang điện tín nầy vào trình Thủ
tướng, cùng giải thích cho tThủ tướng biết rõ những kết quả tốt đẹp của
Hiệp định Tài chánh & Tiền tệ ở Paris) - nên trước đó
năm bảy ngày bộ Tài chánh, do đề nghị của tôi đã giữ lại đuợc một ngân
phiếu 15 triệu đô của bộ Ngọai giao Mỹ viện trợ chuơng trình di cư Bắc
kỳ, chờ qua mươi ngày sau bỏ vào trương mục VN ở một ngân hàng Mỹ bộ Tài
chánh tự do chọn lấy, hơn là phải bỏ vào trương mục VN ở Pháp quốc Ngân
hàng (Banque de France) như trước kia.. Độc lập tài chánh và nhứt là
tiền tệ (hối đoái) là từ đây. Từ đây chánh phủ VN được toàn quyền tổ
chức cũng như quản lý tài chánh và tiền tệ của mình.
Trước
đây Pháp đã viện trợ cho các giáo phái xây dựng lực lượng quân sự tất
cả trên dưới 20 ngàn quân, không phải chỉ có khí giới thôi mà còn có một
số tiền mặt khá quan trọng khác nữa. Từ đầu năm 1955, Pháp sẽ ngưng
viện trợ và các giáo phái cần viện trợ phải đến với chánh phủ NĐD. Chính
yếu tố tiền ở đây, dù không phải là yếu tố duy nhứt, nhưng là yếu tố
quan trọng nhứt đã định đoạt lấy thái độ các giáo phái đối với chánh phủ
NĐD và giúp chánh phủ NĐD thống nhứt quân đội quốc gia VN, chấm dứt
tình trạng sứ quân do thực dân Pháp cấu tạo từ 9 năm
qua.(2)
(2) Ngày
14-01, đại tá Ng văn Huệ, tham mưu truởng của tuớng Trần văn Sóai, Hòa
hảo đem 3,500 về với quân đội quốc gia. Ngày 13-02-55 tuớng Trinh minh
Thế, Lực lượng Kháng chiến Liên Minh Quốc gia Cao đài dẫn 5,000 quân về
với thủ tướng NĐD. Ngày 10-03-55 Thiếu tá Nguyễn văn Đầy, Lực lượng Hòa
hảo Quốc gia đem 5,000 quân và ngày 31 cùng tháng tướng Nguyễn thành
Phuơng, Tổng tư lệnh Quân đội Cao đài đem toàn quân lực của mình về theo
thủ tướng NĐD. Tướng Nguyễn giác Ngộ, Lưc lượng Dân xã Hòa hảo, từ 23
tháng 2 đã hứa đem 8,000 quân về, nhưng phải đợi qua thág 5, khi thủ
tướng NĐD dẹp xong lực
lượng BX mới chịu thi hành lời hứa.
\
(b) Tiền
Trên
đây là hậu quả tích cực xây dựng uy tín và củng cố quyền hành của
Thủ tướng. Thủ tưởng NĐD khởi sự được các giáo phái ủng hộ, mà sau
lưng các Giáo phái là cả một khối dân chúng miền Nam. Để rồi qua ngày
01-01-55, Thủ tướng ký nghị định chấm dứt đặc quyền Đại thế giới (cờ
bạc) và Bình khang (đĩ điếm) của Bình xuyên, tức là trực tiếp phá vỡ
ngay nguồn tài chánh khổng lồ, nếu không nói là duy nhứt của lực lượng
Bình xuyên. Gián tiếp nguồn tài chánh của Quốc trưởng BĐ ngày một ngày
hai phải cạn kiệt: trước đây mỗi
ngày BX phải đóng hụi chết cho Quốc trưởng BĐ đúng 1 triệu đồng, theo
hối xuất thời đó là trên 28,500 Mỹ kim. (Từ lâu Quốc trưởng BĐ đã có
một đời sống vuơng giả kiêm Playboy tại lâu đài Thorenc ở Cannes; Nam
phương Hoàng hậu có tàu (Yatch), BĐ có mấy xe Sport hiệu Ý.)
Có
phải đây là một yếu tố trong nhiều yếu tố tiêu cực bắt buộc Quốc trưởng
BĐ nghĩ đến chuyện cất chức NĐD, để cho bảy Viễn lên thay, thử hỏi?
(Nói
về tiền, tôi muốn nhắc đến một trường hợp ghê gớm hơn. Sau tuần lễ vàng
(1945), HCM dùng một số vàng lớn, dưới mọi hình thức, để mua chuộc hai
tướng Tàu là Lư Hán và Tiêu Văn - do Thống chế Tưởng giới Thạch sai qua
VN để giải giới quân Nhựt cùng một lúc hậu thuẩn các lực lượng quốc gia
như VNQD đảng, Đại việt Cách mạng…- để hoàn toàn bỏ rơi các đảng phái
quốc gia, cho Việt minh lấy thế thượng phong và sát hại các đảng phái
quốc gia, cướp lấy chính nghĩa giải phóng dân tộc, độc quyền yêu nước,
độc quyền kháng Pháp).
3.- Cương vị thứ ba. (Bí thư Liên kỳ bộ Cần lao Nhân vị CM đảng)
Sau
khi giải quyết khủng hoảng tướng Hinh xong và được tin tranh thủ thắng
lợi giành được Chủ quyền tài chánh và tiền tệ, Thủ tướng NĐD mừng
lễ Giáng sinh rất vui vẻ và lạc quan hơn. Tôi được Thủ tướng gọi đến
tham dự lễ Giáng sinh, nửa đêm ngày 24 tháng 12, năm 1954, được tổ chức
ngoài sân sau dinh Độc lập. Và nhứt là vinh dự được Thủ tướng đich thân
chỉ định tôi ngồi hàng ghế đầu, ngay sau lưng của ông. Sau đó còn cho
riêng tôi một món quà Giáng sinh đáng giá nữa. Biết đâu ông đã nghĩ đến
chuyện giao cho tôi quyền điều hành Viện hối đoái Quốc
gia (VHĐ) từ giữa đêm hôm đó ?
Trong
4 tháng đầu năm 1955, ngoài VHĐ, phần lớn tôi để thì giờ và tâm trí vào
công trình văn hóa của anh em chúng tôi, là trường Bách khoa Bình dân,
khai giảng ngày 15, tháng 11,1954. Vửa điều hành một trường sở có trên
1,200 học sinh, vừa giảng dạy 2 lớp tối, từ 6 giờ 30 đến 9,00 giờ, tôi
không trực tiếp liên hệ với những biến cố hay sự kiện lịch sử xảy ra cho
VN lúc đó nữa. Tuy nhiên, dù không chứng kiến, tôi vẫn theo dõi luôn và
đuợc biết rõ những chuyện sau đây.
- Ngày 12-01-55 thuơng cảng Sài Gòn được giao trả cho chánh phủ NĐD.
- Cùng ngày 12-01-55, tướng Agostini Pháp bàn giao toàn quyền quản lý quân đội VN cho tướng Lê văn Tỵ.
Đến
đây thì Thủ tướng NĐD xuất hiện rõ ràng như là một nhận vật có đủ khả
năng tranh thủ độc lập toàn vẹn cho Quốc gia. Nhưng thực dân Pháp và tay
sai chưa chịu bỏ cuộc. Bất hạnh là chính Quốc trưởng BĐ lại để cho
chúng lợi dụng, nếu không nói là đồng lõa với chúng.
Nên
BĐ và Pháp thúc đẩy Mặt trận Thống nhứt Toàn lực Quốc gia ra đời,
là ngày 03-03-1955: ngòai Cao đài, Hòa hảo, Bình xuyên còn có Bs Nguyên
tôn Hoàn, Đại việt miền Nam, Phan quang Đán, đảng Dân chủ, Hồ hữu
Tường… Hộ pháp Phạm công Tắc được BĐ mời lãnh đạo Mặt trận..
Phản ứng của Hoa thịnh đốn: Không thể Mỹ chi tiền mà để Pháp thao túng chánh truờng VN,
nên ngày 08-03-55 TT Eisenhower tái xác nhận ủng hộ NĐD và bản sao gửi
BĐ, gián tiếp khuyến cáo đừng thọt gậy bánh xe, gây khó khăn cho NĐD nữa
và khuyên Thủ tướng NĐD chống lại đòi hỏi của Mặt trận và bảo các các
giáo phái nên rút khỏi Mặt trân. Nhưng bị áp lực của Bình xuyên và BĐ
các giáo phái không nghe theo liền.
Ngày
21-03-55 Mặt trận gửi tối hậu thơ cho Thủ tướng NĐD: trong vòng 5
ngày, phải cải tổ nội các theo mô hình nhân sự của Mặt trận. Thủ tướng
NĐD mời vào hội với ông, nhưng ông dứt khoát từ chối.
Mà sáu ngày sau (27-03-55) ông còn cho lệnh đại tá Đỗ cao Trí đánh chiếm bộ chỉ huy Công an Cảnh sát do BX nắm giữ.
Thế
là chiến tranh giữa thủ tuớng NĐD có quân lực Quốc gia ủng hộ và BX
có Pháp hậu thuẫn đã khởi sự và hai bên có cả một tháng để chuẩn
bị đánh lớn, cũng gọi là hưu chiến.
Cũng
là lúc, ngoài cái nợ văn hóa (trường Bách khoa Bình dân) và cái
nợ chuyên môn (Viện Hối đoái Quôc gia) tôi mang thêm cái nợ chánh trị
nữa. Đầu tháng 04, 1955, ông Ngô đình Nhu, Tổng bí thư Cần lao Nhân vị
Cách mạng đảng (CLNVCM) đã giao hay là nhờ tôi đứng ra phát triển đảng
CL (Cần lao) trong Nam và tôi đã nhận lãnh, một cách tự nguyện, nhưng
hết lòng theo truyền thống của gia đình “là làm cái gì phải làm đến nơi đến chốn, không làm thì thôi’’ và tôi đã khởi sự ngay, là thành lập Liên kỳ bộ Nam Bắc việt, bí thư là Chí nguyện,
Đến
lúc cuộc khủng hỏang Bình xuyên đến hồi gây cấn nhứt, nghĩa là có đánh
nhau, có đổ máu… là cơ hội thử lửa (Baptême du Feu) cho Liên kỳ bộ Nam
Bắc việt vừa mới thành lập với một tiểu tổ cơ bản và đầu não, gổm 8
thành viên. Nhưng với bao nhiêu đó Liên kỳ đã tích cực ủng hộ chiến dịch
đánh Bình xuyên, bất chấp thiết quân luật Liên kỳ đã đi rải khắp các
nẻo đừơng Sài Gòn/ Chợ lớn và Gia định cả ngàn tờ ‘’hịch’’ tố cáo tội ác
của Bình xuyên trong 8 năm qua. (Toàn là sự thật, không một chút tuyên truyền láo).
Và
như chúng ta biết, biến cố Bình Xuyên lại kéo theo sau sự kiện Truất
phế Quốc truởng Bảo Đại. Lại thêm một cơ hội nữa cho Liên kỳ tập sự nhún
tay vào chánh trị, là giúp củng cố chánh quyền NĐD và giúp công xây
dựng nền móng cho tòa nhà Đệ nhứt Công hòa của miền Nam VN, luôn luôn
không quên những cán bộ CS để lại miền Nam. (Vì thế mà Liên kỳ vội bỏ đô thành Sài Gòn/Cholon để trọng tâm vào các tỉnh miền Tây).
Trên
đây là hai biến cố hết sức quan trọng mà với sự hạn hẹp của một con
người, cá nhân tôi ở cương vị bí thư Liên kỳ bộ Nam Bắc Việt, dù muốn
dù không cũng đã trở thành chứng nhân như nhiều nhân chứng khác, nếu
không nói là trực tiếp tham gia vào những biến cố lịch sử VN trong
khoảng thời gian đó.
Tiếp
tục chủ trương triệt hạ quyền lực Bình xuyên, sau khi cải tổ Nội các
(24-04-1955) có sự tham gia của Hòa hảo (Trung tướng Trấn văn Soái và
ông Lương trọng Tường) và Cao đài (Thiếu tướng Nguyền thành Phương),
ngày 25 tháng 4, 1955 Thủ tướng NĐD ra sắc lệnh cách chức Lai văn Sang,
Tổng giam đốc CS Quốc gia. Như thế tức là tấn Bình xuyên vào vách tường.
Cũng là lúc đặc sứ Collins vì quá bất mãn với Thủ tuớng NĐD nên đi về
Washington để ráo riết vận động cho cả Chánh phủ Mỹ chuyển hướng 180 độ,
tức là ‘’Diệm must go’’ cho kỳ được, và lần nầy ông thành
công. Rõ ràng tòa Đại sứ Mỹ ở Sài Gòn đứng về phe Thực dân Pháp là
tướng Ely, Bảy Viễn…hơn là phe Quốc gia của Thủ tướng NĐD.
Ba
ngày sau là ngày 28-04-55, BX a) khai chiến, pháo kích vào dinh Đôc
lập. Cùng một lúc, BĐ gửi điện tín b) triệu ông Diệm và tướng Tỵ qua
Pháp để tường trình về tình hình trong nuớc và c) bổ nhiệm Thiếu tướng
Nguyễn văn Vỹ, tư lệnh Ngự lâm quân Đalat làm Tổng tư lệnh quân đội Quốc
gia VN thay thế tướng Nguyễn văn Hinh, được toàn quyền sử dụng mọi
phuơng tiện cần thiết để giải quyết cuộc tranh chấp giữa thủ tướng Diệm
và các giáo phái. Lưu ý: Ba sự kiên a,b, c ghi trên hoàn toàn ăn khớp
với nhau. Cùng ăn khớp với vận động thành công của tướng
Collins ở Wahington, ‘’Diệm must go’’.
Đặc biệt lưu ý đến chi tiết nầy: Thay thế tướng Hinh, tức là hoàn toàn
phủ nhận quyền hành của Thủ tướng, coi chuyện Thủ tướng NĐD bổ nhiệm
tướng Tỵ như ‘’ne pas’’. Như thế chẳng hóa ra là cất chức Thủ tướng rồi
còn gì nữa? Chuyện triệu Thủ tướng qua Pháp, không với ai khác mà là với
tướng Tỵ, vừa được thủ tướng bổ nhiệm Tổng tham mưu Quân đội Quôc gia
VN. Đúng là một tiểu xảo chánh trị bất xứng.
Được
lệnh của Quốc trưởng BĐ, Thủ tưởng Diệm đã khôn ngoan, tìm được một lực
lượng vô song để đương đầu với Quốc trưởng, không còn là Quốc truởng
của một nuớc, của Quôc dân nữa mà là đại diện cho một tâp đoàn Thưc dân
rất hùng hậu. Lực lượng vô song nói ở đây là Quốc dân.
Một
điều cần nói ở đây là khi Thủ tướng đi tìm một lực lượng vô song đó
không phải là không có cố vấn của CLNVCM đảng, lúc đó là ai?
Là Ngô đình Nhu, là Trần quốc Bữu, Trần trung Dung, Trần chánh Thành, có
cả BS Bùi kiện Tín và ai ai nữa…cả nhóm Tinh thần, trong đó có Bs Huỳnh
kim Hữu. Biết rằng tất cả những nhân vật nầy không một ai gia nhập Cần
lao, nhưng đều chấp nhận chủ trương của ông Ngô đình Nhu và do ông Nhu
chi phối theo đường hướng Cần lao của ông..
Vì đó mà Thủ tường NĐD cấp tốc triệu tập các Chánh đảng và Nhân sĩ Quốc gia, ngày hôm sau là ngày 29-04-1955, để xin ý kiến: Nên tuân lệnh Quốc trưởng BĐ triệu qua Pháp hay không? Như thế tức là muốn đặt Hội nghị trước một sự chọn lựa dứt khoát: Bảo Đại hay là Ngô đình Diệm ?
Ở
đây tôi muốn nói đến tính cách đại diện bao quát của Hôi nghị, chưa bao
giờ miền Nam có một Hôi nghị gồm đại diện của những 18 đoàn thể nếu
không nói là chính đảng và có những 34 nhân sỉ tên tuổi. (3)
(3) 18
chánh đảng là: - Mặt trận Quốc gia Kháng chiến VN – VN Phục quốc hội –
Thanh niên Quôc dân Xã VN –VN Dân chủ Xã hội – Phong trào tranh thủ Độc
lập VN –Phụ nữ Quốc dân xã VN – VN Cần lao Nhân vị Cách mạng đảng – Tịnh
độ Phật giáo đồ VN – Tổng Liên đoàn Lao công VN – Phong trào Dân chúng
Liên hiệp VN – Phong trào Cách mạng Quốc gia – Tập đoàn Công dân – Nhóm
Tinh thần – Xã hội Công giáo – Thanh niên Dân chủ VN –Cựu Chiến sĩ Kháng
chiến VN – Nghiệp đoàn Ký giả VN – Hội tương trợ Đồng bào Nghệ Tỉnh
/Bình. Rất tiếc là không còn đâu có danh sách 29 nhân sĩ. Trong số những
nhân
sĩ nầy tôi quen thân với BS Huỳnh kim Hữu và ông Huỳnh minh Y, bố vợ
anh Huỳnh sanh Thông và anh Dư phước Long và năm ba nhân sĩ nữa, toàn là
người Nam kỳ.
Như
thế có thể khẳng định tính cách đại diện bao quát của dân miền Nam. Dù
biết rằng có những đảng chánh trị chỉ có vài ba chục đảng viên và không
có một cây súng trong tay để đánh Pháp và chống CS Việt minh. Tuy nhiên
cũng được cả năm bảy đoàn thể chánh trị có thực lực, nghĩa là có cả ngàn
nếu không nói là mấy chục ngàn đảng viên và có năm bảy ngàn cây súng.
Đó là VN Dân xã đảng Hòa hảo do bí thư Nguyễn bảo Toàn (Nguyễn giác Ngộ)
đại diện, VN Phục quốc hội Cao đài do đại tá Hồ hán Sơn (Nguyễn thành
Phưong) đại diện và Mặt trân Quốc gia Kháng chiến VN do Nhị
Lang (Trình minh Thế) đại diện và Tịnh độ cư sĩ do Đoàn trung Còn đại
diện. Đặc biệt là có những đoàn thể thanh niên, phụ nữ và trí thức. Nói
được là gần toàn dân miền Nam có đại diện chánh thức đến phó hội. Cũng
có vài gương mặt Bắc kỳ di cư, nhưng thiết nghĩ không có đại diện cho di
cư Bắc kỳ vì khi đó Bắc kỳ di cư chưa định cư. .
Ngày
29-04-1955, đúng10 giờ hôi nghị gồm đúng 52 đại diện cho 18 đảng phái
và 34 nhân sĩ khai mạc tại phòng khánh tiết dinh Độc lập. Thủ tướng NĐD
từ trên lầu đi xuống và có mấy lời: Cám ơn và nêu lý do mời đến hội, để rồi xin rút lui để tất cả hôi viên tự do thảo luận. Nói xong vài câu Thủ tướng NĐD bỏ lên lầu, không muốn ở lại, e có thể gây ảnh hưởng thế nầy hay thế nọ.
Hôi nghị bắt đầu làm việc ngay là bầu:
Chủ tọa đoàn: ông Nguyễn bảo Toàn, bí thư Dân xã đảng, Hòa hảo.
Thư ký: ông Phạm việt Tuyền, nhà báo.
Và họ đã nghiêm chỉnh làm việc.
(Sáng ngày hôm đó còn có 3 trái pháo kích BX bắn vào dinh Đôc lập, có một trái nổ ngay đúng lúc Hôi nghị bắt đầu làm việc)
Nhưng đang khi các hội viên yên lặng chăm chú đọc chương trình nghị sự, thì ông Nhi Lang đứng lên tuyên bố:
“Thưa
quí vị, tôi được chỉ thị đòan thể chúng tôi là Mặt trận Quôc gia Kháng
chiến VN đến đây gặp quí vị không phải đề nói chuyện về việc Thủ tuớng
NĐD có bổn phận hay không bổn phận thi hành lệnh của Bảo Đại. Mà là
trái lại, tôi xin thẳng thắn đặt vấn đề là đã đến lúc chúng ta cần trút
bỏ quyền hành của ông Quốc trưởng vô dụng kia đi. Là vì ông ta đang làm
một việc trái với nguyên tắc lãnh đạo quốc gia. Thử hỏi, thành phố Sài
Gòn đang có biến, dân chúng đang xôn xao lo sợ, tại sao ông BĐ lại chọn
ngay lúc nầy để bắt buộc Thú tướng phải bỏ nước sang bên Pháp
xa xôi kia, để ‘’tham khảo ý kiến?’’ Tham khảo cái gỉ? Phải chăng đây
là mưu kế để nhắm lật đổ Chánh phủ nầy? Vậy tôi xin tuyên bố dứt khoát,
nếu quí vị bằng lòng thảo luận việc truất phế Bảo đại ngay bây giờ,thì
tôi ở lại. Bằng không, tôi xin phép ra khỏi phòng hội nầy ngay!’’.
Lúc
bấy giờ cả cử tọa sửng sốt hay bàng hoàng trước đề nghị quá táo bạo của
Nhi Lang, cũng vừa lúc đại tá Hồ hán Sơn, đại diện tướng Cao đài Nguyễn
thành Phương đứng lên và tuyên bố tiếp:
“Nhân
danh Việt Nam Phục Quốc hội, chúng tôi đồng ý với mặt trận Quốc gia
kháng chiến, yêu cầu quí vị đừng bận tâm tới lệnh triệu thỉnh vô lý của
Bảo đại nữa, mà hãy đồng tâm làm một cuộc cách mạng, chấm dứt ngay vai
trò của ông Quốc trưởng BĐ kia đi cho xong. Nếu ý kiến nầy không được
hưởng ứng, tôi cũng xin rút lui ngay tức khắc!’’
Đến
đây thì tòan thể cử tọa không còn rụt rè nữa, nhứt là khi chủ tọa đoàn
Nguyễn bảo Toàn cũng đứng lên tuyên bố hoàn toàn ủng hộ sáng kiến của
hai ông Nhị Lang và Hồ hán Sơn, nên đều hoan hô lên, trăm người như một,
có người còn la lên đã đảo Bảo Đại và có người cởi giày ném vào mặt bức
hình BĐ treo cao giữa phòng. Ông Vũ văn Mẫu, một giáo sư Bắc kỳ, với
một nhân sĩ nữa chạy lại cồng kền Nhị lang lên vai và bảo đứng lên gỡ
bức ảnh đi. Ông Nhị lang cực khổ lắm mới hạ đuợc bức ảnh đồ sộ của Quốc
trưởng và ném xuống đất.
Sau mươi phút sôi nổi, ồn ào… hôi nghị ngồi lại để bầu ra một Ủy ban
Cách mạng Quốc gia, gồm 3 nhân vật đầu não là Nguyễn bảo Toàn,
Chủ tịch, Hồ hán Sơn, Phó chủ tich, Nhị lang làm Tổng thư ký.
Với sự đóng góp của nhiều cố vấn, một giờ sau Ủy ban đã thảo xong một bản Kiến nghị.
Và sau khi nghe Chủ tịch Nguyễn bảo Toàn đọc hai lần, tât cả hội viên là 52 người đều chấp nhận và ký tên.
Xong rồi thì các hôi viên yêu cầu Chủ tịch đi lên lầu mời Thủ tướng NĐD xuống để nghe kết quả của nghị hội.
Thủ
tuớng NĐD xuống lầu, tất cả mọi người đều đứng lên, ông đứng trước
cử tọa, mặt xẩm xuống, vẻ buồn buồn hơn là lo âu, bầu không khí bỗng
chốc trở nên yên lặng lạ thường…
Chủ tịch Ủy ban vừa cảm động vừa quả quyết đọc lớn cho mọi người đều nghe:
Thay mặt cho toàn thể Hôi nghị, tôi xin trình Thủ tướng kết quả của Hôi nghị là bản Kiến nghị gồm 3 điểm nầy:
Kiến nghị:
1.- Truất phế Quôc trưởng Bảo đại
2.- Giải tán Chánh phủ Ngô đình Diệm
3.-
Ủy nhiêm chi sĩ Ngô đình Diệm thành lập chánh phủ mới để trừng trị
bọn phiến loạn Bình xuyên, thu hồi chủ quyền quốc gia, yêu cầu triệt
thoái quân đội viễn chinh Pháp và tổ chức bầu cử quốc dân đại hội.
Làm ngày 29, tháng 04, 1955
Đại diện 18 chánh đảng và đoàn thể cùng 34 nhân sĩ ký tên:
Vừa
nghe Truất phế Quốc trưởng BĐ, mọi người đều thấy mặt Thủ tướng đỏ lên
rồi lần lần biến sắc. Ông hoàn toàn bị cú sốc. Nghe xong thấy ông lặng
người, tay nhận lấy bản kiến nghị và cố gắng lấy lại bình tỉnh, hết sức
chẫm rãi trả lời gần như từng chữ một: Xin quí ngài cho tôi… được có thì giờ… suy nghĩ kỹ… về vấn đề trọng đại nầy! Xin cám ơn quí ngài!
Sau
đó các hội viên lần lượt êm lặng đến bắt tay từ giã Thủ tướng, thấy
vẻ mặt ông âu lo rõ ràng…. lúc đó là 5 giờ chiều. Hôi nghị đã kết thúc
và giải tán.
Đến
đây thì cuộc Cách mạng kể như là xong và Thủ tướng Diệm bị đặt trước
một sự đã rồi. Vốn Thủ tuớng NĐD chỉ muốn dẫn vào nhà một con tuấn mã để
nhờ giúp qua suối, không dè nhìn lại là một con bạch hổ, ông không cỡi
thì nó sẽ thịt ông, nhưng nếu ông dám leo lên lưng nó, thì chỉ một cái
nhảy vọt nó đưa ông lên tới đĩnh núi cao vời vợi. Thật ra khi đến giai
đoạn nầy Thủ tướng NĐD vẫn còn nghĩ đến một chế độ Quân chủ lập hiến,
chưa nghĩ đến một chế độ Công hòa, cái đó là chắc. Thành ra khi biết
chuyện Truất phế là sự đã rồi, ông không tái mặt làm sao
được!
Chiều
tối lại, lúc 8 giờ đài phát thanh Sài Gòn đưa tin cho toàn quốc
và Thế giới biết ở miền Nam VN đã xẩy ra cuộc cách mạng Truất phế Quốc
trưởng Bảo đại. Cùng một lúc Ủy ban Cách mạng Quốc gia kêu mời các nhân
sĩ và đồng bào ngày hôm sau đến hội tại tòa Đô chánh Sài Gòn để nghe Ủy
ban thuyết trình về biến cố lịch sử vừa xảy ra.
Và
ngày hôm sau, từ sớm các giới nhân sĩ, các đại diện các chánh đảng,
thanh niên sinh viên phụ nữ, báo chí.. phấn khởi tụ tập đầy nghẹt phòng
khánh tiết tòa Đô chánh Sài Gòn. Ông Nguyễn bảo Toàn, Hồ hán Sơn và Nhị
lang thuyết trình về Cuôc Cách mạng Truất phế BĐ ngày hôm trươc, tất
cả cử tọa đều nhiệt liệt hoan hô, triệt để ủng hộ. Và thêm một màn hạ
bệ Bảo Đại một lần nữa, có người bắt thang leo lên gỡ bức ảnh to tướng
hình Quốc trưởng BĐ treo trước cửa tòa nhà và ném xuống đất, rồi có
những thanh niên nhảy lên dậm đạp cho nát bét
(Tôi đã chứng kiến màn hạ bệ do anh bạn ĐTC điều khiển). Đang
khi đó ba tướng Nguyễn giác Ngộ (Hòa hảo), Nguyển thành Phuơng (Cao đài)
và Trịnh minh Thế (Mặt trận Quốc gia Kháng chiến) được Ủy ban Cách mạng
giới thiệu, đứng ra trình diện để công chúng hoan hô, như là những anh
hùng đã tạo ra thời thế. Và chúng tôi đã nghĩ vậy, vì sau lưng của Ủy
ban Cách mạng đã có ba tướng nầy cho ý kiến, nếu không nói là cho chỉ
thị, nên ba ông đại diện Nguyển bảo Toàn, Hồ hán Sơn và Nhị Lang đã hành
động, đã lên tiếng hết sức đồng nhịp với nhau (synchronized) và nhờ vậy
mà lôi kéo tất cả Hội nghị một cách dễ dàng, nhứt là khi các thành phần
hôi nghị đã sẵn có tiềm thức phản hoàng rồi.(5)
(5) Vốn
cái ý phức phản hoàng nầy có trong Nam từ thời vua Tự Đức tức là gần
cuối thế kỷ 19 khi vua Tự Đức nhượng cho Thực dân Pháp 3 tỉnh miền Đông,
rồi 3 tình miền Tây Nam kỳ lục tỉnh một cách dễ dàng quá. Rồi đến khi
phong trào Kháng Pháp trong Nam, như của Thủ khoa Huân, của Trương công
Định, của Thiện hộ Dương, của Cố quản Trần văn Thành… lại bị triều đình
nhà Nguyễn bỏ rơi gần như hoàn toàn. Đề rồi qua đầu thế kỷ 20, phong
trào Tây học, như các nhà cách mạng Đệ tứ Nguyễn an Ninh, Nguyễn văn
Nguyễn, Tạ thu Thâu, Hồ hữu Tường và nhứt là Phan chu Trinh đã gieo rắc
trong Nam
nhứt là trong giới trí thức ý thức phản hoàng hay Cộng hòa. Ngoài ra
chế độ thuộc địa Pháp là chế độ thuộc địa có văn hóa cộng hòa hơn là
quân chủ, cho dù nó phát xuất từ thời Napoleon III.…
Đến
đây thì cuộc Cách mạng đã được chánh thức hóa bằng một văn kiện có rất
nhiều chữ ký rất nặng giá vì đại diện cho nhiều đoàn thể chánh trị hay
quần chúng và công khai hóa bằng đài phát thanh, bằng sự xác nhận trước
công chúng của thủ đô Sài Gòn/ Chợ lớn. Như thế phải nhìn nhận là cuộc
Cach mạng nầy đã thành tựu một cách tuyệt đối rồi. (Period, Point
final). Và theo tôi cuộc Cách mạng nầy là biến cố lịch sử quan trọng
nhứt từ ngày Việt Minh cướp chánh quyền trên tay Chánh phủ Bảo đại/ Trần
trọng Kim tại Sài Gòn ngày 23-08-45 (ở Hà nội là ngày 19 tháng 8, 1945)
10 năm truớc,
vì nó có tính cách quyết định, dù chỉ là đập đổ, san bằng. Nhưng muốn
xây dựng cái gì thì phải đập đổ và san bằng trước cái đã. Đó là một lẽ
tất nhiên. Còn chuyện xây dựng là chuyện của hồi sau.
Cuôc
Cách mạng Truất phế Quốc trưởng Bảo đại nầy là tác động của dân miền
Nam nói chung, trong đó quần chúng Nam kỳ lục tỉnh qua các đại diện của
họ đã đóng một vai trò chủ động, không ai có thể chối cải điều đó. Dù là
tiêu cực hay là đập đổ và san bằng, nhưng tích cực là nó đã dọn đường
cho sự hình thành ra Đệ nhứt Công hòa, vì ngay lúc đó chính Thủ tướng
NĐD còn nghĩ tới chế độ Quân chủ lập hiến.. Nhưng tai hại vô cùng, chỉ
năm năm sau cũng chính quần chúng Nam kỳ lục tỉnh (không quơ đũa cả nắm)
qua Mặt trận Giải phóng Miền nam đã
đóng một vai trò qua ư quan trọng, dù không phải là chủ động đã khởi sự
tàn phá, không phải chì Đệ nhứt CH mà cả Đệ nhị CH nữa. Sau 15 năm dọn
đường, đúng hơn là làm cổ sẵn cho CS Miền Bắc thôn tính hoàn toàn, đúng
hơn là thuộc địa hóa miền Nam, cho đến bao giờ? Truất phế BĐ là một tác
động Cách mạng sáng suốt hợp tình hợp lý bao nhiêu, thì tác động gọi là
Mặt trận Giải phóng miền Nam, là một cái sai lầm ghê gớm, nếu không nói
là ngu xuẫn tày đình bấy nhiêu, như lịch sử 34 năm qua đã chứng minh quá
hùng hồn, vì hệ lụy tai hại vô cùng, cho quyền lợi, cho cả quyền làm
người của dân miền Nam nói chung và dân Nam kỳ lục tỉnh nói riêng.. Tuy
nhiên, tôi còn hy vọng, dù mong manh đi nữa, sẽ có ngày quần chúng miền
Nam nói chung và Nam ky lục
tỉnh nói riệng sẽ đứng lên làm một cuốc Cách mạng nữa. Và lần nầy là
một cuộc Cách mạng vô cùng thiết yếu cho sự sống còn của cả một dân tộc
VN, không riêng gì cho miền Nam hay Nam kỳ lục tỉnh. Đó là sứ mạng của
lịch sử giao phó cho dân miền Nam, không riêng gì người trong nước hay ở
hải ngoại.
(Ơ
đây cũng nên nhắc lại những biến cố rất quan trọng sau đây, nhưng tôi
kể là bên lề vì nó không có tính cách quyệt định, nó như là mấy màn
của một tấn bi hài kịch lịch sử mà các diển viên, từ những tên lưu manh
hạng nặng, những nhà ngoại giao ngu ngơ, cho đến những chánh trị gia lổi
lạc phi thường, những anh hùng rất thông minh và can trường… mà vai nào
cũng đặc sắc cả, đặc sắc ở đây không có nghĩa là vai trò nào cũng tốt
đẹp đáng vỗ tay.
Đầu
tiên là chuyện của một ông tướng Nguyễn văn Vỹ, tư lênh Ngự lâm quân,
Đà Lạt, được Quốc trưởng BĐ bổ nhiệm ngày 28, tháng 04 - cùng một lúc
triệu Thủ tướng Diệm và Tổng Tham mưu Lê văn Tỵ qua Pháp – làm Tổng tham
mưu quân đội Quôc gia VN thay thế tướng Hinh được toàn quyền hành động.
Được bổ nhiệm xong, tướng Vỹ vội kéo Ngự lâm quân về ngay Tổng tham mưu
bắt tướng Tỵ, kéo vào dinh Gia long toan lật đổ chánh phủ NĐD. Lúc đó
là 6 giờ chiều. Nhưng ngẫu nhiên Ủy ban Cách mạng, sau khi trình diện ở
tòa Đô chánh đã đổi tên là Hội Đồng Nhân dân Cách mạng Quốc gia kéo nhau
vào
dinh Độc lập và một lần nữa Nhị lang lại là người táo bạo nhứt dám dùng
một khẩu súng tay (chưa chắc đã lên đạn), bắt tướng Vỹ phải đưa tay lên
đầu hàng, nghĩa là cuộc phản đảo chánh cùa tướng Vỹ bỗng chốc hóa ra
mây khói.. Đến đây đúng là trò hề, vì mới năm phút trước tướng Vỹ áp lực
Thủ tuớng NĐD từ chức, bây giờ ông phải nhờ Thủ trướng che chở cho ông
khỏi mất mạng. Để rồi đầu hàng Cách mạng, ký cả hai tay giấy cam kết trở
lại hợp tác với Thủ tướng. Nhưng hai ba giờ sau lại phản phé, muốn lật
ngược lại thế cờ. Song đến chừng đó thì không còn một ma nào coi ông có
chút gì nghiêm chỉnh cả, nên mọi người đều bỏ rơi ông, bắt buộc ông phải
cuốn gói rút quân chạy về Đà lat, lúc đó đã 3 giờ sáng.
Chuyên
thứ hai là chuyện của một ông đặc sứ Collins của TT Eisenhower. Sau
khi không chinh phục được Thủ tuớng Diệm theo đề nghị ngu ngơ cải tổ
chánh phủ của mình, ông tự cho mình bị khinh bạc, mất mặt với bạn bè
chi binh, biết đâu lại không có miệng lưỡi của một mụ đàn bà xúi bậy
vào…ông vội bỏ VN trở về Mỹ chính hai ngày trước khi BX khởi chiến. Ông
về Mỹ ráo riết vận động với Quốc hội, với bộ Ngoại giao, với hội đồng An
ninh Quồc gia và triệt để khai thác tình tự bạn chi binh với chính TT
Eisewhower. Sau 5 ngày vận động không
ngừng nghỉ, ông thành công: TT Eisenhower gửi tối hậu thư tuyên bố
“Diệm must go’’ để ông Đặc sứ mang về Sài Gòn, phổ biến cho các đảng
phái liên hệ, cũng có thể như là món quà đáng giá triệu đô cho bạn chi
binh của ông là tướng Ely và nhứt là cho Bảy Viễn.
Nhưng
không ai dè, chính trong thời gian ông ở Mỹ thủ tướng NDD đã ký sắc
lệnh mở chiến dịch Hoàng Diệu do đại tá Duơng văn Minh làm tư lệnh, để
phản công Bình Xuyên và ngày một ngày hai quân đội Quốc gia VN đã đánh
bật hai trung đoàn BX ra khỏi địa bàn Sài Gòn/Chợ lớn, tàn quân BX rút
chạy vào Rừng Sát, hoàn toàn tan rã và chiến dịch đã kết thúc trong vòng
mươi ngày và ngày mùng 8 tháng 5 đại tá Dương văn Minh kéo quân khải
hoàn về. Quân đội Quốc gia tổn thất vài mươi sinh mạng. Chẳng may lại
mất một tướng tài, cũng là một nhà chánh trị đầy hứa hẹn.
Sáng ngày 02-05-1955 tướng Trinh minh Thế kéo quân qua cầu Tân thuận để
truy kich quân binh BX, một người lính Pháp trong tàn quân BX bắn sẻ từ
bên kia cầu, tướng Thế chết ngay trên “command car’’. (Sau nầy người
Pháp có bắn tin là đã trả được thù cho tướng Chanson và Thái lập Thành,
tay chơn của Pháp, vì hai nhân vật nầy đã bị quân của tuớng Thế ám sát
chết ở Sadec năm bảy năm trước.)
Sau
khi thành công xoay chuyển Wahington hơn 180 độ, tướng Collins hớn hở
bay về VN. Trên con đường bay về Sài Gòn thì Washington được tin thủ
tướng NĐD với quân đội Quốc gia trung thành, như vũ như bão phản công BX
mà chiến thắng ở trong tầm tay của Thủ tướng rõ ràng. Đánh BX để chứng
minh Thủ tướng có đủ bản lãnh và tài ba để ổn định tình thế, bất chấp
những mưu mô lươn lẹo của thực dân Pháp và cố chấp ngu ngơ của tướng
Collins. Cho nên Washington lập tức phải trở lại ủng hộ thủ tướng NĐD
còn hơn trước (statu quo ante) và đã vội vả đánh một diện văn khác để
thủ tiêu bức thơ
của Collins đang cầm tay. Cho nên khi ông Đặc sứ vừa xuống phi trường
TSN thì cũng vừa lúc một nhân viên tòa đại sứ chạy đến trình cho ông một
diện văn hỏa tốc. Ông phải mở ra xem liền, tôi không thấy gương mặt của
ông đặc sứ Collins lúc bấy giờ, nhưng tôi chắc là ông phải đổ mồ hôi
hột, dù trời Sài Gòn tháng 5 không nóng lắm, nhưng có thể ông cảm tưởng
là đã tới tháng 8 rồi! Tôi nghiệp cho ông Đặc sứ, quá nhiều ego (tự ái),
làm mất sáng suốt!)
Đến đây thì phải nhìn nhận là trên thực tế chế độ quân chủ của
nhà Nguyễn với 13 triều đại (1802-1954) đã thật sự cáo chung, sau một
thời gian 9 năm (1945-1954) hấp hối. Vốn độc lập của VN do quân đội Nhựt
ban cho (09-03-1045) , không do tranh đấu, do hi sinh mà được, tất
nhiên không giá trị bao nhiêu, nên Nguyên thủ quốc gia phung phí một
cách vô ý thức là phải.Tuy nhiên trong mấy tháng độc lập quốc gia (09-03
đến 24-08-1945), chánh phủ Trần trọng Kim cũng làm được một việc cho
quốc dân là Cải tổ hệ thống giáo dục quốc gia theo định hướng dân
tộc. Nhưng cùng một lúc làm một việc vô cùng tai hại cho quốc dân nhứt
là ở miền Nam kỳ lục tỉnh. Vốn ngày 02-05-1945, Hoàng đế Bảo đại đã ký
sắc luật phóng thích tất cả tù nhân chánh trị, mà trong đó 90% là cán bộ
CS, bị Pháp giam giữ ở Côn đão từ phong trào Soviết-Nghệ tỉnh (1929-30)
và cuộc nổi dậy trong Nam (1939-1940) của Đệ tam Quôc tế, mà tổng số
lên đến trên 10,000. Nhờ đó mà ngày một ngày hai (tháng 6, tháng 7,
1945) cả mấy ngàn cán bộ CS, (trong đó có Lê Duẫn, Tôn đức Thắng, Phạm Hùng, Lê văn Lương…toàn là cán bộ cao cấp),
sau nhiều năm tôi luyện vừa lý thuyết vừa kỹ thuật hành động được đón
tiếp nhiệt liệt trở về Cấn thơ, Sóc trăng, Trà vinh…để rồi làm ung thúi
chánh trường miến Nam, đưa VM nắm lấy thế thuợng
phong, đàn áp các Giáo phái, giết hại các nhà ái quốc chân chính, cướp
lấy chánh nghĩa quốc gia, thầu công cuộc kháng Pháp cho đến Điện biên
phủ, tháng 5, 1954.
4.- Cương vị thứ tư là một cương vị hỗn hợp.
Khi
tôi vừa điều khiển VHD, các trường BKBD và Hội Văn hóa Bình dân, với
chức vụ Bí thư Liên kỳ bộ Nam Bắc Việt, tôi đã trở thành một cố vấn đa
dạng (tiện tệ, văn hoá và an ninh) của Thủ tướng NĐD. Ơ đây tôi không
nói tôi đã làm nhửng gì, tôi chỉ nói đến những gì tôi thấy tôi nghe,
cũng là chứng nhân cho những biến cố lịch sử kể ra sau đây.
Thật
ra từ đây vai trò của CLNVCM đảng càng ngày càng trở nên quan trọng
và rõ ràng hơn. Nói đến Cần lao trong giai đọan nầy, ngoài lý thuyết
Nhân vị, không phải chỉ là những thành viên đầu não của nó là Ngô đình
Nhu, Trần quôc Bửu, Trấn chánh Thành, Trần trung Dung… , và trong chừng
mực hạn hẹp của nó là Liên kỳ bộ Nam Bắc Việt, (thành lập từ đầu tháng 04, 1955 và giải tán đầu năm 1958),
mà còn phải kể những đoàn thế do Cần lao lãnh đạo, như Tập đòan Công
dân, Phong trào Cách mạng Quốc giai… Tất cả đều nhìn nhận Thủ tướng
sau là Tổng thống NĐD làm lãnh tụ tối cao, biểu tượng cho chính nghĩa
Quốc gia hay Dân tộc, chống lại HCM, biểu tượng cho chủ nghĩa Quôc tế
Mac-lêninit (4)
(4)
(Cũng lạ là trong những cuộc khủng hoảng vừa kể trên những người cận kề
bên ông Diệm nhứt toàn là người Trung hay người Bắc, chỉ có một mình
tôi là người Nam, mà cuôc Cách mạng Truất phế BĐ lại hoàn toàn là do tác
động của người miền Nam. Có phải vì thế mà thủ tướng Diệm phải suy nghĩ
cả 2 tháng mới khởi sự hành động một cách dứt khoát với BĐ.)
Và
thành tích cụ thể và rực rỡ nhứt cùa CL, là cuộc Trưng cầu Dân ý, kéo
theo là Quốc hội lập hiến với Hiến pháp 1956 của nó, cũng là cái ID
(lai lịch) của Đệ nhứt Công hòa của miến Nam (1956-1963).
a.- Trưng cầu dân ý.
Ngày
22 tháng 10, thủ tuớng NĐD qua hệ thống truyền thanh đã kêu gọi quốc
dân ngày hôm sau nên dùng cái quyền tự do của mình, cũng là nhiệm vụ của
người công dân, phải đi đầu phiếu để chọn lưa giữa Quốc trưởng
BĐ và ông, tức là chọn một thể chế Quân chủ hay Cộng hòa.
Và
ngày 23 tháng 10, 1954 quốc dân miền Nam đã nhiệt liệt huởng ứng lời
kêu gọi của Thủ tướng NĐD, náo nức kéo nhau đi đầu phiếu và kết quả hết
sức tốt đẹp cho thủ tướngNĐD:
5,838,907 cử tri đi bầu.
5.721.735 lá phiếu Truất phế Quôc trưởng BĐ và bầu NĐD lên thay thế, như là Quốc trưởng VN.
Như
thế Thủ tướng NĐD thu về cho mình gần 98% số phiếu đi bầu. Thật ra
thì Thủ tướng Diệm không cần đến một phân xuất cao đến thế. Vì ai ai
cũng đinh ninh ông thắng và thắng lớn.
(Ai
nói gì thì nói theo tôi kết quả hay những con số nầy hoàn toàn trung
thực với ý người dân, nếu có một hai thùng phiếu không hợp lệ vì nhân
viên chánh quyền quá sốt sắng đến chỗ ngu xuẩn, thì chỉ là một con số
quá nhỏ, không đáng kể.)
Như
thế Quốc dân miền Nam muốn chấm dứt chế độ Quân chủ và ủy nhiệm cho ông
NĐD nhiệm vụ thiết lập chế độ Công hòa dân chủ. Cho nên cách nầy hay
cách nọ Truất phế Quốc trưởng BĐ như là mẹ đẻ ra các Biến cố lịch sử kế
tiếp, như là một quá trình tiến hóa chánh trị bất di bất dịch của lịch
sử.
Ngày
26 tháng 10, 1955, Thủ tướng NĐD tuyến bố Hiến chương tạm thời, theo đó
từ rày VN là một nước Cộng hòa, người lãnh đạo là Quốc trưởng kiêm luôn
chức Thủ tướng, tức là Tổng thống nước Việt nam Cộng hòa.
Đến
đây thì uy tín của Thủ tướng lên đến tuyệt đỉnh, trong nuớc cũng như
trên thế giới, vì tuyệt đại đa số Quốc dân ủng hộ ông. Nhờ đó mà ộng
giải quyết tất cả các vấn đề tồn kho với Pháp để hoà