Tuesday, June 29, 2021
Ở ĐỜI, CHIẾN THẮNG KHÔNG PHẢI LÀ TẤT CẢ, GIÚP NGƯỜI KHÁC CHIẾN THẮNG MỚI LÀ THÀNH CÔNG LỚN NHẤT - Lý Minh
Monday, June 21, 2021
MỘT CÂU CHUYỆN THẬT CẢM ĐỘNG…
Sáng nào cũng thấy thằng nhỏ cầm cái lon đứng chầu chực trước quán ăn. Tôi để mắt theo dõi thì hễ thấy thực khách vừa kêu tính tiền thì thằng bé chạy vào nhìn vào những cái tô, nếu còn thức ăn dư mứa thì nó vội vã trút vào cái lon rồi chạy ra ngoài đứng ngóng tiếp.
Khi cái lon gần đầy thì nó biến mất, chập sau thấy nó lại có mặt thập thò trước quán tiếp tục. Bàn tôi ngồi thì đứa bé không bao giờ quan tâm tới, vì mỗi sáng tôi chỉ đủ tiền uống 1 ly xây chừng vì tôi cũng nghèo cải tạo mới về sáng nhịn đói ngồi uống cà phê đen như một cái thú hay một cái tật không bỏ được.
Cứ thế, mà hơn một năm tôi mới quen được và tìm hiểu chút ít về hoàn cảnh gia đình của đứa bé. Tôi cố tình làm quen với thằng bé nhờ hôm ấy trời mưa, thằng bé đứng nép vào trong quán. Thằng bé đứng nép vào ngày càng sâu hơn trong quán vì mưa ngày càng lớn chỉ cách tôi chừng độ nửa thước. Tôi vói tay kéo nó ngồi xuống bàn và hỏi nó có thích uống cà phê không?
Thằng bé lắc đầu lia lịa và nói không uống. Tôi hỏi nó làm gì ngày nào cũng ra đây? và hiện sống với ai? Thằng bé như đoán được rằng: tôi chỉ là người khách ghiền cà phê nặng nên hàng ngày đóng đô ở đây nên nó cũng trả lời nhanh nhẹn rằng:
– “Con sống với ba má con, Ba con đi làm xa còn Má con đi phụ buôn bán ở ngoài chợ…”
Tôi hỏi tiếp:
– “Còn con có đi học không ?”
Thằng bé nói:
– “Con không có đi học… con ở nhà phụ với má nuôi heo…”.
Đó là lý do để nói lên sự hiện diện hằng ngày của nó nơi quán ăn nầy. Nghe thằng bé nói như thế, tôi nói với chị chủ quán ăn giúp cho nó lấy những cơm và thức ăn thừa, và cũng từ đó nó không còn đứng lúp ló ngoài cửa quán nửa. Và nhờ tánh tình hiền hậu thật thà chị chủ quán cho nó vô phụ dọn bàn đề lấy thức ăn dư mang về và cho nó ăn uống để phụ việc. Từ đó tôi và nó gần gũi nhau hơn và thân với nhau lắm.
Có lần thằng bé hỏi tôi:
– “Chú làm nghề gì vậy hả chú?”
Tôi chỉ trả lời ngắn gọn là “Chú đang làm thinh”.
Đúng vậy mới cải tạo về mà, vợ con thì đã theo bên ngoại vượt biển hết rồi, nghe đâu đã định cư bên Úc, nay về ở với mẹ già ngày 1 buổi cà phê hai bữa cơm độn qua ngày. Thời gian ngột ngạt chậm chạp trôi qua, may mắn vợ chồng tôi đã bắt liên lạc được với nhau. Thế là những bữa cơm không còn ăn độn khoai củ hay bo bo nữa nhưng vẫn quen cử sáng cà phê quán gần nhà.
Không biết chị chủ quán có bỏ bùa mê hay tôi ghiền chổ ngồi mà không bữa nào vắng tôi. Một hôm, tôi đề nghị theo thằng bé về nhà nó chơi cho biết vì nó nói ở cũng gần không xa lắm. Thấy nó do dự và tỏ vẻ sợ sệt, tôi biết ngay nó đang dấu diếm điều gì.
Thương nó lắm, tôi dúi tiền cho nó hoài. Mấy hôm sau tôi lẳng lặng đi theo nó khi nó mang cơm và thức ăn dư về nhà buổi trưa. Khi thấy nó lủi vô một cái chòi nhỏ xíu thì tôi thật sự không ngờ. Đứng dưới gốc cây Gòn cách nhà nó không xa tôi thầm nghĩ, nhà chút xíu như vậy gia đình 3 người ở thì chỗ đâu mà nuôi heo. Tôi đang đứng suy nghĩ đốt cũng hết mấy điếu thuốc thì thằng nhỏ lục tục xách lon xách nồi đi ra quán để thu dọn thức ăn buổi chiều.
Đợi thằng bé đi khuất tôi lò mò đến nơi mà hồi nãy nó vào. Đến đó mới nhìn rõ thì thật ra đâu có phải là nhà, một lõm trống được che dựng lên bằng những phế liệu đủ loại muốn chui vào phải khom mọp xuống. Nghe thấy có tiếng chân dừng lại, có tiếng đàn bà vọng ra hỏi. Tôi trả lời là đi kiếm thằng Tuất, thì nghe giọng đàn ông cho biết nó vừa đi khỏi rồi, và hỏi tôi là ai, mời tôi vào…. Vừa khom người chui vào tôi mới thật sự không ngờ những gì hiển hiện trước mắt tôi.
Người đàn ông hốc hác cụt hai giò tuổi cũng trạc tôi nhưng trông yếu đuối, lam lũ và khắc khổ lắm. Một người đàn bà bệnh hoạn xác xơ cả hai đang ăn những thức ăn thừa mà thằng bé vừa mới đem về. Vừa bàng hoàng, vừa cảm động vừa xót xa, nước mắt tôi bất chợt tuôn rơi mặc dù tôi cố nén…
Từ đó, tôi hiểu rõ về người phế binh sức tàn lực kiệt sống bên người vợ thủy chung tần tảo nuôi chồng bao năm nay giờ mang bịnh ác tính nặng nề thật đau xót. Tôi móc hết tiền trong túi biếu tặng và cáo lui. Về đến nhà tôi vẫn mãi ám ảnh hoàn cảnh bi thương của gia đình thằng bé mà tôi bỏ cơm nguyên cả ngày luôn.
Sáng hôm sau ra uống cà phê, thằng bé gặp tôi nó lấm lét không dám nhìn tôi vì nó đã biết trưa hôm qua tôi có tới nhà nó. Nó thì tỏ vẻ sợ tôi, nhưng tôi thực sự vừa thương vừa nể phục nó nhiều lắm. Tôi kêu nó lại và nói nhỏ với nó tại sao không cho tôi biết.
Tội nghiệp nó cúi đầu im lặng làm lòng tôi thêm nỗi xót xa. Có khách kêu trả tiền, như có cơ hội né tránh tôi nó chạy đi dọn bàn và tiếp tục công việc thu dọn thức ăn. Hèn gì sau nầy nó để thức ăn dư phân loại đàng hoàng lắm. Tội nghiệp hoàn cảnh của thằng bé mới mấy tuổi đầu mà vất vả nuôi cha mẹ theo khả năng chỉ tới đó. Cha là một phế binh cũ trước 75 cụt hai chân, mẹ thì bị bệnh gan nặng bụng phình trướng to khủng khiếp và cặp chân sưng vù lên đi đứng thật khó khăn, nước da thì vàng mét như nghệ. Thằng bé là lao động chánh trong gia đình, nó có hiếu lắm. Từ đó tôi thường cho tiền đứa bé mua bánh mì cơm gạo về nuôi cha mẹ.
Vợ tôi làm thủ tục bảo lãnh tôi sang Úc. Ngày tôi đi tôi đau xót phải để lại hai nỗi buồn đó là để mẹ và em gái lại quê nhà và không còn cơ hội giúp đỡ thằng bé nữa. Sang Úc định cư, tôi sống tại tiểu bang Victoria mấy năm đầu tôi hết sức cơ cực vì phải vật lộn với cuộc sống mới nơi đất mới và đối với tôi tất cả đều mới mẻ và xa lạ quá. Từ ngôn ngữ đến thời tiết đã làm tôi lao đao không ít. Thỉnh thoảng tôi gởi tiền về nuôi mẹ và em gái không quên dặn em gái tôi chuyển cho thằng bé chút ít gọi là chút tình phương xa.
Mấy năm sau tôi về thăm gia đình, tôi có ghé tìm thằng bé thì nó không còn lấy thức ăn trong quán đó nữa. Tôi mới kể rõ hoàn cảnh thằng bé cho chị chủ quán biết. Chị chủ quán đôi mắt đỏ hoe trách tôi sao không cho chị biết sớm để chị tìm cách giúp gia đình nó. Tôi chỉ bào chữa rằng tại thằng bé muốn giấu không cho ai biết! Tôi ghé vội qua nhà thằng bé thì mới hay mẹ nó đã qua đời vì căn bệnh ung thư gan.
Chỉ còn chèo queo một mình ba nó ở trần nằm một góc trông hết sức thương tâm. Hỏi thăm thì mới biết nó đã xin được việc làm đi phụ hồ kiếm tiền về nuôi cha. Chúa nhật tôi tới tìm thằng bé, chỉ mới có mấy năm mà nó đã cao lớn thành thanh niên rất đẹp trai duy chỉ đen đúa vì phơi nắng để kiếm đồng tiền. Tôi dẫn nó trở ra quán cà phê cũ, thấy nó hơi ái ngại, tôi trấn an là bà chủ quán tốt lắm tại không biết được hoàn cảnh gia đình nó. Ra đến quán ăn chị chủ quán năn nỉ nó về làm với chị, dọn dẹp và bưng thức ăn cho khách nhẹ nhàng hơn đi phụ hồ và chị sẽ trả lương như đang lãnh bên phụ hồ, tối về thức ăn thường bán không hết chị cho đem về nhà dùng khỏi phải mua hay đi chợ. Lần đầu tiên tôi thấy nó khóc, chị chủ quán cũng khóc theo làm tôi phải đứng dậy bỏ ra ngoài để khỏi phải rơi nước mắt vì chịu không nỗi.
Thằng Tuất vừa khóc vừa nói: “Sao ai cũng tốt với gia đình con hết đó, nhưng vì con đang làm phụ hồ cho anh Năm, anh ấy cũng tốt lắm giúp đỡ gia đình con nhiều lắm, sáng nào cũng mua cho ba con gói xôi hay bánh mì trước khi tụi con đi làm. Con cũng mang ơn ảnh nhiều nên con không thể nghỉ được, con xin lổi”. Không biết thằng Tuất nó nói thật hay nó ái ngại khi quay về chỗ mà ngày nào cũng cầm cái lon chầu chực trút đồ ăn dư về nuôi cha mẹ. Phải thông cảm nó, phải hiểu cho nó, phải cho nó có cái hiện tại và tương lai tốt hơn, đẹp hơn ngày trước. Chị chủ quán vừa gạt nước mắt vừa nói “Bất cứ lúc nào con cần đến cô thì con đừng ngại, cho cô biết nhé”…
Đời này cũng còn có những hoàn cảnh bi đát ít ai biết đến, và cũng có những đứa con xứng đáng như thằng Tuất. Ngày về lại Úc, tôi đến biếu hai cha con nó hai triệu đồng, thấy nó và ba nó mừng lắm tôi cũng vui lây. Không biết phải giúp gia đình nó như thế nào, tôi chụp hình ba nó, photo giấy tờ ba nó đem về Úc gởi cho Hội cứu trợ thương phế binh bị quên lãng trụ sở ở Sydney. Mấy tháng sau nhận được thư ba thằng Tuất viết qua, ông quá vui mừng khi được Hội bên Úc giúp đỡ gởi tiền về, ông cho biết suốt bao nhiêu năm qua lần đầu tiên ông thấy được niềm hạnh phúc khi cuộc đời phế binh của ông còn có người nhớ đến. Không biết ông ấy vui bao nhiêu mà chính tôi cũng hết sức vui mừng khi thực hiện một việc làm đem niềm vui đến cho những người phế binh sống hết sức đói nghèo bên quê mẹ.
Tôi xin cảm ơn cả hai: người chiến sĩ vô danh sống trong hẩm hiu và Hội cứu trợ thương phế binh đã thể hiện tình người trong công việc hết sức cao cả này.
Tác giả: Minh TạoFriday, June 18, 2021
Paul Anka- Papa / Ba Tôi - Mặc Lâm
Wednesday, June 16, 2021
Mẹ Việt Nam Ơi Các Con Vẫn Còn Đây - Thơ Hoàng Phong Linh Võ Đại Tôn - Nguyễn Ánh 9 Phổ Nhạc - Ca Đoàn Melbourne Australia
Mẹ Việt Nam ơi chúng con vẫn còn đây...
Mẹ Việt Nam ơi chúng con vẫn còn đây...
Mang giòng họ của Lê Lý Nguyễn Trần
Mẹ dưỡng nuôi con giòng sữa Bắc Trung Nam
Con của Mẹ đều một giống da vàng
Quyết một lòng diệt hết lũ tham tàn
Trên đầu voi rạng ngời vung ánh thép
Gái Triệu Trưng bồ liễu chống xâm lăng
Hé môi cười nghe tiếng sóng Bạch Đằng
Con Hưng Đạo như Rồng Tiên vùng vẫy
Vượt Trường Sơn, Nguyễn Huệ, Bắc Bình Vương
Quyết một lòng đi giữ vững quê hương
Và còn nữa con của Mẹ toàn danh tướng
Lòng Mẹ vui hãnh diện với đàn con....
Nhưng Mẹ ơi giờ đây sao Mẹ khóc ?
Hai vai gầy run rẩy nát tâm can
Mẹ lòng đau thương xót cảnh lầm than
Áo nâu nghèo Mẹ rách để phơi thân
Một đàn con rồi quên ơn Mẹ nuôi dưỡng
Súng đạn cày tan nát luống quê hương
Mẹ lòng đau thương xót cảnh lầm than
Xót xa nhiều phương Bắc chiếm phương Nam
Nhưng Mẹ ơi Mẹ đừng than khóc nữa !
Vì chúng con tuổi trẻ vẫn còn đây
Chúng con nguyện cùng ra sức đắp xây
Quê hương mình trong TỰ DO ấm no
Xin Mẹ yêu Mẹ đừng than khóc nữa !
Vì chúng con mười bảy triệu vẫn còn đây
Chúng con nguyện cùng ra sức đắp xây
Chúng con nguyện đi dựng lại Quê hương
Mẹ Việt Nam ơi chúng con vẫn còn đây
Mẹ Việt Nam ơi chúng con vẫn còn đây...
Không phản bội giòng sữa thơm nuôi đưỡng
Chúng con nguyện đi dựng lại Quê hương
Mẹ Viet Nam ơi.. Mẹ Viet Nam ơi... Mẹ Viet Nam ơi...
Tuesday, June 15, 2021
Monday, June 14, 2021
Eva Perón Đàn bà dễ có mấy tay. - EVITA Don't cry for me Argentina
Saturday, June 12, 2021
Liên Hội Cựu Chiến Sĩ VNCH lên tiếng về “trò đùa” xây Tượng Đài Cổ Thành Quảng Trị - Bài đăng và phản hồi
Hình ghép từ lá thư “Bản Lên Tiếng” với ảnh chụp tại buổi tiệc gây quỹ cho tượng đài tại San Jose ngày 25 tháng 4, 2021.
Dưới đây là nguyên văn “Bản Lên Tiếng Về Việc
Tượng Đài Cổ Thành Quảng Trị” được Liên Hội Cựu Chiến Sĩ Việt Nam Cộng
Hòa Miền Nam California gởi đến Nhật Báo Viễn Đông sáng thứ Năm, ngày 10
tháng 6, 2021.
*
Kính gởi:
- Quý vị Lãnh Đạo tinh thần các Tôn Giáo,
- Quý Niên Trưởng, quý Chiến Hữu và gia đình
- Quý Đại Diện các Hội Đoàn, Đoàn Thể và các Hội Đồng Hương
- Cùng toàn thể Đồng Hương tỵ nạn tại Hải Ngoại và các Bạn Trẻ thuộc thế hệ Hậu Duệ.
Thưa quý vị,
Bao tháng qua, chúng tôi luôn được hỏi, cũng như bị
hỏi, về việc Thành Phố Westminster chuẩn bị xây Tượng Đài Tái Chiếm Cổ
Thành Quảng Trị trong khuôn viên Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Mỹ.
Là những người cư ngụ trong vùng Nam California, lúc
đầu, chúng tôi cứ nghĩ đây chỉ là trò đùa của trẻ nít chớ làm gì có việc
xây cất mà mình không biết cũng như không được thông báo qua các hệ
thống truyền thông, báo chí.
Nhưng đó là sự thật!
Sau khi tìm hiểu cũng như tiếp nhận phản ứng từ các
nơi gởi về, Liên Hội Cựu Chiến Sĩ chúng tôi đã có phiên họp và đưa tới
quyết định như sau:
1) Chúng tôi không chống đối việc xây dựng Tượng Đài
này, vì nó là một biểu tượng lịch sử trong công cuộc bảo vệ miền Nam của
Quân Dân Cán Chính VNCH.
2) Chúng tôi phản đối và không chấp nhận:
- Thành phần nhân sự trong Ủy Ban Xây Dựng Tượng Đài
(UBXDTĐ) và Gây Quỹ. Với vai trò là Thị Trưởng của Thành Phố, nơi sẽ
được xây Tượng Đài, mà chỉ là Thành viên của Ủy Ban, dưới sự “sai bảo”
của những nhân vật, không mấy được ưa chuộng trong thời gian qua của
Cộng Đồng Tỵ Nạn có địa danh là Little Sàigòn.
- Trong Website của UBXDTĐ có cho biết đã mời gọi các
Hội Đoàn Quân Đội tham gia (?), nhưng sự thật, việc xây dựng này được
quyết định từ tháng 8/2020, cho mãi đến tháng 12/2020 mới được phổ biến ở
các nơi xa trong khi tại Little Sàigòn, không ai được hay biết gì.
- Cái không đúng đắn nhất, khi một thành viên trong
Ủy Ban “được” đồng hương cho biết đã từng về Việt Nam, được bọn cộng sản
tiếp đón (có hình ảnh) v.v., được ông Luật Sư trong Ủy Ban viết bài
tường trình để biện hộ, thay vì cá nhân đó phải làm cho chính mình! Tại
sao???
Việc xây dựng các Tượng Đài, không phải là đề tài mới
lạ gì đối với đồng hương, không chỉ ở Nam California, mà ở khắp nơi có
người Việt sinh sống. Nhưng lần này, chúng tôi cảm thấy có cái gì đó
không được suôn sẻ, hay sạch sẽ, nên đành phải đứng ngoài.
Điều đáng buồn là thiên hạ lại lợi dụng xương máu của
anh em mình, của đồng bào mình để trong tương lai, vài chục năm sau, họ
lại được tuyên dương “chiến tích.”
Trân trọng.
Little SaiGon, ngày 09 tháng 6 năm 2021
TM. Liên Hội Cựu Chiến Sĩ Nam California
Chủ Tịch.
Tần Nam
Coalition Of The Republic Of Vietnam Veteran Associations In Southern California
Liên Hội Cựu Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa Miền Nam California
14101 Roxanne Dr. Westminster CA 92683
Phone: (714) 878-5528 E.mail: dongde4311@yahoo.com
Nguồn Viễn Đông Daily
Phản hồi của độc giả
Ái Vân giữa Sài Gòn hoa lệ sau 30-4-1975 Do chính Ái Vân tự thuật
Một Sài Gòn khác
Ở Hà Nội nhỏ bé xinh xinh, vào Sài Gòn thấy ngợp. Ra chợ Bến Thành thấy người dân khác hẳn. Lúc đó người Sài Gòn không dám ăn diện như trước, nhưng vẫn thấy sự khá giả trên những bộ đồ họ mặc. Họ đón nhận mình với thái độ vui mừng một cách gượng gạo, có phần nghi ngại.
Dân Sài Gòn thấy ai từ bắc vào đều gọi là bộ đội. “Bộ đội” truyền hình ca nhạc cô nào cũng coi được, mấy bà mấy cô cứ xúm lại mấy chị em xuýt xoa: “Bộ đội mà sao da trắng bóc hà?”. Nhiều người còn cầm tay tôi ngạc nhiên bảo: “Cô này bộ đội nè, sao móng tay và bàn tay trắng trẻo và nõn nà thế”.
Tôi mua vài thứ lặt vặt, đưa tiền ngoài bắc, cô bán hàng tính ra 1 đồng ăn 1.000 đồng tiền Sài Gòn, cả chợ ồ lên nói: “Trời, tiền ngoài bắc còn giá trị hơn tiền dollar à”. Cô bán hàng nói: “Em chờ chút để qua đổi tiền thối nha”. Tôi cãi: “Không, tiền em không “thối” đâu ạ”.
Trước đây cứ nghe nói đồng bào miền Nam “bị Mỹ ngụy kìm kẹp” khổ lắm, rất cần sự giúp đỡ từ miền Bắc, cứ hình dung dân Sài Gòn đói khổ lắm. Mới vào Sài Gòn tôi rất ngỡ ngàng. Chỉ cần nhìn cách ăn mặc, trang điểm, đi lại, ăn nói nhẹ nhàng; chỉ cần ra chợ mua gì cũng có câu cảm ơn và túi ni lông đựng đồ đủ biết mình không cùng đẳng cấp văn minh với người ta rồi. Biết mình bị ngộ nhận với thông tin lệch lạc.
Theo địa chỉ ba cho từ ngoài bắc, tôi tìm đến nhà cô Hà Thị Tuyết, ở nhà gọi là cô Cả, là chị lớn của ba. Khi đến thăm cô Cả, cô sinh viên nghèo Ái Vân cũng mang biếu gia đình chút quà từ tiêu chuẩn ăn của mình. Con dâu trưởng của cô Cả hỏi: “Cô mang cho chúng tôi quà gì thế?”. Tôi trịnh trọng vừa mở bọc ni lông vừa nói: “Em biếu gia đình 2 cân gạo ạ, chắc nhà mình cũng đang cần”.
Ối giời, cả nhà cười nghiêng ngả: “Giời ạ. Lại mang gạo cứu trợ cho chúng tôi nữa cơ đấy. Khổ thân em”. Rồi chị dắt tôi tới mở thùng gạo to tướng bằng nhựa, bên trong đầy ắp gạo, thứ gạo trắng muốt và thơm phức, nõn nà.Bây giờ tôi mới để ý trong nhà ngoài ti vi, tủ lạnh, còn có máy giặt và nhiều thứ lạ lẫm khác cho thấy một cuộc sống rất tiện nghi, không thể có bất kỳ nhà nào ở miền Bắc tại thời điểm đấy, dù là nhà ông Thủ tướng.“
Thay lốt
Dần dần tôi gặp rất nhiều văn nghệ sĩ ngoài bắc vào. Gặp nhau ở Sài Gòn vui hơn tết. Mới biết Bộ Văn hóa phát lệnh “Tổng tiến công” bằng 7 đoàn văn hóa nghệ thuật tiến vào nam trên một chiếc tàu thủy. Những ngày đầu ở Sài Gòn tôi có dịp được gặp nghệ sĩ Kim Cương và ông xã. Ở chị Kim Cương toát lên vẻ duyên dáng, tự tin, sang trọng mà không kiêu kỳ, ngược lại rất ân cần và điềm đạm. Vợ chồng chị Kim Cương cũng cho tôi đi gặp vợ chồng anh chị Lý Quí Chung. Chị vợ anh Lý Quí Chung cứ nhìn tôi, cái nhìn là lạ. Về nhà chị Chi, con gái cô Cả, tôi vui chuyện kể lại. Chị Chi cười, nói: “Cô xem cô mặc bộ đồ kỳ vậy, cái quần chó táp 7 ngày không tới ai mà không lạ”.“
Để tui thay lốt cho cô”, chị Chi nói và kéo tôi ra chợ Bến Thành chọn vải rồi về tiệm, đo người xong, chị bảo sẽ may gấp, hẹn hai, ba ngày sau sẽ đến lấy. Thử quần áo, vừa in. Một bộ áo chẽn trắng sọc xanh da trời nhạt, quần ống loe vải gin xanh nội hóa, bộ kia cũng kiểu như vậy nhưng tone màu hồng sắc tím.
Nhìn trong gương như thấy một người nào khác, văn minh, cao ráo và “lên chân kính” hẳn. Tiện thể, chị Chi lấy chiếc kính râm to bản đang để trên bàn bảo tôi mang vào luôn. Chị Chi hãnh diện nhìn “tác phẩm” của chị, bảo: “Đẹp lắm, bây giờ thì đúng là con gái Sài Gòn rồi”. Nói xong chị gói luôn bộ quần áo ka ki tôi mặc bỏ vào chiếc túi.
Tôi mặc bộ đồ mới ra đường, rất khoái chí. Về đến nơi vừa đúng lúc đang họp đoàn, cô Bích Hường đang phát biểu cái gì vẻ căng lắm. Vừa thấy tôi hớn hở bước vào, cô nói: “Có những đồng chí vừa mới vào Sài Gòn được mấy bữa mà đã biến chất, thay đổi từ đầu đến chân, chưa gì đã áo chẽn, quần loe, mang kính râm to bản, thí dụ như đồng chí Ái Vân”.
Ối giời, con bé choáng váng rụng rời, ngay sau đó vội vàng giấu ngay “tang vật”. Buồn cười là những người phê phán “đồng chí Ái Vân” mấy tuần sau chính họ cũng kính râm to bản, một số quần loe, chân đi guốc “gộc”, một số thì áo dài thướt tha, phóng xe Honda chạy vù vù khắp Sài Gòn.
Còn “đồng chí biến chất” này suốt mấy tháng còn lại trong Sài Gòn đành diện bộ đồ “chó táp 7 ngày không tới”.
Ái Vân