Monday, September 30, 2024
Phim THUYỀN NHÂN: HÀNH TRÌNH 50 NĂM
Friday, September 27, 2024
Countdown Party 2025 Happy New Year - 50 năm sau Chiến Tranh Việt Nam - Diamond 2 - 12181 Brookhurst St Garden Grove California USA Vé ủng hộ $60 - VIP $100
Thưa quý vị,
Wednesday, September 25, 2024
Tô Lâm ở Mỹ: đừng hy vọng để rồi thất vọng!
Ông Tô Lâm, tổng bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam kiêm chủ tịch nước, phát biểu tại phiên thảo luận chung Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc khóa 79.
Chuyến công du Hoa Kỳ đầu tiên của ông Tô Lâm trên cương vị tổng bí
thư đảng Cộng Sản Việt Nam (CSVN) kiêm chủ tịch nước, đang thu hút sự
chú ý của đông đảo những người quan tâm tới thời cuộc. Đảng CSVN đã sắp
xếp chuyến ông Tô Lâm “ra biển lớn” khá chu đáo, khơi dậy niềm lạc quan
và hy vọng về một sự thay đổi lớn sắp xảy ra. Nhưng với những ai hiểu
đảng CSVN và những thủ đoạn chính trị tinh vi, đây chỉ là một màn trình
diễn công phu, che giấu ý đồ thật của họ, do đó hãy còn quá sớm để lạc
quan hay hy vọng.
Chuyến đi đến New York tham dự kỳ họp thường niên thứ 79 Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc là một nghi thức ngoại giao thông thường. Là người mới tiếp nhận chiếc ghế lãnh đạo cao nhất của Việt Nam chưa đầy hai tháng, ông Tô Lâm coi đây là cơ hội quan trọng để ra mắt cộng đồng quốc tế, nâng cao uy tín ở trong nước và thể hiện hình ảnh một nhà lãnh đạo có năng lực trong dòng xoáy của chính trị cường quốc. Đây là lần đầu tiên kể từ khi Việt Nam gia nhập Liên Hiệp Quốc năm 1977 có một tổng bí thư đảng CSVN dự kỳ họp Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc. Đảng CSVN cũng nhân cơ hội này để trưng ra một bộ mặt thân thiện, làm bạn với tất cả các nước, đồng thời củng cố mối quan hệ với Mỹ đúng một năm sau ngày hai nước nâng cấp quan hệ lên mức đối tác chiến lược toàn diện.
Vì vậy, chỉ vài giờ trước khi ông Tô Lâm lên phi cơ sang Mỹ, nhà cầm quyền Việt Nam vội vã trả tự do “cưỡng bức” trước thời hạn cho các tù nhân lương tâm nổi tiếng là ông Trần Huỳnh Duy Thức, bà Hoàng Thị Minh Hồng và Tiến Sĩ Hoàng Ngọc Giao. Hà Nội coi đây là một cử chỉ thiện chí, hy vọng Hoa Kỳ sẽ đáp lại. Hà Nội cũng sắp xếp cho ông Tô Lâm thuyết trình và gặp gỡ với sinh viên đại học Columbia University ở New York sáng 23 Tháng Chín dù họ không thật sự thoải mái khi cuộc gặp được Giáo Sư Nguyễn Liên Hằng điều khiển. Bà Hằng là một nhà sử học gốc Việt bị bộ máy tuyên truyền của đảng chụp cho cái mũ “phản động” dù bà là thành viên ban lãnh đạo Đại Học Fulbright Việt Nam ở trong nước.
Nên để ý, cuộc gặp của ông Tô Lâm tại đại học Columbia University tái diễn một sự kiện tương tự khi ông Nguyễn Tấn Dũng, phó thủ tướng Việt Nam, đọc diễn văn tại đại học Johns Hopkins University ở Washington, DC, ngày 10 Tháng Mười Hai, 2001. Cho tới nay trong giới lãnh đạo Việt Nam chỉ có ông Dũng và ông Tô Lâm phá lệ, “dám” gặp gỡ, đối thoại với sinh viên Mỹ, đúng như chúng tôi phán đoán trong một bài trước, ông Tô Lâm sẽ đi vào con đường “kỹ trị” của ông Dũng, xa rời sự cai trị giáo điều của ông Nguyễn Phú Trọng.
Cũng như ông Dũng 23 năm về trước, cuộc gặp của ông Tô Lâm được dàn dựng cẩn thận, sinh viên phải nhìn vào màn hình điện thoại mới đọc được câu hỏi được mớm trước; còn ông Tô Lâm thường lúng túng, dán mắt vào cuốn sổ tay và né tránh những vấn đề thiết thân như hòa giải với người Việt hải ngoại, với chế độ Việt Nam Cộng Hòa.
Dù ông Tô Lâm không có được một cuộc thăm viếng chính thức cấp nhà nước tới Tòa Bạch Ốc hoặc hội đàm với các nhà lãnh đạo nước Mỹ, phía Việt Nam cũng đã cố gắng dàn xếp để ông gặp ông Joe Biden, tổng thống Mỹ, bên lề hội nghị Liên Hiệp Quốc cho dù để gặp ông Biden, ông Tô Lâm phải rút ngắn chương trình viếng thăm Cuba, đồng minh thân thiết nhất của Việt Nam ở Tây Bán Cầu.
Tổng Thống Joe Biden đang trong thời kỳ mà người Mỹ gọi là “lame duck” (vịt què), ông sẽ rời chính trường trong bốn tháng nữa, cho nên theo Giáo Sư Alexander Vuving từ Trung Tâm Nghiên Cứu An Ninh Châu Á-Thái Bình Dương Daniel K. Inouye (Mỹ), cuộc gặp ông Biden là “không quá cần thiết.” “Sẽ cần thiết hơn nếu ông Tô Lâm gặp được những người có thể sẽ là một phần của chính quyền Harris giả định trong tương lai,” ông Vuving nói với BBC Tiếng Việt.
Ấy thế nhưng qua một vài sự kiện nho nhỏ vừa kể, và qua những bài diễn văn “có cánh” của ông Tô Lâm từ khi lên nắm quyền, đã có nhiều người hy vọng ông Tô Lâm sẽ đem lại sự thay đổi cho chính trường Việt Nam, thậm chí có người đánh giá ông ta “thân Mỹ,” sẽ đưa Việt Nam vào một “kỷ nguyên mới!” Niềm hy vọng đó không chỉ cháy bỏng trong tâm trí hàng triệu người dân đang khao khát tự do ở trong nước mà còn thôi thúc một số bậc trí thức trong cộng đồng người Việt hải ngoại đang mơ về một nước Việt Nam tự do, dân chủ và thịnh vượng!
Có điều, nếu quan sát những phát ngôn và hành động của ông Tô Lâm cùng bộ sậu của ông thì dễ dàng nhận ra niềm hy vọng ấy chỉ là ảo vọng. Chúng tôi đã nhiều lần phân tích về bản chất không thể thay đổi của đảng CSVN và nhu cầu cải cách thể chế chính trị Việt Nam, xin phép không nhắc lại nữa mà chỉ tập trung vào chuyến công du Hoa Kỳ hiện nay của ông Tô Lâm để chứng minh đảng CSVN vẫn kiên trì đi theo chủ nghĩa Cộng Sản, duy trì nhà nước cai trị kiểu Lênin, cùng chia sẻ vận mệnh tương lai với Trung Quốc và ngăn chặn mọi biểu hiện tự do hoá, dân chủ hoá xã hội. Những cam kết, hứa hẹn này nọ mà ông Tô Lâm đưa ra tại diễn đàn Liên Hiệp Quốc và trong các cuộc gặp gỡ chẳng qua chỉ là những thủ thuật chính trị, những bức màn khói che đậy ý đồ thật sự của họ mà thôi.
Trước chuyến đi, ông Tô Lâm đã phóng thích ông Trần Huỳnh Duy Thức, bà Hoàng Minh Hồng nhưng trước đó chưa lâu, chế độ của ông đã bắt giam và kết án nặng nhiều gương mặt đấu tranh khác như các ông Nguyễn Vũ Bình, Phan Vân Bách, Trần Đình Triển, Trương Huy San (Huy Đức)… Xem ra “quỹ tù nhân lương tâm” mà Việt Nam dùng để trao đổi với Tây phương vẫn không bị thâm thủng; chưa kể họ còn giữ những tù nhân có giá trị trao đổi lớn như Huy Đức, Phạm Đoan Trang, Phạm Chí Dũng…
Tính đến ngày 24 Tháng Chín, Việt Nam cầm giữ 187 tù nhân lương tâm, 417 người có nguy cơ bị đàn áp, theo dữ kiện của The Project 88. Nếu thực sự có thiện chí, nhà cầm quyền Việt Nam phải trả tự do cho toàn bộ những người này và chấm dứt việc truy bức những tiếng nói phản biện ôn hòa, bất bạo động. Một chính thể bắt giam công dân để làm vật trao đổi với ngoại bang đổi lấy những sự nhượng bộ về kinh tế thương mại là một chế độ lưu manh, không có năng lực phục thiện.
Trong chuyến đi Hoa Kỳ, ông Tô Lâm đọc những bài diễn văn soạn sẵn đầy những hình ảnh và từ ngữ lung linh về “kỷ nguyên vươn mình của dân tộc” về “kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại,” nhưng đằng sau đó là gì? Dù hết sức bận rộn trong thời gian ở New York, ông Tô Lâm và tùy tùng đã cố thu xếp gặp gỡ lãnh đạo đảng Cộng Sản Mỹ, các tổ chức cánh tả từng kích động phong trào phản chiến chống sự tham dự của người Mỹ trong cuộc chiến tranh Việt Nam trước đây.
Ông Tô Lâm đã trao huân chương hữu nghị cho một số đại diện phong trào này. Đặt trong bối cảnh quan hệ cùng chia sẻ vận mệnh với một số ít các đảng Cộng Sản Trung Quốc, Bắc Hàn và Cuba, cuộc gặp gỡ lãnh đạo đảng Cộng Sản Mỹ hoàn toàn nhất quán với chính sách, trước sau không thay đổi của đảng CSVN. Cộng đồng quốc tế vẫn chưa quên lập trường của Hà Nội ủng hộ cuộc chiến tranh xâm lược của Nga ở Ukraine và cuộc đón tiếp trọng thị nhà độc tài Vladimir Putin, tổng thống Nga, mới đây.
Có nguồn tin trong nước tiết lộ, trong chuyến “Mỹ châu du” lần này, đích đến của ông Tô Lâm là Havana chứ không phải New York. Chuyến đi đến New York chỉ là hoạt động ngoại giao có tính thủ tục, trọng tâm chú ý của ông Tô Lâm cùng đoàn tùy tùng là viếng thăm chính thức cấp nhà nước tới Cuba, thể hiện thông điệp Việt Nam tiếp tục củng cố tình hữu nghị xã hội chủ nghĩa với một trong vài nước có cùng chính thể cuối cùng còn sót lại. Có người phán đoán, chuyến thăm Cuba của ông Tô Lâm nhằm xoa dịu sự phản kháng của thành phần bảo thủ, trung kiên trong nội bộ đảng CSVN ở Hà Nội song chúng tôi thiên về nhận định đây là chính sách nhất quán của ông Tô Lâm, đổi mới mà không đổi màu, dù cải cách thế nào vẫn không từ bỏ chính thể Cộng Sản.
Còn quá sớm để hy vọng ông Tô Lâm là nhà cải cách. Ông Nguyễn Văn Linh và Võ Văn Kiệt thì mọi người đã biết; tên tuổi ông Linh gắn liền với mật nghị Thành Đô 1990, ông Kiệt ký Nghị Định 31/CP năm 1997 về quản chế hành chính, cho phép bắt giam không cần xét xử, kết tội không cần tòa án, đặt cơ sở pháp lý cho thời kỳ đàn áp khốc liệt những người bất đồng chính kiến ở Việt Nam. Ông Tô Lâm chắc chắn sẽ đi vào con đường của ông Linh, ông Kiệt, của đảng CSVN nhưng đó không phải là con đường cải cách chính thể mà người dân đang hướng đến. [qd]
Monday, September 23, 2024
Tân Định Xóm Tôi…
Tôi sinh ra ở Tân Định, lớn lên ở Tân Định và đi vượt biên từ Tân Định nên hễ ai viết về Tân Định là tôi chúi mũi đọc. Tôi không biết Bích Vân là ai nhưng cô có giọng văn ý nhị, tinh nghịch vừa giễu cợt vừa hoài niệm. Bích Vân đem cho tôi biết bao kỷ niệm, trả về cho ngôi phố có nhà thờ Thiên Phước từng chi tiết phố xá. Duy có hai chi tiết nhỏ chưa thật chính xác: Chú Hòa bán xi-rô đối diện trường Thiên Phước ngâm xi-rô với dứa chứ không phải chanh muối và Tân Định cũng bị Việt Cộng tấn công vào Tết Mậu Thân. Nhà tôi ở số 422 Hai Bà Trưng là hiệu Đại Ngọc trong hình, ở ngã ba Trần Quang Khải, Hai Bà Trưng, Yên Đỗ. Đêm mùng hai Tết, đặc công nằm vùng xuất phát từ hiệu phở Bình ở số 7 Yên Đỗ tấn công binh-đinh Mỹ kế bảo sanh viện Lương Kim Vi. Nhà tôi ngay đối diện, chứng kiến lính Mỹ trên sân thượng bắn trả xuống lòng đường, đạn ghim vào cửa sắt reo xèo xèo. Đến sáng 4 xác Việt Cộng nằm tênh hênh trên đất, trực thăng bốc lính Mỹ đi và ông Ngô Toại chủ hiệu phở Bình bị Cảnh sát Dã chiến VNCH còng tay. Chi tiết khác: rạp Mô-Đẹc sau này đổi tên là rạp Kinh Đô, còn rạp Kinh Thành chuyên trình diễn cải lương. Rạp sang nhất vẫn là rạp Văn Hoa, thứ nhì là Casino Đa-Kao bên cạnh thạch chè Hiển Khánh và Hải Ký Mì Gia ở ngã ba Mạc Đĩnh Chi-Đinh Tiên Hoàng. Tiệm uốn tóc nổi tiếng là tiệm Tân Hồng Kông gần hiệu Giày Gia không xa kem Mai Lan và hiệu nhiếp ảnh Chí Mỹ cũng đối diện rạp Kinh Thành.
Giọng văn của Bích Vân ấm áp, êm đềm, trả về cho Tân Định những thanh bình của trước lúc nước mất nhà tan. Cám ơn Bích Vân.
[Trần Vũ]
Tôi đi để lại đường xưa
Cùng bao kỷ niệm nắng mưa bên đời …
Chả hiểu tại sao, nhưng hễ cứ nghe ai nhắc hoặc nói đến hai chữ Tân Định là tôi lại thấy lòng nao nao, xúc động một cách kỳ lạ. Không kềm được. Chỉ mới nghe đến hai chữ Tân Định không thôi là đã thấy cả một quãng đời thơ ấu thần tiên như hiện ra trước mắt với biết bao kỷ niệm vui buồn thân yêu, cả một thời mới lớn vô tư đầy mơ với mộng, và cũng cả … một thời «đổi đời» khốn đốn chật vật lúc nào cũng chỉ nghĩ đến cái ăn, cái mặc …
Đã ở Sài Gòn, ai mà chả biết hoặc chưa từng đi ngang qua nhà thờ Tân Định? Qua Hai Bà Trưng, con đường chính nối liền Phú Nhuận và… cứ thế đi thẳng tắp lên Trung Tâm Sàigòn. Đi thẳng ra chỗ tượng Đức Trần Hưng Đạo ở bến Bạch Đằng, giang sơn của Hải Quân, thì có lẽ chính xác hơn, nhưng đường phố Catinat và Bonard cũng đã nằm lẩn quẩn gần đâu đấy, chỉ cách có vài bước. Cái đất Tân Định của tôi có nhiều … thứ nổi tiếng lắm nhé. Rất rất nhiều thứ. Những nhân vật trứ danh của vùng quận nhất Tân Định nói chung, và khu Nhà Thờ của tôi nói riêng, thì… ối thôi hằng hà vô số, nhớ sao cho hết, và kể sao cho xuể? Một thí dụ nôm na thôi, tầm thường thôi, nhưng chắc chắn sẽ còn rất nhiều người vào lứa tuổi sồn sồn như tôi khó mà quên cho được … Chú Hòa (còn được gọi một cách thân mật là Chí Hòa) có cái xe đẩy bán sirop đá bào ở đầu cái hẻm đối diện với nhà thờ Tân Định. Những buổi trưa nắng gắt mà được sà vào giằm giằm khuấy khuấy một ly “đá nhận” thoang thoảng chút mùi chanh muối rồi chấm chấm mút mút từng muỗng đá bào có xịt xịt tí sirop mầu xanh mầu đỏ, thì cứ gọi là… coi ông mặt trời như… nơ-pa, đã khát và mát ruột gì đâu !!!
Lại nhớ hồi tôi còn đầu tắt mặt tối với cái quán café cóc (sau 75 ấy mà, buôn bán nhì nhằng chỉ mong kiếm đủ tiền đi chợ hằng ngày thôi, có mấy ai mà chẳng phải thế, như tôi, nhỉ?) cũng ở ngay đầu hẻm, đã biết bao lần chú Hòa thương hại “giải vây” cho tôi vay tạm từng cục nước đá BGI để tôi phục vụ bán café “sữa đá” hay “đen đá” cho những người vừa tan lễ nhà thờ ùa vào hàng loạt… khiến tôi lính quýnh tíu tít pha pha chế chế luôn tay không kịp thở và cái thứ hàng gì tôi bày bán cũng hết sạch nhẵn, chỉ trong nhấp nháy, sau những giờ tan lễ ngày Chủ Nhật.
Cái quán café cóc của tôi thật ra thì… chả có mấy người còn nhớ đến, nhưng nức tiếng lắm lắm cả Sài Gòn lẫn Chợ Lớn là (quán đàng hoàng) Café Thu Hương nằm gần ngã tư đèn xanh đèn đỏ Hiền Vương (Mayer cũ). Ngày xưa, lúc đang còn trong thời kỳ nhắng nhố … sắp sửa thành người lớn, bọn ghiền ngồi café chúng tôi cứ phân vân không biết phải chọn café Văn Hoa Dakao hay Thu Hương Tân Định để được nghe những bài nhạc ngoại quốc “mới ra lò”, thịnh hành nhất, romantique nhất… Văn Hoa thì nhạc hay, âm thanh hay và có mấy cô caissières yé yé xinh xẻo nhưng café lại chỉ tàm tạm thôi, nên chúng tôi đóng đô Thu Hương thường hơn, vả lại những hôm lười đi xa, tôi chỉ việc băng qua đường là đã tới, gần xịt.
Gần xịt hơn nữa là cái quán bánh xèo Đinh Công Tráng, rộn rịp từ xế xế chiều cho đến tối khuya, lúc nào cũng tấp nập người và xe. Nghe nói sau gần 40 năm rồi mà đến bây giờ vẫn còn tấp nập xe và người, cả ngày lẫn đêm nữa cơ đấy!
Đi quá thêm vài ba bước nữa là tới cái ngõ hẻm của nghệ sĩ Tùng Lâm, danh tiếng thì… cả nước biết. Tôi thường đi băng tắt ngang cái hẻm này mỗi ngày để ra chợ, cái hẻm đâm thẳng vào hông chợ, đầu hẻm có xe nước mía (pha lẫn với dâu Đàlạt) của chị Tám, trời thần ơi là ngon, nhất là được uống vào những buổi tối cúp điện. Có lẽ chưa có loại nước uống nào trên thế giới, theo tôi nghĩ, mà vừa rẻ, vừa đã khát, vừa ngon lại vừa bổ như nước mía, nếu đừng để ý đến cái đám nhặng xanh bay vần vũ trên những xác mía đã được ép lấy nước rồi, cũng như những đẵn mía chưa ép…
Cứ
gì phải ra tận ngoài Hà Nội để mò đến Chả Cá Lã Vọng mới thưởng thức
cho được cái món chả cá thì là chấm mắm tôm? Chả cá Sơn Hải ở ngay ngã
ba Lý Trần Quán và Đinh Công Tráng (còn gọi là Calmette) mà không ngon
ư? Cứ gọi là lịm cả người đi ấy chứ! Và trong cái ngõ hẻm sát kế bên còn
có một nhân vật, lúc còn sinh thời, đã từng làm mưa làm gió trong giới
điện ảnh hồi đó: tài tử Đoàn Châu Mậu, bố của Tuyền, cô bạn học cùng lớp
với tôi ở Marie Curie và cùng học violon với ông xã nhà tôi ở trường
Quốc Gia âm nhạc. Một cô bạn tính tình hiền hậu, lành như cục đất, ai
nói gì cũng chỉ ngỏn ngoẻn cười… Cô bạn này của tôi đã có dạo, trước 75
một chút, cùng với Đức Huy là một đôi khá nổi tiếng trong làng ca nhạc
Sài Gòn .
Cha Tr. của giáo xứ Tân Định những
năm 70 cũng là một nhân vật được nhắc đến khá nhiều, nhất là trong giới
trẻ. Một thần tượng, một hiện tượng… lạ thì đúng hơn, đáp ứng được cái
“máu hippie” của bọn choai choai chúng tôi thuở bấy giờ. Những buổi lễ
của Cha, dành riêng cho giới trẻ, lúc nào cũng đông nghẹt!
Bọn con gái chúng tôi mê nhất là bộ râu quai nón của Cha, giọng nói từ tốn “lịm cả hồn” và những bài giảng rất là giản dị và cởi mở, những bài thánh ca soạn theo thể loại mới, nghe mà cứ “ngơ ngẩn cả người”… vì hay! Tôi biết, đã có khối con chiên ghẻ bỗng dưng trở thành ngoan đạo, chăm chỉ sốt sắng đi lễ nhà thờ không bỏ sót Chủ Nhật nào, cũng chỉ vì…Cha. Và trong số những con chiên ghẻ đó có tôi.
Sát bên nhà thờ Tân Định là trường Thiên Phước. Ngôi trường đạo này là của các Sơ, chỉ nhận toàn con gái và có một đặc điểm rất dễ thương là bắt các nữ sinh phải mặc đồng phục váy mầu hồng thay vì mặc váy mầu xanh nước biển đậm và blouse trắng như các trường đạo khác (Couvent des Oiseaux, Régina Pacis và Régina Mundi… chẳng hạn). Cứ đến giờ tan học là cả khu Tân Định nhộn nhịp hẳn lên với một đàn bướm mầu hồng khổng lồ ríu rít túa ra xúm đông xúm đỏ các gánh hàng rong túc trực sẵn trước cổng trường, trông vui mắt đáo để. Quà vặt của vùng Tân Định là có tiếng đấy. Có tiếng là ngon! Mà cũng có tiếng là đắt!
Chả thế mà người ta vẫn thường kháo với nhau là “Chợ Tân Định chỉ dành riêng cho những dân nhà giầu, bán toàn hàng “tuyển” nên mắc như quỷ (?). Mà cũng đúng thôi, tiền nào của nấy!”
Chẳng ngoa tí nào sất, thật, dân vùng Tân Định, phần lớn là “có máu mặt” cả mà! Những ngôi nhà lịch sự xinh xắn trong các con hẻm tương đối rộng rãi nếu so với những con hẻm của các vùng khác, và những cửa tiệm khang trang buôn bán sầm uất ngoài mặt đường đã nói lên rằng thì là… Quận Nhất không phải khi khổng khi không mà được gọi là Quận Nhất, nghĩa là nhất trong các quận của Sài Gòn! Và những lý do để dẫn chứng thì kể đến… mai, mốt cũng chưa hết.
Trước tiên phải kể đến lý do… yên ổn: năm 68 trong trận Mậu Thân, cái đất Tân Định chả suy suyển một mảy may nào, ở đâu nhốn nháo chứ quanh vùng tôi ở vẫn cứ êm ru bà rù. Và kiểm lại trong ký ức, tôi rất ít khi nghe nói tới các băng đảng anh chị xuất thân hay những hành vi phạm pháp xuất phát từ cái xứ Tân Định. Chỉ cần nhiêu đó thôi, thế đã đủ là lý do chính đáng hàng đầu chưa nhỉ, để chán vạn dân Sài Gòn… ôm ấp giấc mơ có được “hộ khẩu” trong vùng này? Thế thì văn hóa nữa nhé?
Yểm Yểm thư quán trên đường Trần văn Thạch chắc nhiều người trong giới chữ nghĩa vẫn chưa quên.
Còn nữa, đối diện với chợ Tân Định, ngay đầu cái xóm sát với nhà thuốc bắc Kim Khuê (có trưng một ông hổ to thật to, và thật, đứng chình ình trong tiệm) là chỗ cho mướn sách với một kho truyện phong phú… không thể tả được! Trên thì giời dưới thì sách, thôi thì không thiếu một thể loại hay tác giả danh tiếng nào. Những Văn Bình Z.28, “Lửa cháy Thành Phiên Ngung”, “Thủy Hử” hay Kim Dung hay Duyên Anh hay Ian Fleming v.v. đã góp cái vốn kiến thức cho biết bao già trẻ lớn bé không chỉ vùng Tân Định.
Còn giới văn nghệ sĩ tụ tập trong vùng này thì đông vô số kể. Nào là nữ ca sĩ Bạch Quyên và Tuyết Mai của những năm “hồi đó lâu lắm rồi”, nào là nữ diễn viên kịch Mỹ Chi, nào là nữ sĩ Nguyệt Hồ nổi tiếng như cồn nhờ tài bói bài Tây…
Nói chi đâu xa,
cũng vào đầu những năm 60, ngay trong cái ngõ trước cửa Nhà Thờ của tôi,
ông hàng xóm soạn giả Hoàng Khâm là… số dzách trong làng cải lương. Mỗi
tối khuya mà thấy ông bách bộ đi tới rồi lại đi lui, phía bên kia đường
nhà thờ, để vắt tim nặn óc viết kịch bản dựng tuồng cho các gánh hát
(hạng nhất thôi đấy nhé) là thiên hạ xung quanh nhìn bằng con mắt ngưỡng
mộ ghê lắm.
Hiệu uốn tóc Mô-Đéc (dấu sắc) sát
bên nách hiệu thuốc tây của nhà tôi cũng được các tài tử giai nhân của
cả Sài Gòn tận tình chiếu cố. Cô em Lìn Dí làm chủ tiệm này còn bà chị
Lìn Chế có thêm một tiệm nữa, cũng tên Mô-Đéc, nhưng nằm trên đường phố
Lê Lợi. Hai tiệm này lúc nào cũng đông nghẹt, nhất là vào những mùa Noel
hay Tết, dễ thường khách đến “làm đầu” phải chờ đến cả tiếng đồng hồ
mới được phục vụ. Chú Cóong, chú Cai có những bàn tay bằng vàng, được
các bà các cô “tán tiu” nhiều nhất. Cứ vào đây là khắc biết hết tuốt
tuồn tuột những chuyện “trong nhà ngoài phố” của… cả làng trên xóm dưới,
bảo đảm!
Chỉ cách nhau chưa đầy 3 phút đi bộ, mà cái vùng tôi ở có đến hai rạp ciné. Bên hông chợ là rạp Mô-Đẹc (dấu nặng) và mặt trước của chợ là rạp Kinh Thành. Hai rạp này thay phiên nhau chiếu những phim Ấn Độ và cao bồi hay ra phết, thỉnh thoảng để thay đổi không khí lại mời các gánh Cải Lương hay Hồ Quảng về trình diễn, làm nghẽn cứng cả xe cộ lưu thông vào những giờ sắp mở màn hay vãn tuồng.
Đấy là những dẫn chứng (mê ly chưa?), liên quan đến “cái đầu”, mà tôi chỉ đại khái sơ qua thôi.
Còn “cái bụng” ư? Hai con đường Hiền Vương và Pasteur với một dẫy các hàng phở, món quốc hồn quốc túy vang danh khắp năm châu bốn biển, chả là cái nôi của nền văn hóa ẩm thực của nước Việt Nam đó sao? Dân sành sỏi chỉ ăn phở thịt bò ở Pasteur hay phở gà trên đường Hiền Vương. Và Phở Pasteur đã trở thành bảng hiệu của vô số tiệm Phở, điển hình là ở Boston bên Mỹ, của Mr. Lê D.
Tiệm bán giò chả Bạch Ngọc và Phú Hương, cũng trên đường Hiền Vương thì… lọ là phải ngon, nổi tiếng quá xá trời là ngon không đâu bằng. Bánh giầy, bánh giò, chả cốm, chả quế, giò lụa, giò bò không chê vào đâu được! Ăn giò chả của hai tiệm này với bánh mì nóng hôi hổi của lò Poitou gần đấy thì ngon phải biết, quên cả chết!
Ăn rồi lại muốn xơi thêm
No căng nứt bụng, cứ chêm, vẫn thèm…
Tôi còn nhớ, mãi, trong chuyến viếng thăm Little Saigon, cái cảm giác ngạc nhiên đến sững sờ khi bước chân vào lò giò chả Thái Bình trên đường Brookhurst. Cầm khoanh chả bò trên tay, cái mùi rau thì là ngào ngạt xộc vào mũi, xông thẳng lên óc. Chao ôi là quen thuộc! Là thân yêu! Trong một lóe chớp, dường như tôi thấy cả một quê hương Việt Nam, cả một bầu trời Tân Định ùa đến trước mặt. Tôi lặng cả người. Từ khi bị xa xứ, gần 20 năm rồi, có lẽ đây là lần đầu tiên tôi được ngửi lại cái mùi chả bò quyến rũ này. Quyến rũ kỳ diệu cái khứu giác. Tôi cắn ngập răng, nghiến ngấu, mê mẩn. Quyến rũ thần tình cái vị giác. Không ngờ cái mùi, cái vị của một món ăn lại có sức khơi dậy kỷ niệm mãnh liệt dường ấy. Tả làm sao cho xiết những xúc động của tôi lúc đó, lúc mang cái tinh túy đặc biệt của xứ sở tôi vào lòng? Cám ơn lò giò chả Thái Bình đã cho tôi tìm lại hương vị độc đáo không bao giờ quên được này. Cám ơn cả Van’s bakery với những ô mai, những bánh mứt đủ các loại gợi cho tôi nhớ biết mấy cái tuổi nhỡ nhỡ nhàng nhàng, lúc nào trong túi cũng sẵn, trong miệng cũng ngậm, ghiền ô mai như trẻ con nhai kẹo chewing-gum. Tôi mua nhiều lắm, mỗi thứ ô mai “Bắc Việt” mấy lạng, đem về Đức, để khi nhấm nháp thì nhớ ngược trở lại những ngày phiêu lưu, ôi tuyệt vời, bên Cali.
Nhưng thôi, đấy là một “thế giới nhớ” khác vẫn rất rất đậm nét (còn mới toanh), bây giờ tôi đang nhớ Tân Định, nhớ cái khu Tân Định của tôi cơ mà.
Đường Đinh Tiên Hoàng
Tôi đang kể đến đâu nhỉ? Gì nữa nhỉ? À, cái quán điểm tâm cơm tấm bì, gần bên trường dạy lái xe hơi của ông nghị sĩ Huyền, cũng vẫn trên đường Hiền Vương, không thể không góp phần vào “nghệ thuật ăn uống” của vùng Tân Định. Cô Mỹ Trinh, cô láng giềng của quán này bây giờ lại góp phần vào nền kịch nghệ hải ngoại bên Mỹ nữa đấy.
Và
nhắc đến tiệm hòm Tobia thì không ai là không biết. Không chỉ nổi tiếng
ở Việt Nam mà thôi, tôi đã thấy bảng hiệu Tobia ở miền Nam Cali nữa cơ.
Hình như bây giờ nằm trên đường Newland street của thành phố
Westminster, trước đó thì trên đường Edinger? Không biết tiệm bán hòm
này có liên hệ gì với vợ chồng Bùi và Cathy Tobia Tân Định, những người
vẫn hay ngồi cùng… chiếu với vợ chồng tôi vào những ngày cuối tuần, hồi
còn ở bên nhà?
Những “tai to mặt lớn” cũng
không thiếu, khét tiếng nhất phải kể đến ngài “Th. đen” với chiếc xe
Camaro độc nhất vô nhị, luých (luxe) vô cùng, nhất xứ, vào những năm đầu
70. Đối diện với tư dinh (bên trong cũng luých không kém, sau 75 trở
thành trường Mẫu giáo) của ông vua điện lạnh này là tiệm Trinh shoes.
Một biệt danh lẫy lừng trong giới ăn mặc thời trang của Sàigòn: Hảo
Trinh shoes, giới trẻ “xịn” thời đó ai mà chẳng biết?
Sở dĩ nói vòng vo, nhắc nhở tùm lum là tại vì… nhớ quá đấy mà. Chả là đêm qua nằm mơ, tôi thấy tôi đang đi chợ hoa, những ngày giáp Tết, ở bên nhà, ở Tân Định, ở trước cái cửa hàng Pharmacie nhà tôi. Tự dưng thấy quặn ruột nhớ nhà, nhớ Tân Định, nhớ cái không khí tấp nập không có chỗ len chân trên những ngả đường xung quanh nhà thờ vào những đêm Noel, nhớ cái tíu tít rộn rịp mua sắm của những ngày sắp Tết, nhớ lung tung, nhớ đủ thứ, nhớ ơi là nhớ, nhớ quay nhớ quắt, nhớ như điên như dại, nhớ chín ruột chín gan, nhớ quá lắm… Tân Định của tôi ơi !!!
Trong chuyến Mỹ du vừa mới đây, mấy tháng trước, tôi như tìm thấy lại được một phần nào cái hồn của quê hương tôi trên xứ người. Đứng giữa khu Phước Lộc Thọ, bên tai nghe ríu rít đủ các thứ giọng của cả 3 miền Trung Nam Bắc, trước mặt và xung quanh chỉ toàn những khuôn mặt của người cùng xứ sở, tôi thấy nỗi buồn tha hương vơi đi rất rất nhiều. Và dường như tôi hít thở được mùi vị của quê hương tôi đâu đây, trên những tấm bảng hiệu đề chữ Việt, qua những món ăn thức uống thuần túy của dân tộc tôi, và có đôi lúc tôi đã thoáng bắt gặp cái khu Tân Định ngày xưa của tôi, ẩn hiện, bàng bạc, ngay trong khu thương xá này, cách nửa vòng trái đất chứ không phải ở trong lòng nước Việt Nam.
… Ai về Tân Định xóm tôi
Cho tôi nhắn nhủ đôi lời nhớ thương
Xa rồi những sáng mù sương
Hoàng hôn nhạt nắng giáo đường thánh ca
Tôi quỳ hồn bỗng mưa sa…
BV
Sunday, September 15, 2024
BẠCH ỐC CHÀO ĐÓN “WELCOME CORPS” Nam Lộc
Giáo sư Nguyễn Xuân Can tham dự buổi tiếp tân
Hiện diện trong buổi họp mặt cũng như để tiếp đón quan khách, người ta nhận thấy có bà Julieta Noyes, phụ tá ngoại trưởng Mỹ, đặc trách về di dân và tỵ nạn, ông Curtis Ried, chánh văn phòng cố vấn an ninh phủ tổng thống, cùng các viên chức lãnh đạo cơ quan Welcome Corps.
Giáo sư Can cùng bà Noyes và ông Curtis Ried
Đại diện bộ BNG/HK và WC đã tường trình và cập nhật tin tức của chương trình bảo lãnh tư nhân, đặc biệt là kể từ khi phát động Giai Đoạn #2 (Phase #2), có tên là “Naming”, cho phép người bảo trợ được quyền chọn lựa hay chỉ định đích danh một gia đình tị nạn nào hội đủ điều kiện, thì đã có trên 15 ngàn đơn xin bảo trợ được nộp vào cho the WC. Các viên chức của cơ quan này đồng thời cũng đưa ra những kế hoạch tương lai để cho việc định cư người tỵ nạn ngày càng được hoàn hảo và nhanh chóng hơn, mang lại sự thành công, hầu giúp đỡ cũng như cung cấp cơ hội cho những người tị nạn đang chờ đợi được đi định cư ở các quốc gia tạm dung. Tất cả tin tức cùng diễn biến tích cực nói trên đã chứng tỏ các lời đồn thất thiệt như “WC là một chương trình bấp bênh, không hy vọng", hoặc "chương trình WC chỉ còn kéo dài vài tháng nữa mà thôi" v..v.., đã hoàn toàn không đúng với sự thật, và làm cho người tị nạn bị hoang mang, lo lắng. Các viên chức của tổ chức WC đã lên tiếng bác bỏ.
Tưởng cũng nên nhắc lại rằng PTVH và tổ chức CĐHV là hai trong số các nhóm tình nguyện đã vận động cho chương trình bảo lãnh tư nhân từ nhiều năm qua. Họ đã rút tỉa kinh nghiệm từ sự thành công mà chính phủ Canada đã và đang áp dụng.
Tính cho đến ngày hôm nay thì PTVH và CĐHV đã hỗ trợ và hiệp sức với rất nhiều cá nhân cũng như các hội đoàn trong cộng đồng người Việt của chúng ta thành lập được 43 “Group of 5” tức “Nhóm 5 Người” để bảo lãnh cho 43 gia đình tị nạn ở Thái Lan, gồm các cựu thuyền nhân, các cựu tù nhân chính trị, các nhà tranh đấu cho nhân quyền, cho tự do tôn giáo hoặc môi trường v..v.., gồm cả những người Việt gốc thiểu số, người Tây Nguyên hay đồng bào Thượng, H'mong và Khmer Krom. PTVH cũng là tổ chức người Việt duy nhất đã tham gia và bảo trợ người tị nạn khác chủng tộc ngay trong Giai Đoạn #1.
Tuy nhiên con số người đứng ra bảo trợ trong cộng người Việt hiện nay còn quá ít ỏi. Một lần nữa, chúng tôi tha thiết kêu gọi lòng nhân ái của quý vị đồng hương, xin tiếp tay với chúng tôi cũng như the WC để mở rộng vòng tay đón nhận đồng bào tị nạn của chúng ta, đang sống vất vưởng ở Thái Lan được có cơ hội đặt chân đến bến bờ tự do, bằng cách tham gia trực tiếp vào việc nộp đơn bảo lãnh ngay từ bây giờ.
Chúng tôi sẵn sàng hướng dẫn quý vị mọi thủ tục kể cả sự hỗ trợ về tài chính để bảo trợ người tị nạn nếu cần. Xin liên lạc với chúng tôi qua địa chỉ email: namlocnguyen@yahoo.com hoặc vào Website "Con Đường Hy Vọng"
(https://conduonghyvong.com/).
Friday, September 13, 2024
Sumaco! Đoàn Xuân Thu
Wednesday, September 11, 2024
Truyền Thông Gốc Việt “Câm Họng” Sau Khi Xem Tranh Luận Giữa Kamala Harris và TT Trump…
Tuesday, September 3, 2024
Monday, September 2, 2024
‘Thua là đúng rồi’ – câu chuyện một tiến sĩ gốc Việt nỗ lực thay đổi cái nhìn ‘thiên lệch’ về Việt Nam Cộng Hoà
Cuộc chiến Việt Nam đã đi qua gần 50 năm, nhưng những tác động của nó vẫn từng ngày ảnh hưởng lên cuộc sống của bao người Việt Nam, kể cả những thế hệ sinh sau đẻ muộn, trưởng thành ở một đất nước xa xôi bên nửa kia địa cầu của dải đất hình chữ S.
Câu chuyện của một đứa trẻ Việt lớn lên ở Mỹ, từ nhỏ đã bị chế nhạo ở trường rằng “Miền Nam của mày thua là đúng rồi”, nay trở một học giả, tiến sĩ chuyên nghiên cứu về lịch sử Việt Nam, có thể sẽ đặt ra nhiều vấn đề đáng suy nghĩ về những gì đã và đang diễn ra sau cái ngày được gọi là “thống nhất đất nước”.
“Thua là đúng rồi”
“Mình xin giới thiệu là tên là Alex Thái Đình Võ. Mình hiện là giáo sư nghiên cứu tại Trung tâm Việt Nam và Lưu trữ ở Đại học Texas Tech, chuyên nghiên cứu về Á Châu, đặc biệt là về vấn đề Việt Nam”, vị giáo sư trẻ tuổi với nước da đậm màu Á châu bắt đầu câu chuyện với VOA về cái duyên đến với cái nghề “ít tiền mà nhiều ưu phiền” này của mình.
“Thái sang Hoa Kỳ năm 8 tuổi. Khi mình còn nhỏ, lúc người Mỹ bắt đầu dạy trong nhà trường về cuộc chiến Việt Nam hay lịch sử Việt Nam, mình nhớ là khoảng lớp 7, lớp 8, khi giáo viên bắt đầu cho học sinh xem những bộ phim gọi là bộ phim documentary (phim tài liệu) về cuộc chiến Việt Nam, thì sau khi xem bộ phim đó và học sơ về cuộc chiến, có một cậu học sinh đặt ra câu hỏi cho mình là ‘Gia đình của bạn thuộc phe nào trong cuộc chiến?’. Ở lứa tuổi đó thì thú thật khi sang Hoa Kỳ, bố mẹ cũng không nói gì nhiều cho mình về cuộc chiến, cũng không dạy mình phải hận thù hay biết bên này, bên kia… Nhưng khi cậu đó đặt câu hỏi đó thì mình mới nhớ ở nhà thường hay nói gia đình mình là thuộc miền Nam Việt Nam. Mình mới nói ‘The South’ (miền Nam), thì cậu đó mới chỉ tay vào mặt mình mà cười kiểu chế nhạo và nói ‘À, vậy thì gia đình mày thua là đúng rồi!’. Đối với một đứa học với lớp 7, lớp 8, mà khi một người khác nói với mình là gia đình mày thua là đúng rồi thì nó đánh một dấu hỏi trong đầu mình là ‘Thua là một chuyện, nhưng mà thua là đúng rồi có nghĩa là như thế nào?’”.
Về nhà, Alex Thái hỏi và xin phép bố cho đọc tất cả những cuốn sách có trong nhà viết về Việt Nam. Cậu bé chẳng bao giờ ngờ rằng câu chuyện ở lớp ngày hôm đó đã khởi đầu cho một hành trình lớn, đặt viên gạch đầu tiên cho sự nghiệp nghiên cứu về cuộc chiến Việt Nam và lịch sử Việt Nam của mình sau này.
“Đến khi mình bắt đầu học ở trường Đại học University of California Berkeley là một trường rất nổi tiếng, nhưng trong thời chiến cũng nổi tiếng là trường phản chiến, mình mới lấy một lớp gọi là ‘Peace and Conflict’ (tạm dịch ‘Hòa bình và Xung đột’) với một vị giáo sư khi xưa là một người lính trong binh chủng của Hoa Kỳ trong thời chiến tranh Việt Nam”, Alex Thái hồi tưởng.
Cậu sinh viên Alex Thái lúc đó nhận thấy những điều vị giáo sư người Mỹ chủ trương phản chiến này giảng dạy “tương đối một chiều”. Vị giáo sư cho rằng nước Mỹ đã đưa ra quyết định không đúng. Lẽ ra Mỹ phải giúp cho phe thắng cuộc (tức miền Bắc), còn phe mà Mỹ giúp là Việt Nam Cộng Hòa là một phe nhu nhược, không có lập trường, không có chủ trương, và thường bị gọi là “con rối của Hoa Kỳ”.
“Khi đó, một cô trợ giảng cho ông, gọi là graduate student, sau buổi học đó, cô mới nghiêng qua người bạn của cô nói, mà cô lại ngồi trước mặt mình, cô nói một câu là ‘À, bây giờ tôi hiểu vì sao gia đình tôi thua là đúng rồi’. Khi đó, nó tạo cho mình một cảm giác là người giáo sư này có một ảnh hưởng rất lớn, kể cả đối với những người qua bên này để tị nạn, qua Hoa Kỳ định cư”.
“Đến mùa Mid-term (giữa kỳ), giáo sư ra đề cho mình viết. Mình mới quyết định không viết bài theo đề giáo sư đưa ra, mà mình viết bài yêu cầu giáo sư vào nửa mùa sau nên dạy cho có sự công bằng hơn, đưa vào thêm những tư liệu có nhiều khía cạnh hơn… Thế rồi mình nhận lại điểm giáo sư cho là điểm F trừ (F-). Ngoài điểm F trừ, giáo sư còn cho viết thêm một trang giấy và nói rằng ‘Tôi cho anh điểm này vì anh không viết theo yêu cầu của tôi, mà anh lại có những quan điểm như vầy đối với tôi là tại vì anh chưa thoát ra được sự cay đắng của việc gia đình anh thua cuộc trong cuộc chiến vừa rồi’”.
Từ câu chuyện ở lớp và nhận xét của vị giáo sư đại học, Alex Thái bắt đầu có ý định thay đổi lựa chọn nghề nghiệp.
Như bao đứa trẻ người Việt lớn lên ở Mỹ, Alex Thái cũng gánh trên vai ước mơ và hy vọng của một gia đình tị nạn. Để từ bỏ giấc mơ trở thành luật sư (vốn là một trong những nghề nghiệp danh giá mà nhiều người Việt hướng cho con cái như bác sĩ, kỹ sư…), Alex Thái đã phải nghĩ đến một bức tranh lớn hơn, đó là ngành nghề nào sẽ giúp anh mang lại những tác động tích cực, hiệu quả cho xã hội hơn, theo lời khuyên của một chuyên gia tư vấn tâm lý người Mỹ. Và Alex Thái đã chọn nghiên cứu về lịch sử Việt Nam, một ngành anh “đam mê” hơn là một công việc mang lại sự thoải mái tài chính, để có thể có tiếng nói cho mình và “nói lên những khía cạnh đa chiều” của cuộc chiến, của lịch sử Việt Nam để cả người Việt lẫn người Mỹ, hay bất cứ ai quan tâm tới Việt Nam, họ sẽ biết đến Việt Nam trong chiều kích đa chiều ấy.
“Mình chạy trốn khỏi Việt Nam cũng là mục đích để thấy được sự đa chiều, để có tự do, để thấy được cái đúng cái sai, thì tại sao bây giờ mình sống ở một đất nước tự do thì mình không đi làm việc đó”, Alex Thái lý giải thêm cho quyết định lựa chọn ngành nghề của mình.
Quyết tâm thành nhà nghiên cứu thực thụ
Chọn học, ra trường, trở thành tiến sĩ không khó đối với Alex Thái cho bằng những trở lực mà anh gặp phải trên con đường thực hiện những dự án nghiên cứu, từ cả phía Việt Nam lẫn ở Mỹ.
“Khi mình bắt đầu viết hay nói lên những tiếng nói mà xưa nay người ta không muốn mình nói thì sẽ gặp nhiều cản trở. Từ khía cạnh người Mỹ trong ngành khoa cử-giáo dục, nhiều người đã nắm hệ thống nghiên cứu bao nhiêu năm rồi thì họ không muốn những tiếng nói của mình được nói lên. Cơ hội dành cho những người giống như mình lại ít hơn. Họ không xem trọng mình. Họ thường hay nói là ‘Anh là con em của VNCH nên anh sẽ nói như vậy thôi’, hay là họ xem thường những nghiên cứu của mình. Nhưng chính vì vậy nên mình phải cố gắng vươn lên. Mình làm nghiên cứu thì mình phải làm nghiên cứu tốt hơn để khi nghiên cứu của mình ra, mình có buổi phát biểu hay hội thảo thì mình phải đưa ra chứng cớ rõ ràng, mình chứng tỏ với người ta là ‘Tôi không phải chỉ là con em của một người VNCH không, mà tôi là một nhà nghiên cứu đứng đắn, làm việc đúng và đang nói lên những tiếng nói mà xưa nay các vị đã không viết, không nói về, không cho được lên sách, không đưa đến giảng đường”.
Cản trở từ Việt Nam và tại Việt Nam trong những lần Alex Thái trở về để thực hiện các dự án nghiên cứu thì không thể kể hết, nhất là sau khi nhà nghiên cứu trẻ bắt đầu có những công bố hay phát biểu về công trình của mình trên báo chí, truyền thông.
“Mình gặp những đe dọa, nghe nói là từ phía nhà cầm quyền Việt Nam, nói là Thái không nên làm những cái nghiên cứu như vậy. Nhưng mình cứ tiếp tục làm công việc của mìn. Vì sao? Vì mình nghĩ công việc mình làm là đúng và mình cũng không lựa chọn phe này phe nọ về mặt chính trị. Mình là một người làm sử, mình chỉ có thể nói ra những gì mình tìm hiểu được và mình biết được. Còn sự cản trở thì nó luôn luôn đến với mình…”
Thế là, những dự án nghiên cứu về các chủ đề “nhạy cảm” đối với Việt Nam như: Cuộc cải cách ruộng đất, với những phân tích tỉ mỉ cho thấy vai trò của Hồ Chí Minh, của các cố vấn Trung Quốc trong cuộc cải cách đẫm máu và nước mắt với khoảng nửa triệu người dân mất mạng; vụ án nhân văn giai phẩm, tù cải tạo, vấn đề lý lịch… cứ thế lần lượt ra đời sau rất nhiều lần Alex Thái lặn lội về Việt Nam và “ăn dầm nằm dề” tại các trung tâm, thư viện…
Những công trình nghiên cứu của Giáo sư Alex Thai Vo đã được tập hợp lại cùng với một nhóm học giả gốc Việt và xuất bản dưới dạng một bộ sách về lịch sử Việt Nam, nhằm bổ sung góc nhìn khác, “đa chiều” hơn về nền Cộng hoà vốn đã tồn tại ở Việt Nam từ trước khi chủ nghĩa cộng sản du nhập. Bộ sách được giới học thuật Mỹ đánh giá cao này hiện đang được giới thiệu ở các bang của Hoa Kỳ với mục tiêu đưa chúng trở thành sách giáo khoa được giảng dạy trong các trường học hay được giới thiệu trong các thư viện trên đất Mỹ.
Cuộc chiến đau lòng giữa anh em
Sau những ngày tháng đắm chìm trong nghiên cứu, tìm tòi về một chính thể Cộng hoà từng tồn tại và đang bị lãng quên, bị nhìn "thiên lệch, khi được hỏi liệu đâu là những điểm mấu chốt mà vị giáo sư trẻ tuổi muốn lưu ý trong cuộc chiến và lịch sử Việt Nam, Alex Thái nói:
“Khi nói tới lịch sử, người ta hay nói lịch sử được viết bởi những người thắng cuộc. Từ những trang sử sinh viên học trong nhà trường từ lớp 1 cho đến đại học, hầu như không nhắc tới giai đoạn của cuộc nội chiến giữa chính quyền miền Bắc và chính quyền miền Nam, tức Việt Nam Cộng Hòa, mà chỉ gói gọn trong những câu nói ‘nguỵ quyền’, ‘nguỵ quyền theo Mỹ’ và tất cả đều là cuộc chiến kháng chiến chống Mỹ cứu nước, chứ không phải là cuộc nội chiến giữa những anh em với nhau, mà mỗi bên đều mất và tổng cộng là gần 2 triệu người, trong khi người Mỹ chỉ mất có 58.000 người thôi”.
Theo học giả trẻ này, trên thực tế, không thể phủ nhận sự ảnh hưởng của người Mỹ, nhưng “vai chính” trong cuộc chiến vẫn thuộc về những người Việt Nam, hay nói khác hơn, đó là cuộc chiến giữa những người anh em.
“Nếu chúng ta không ghi nhận sự thật đó, sự tồn tại của nhau thì khó mà chúng ta có thể làm cho đất nước mạnh hơn, làm cho con người tin tưởng hơn, mang lại cái mà nhà nước Cộng sản hay kêu gọi là ‘hoà hợp, hoà giải’ giữa người Việt với nhau. Anh kêu gọi hoà hợp, hoà giải mà anh không công nhận sự tồn tại của tôi, lịch sử của tôi thì làm sao hoà hợp, hoà giải được?”
“Hay như vấn đề Hoàng Sa và Trường Sa, nếu một bên cứ tối ngày nói bên kia là ngụy quân ngụy quyền thì làm sao anh có thẩm quyền để nói Hoàng Sa và Trường Sa là thuộc về Việt Nam? Vì trước kia, Hoàng Sa và Trường Sa trước năm 1975 thuộc về Việt Nam Cộng Hòa 03:33 trên danh nghĩa quốc tế. Bây giờ anh cứ gọi họ là chính thể bù nhìn, không có thật, thì làm sao anh bây giờ đứng trên cương vị gì để nói đó là thuộc về Việt Nam?”, GS. Alex Thái đặt câu hỏi.
Ngoài ra, theo nhà nghiên cứu trẻ, việc nghiên cứu tới nơi tới chốn về nền cộng hoà tại Việt Nam, vốn đã du nhập vào từ những năm 1920, khi các nhà hoạt động chính trị thời đó như Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu… mang “chủ nghĩa cộng hoà”, “tinh thần cộng hoà” từ châu Âu, Nhật Bản, Trung Quốc về.
“Thể chế Việt Nam Cộng Hòa được thành lập vào năm 1954 cho đến năm 1975 đứng vững trên cái nền tư tưởng gọi là Chủ nghĩa Cộng hòa đó. Chủ nghĩa Cộng hòa là mang đến gì? Nó đòi hỏi cái tự do của con người, tự do cá nhân, xuất phát từ cuộc cách mạng của Pháp đòi hỏi quyền công dân của con người cũng như quyền trước pháp luật. Tất cả những yếu tố đó nó khác với chủ nhịp cộng sản. Thành ra, cuộc chiến 1954-1975 nó xuất phát từ những sự khác biệt đó. Và cũng chính từ những khác biệt đó mà sự kiện xảy ra năm 1975, nó đưa đẩy nhiều người phải đành bỏ nước ra đi, vì họ không sống được dưới cái thể chế mới đó, cái thể chế mà mất đi hết tất cả các quyền tự do đó, tự do báo chí, tự do ngôn luận… Tất cả những cái đó khi người ta bị mất đi thì họ đành phải bỏ nước ra đi”.
Khi nằm xuống, tất cả là con người
Công việc nghiên cứu đã mang đến cho vị giáo sư trẻ nhiều cơ hội công việc và trải nghiệm khác ngoài giảng đường. Alex Thái cho biết anh từng cộng tác chính phủ Mỹ trong công việc tìm hài cốt của quân nhân Mỹ trong chiến tranh Việt Nam.
“Khi đó mình đang đi làm thì trường Đại học Texas Tech có một cái vị trí cần một nhà nghiên cứu để nghiên cứu tìm hài cốt quân nhân của người cộng sản. Để tôn trọng cha mẹ, là những người đã trải qua dưới thể chế cộng sản và trải qua tù đày, mình gọi cho bố và hỏi ‘Ba ơi, con bây giờ nhận công việc này để làm nghiên cứu tìm hài cốt của những người mà khi xưa gọi là địch, là kẻ thù của những người giống như ba đó. Thì ba nghĩ như thế nào? Vì con thấy đây là một công việc mà theo con, là một công việc nhân đạo mà mình cần phải làm’. Thì thay vì người cha mình giống như mình suy nghĩ là sẽ cản trở và sẽ nói không, thì bố mình không một giây suy nghĩ và nói là ‘Con nên đi làm. Công việc này phải làm, vì dù sao cuộc chiến đã qua rồi, mình biết mình là ai. Nhưng tất cả khi ngã xuống cũng là người Việt Nam và cũng là con người. Thành ra, công việc mà mình cần phải làm là công việc mang tính nhân đạo và phải làm để mang lại sự an ủi cho tất cả. Tất cả chúng ta đều là người Việt Nam”.