|
"Tôi
nhận được thư trả lời của bác sĩ vào ngày 30/4 với nội dung là căn bệnh của tôi
không đáp ứng với cách chữa bằng hóa trị hay phẫu thuật. Họ cũng nói rằng nếu họ
cắt khối u ung thư thì nó cũng sẽ lại tái phát ở một vị trí nào đó. Nhưng tôi
không tỏ ra bi quan mà tự tìm cách chữa bệnh cho mình", ông Allan
nói.
Ông lên
mạng và đánh cụm từ "cách chữa ung thư đại tràng". Cuối cùng, ông cũng tìm thấy
điều mình cần, rồi ông bắt đầu thực hiện một chế độ ăn thay thế có lựa chọn để
tự chữa bệnh.
"Tôi đã
tìm kiếm các bằng chứng và tham khảo ý kiến của những chủ cửa hàng bán thực phẩm
và chọn chế độ ăn gồm: bột lúa mạch, gia vị cà ri, hạt mơ và thuốc selen. Và sau
4 tháng, tôi đã có được câu trả lời rõ ràng từ phía bác sĩ'" ông cho biết
thêm.
Vào
ngày 6/8, ông nhận được một bức thư từ Bệnh viện North Tees thông báo kết quả
chụp chiếu cho thấy ông đã khỏi bệnh ung thư và không phát hiện có gì bất
thường.
"Tôi
nghĩ rằng một trong những thành phần quan trọng giúp mình khỏi bệnh chính là một
thìa bột lúa mạch pha với nước nóng vào mỗi sáng và tối. Rõ ràng là chế độ ăn đã
cứu tôi. Và tất cả chỉ tốn 30 bảng Anh một tuần", ông Allan chia
sẻ.
30 CÁCH NGĂN NGỪA UNG THƯ
Mỗi năm, cả thế giới phát hiện 10 triệu trường hợp ung thư (UT), nhưng theo Tổ chức y tế thế giới ước tính đến năm 2020 có khoảng 15 triệu, tăng 50%, nếu chúng ta không tích cực “hành động”. Hầu hết các chứng UT có thể biết trước, thay đổi cách sống có thể làm giảm nguy cơ. Đây là “tế cấp tam thập điều” để ngăn ngừa UT (ung thư):
1. Một nghiên cứu của Phần Lan thấy rằng quá trình lên men có liên quan tới việc dưa bắp cải (sauerkraut, của Đức) sản sinh các hợp chất kháng UT – kể cả ITC, indole và sulforaphane. Để giảm lượng sodium, hãy rửa dưa muối trước khi ăn.
2. Ăn bông cải (broccoli), nhưng nên hấp hoặc chưng chứ đừng nấu bằng lò vi-ba. Bông cải là “siêu thực phẩm ngăn ngừa UT, nên ăn thường xuyên. Tuy nhiên, nghiên cứu của Tây Ban Nha thấy rằng bông cải nấu bằng lò vi-ba làm giảm 97 % flavonoid (chất kháng UT). Do đó nên luộc, hấp, chưng, trộn hoặc ăn sống.
3. Ăn món trộn với dầu hạnh nhân Brazil (brazil nut) vì chất selenium giúp ngăn chặn quá trình phát triển tế bào UT và “điều chỉnh” AND. Nghiên cứu của ĐH Harvard ở hơn 1.000 người đàn ông (bị UT tiền liệt tuyến) cho thấy rằng những người có mức selenium cao thì giảm phát triển bệnh 48% trong 13 năm kế tiếp so với những đàn ông có mức selenium thấp. Nghiên cứu trong 5 năm, ĐH Cornell và ĐH Arizona thấy rằng lượng 200mg selenium mỗi ngày (tương đương 2 hạt hạnh nhân Brazil) giúp giảm 63% UT tiền liệt tuyến, giảm 58% UT trực tràng, 46% bướu phổi ác tính, và giảm 39% hấu hết các loại UT gây tử vong.
4. Bổ sung calcium và vitamin D. Nghiên cứu của Trường Thuốc Dartmouth cho thấy rằng việc bổ sung này làm giảm polyp đại tràng (nguy cơ gây UT) ở những người dễ phát triển bệnh này.
5. Hãy thêm tỏi vào món ăn. Tỏi chứa sulfur khả dĩ kích thích sức đề kháng UT tự nhiên của hệ miên nhiễm và có thể ngăn ngừa ung bướu. Các nghiên cứu đã cho thấy rằng tỏi có thể làm giảm UT bao tử khoảng 12%.
6. Phi 2 nhánh tỏi đâp giập với 2 muỗng dầu ôliu, rồi trộn với cà chua và dùng với mì sợi. Chất lycopene (có trong cà chua) giúp đề kháng UT đại tràng, UT tiền liệt tuyến và UT bàng quang. Dầu ôliu giúp cơ thể hấp thu lycopene, còn mì sợi (giàu chất xơ) giúp giảm nguy cơ UT đại tràng.
7. Mỗi tuần, nên mua dưa đỏ (cantaloupe) về xắt miếng và cho vào tủ lạnh để ăn dần mỗi sáng. Dưa đỏ giàu carotenoid – loại hóa chất thực vật làm giảm nguy cơ UT phổi.
8. Trộn nửa chén trái việt quất (blueberry) với bột ngũ cốc dùng mỗi sáng. Việt quất giàu chất chống ôxít hóa. Chính chất chống ôxít hóa làm trung hòa các căn nguyên tự do làm tổn hại tế bào và gây bệnh.
9. A-ti-xô giàu silymarin – chất chống ôxít hóa khả dĩ chống UT da. Loại này dễ an và ngon. Có thể luộc hoặc hấp khoảng 30-45 phút thì mềm.
10. Thịt nướng ăn ngon miệng nhưng nó chứa nhiều hóa chất gây UT. Viện nghiên cứu UT Mỹ thấy rằng thịt ướp nước sốt và nướng thì giúp giảm tạo ra loại hóa chất như vậy. Nên luộc thịt rồi nướng.
11. Nghiên cứu cho thấy rằng những đàn ông uống 8 ly nước lớn mỗi ngày giúp giảm nguy cơ UT bàng quang được 50%. Phụ nữ uống nước nhiều giúp ngăn ngừa UT đại tràng khoảng 45%.
12. Hãy có thói quen uống trà. Trà xanh được đánh giá cao ở Á châu hằng ngàn năm qua. Tây phương nghiên cứu mới đây cho thấy trà đề kháng nhiều loại UT, kể cả bệnh tim. Một số khoa học gia tin rằng một loại hóa chất trong trà là EGGG có thể là một trong các hợp chất kháng UT mạnh nhất được phát hiện từ trước tới nay.
13. Hãy uống một chút bia, đừng uống nhiều.. Bia đề kháng vi khuẩn Helicobacter pylori, loại gây ung bướu khả dĩ dẫn đến UT bao tử. Uống bia, rượu nhiều có thể gây UT vú, miệng, họng, thực quản và gan.
14. Các nhà nghiên cứu Úc dân Canada và thấy rằng những người ăn từ 4 phần cá hồi trở lên mỗi tuần thì giảm gần 1/3 nguy cơ bệnh bạch cầu. Các nghiên cứu khác cho thấy việc ăn cá có mỡ (cá hồi, cá thu, cá bơn, cá mòi và cá ngừ - kể cả tôm, sò) thì giảm nguy cơ UT tử cung ở phụ nữ. Omega-3 có trong cá rất có lợi cho sức khỏe và kỳ diệu!
15. Nên bổ sung viên đa vitamin mỗi sáng. Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng vitamin và khoáng chất khả dĩ cải thiện hệ miễn nhiễm và giúp ngăn ngừa nhiều chứng UT.
16. Mỗi ngày phơi nắng sáng 15 phút để làm khỏe xương. Ánh nắng chứa nhiều vitamin D tự nhiên rất cần cho cơ thể. Nghiên cứu cho thấy rằng thiếu vitamin D có thể làm tăng nguy cơ mắc nhiều chứng UT như UT vú, đại tràng, tiền liệt tuyến, buồng trứng, bao tử, loãng xương, tiểu đường, đa ngạch kết (xơ cứng) và cao huyết áp. Nhưng nên tránh ánh nắng gắt, vì nó có thể gây UT da. Cũng có thể bổ sung vitamin D.
17. Cắt đôi trái kiwi và múc phần “thịt” mà ăn. Trái kiwi chứa chất chống ôxít giúp ngăn ngừa UT. Nó còn chứa vitamin C, vitamin E, lutein và đồng.
18. Cẩn thận khi quan hệ tình dục. Có thể đề phòng bằng cách dùng bao cao-su để ngăn ngừa lây nhiễm papillomavirus (HPV), loại virus này có thể gây UT cổ tử cung.
19. Giảm ăn mở động vật. Nghiên cứu của ĐH Yale cho thấy rằng các phụ nữ ăn nhiều mỡ động vật có nguy cơ 70% bị bạch cầu, ăn nhiều chất béo bão hòa tăng nguy cơ là 90%. Do đó nên ăn ít chất béo động vật, thay vào đó nên dùng dầu thực vật và dầu cá.
20. Nho chứa nhiều hợp chất resveratrol giúp đề kháng UT, ăn nho chứ đừng uống rượu nho, vì rượu làm tăng nguy cơ UT vú ở phụ nữ. Nho có khả năng làm mạnh hệ miễn nhiễm.
21. Hành tươi tốt cho sức khỏe vì nó khả dĩ chống UT tiền liệt tuyến khoảng 50%. Ăn sống tốt hơn nhúng tái hay nấu chín.
22. Hằng ngày nên dùng nước chanh. Các nhà nghiên cứu Úc thấy rằng chanh có khả năng làm giảm UT miệng, họng và bao tử.
23. Sau bữa tối nên đi dạo 30 phút. Theo nghiên cứu của Trung tâm Nghiên cứu Ung thư Fred Hutchinson ở Seattle , hoạt động này giúp giảm nguy cơ UT vú. Đi bộ giúp điều chỉnh mức estrogen (hormone gây UT vú) và giảm cân hiệu quả.
24. Dùng thực phẩm hữu cơ, vì chúng không có thuốc trừ sâu hoặc thuốc tăng trưởng. Cả 2 loại thuốc này đều có thể làm tổn thương tế bào và gây UT.
25. Cây bồ công anh (dandelion) có thể làm giảm nguy cơ UT.
26. Tự giặt ủi quần áo không dùng máy sấy khô. Nhiều loại máy sấy khô dùng hóa chất perc (perchloroethylene), chất này có thể gây tổn hại thận, gan và UT. Đừng lạm dụng ly nhựa uống nước hằng ngày hoặc đựng đồ ăn bằng đồ nhựa.
27. Dùng dưa leo (dưa chuột) tươi thay vì dưa muối và dùng cá hồi tươi. Nghiên cứu cho thấy rằng thực phẩm muối hoặc hun khói chứa nhiều carcinogen (chất gây UT).
28. Đừng ăn nhiều khoai tây chiên và bánh qui vì chúng chứa nhiều acrylamide – chất gây UT, sản sinh trong quá trình nướng. Theo Michael Jacobson, giám đốc điều hành Trung tâm Khoa học về Quan tâm Cộng đồng, acrylamide gây khoảng 1.000 đến 25.000 trường hợp UT mỗi năm. FDA đang xem xét mức nguy hại của acrylamide.
29. Nên nằm giường vải, ngồi ghế vải (kiểu ghế bố) để cơ thể thoải mái, tránh tổn hại da.
30. Nghiên cứu của ĐH Quốc gia New York ở Stony Brook cho thấy rằng quý ông chịu stress nhiều và ít giao thiệp, hoặc các thành viên gia đình có mức cao về sinh kháng thể tiền liệt tuyến (prostate-specific antigen – PSA) trong máu thì dễ bị UT tiền liệt tuyến.
Mỗi năm, cả thế giới phát hiện 10 triệu trường hợp ung thư (UT), nhưng theo Tổ chức y tế thế giới ước tính đến năm 2020 có khoảng 15 triệu, tăng 50%, nếu chúng ta không tích cực “hành động”. Hầu hết các chứng UT có thể biết trước, thay đổi cách sống có thể làm giảm nguy cơ. Đây là “tế cấp tam thập điều” để ngăn ngừa UT (ung thư):
1. Một nghiên cứu của Phần Lan thấy rằng quá trình lên men có liên quan tới việc dưa bắp cải (sauerkraut, của Đức) sản sinh các hợp chất kháng UT – kể cả ITC, indole và sulforaphane. Để giảm lượng sodium, hãy rửa dưa muối trước khi ăn.
2. Ăn bông cải (broccoli), nhưng nên hấp hoặc chưng chứ đừng nấu bằng lò vi-ba. Bông cải là “siêu thực phẩm ngăn ngừa UT, nên ăn thường xuyên. Tuy nhiên, nghiên cứu của Tây Ban Nha thấy rằng bông cải nấu bằng lò vi-ba làm giảm 97 % flavonoid (chất kháng UT). Do đó nên luộc, hấp, chưng, trộn hoặc ăn sống.
3. Ăn món trộn với dầu hạnh nhân Brazil (brazil nut) vì chất selenium giúp ngăn chặn quá trình phát triển tế bào UT và “điều chỉnh” AND. Nghiên cứu của ĐH Harvard ở hơn 1.000 người đàn ông (bị UT tiền liệt tuyến) cho thấy rằng những người có mức selenium cao thì giảm phát triển bệnh 48% trong 13 năm kế tiếp so với những đàn ông có mức selenium thấp. Nghiên cứu trong 5 năm, ĐH Cornell và ĐH Arizona thấy rằng lượng 200mg selenium mỗi ngày (tương đương 2 hạt hạnh nhân Brazil) giúp giảm 63% UT tiền liệt tuyến, giảm 58% UT trực tràng, 46% bướu phổi ác tính, và giảm 39% hấu hết các loại UT gây tử vong.
4. Bổ sung calcium và vitamin D. Nghiên cứu của Trường Thuốc Dartmouth cho thấy rằng việc bổ sung này làm giảm polyp đại tràng (nguy cơ gây UT) ở những người dễ phát triển bệnh này.
5. Hãy thêm tỏi vào món ăn. Tỏi chứa sulfur khả dĩ kích thích sức đề kháng UT tự nhiên của hệ miên nhiễm và có thể ngăn ngừa ung bướu. Các nghiên cứu đã cho thấy rằng tỏi có thể làm giảm UT bao tử khoảng 12%.
6. Phi 2 nhánh tỏi đâp giập với 2 muỗng dầu ôliu, rồi trộn với cà chua và dùng với mì sợi. Chất lycopene (có trong cà chua) giúp đề kháng UT đại tràng, UT tiền liệt tuyến và UT bàng quang. Dầu ôliu giúp cơ thể hấp thu lycopene, còn mì sợi (giàu chất xơ) giúp giảm nguy cơ UT đại tràng.
7. Mỗi tuần, nên mua dưa đỏ (cantaloupe) về xắt miếng và cho vào tủ lạnh để ăn dần mỗi sáng. Dưa đỏ giàu carotenoid – loại hóa chất thực vật làm giảm nguy cơ UT phổi.
8. Trộn nửa chén trái việt quất (blueberry) với bột ngũ cốc dùng mỗi sáng. Việt quất giàu chất chống ôxít hóa. Chính chất chống ôxít hóa làm trung hòa các căn nguyên tự do làm tổn hại tế bào và gây bệnh.
9. A-ti-xô giàu silymarin – chất chống ôxít hóa khả dĩ chống UT da. Loại này dễ an và ngon. Có thể luộc hoặc hấp khoảng 30-45 phút thì mềm.
10. Thịt nướng ăn ngon miệng nhưng nó chứa nhiều hóa chất gây UT. Viện nghiên cứu UT Mỹ thấy rằng thịt ướp nước sốt và nướng thì giúp giảm tạo ra loại hóa chất như vậy. Nên luộc thịt rồi nướng.
11. Nghiên cứu cho thấy rằng những đàn ông uống 8 ly nước lớn mỗi ngày giúp giảm nguy cơ UT bàng quang được 50%. Phụ nữ uống nước nhiều giúp ngăn ngừa UT đại tràng khoảng 45%.
12. Hãy có thói quen uống trà. Trà xanh được đánh giá cao ở Á châu hằng ngàn năm qua. Tây phương nghiên cứu mới đây cho thấy trà đề kháng nhiều loại UT, kể cả bệnh tim. Một số khoa học gia tin rằng một loại hóa chất trong trà là EGGG có thể là một trong các hợp chất kháng UT mạnh nhất được phát hiện từ trước tới nay.
13. Hãy uống một chút bia, đừng uống nhiều.. Bia đề kháng vi khuẩn Helicobacter pylori, loại gây ung bướu khả dĩ dẫn đến UT bao tử. Uống bia, rượu nhiều có thể gây UT vú, miệng, họng, thực quản và gan.
14. Các nhà nghiên cứu Úc dân Canada và thấy rằng những người ăn từ 4 phần cá hồi trở lên mỗi tuần thì giảm gần 1/3 nguy cơ bệnh bạch cầu. Các nghiên cứu khác cho thấy việc ăn cá có mỡ (cá hồi, cá thu, cá bơn, cá mòi và cá ngừ - kể cả tôm, sò) thì giảm nguy cơ UT tử cung ở phụ nữ. Omega-3 có trong cá rất có lợi cho sức khỏe và kỳ diệu!
15. Nên bổ sung viên đa vitamin mỗi sáng. Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng vitamin và khoáng chất khả dĩ cải thiện hệ miễn nhiễm và giúp ngăn ngừa nhiều chứng UT.
16. Mỗi ngày phơi nắng sáng 15 phút để làm khỏe xương. Ánh nắng chứa nhiều vitamin D tự nhiên rất cần cho cơ thể. Nghiên cứu cho thấy rằng thiếu vitamin D có thể làm tăng nguy cơ mắc nhiều chứng UT như UT vú, đại tràng, tiền liệt tuyến, buồng trứng, bao tử, loãng xương, tiểu đường, đa ngạch kết (xơ cứng) và cao huyết áp. Nhưng nên tránh ánh nắng gắt, vì nó có thể gây UT da. Cũng có thể bổ sung vitamin D.
17. Cắt đôi trái kiwi và múc phần “thịt” mà ăn. Trái kiwi chứa chất chống ôxít giúp ngăn ngừa UT. Nó còn chứa vitamin C, vitamin E, lutein và đồng.
18. Cẩn thận khi quan hệ tình dục. Có thể đề phòng bằng cách dùng bao cao-su để ngăn ngừa lây nhiễm papillomavirus (HPV), loại virus này có thể gây UT cổ tử cung.
19. Giảm ăn mở động vật. Nghiên cứu của ĐH Yale cho thấy rằng các phụ nữ ăn nhiều mỡ động vật có nguy cơ 70% bị bạch cầu, ăn nhiều chất béo bão hòa tăng nguy cơ là 90%. Do đó nên ăn ít chất béo động vật, thay vào đó nên dùng dầu thực vật và dầu cá.
20. Nho chứa nhiều hợp chất resveratrol giúp đề kháng UT, ăn nho chứ đừng uống rượu nho, vì rượu làm tăng nguy cơ UT vú ở phụ nữ. Nho có khả năng làm mạnh hệ miễn nhiễm.
21. Hành tươi tốt cho sức khỏe vì nó khả dĩ chống UT tiền liệt tuyến khoảng 50%. Ăn sống tốt hơn nhúng tái hay nấu chín.
22. Hằng ngày nên dùng nước chanh. Các nhà nghiên cứu Úc thấy rằng chanh có khả năng làm giảm UT miệng, họng và bao tử.
23. Sau bữa tối nên đi dạo 30 phút. Theo nghiên cứu của Trung tâm Nghiên cứu Ung thư Fred Hutchinson ở Seattle , hoạt động này giúp giảm nguy cơ UT vú. Đi bộ giúp điều chỉnh mức estrogen (hormone gây UT vú) và giảm cân hiệu quả.
24. Dùng thực phẩm hữu cơ, vì chúng không có thuốc trừ sâu hoặc thuốc tăng trưởng. Cả 2 loại thuốc này đều có thể làm tổn thương tế bào và gây UT.
25. Cây bồ công anh (dandelion) có thể làm giảm nguy cơ UT.
26. Tự giặt ủi quần áo không dùng máy sấy khô. Nhiều loại máy sấy khô dùng hóa chất perc (perchloroethylene), chất này có thể gây tổn hại thận, gan và UT. Đừng lạm dụng ly nhựa uống nước hằng ngày hoặc đựng đồ ăn bằng đồ nhựa.
27. Dùng dưa leo (dưa chuột) tươi thay vì dưa muối và dùng cá hồi tươi. Nghiên cứu cho thấy rằng thực phẩm muối hoặc hun khói chứa nhiều carcinogen (chất gây UT).
28. Đừng ăn nhiều khoai tây chiên và bánh qui vì chúng chứa nhiều acrylamide – chất gây UT, sản sinh trong quá trình nướng. Theo Michael Jacobson, giám đốc điều hành Trung tâm Khoa học về Quan tâm Cộng đồng, acrylamide gây khoảng 1.000 đến 25.000 trường hợp UT mỗi năm. FDA đang xem xét mức nguy hại của acrylamide.
29. Nên nằm giường vải, ngồi ghế vải (kiểu ghế bố) để cơ thể thoải mái, tránh tổn hại da.
30. Nghiên cứu của ĐH Quốc gia New York ở Stony Brook cho thấy rằng quý ông chịu stress nhiều và ít giao thiệp, hoặc các thành viên gia đình có mức cao về sinh kháng thể tiền liệt tuyến (prostate-specific antigen – PSA) trong máu thì dễ bị UT tiền liệt tuyến.
Năm loại thực phẩm gây ung
thư
Hot dog nguy hiểm vì chứa
nhiều chất nitrate. Liện hiệp Phòng ngừa Bệnh Ung thư khuyên không nên cho trẻ
nhỏ ăn quá 12 cái hot dog mỗi tháng. Nếu bạn không thể bỏ đươc thì hãy mua loại
hot dog không chứa sodium nitrate.
Bánh đô-nớt (doughnuts) là
món ăn tệ hại nhất có thể gây ung thư vì đươc làm bằng bột
xay, đường và dầu hidro-hoá, sau đó
đươc chiên ở nhiệt độ cao
Thịt biến chế và thịt mỡ.
Các thứ này cũng chứa nhiều sodium nitrate như hot dog nên gia tăng rủi ro bị
bệnh tim. Ngoài ra chất béo bão hoà trong thịt mỡ cũng có thể gây ung thư.
Khoai tây chiên (french
fries) Cũng như đô-nớt, khoai tây chiên đươc làm với dầu hidro-hoá và sau đó
chiên ở nhiệt độ cao. Loại thức ăn này còn chứa chất gây ung thư acryl amide tạo
thành trong tiến trình chiên, vì vậy có người gọi đùa là “cancer
fries”.
Lát khoai chiên (chips),
bánh bít-quy dòn (crackers), bánh kẹp nhỏ (cookies) Các thứ này thường đươc làm
bằng bột xay và đường. Ngay cả những loại thức ăn này mà bao bì có in hàng chữ
“free of trans-fats” cũng đều chứa một lương nhỏ trans-fats.
Một bản tin khác về lá đu
đủ:
Vừa qua, tòa soạn đã nhận được thư của GS
Nguyễn Xuân Hiền, công bố hướng dẫn 250 người chữa ung thư bằng lá đu đủ. Kết
quả nhiều bệnh nhân khỏi bệnh.
| |
7/15 người uống
có kết quả? Câu chuyện bắt đầu từ năm 2005, khi ông được tin bà Lê Thị Đặng ở
TPHCM đã dùng nước sắc lá đu đủ điều trị cho chồng bị ung thư lưỡi đã di căn
chọc thủng một bên má. Sau vài tháng chỉ uống nước lá đu đủ đã khỏi bệnh và sống
thêm được 9 năm rồi chết vì tuổi già (87 tuổi).
Bài thuốc này lại
bắt nguồn từ ông Stan Sheldon (người Úc). Năm 1962, ông Stan Sheldon bị ung thư
2 lá phổi sắp chết, may có người thổ dân mách cho uống nước sắc lá đu đủ, sau
vài tháng đã khỏi, 10 năm sau không tái phát, 16 bệnh nhân ung thư khác được
mách uống nước sắc lá đu đủ cũng đã khỏi. Theo GS Nguyễn Xuân Hiền, khi nhận
được bài thuốc, ông cũng áp dụng cho người nhà bị bệnh nhưng do bệnh đã di căn
lại không áp dụng triệt để nên không chữa khỏi bệnh. Tuy nhiên, ông vẫn kiên trì
theo dõi các bệnh nhân khác. Kết quả trong 2 năm (2005 - 2007), hướng dẫn cho 15
bệnh nhân cho thấy: 4 trường hợp (3 u phổi, 1 chửa trứng) uống được trên 5 - 6
tháng thì sức khoẻ ổn định, lên cân, u thu nhỏ, hết hạch cổ, đỡ ho, đỡ đau; 3
trường hợp bị u phổi khác uống được hơn 2 - 3 tháng thì u nhỏ đi, sức khoẻ tốt
hơn; 1 trường hợp bị u phổi khác uống được 2 tháng, bệnh tiếp tục tiến triển,
đau, ho nhiều; 3 trường hợp chết (1 u phổi, 1 u dạ dày, 1 u gan) chỉ uống chưa
được 2 tháng sau đó chuyển thuốc Đông y khác; 1 trường hợp u đại tràng di căn
chỉ uống chưa được 2 tháng, kết quả không mấy tiến triển.
Từ đó đến nay, ông tiếp tục nghiên cứu và
hướng dẫn cho 250 người khác có đầy đủ số điện thoại, địa chỉ ở khắp các tỉnh
thành trong cả nước, kết quả có 9 người khỏi bệnh, hết u, sức khoẻ tốt.
|
Nhiều người trên
thế giới khỏi bệnh? Ngoài 16 trường hợp bị ung thư phổi được ông Sheldon mách
uống lá đu đủ cũng khỏi bệnh, GS Nguyễn Xuân Hiền cũng cung cấp cho chúng tôi
một bản dịch từ Mỹ trong đó cũng kể kinh nghiệm của 3 người bị ung thư phổi đã ở
giai đoạn III, IV cũng nhờ uống nước lá này mà khỏi.
Tuy nhiên, bài
viết chỉ nêu rất chung chung, không có tên và địa chỉ của người bệnh: Một người
đàn ông 65 tuổi, đã bị cắt 1/4 lá phổi, ho ra máu và mủ nhiều, người kiệt sức
chỉ nằm mà không ngồi được, bệnh viện trả về nhà chờ chết.
Ông này đã uống
lá đu đủ chưa đầy 2 tháng mà bệnh tình thuyên giảm tới 80%, 4 tháng thì khỏi
hẳn. Hay một người đàn bà 66 tuổi, bị ung thư phổi giai đoạn IV - to bằng bàn
tay, tế bào ung thư đã ăn sâu vào xương sống, sau 3 tháng uống lá đu đủ, khối u
teo nhỏ lại bằng đầu ngón tay, tháng thứ 6 thì chỉ còn là chấm nhỏ... Khi được
hỏi về tính xác thực của các kết quả ghi nhận những bệnh nhân uống lá đu đủ khỏi
bệnh, GS Nguyễn Xuân Hiền cho biết, ông đã nghỉ hưu nên không đủ điều kiện
nghiên cứu, chứng minh trên lâm sàng.
Ông chỉ là người
truyền bá bài thuốc để giúp những người bị bệnh "tứ chứng nan y" vượt qua được
bệnh tật. Các bệnh nhân khỏi bệnh là do họ gọi điện báo cho ông chứ ông cũng
không thăm khám hay có các kết quả xét nghiệm từ Tây y. Tuy nhiên, theo GS
Nguyễn Xuân Hiền, qua theo dõi nghiên cứu ông thấy, nhiều nhà nghiên cứu trên
thế giới đã nghiên cứu và ghi nhận lá đu đủ có thể chữa được ung thư.
Gần đây nhất là
công trình nghiên cứu của BS.TS Nam.H.Dang giáo sư Đại học Florida Mỹ đã công bố
trên tạp chí dược học cho thấy, chất chiết xuất từ lá đu đủ có tác dụng tăng
cường quá trình sản sinh các phân tử truyền dẫn tín hiệu chủ chốt có tên
Th1-type cytokines.
Chúng đóng vai
trò điều hòa hoạt động của hệ miễn dịch trong cơ thể đồng thời tạo hiệu quả tiêu
trừ khối u ở một số loại ung thư, điều này mở ra những phương cách điều trị bệnh
ung thư qua hệ thống miễn dịch. Nghiên cứu đã dùng nước chiết lá đu đủ ở 4 độ
mạnh khác nhau cho 10 mẫu ung thư khác nhau và đo hiệu quả sau 24 tiếng. Kết quả
cho thấy, lá đu đủ đã làm chậm sự phát triển của tế bào ung thư trong cả 10 mẫu
thử ấy.
Đặc biệt là chất
chiết xuất từ lá đu đủ không gây độc hại cho các tế bào bình thường, do đó,
tránh được các tác dụng phụ thường gặp ở nhiều phương pháp điều trị hiện
nay.Chưa được khoa học công nhận Theo GS Nguyễn Xuân Hiền, trước đây có nhiều
người phản đối lá đu đủ chữa bệnh và cho rằng đó là một loại cây khác. Nhưng
nghiên cứu của BS.TS Nam.H.Dang là cây Carica papaya. Đây là tên khoa học của
cây đu đủ. Người Mỹ gọi đu đủ là papaya, người Úc và New Zealand gọi là
pawpaw.
Không nên lẫn lộn
"paw paw đu đủ" và "paw paw Bắc Mỹ". Cây pawpaw Bắc Mỹ thân mộc, có tên khoa học
là Asimina tribola và cũng được làm dùng thuốc trị ung thư hiện có bán trên trị
trường. Còn đu đủ là cây thân thảo. GS Nguyễn Xuân Hiền nhấn mạnh, nhiều người,
đặc biệt với những người chưa qua phẫu thuật khối u, chưa chạy xạ, truyền hóa
chất chống ung thư thì kết quả tốt và nhanh hơn. Các nghiên cứu cho thấy, trong
lá đu đủ có men papain và trong men papain có chất carotenoid và Iso
thyocyanotes có khả năng kích thích sản xuất Cytokin Th1 - type là yếu tố miễn
dịch, do đó có thể ức chế tế bào ung thư mạnh gấp triệu lần các thuốc chống ung
thư Tây y. Một công trình nghiên cứu so sánh nước sắc lá đu đủ với 10 loại nước
lá chống ung thư khác thì thấy, nước sắc lá đu đủ có tác dụng vượt trội mà giá
thành lại rẻ bằng 1/2 - 1/3 với các loại khác. Hơn nữa, nước sắc lá đu đủ không
gây tác dụng phụ. Tuy nhiên, theo GS Nguyễn Xuân Hiền, cho tới nay nước sắc lá
đu đủ chữa ung thư vẫn chưa được khoa học công nhận, vì thế rất khó biết nó có
tác dụng thực sự hay không, nếu có thì ở chừng mực nào và các phản ứng phụ có
thể xảy ra. Vì vậy, ông thiết tha mong muốn Viện Đông y, Bệnh viện K, Bộ Y tế...
quan tâm nghiên cứu vấn đề này một cách bài bản, khoa học.
Mỗi ngày lấy 4 - 5 lá đu đủ cả cuống,
già càng tốt (có tài liệu hướng dẫn là lá bánh tẻ), lấy dao cắt nhỏ cho vào nồi
đổ 2 lít nước, nấu khoảng 2 tiếng, cô lại thành 1 lít để nguội cho vào tủ lạnh,
uống thành 2 ngày, mỗi ngày 500ml chia làm 3 lần lúc no. Sau khi uống, uống thêm
1 - 2 thìa cà phê mật mía hoặc mật ong. Uống liên tục 3 tháng trở lên mới thấy
có tác dụng. Những người chưa qua phẫu thuật khối u, chưa chạy tia, truyền hóa
chất thì kết quả tốt và nhanh hơn.
MĂNG
TÂY AI MÀ NGỜ?
Mẹ tôi đã dùng
nước sinh tố măng tây, sáng 4 muỗng súp và tối cũng 4 muỗng từ hơn 1 tháng nay.
Bà đang phải uống thuốc hóa trị cho bệnh ung thư màng phổi giai đoan 3 về và số
lượng tế bào ung thư của bà từ 386 đã xuống 125 trong tuần vừa qua. Vị bác sĩ
chuyên gia có nói là bà không cần phải đến gặp ông ta trong 3 tháng tới đây.
BÀI BÁO: Nhiều năm trước đây, tôi có gặp một người đang đi tìm măng tây cho người bạn bị bệnh ung thư. Anh ta đưa tôi một bản sao bài báo tựa đề “Măng tây cho bệnh ung thư”, được đăng trên tờ Cancer News Journal, tháng 12 năm 1979. Tôi chia sẻ cùng các bạn ngay bây giờ như anh ta đã làm với tôi: tôi là một nhà hóa sinh và chuyên về liên quan giữa chế độ ăn kiêng và sức khỏe trên 50 năm rồi. Nhiều năm trước, tôi có biết về sự khám phá của ông Richard R. Vensal, D.D.S, rằng măng tây có thể chữa khỏi bệnh ung thư. Từ đó đến giờ, tôi đã hợp tác với ông ta cho dự án của ông ta. Chúng tôi đã thu thập được rất nhiều trường hợp rất triển vọng. Sau đây là vài thí dụ: Trường hợp thứ 1 : Một người đàn ông gần như là không còn hy vọng gì với bệnh Hodgkin (một loại bệnh ung thư về mạch bạch huyết) đã hoàn toàn mất hết năng lực. Một năm sau khi chữa trị bằng liệu pháp măng tây, các bác sĩ của ông ta không thể tìm thấy bất cứ dấu hiệu nào của bệnh ung thư và anh ta trở lại làm việc thật hăng hái. Trường hợp thứ 2: Một thương gia thành đạt ở tuổi 68 đã bi bệnh ung thư bàng quang từ 16 năm rồi. Sau nhiều năm điều trị, kể cả xạ trị không kết quả, ông ta chuyển qua măng tây. Sau 3 tháng, các xét nghiệm cho thấy khối u trong bàng quang đã biến mất và thận của ông ta hoạt động bình thường Trường hợp thứ 3: Một người đàn ông bị ung thư phổi. Vào ngày 5 tháng 3 năm 1971, ông ta được đưa lên bàn mổ nhưng vì căn bệnh đã phát triển quá nhiều nên không thể tiến hành cuộc giải phẫu được. Các bác sĩ tuyên bố trường hợp của ông ta không còn hy vọng gì. Vào ngày 5 tháng 4, ông ta nghe nói đến liệu pháp măng tây và bắt đầu uống ngay tức thì. Đến tháng 8, các phim X quang cho thấy các dấu hiệu của bệnh ung thư đã biến mất và ông ta trở lại công việc kinh doanh của mình. Trường hợp thứ 4: Một phu nữ bị bệnh ung thư da từ nhiều năm. Sau đó bệnh này đã chuyển sang nhiều hình thức ung thư khác nhau mà vị bác sĩ chuyên gia cho là đã phát triển nhiều rồi. Sau 3 tháng dùng măng tây, vị bác sĩ chuyện gia cho biết da bà ta trông rất tốt và không còn các vết tổn thương nữa. Bà này còn cho biết liệu pháp măng tây còn chữa căn bệnh thận của bà, mắc phải từ năm 1949. Bà ta đã làm 10 cuộc giải phẩu lấy sỏi thận và bà cũng nhận được trợ cấp từ chính phủ về tình trạng thận không thể giải phẩu ở giai đoạn cuối. Bà quy cho liệu pháp măng tây đã chữa khỏi bệnh thận của bà. Tôi không ngạc nhiên lắm vế các kết quả, vì theo “Các yêu tố về materia medica” được xuất bản vào năm 1854 do một ông Giáo sư của Trường Đại học Pennsylvania, nói rõ là măng tây là một phương thuốc dân gian để làm tan các sỏi thận. Hãy chú ý đến ngày tháng ! Chúng tôi còn có nhiều trường hợp khác nữa nhưng ngành y tế đã can thiệp vào việc chúng tôi thu thập các hồ sơ. Vì thế chúng tôi mới kêu gọi các độc giả hãy phổ biến các thông tin rất hữu ích này để giúp đỡ chúng tôi thu thập thật nhiều chứng cứ về các thành tích bệnh sử để áp đảo các người hoài nghi của ngành y tế cho một thứ liệp pháp rất không thể tin được, đơn giản và tự nhiên này. Về cách chữa trị, măng tây phải được nấu chín trước khi dùng vì thế măng tây đóng hộp vừa tươi và tiện lợi. Tôi có liên hệ với 2 công ty đóng hộp măng tây , Giant và Stokely, và tôi rất hài lòng vì 2 nhãn hiệu này không có sử dụng thuốc trừ sâu hoặc hóa chất bảo quản. Bỏ các cọng măng tây vào máy xay sinh tố và đánh cho nhừ, sau đó cất vào trong tủ lạnh. Cho người bệnh uống 4 muỗng canh, 2 lần trong ngày, sáng và chiều tối. Thường thì sau 2 - 4 tuần người bệnh sẽ thấy sức khỏe được cải thiện. Người bệnh cũng có thể pha loãng trong nước nóng hoặc nước lạnh để uống. Liều lượng này được ấn định căn cứ trên các thí nghiệm thực tế nhưng dung lượng nhiều hơn cũng không có hại gì hết mà đội khi rất cần thiết trong vài trường hợp. Với tư cách là một nhà hóa sinh, tôi tin chắc rằng câu châm ngôn cổ xưa rằng “ Cái gì điều trị được thì có thể phòng ngừa được”. Căn cứ theo lý thuyết này mà vợ chồng chúng tôi thường dùng purée măng tây như là thức uống trong các bữa cơm. Chúng tôi dùng 2 muỗng canh được pha trong nước để hợp khẩu vị của chúng tôi cho các bữa ăn sáng và tối. Tôi thì thích uống nóng trong khi vợ tôi thì thích lạnh. Từ nhiều năm rồi chúng tôi thường cho xét nghiệm máu trong các lần kiểm tra sức khỏe. Trong lần kiểm tra máu sau cùng do một ông bác sĩ chuyên về dinh dưỡng liên quang đến sức khỏe, cho thấy có nhiều cải thiện đáng kể trong các thành phần trong máu khác với lần trước đó và chúng tôi có thể khẳng định rằng các cải thiện đó không do cái gì khác hơn là măng tây. Với tư cách là một nhà hóa sinh, tôi có làm một nghiên cứu sâu rộng về các nét đặc trưng của các bệnh ung thư và các phương pháp chữa trị được đề nghị. Và với kết luận cuối cùng, tôi tin chắc rằng măng tây phú hợp nhất cho các lý thuyết về ung thư. Măng tây có chứa một số lượng lớn protein gọi là histones mà tôi tin là rất tích cực trong kiểm soát sự phát triển của tế bào. Vì lý do đó, tôi tin là ta có thể nói măng tây có chứa một chất mà tôi tạm gọi là chất bình thường hóa cho sự phát triển tế bào. Tầm quan trọng của tác động trên bệnh ung thư cũng không khác như là nhiệm vụ của một loại thuốc bổ cho cơ thể. Không để ý đế lý thuyết, trong hoàn cảnh này, măng tây được dùng theo đề nghị của chúng tôi, là một chất vô hại. Cơ quan FDA (Cơ quan kiểm tra thực phẩm và dược phẩm của Hoa Kỳ) không có lý do gì ngăn cản bạn dùng một thứ mà chỉ có đem lại điều tốt mà thôi. Viện Nghiên Cứu Ung Thư Hoa Kỳ đã báo cáo là trong măng tây có chứa chất glutathione, được xem như là chất chống sinh ung thư và chống oxy rất hiệu nghiệm. ) Xin các bạn hãy phổ biến thông tin này. Một việc làm không nghĩ đến lợi ích của bản thân là hãy phổ biến thông tin để nhận lại lòng tốt của người khác, dù cho đó là một người không xứng đáng chút nào. (VLP dịch)
BÀI BÁO: Nhiều năm trước đây, tôi có gặp một người đang đi tìm măng tây cho người bạn bị bệnh ung thư. Anh ta đưa tôi một bản sao bài báo tựa đề “Măng tây cho bệnh ung thư”, được đăng trên tờ Cancer News Journal, tháng 12 năm 1979. Tôi chia sẻ cùng các bạn ngay bây giờ như anh ta đã làm với tôi: tôi là một nhà hóa sinh và chuyên về liên quan giữa chế độ ăn kiêng và sức khỏe trên 50 năm rồi. Nhiều năm trước, tôi có biết về sự khám phá của ông Richard R. Vensal, D.D.S, rằng măng tây có thể chữa khỏi bệnh ung thư. Từ đó đến giờ, tôi đã hợp tác với ông ta cho dự án của ông ta. Chúng tôi đã thu thập được rất nhiều trường hợp rất triển vọng. Sau đây là vài thí dụ: Trường hợp thứ 1 : Một người đàn ông gần như là không còn hy vọng gì với bệnh Hodgkin (một loại bệnh ung thư về mạch bạch huyết) đã hoàn toàn mất hết năng lực. Một năm sau khi chữa trị bằng liệu pháp măng tây, các bác sĩ của ông ta không thể tìm thấy bất cứ dấu hiệu nào của bệnh ung thư và anh ta trở lại làm việc thật hăng hái. Trường hợp thứ 2: Một thương gia thành đạt ở tuổi 68 đã bi bệnh ung thư bàng quang từ 16 năm rồi. Sau nhiều năm điều trị, kể cả xạ trị không kết quả, ông ta chuyển qua măng tây. Sau 3 tháng, các xét nghiệm cho thấy khối u trong bàng quang đã biến mất và thận của ông ta hoạt động bình thường Trường hợp thứ 3: Một người đàn ông bị ung thư phổi. Vào ngày 5 tháng 3 năm 1971, ông ta được đưa lên bàn mổ nhưng vì căn bệnh đã phát triển quá nhiều nên không thể tiến hành cuộc giải phẫu được. Các bác sĩ tuyên bố trường hợp của ông ta không còn hy vọng gì. Vào ngày 5 tháng 4, ông ta nghe nói đến liệu pháp măng tây và bắt đầu uống ngay tức thì. Đến tháng 8, các phim X quang cho thấy các dấu hiệu của bệnh ung thư đã biến mất và ông ta trở lại công việc kinh doanh của mình. Trường hợp thứ 4: Một phu nữ bị bệnh ung thư da từ nhiều năm. Sau đó bệnh này đã chuyển sang nhiều hình thức ung thư khác nhau mà vị bác sĩ chuyên gia cho là đã phát triển nhiều rồi. Sau 3 tháng dùng măng tây, vị bác sĩ chuyện gia cho biết da bà ta trông rất tốt và không còn các vết tổn thương nữa. Bà này còn cho biết liệu pháp măng tây còn chữa căn bệnh thận của bà, mắc phải từ năm 1949. Bà ta đã làm 10 cuộc giải phẩu lấy sỏi thận và bà cũng nhận được trợ cấp từ chính phủ về tình trạng thận không thể giải phẩu ở giai đoạn cuối. Bà quy cho liệu pháp măng tây đã chữa khỏi bệnh thận của bà. Tôi không ngạc nhiên lắm vế các kết quả, vì theo “Các yêu tố về materia medica” được xuất bản vào năm 1854 do một ông Giáo sư của Trường Đại học Pennsylvania, nói rõ là măng tây là một phương thuốc dân gian để làm tan các sỏi thận. Hãy chú ý đến ngày tháng ! Chúng tôi còn có nhiều trường hợp khác nữa nhưng ngành y tế đã can thiệp vào việc chúng tôi thu thập các hồ sơ. Vì thế chúng tôi mới kêu gọi các độc giả hãy phổ biến các thông tin rất hữu ích này để giúp đỡ chúng tôi thu thập thật nhiều chứng cứ về các thành tích bệnh sử để áp đảo các người hoài nghi của ngành y tế cho một thứ liệp pháp rất không thể tin được, đơn giản và tự nhiên này. Về cách chữa trị, măng tây phải được nấu chín trước khi dùng vì thế măng tây đóng hộp vừa tươi và tiện lợi. Tôi có liên hệ với 2 công ty đóng hộp măng tây , Giant và Stokely, và tôi rất hài lòng vì 2 nhãn hiệu này không có sử dụng thuốc trừ sâu hoặc hóa chất bảo quản. Bỏ các cọng măng tây vào máy xay sinh tố và đánh cho nhừ, sau đó cất vào trong tủ lạnh. Cho người bệnh uống 4 muỗng canh, 2 lần trong ngày, sáng và chiều tối. Thường thì sau 2 - 4 tuần người bệnh sẽ thấy sức khỏe được cải thiện. Người bệnh cũng có thể pha loãng trong nước nóng hoặc nước lạnh để uống. Liều lượng này được ấn định căn cứ trên các thí nghiệm thực tế nhưng dung lượng nhiều hơn cũng không có hại gì hết mà đội khi rất cần thiết trong vài trường hợp. Với tư cách là một nhà hóa sinh, tôi tin chắc rằng câu châm ngôn cổ xưa rằng “ Cái gì điều trị được thì có thể phòng ngừa được”. Căn cứ theo lý thuyết này mà vợ chồng chúng tôi thường dùng purée măng tây như là thức uống trong các bữa cơm. Chúng tôi dùng 2 muỗng canh được pha trong nước để hợp khẩu vị của chúng tôi cho các bữa ăn sáng và tối. Tôi thì thích uống nóng trong khi vợ tôi thì thích lạnh. Từ nhiều năm rồi chúng tôi thường cho xét nghiệm máu trong các lần kiểm tra sức khỏe. Trong lần kiểm tra máu sau cùng do một ông bác sĩ chuyên về dinh dưỡng liên quang đến sức khỏe, cho thấy có nhiều cải thiện đáng kể trong các thành phần trong máu khác với lần trước đó và chúng tôi có thể khẳng định rằng các cải thiện đó không do cái gì khác hơn là măng tây. Với tư cách là một nhà hóa sinh, tôi có làm một nghiên cứu sâu rộng về các nét đặc trưng của các bệnh ung thư và các phương pháp chữa trị được đề nghị. Và với kết luận cuối cùng, tôi tin chắc rằng măng tây phú hợp nhất cho các lý thuyết về ung thư. Măng tây có chứa một số lượng lớn protein gọi là histones mà tôi tin là rất tích cực trong kiểm soát sự phát triển của tế bào. Vì lý do đó, tôi tin là ta có thể nói măng tây có chứa một chất mà tôi tạm gọi là chất bình thường hóa cho sự phát triển tế bào. Tầm quan trọng của tác động trên bệnh ung thư cũng không khác như là nhiệm vụ của một loại thuốc bổ cho cơ thể. Không để ý đế lý thuyết, trong hoàn cảnh này, măng tây được dùng theo đề nghị của chúng tôi, là một chất vô hại. Cơ quan FDA (Cơ quan kiểm tra thực phẩm và dược phẩm của Hoa Kỳ) không có lý do gì ngăn cản bạn dùng một thứ mà chỉ có đem lại điều tốt mà thôi. Viện Nghiên Cứu Ung Thư Hoa Kỳ đã báo cáo là trong măng tây có chứa chất glutathione, được xem như là chất chống sinh ung thư và chống oxy rất hiệu nghiệm. ) Xin các bạn hãy phổ biến thông tin này. Một việc làm không nghĩ đến lợi ích của bản thân là hãy phổ biến thông tin để nhận lại lòng tốt của người khác, dù cho đó là một người không xứng đáng chút nào. (VLP dịch)
KINH NGHIỆM CUẢ 1 NGUỜI ĐÃ BỊ BỆNH
UNG THƯ
(Hương viết ra những gì H biết để tất cả các bạn tham khảo, có ích cho chính mình, thân nhân và bằng hữu vì mầm Ung Thư hiện diện trong tất cả mọi người, chỉ chờ cơ hội là nó bùng phát).
(Hương viết ra những gì H biết để tất cả các bạn tham khảo, có ích cho chính mình, thân nhân và bằng hữu vì mầm Ung Thư hiện diện trong tất cả mọi người, chỉ chờ cơ hội là nó bùng phát).
Lời phi lộ của chính tác
giả.- Hương đã kinh qua một thời gian bệnh Cancer: gồm 3
tháng dò tìm bệnh, 8 tháng trị chemotherapy, 1 tháng Radiotherapy, còn thử máu
thì lia chia...vậy mà ròng rả 1.5 năm mới vượt qua khỏi.
Thời gian tìm bệnh cũng
nhiêu khê vì có nhiều kỹ thuật đang dùng vẫn không đáng tin cậy như Ultra
Sounds, Mammogram, Needle Biopsy: hễ họ nói có thì chắc có bệnh, nếu nói không
thì phải xét lại, vì lấy sample sai chổ, vì xớ thịt quá condense...
Cũng tại bệnh Tiểu Đường, khiến ăn cơm rất ít; trời lạnh mau đói, lại thêm bạn chỉ cách làm Nem Chua (sau này mới biết bột làm Nem Chua có nhiều Hàn The), tự làm ăn thấy ngon, nên ăn lai rai...cộng thêm làm việc tối đa, lo toan nhiều việc, phiền não cũng bộn...Cuối cùng rước bệnh cũng là lẽ tất nhiên.
Cũng tại bệnh Tiểu Đường, khiến ăn cơm rất ít; trời lạnh mau đói, lại thêm bạn chỉ cách làm Nem Chua (sau này mới biết bột làm Nem Chua có nhiều Hàn The), tự làm ăn thấy ngon, nên ăn lai rai...cộng thêm làm việc tối đa, lo toan nhiều việc, phiền não cũng bộn...Cuối cùng rước bệnh cũng là lẽ tất nhiên.
Cũng vì bệnh, sau khi mổ,
bệnh viện dạy cách meditation (tỉnh tâm), làm theo họ chỉ; bỗng chợt nghĩ ra cái
vụ Thiền này còn ai hơn Đức Phật, mình mang tiếng theo đạo Phật mà chả biết gì
cũng thật uổng, ngày xưa đi học, đeo đuổi riết con đường khoa cử, giờ đây xem ra
cũng gần đất xa trời, cũng nên tìm hiểu đạo Phật xem sao...thế là con đường "
Hướng về cõi Phật" bắt đầu từ đó.
Khi phát giác ra bệnh, phần
chánh vẫn phải nhờ chiếu tia X (Radiotherapy), dùng thuốc tây rất mạnh một lúc
cho vào vài loại, thuốc truyền vào gân máu (Chemtherapy), thuốc vào tới đâu là
ớn người đến đấy.
Thường thì thuốc rất mạnh,
chính nó cũng làm người bệnh suy yếu vì đặc tính của tế bào ung thư là cứ sinh
sản lia chia, nên thuốc cứ tìm tế bào nào đang sinh sản là thanh toán. Tế bào
bình thường của cơ thể cũng đang sanh sản, nhưng ít hơn tế bào Ung Thư, nên sau
khi vào thuốc lần đầu sẽ bị lở màng bên trong miệng, sau cở 3 lần tóc rụng gần
hết như bệnh ban, và chấm dứt kinh nguyệt (nếu người bệnh còn trẻ dưới 43 tuổi,
sau khi chấm dứt trị liệu sẽ có kinh nguyệt trở lại). Có người yếu hơn, có thể
chết chỉ sau 3 lần vào thuốc (cứ 2 tuần vào thuốc 1 lần).
Bạch Huyết cầu và hồng cầu
cũng bị tiêu diệt rất rất nhiều, do vậy người đang trị bệnh trở nên xanh xao,
vàng vọt hơn vì hồng cầu xuống quá thấp, và người bệnh dễ mắc các chứng bệnh
truyền nhiểm khác vì bạch cầu cũng xuống rất thấp, do vậy trước khi vào thuốc,
phải đi thử máu để họ đo hồng cầu và Bạch Cầu có xuống quá tệ chăng, thì chờ
thêm 1 tuần nữa cho lại sức để ready cho cuộc "hành quân" kế )
Nói chung khi thuốc vào, tức
thì thấy bồn nôn, ói mửa liền tù tì...thuốc làm cho xiểng niểng, làm te tua còn
hơn trước khi cho thuốc. Chỉ duy có 1 hy vọng là nó kill giùm các tế bào ác tính
ấy.
Còn Radiotherapy, tuỳ theo
bệnh nặng nhẹ, cũng phải làm hàng ngày kéo dài cả tháng , mỗi ngày họ chiếu tia
X vào chỉ 4 phút, và da sẽ bị “burn” dần dần. Bác sĩ này phải tính toán rất hay
để tia X chỉ đến phần thịt mà không đến phần xương; bởi vì thân mình không thể
phẵng, họ phải tính tia X đến phải dừng theo hình cong của cơ thể. Nếu không
chính xác, tia X sẽ burn xương và làm dòn xương, có thể gẫy xương.Tóm lại đối
với người bệnh Cancer, có nhiều việc phải chú ý, phụ vào sự trị liệu của bác
sĩ:
I/ KHÔNG CHO THÊM VÀO NGUỜI
NHỮNG CHẤT TẠO CANCER NỮA:
1/Hàn The (làm dòn, dai
thức ăn biến chế) nên xem lại các món có nó như thịt Nem Chua, Nem Nướng...check
lại xem trong nhiều thức ăn biến chế như bánh tráng, bánh phở, mì...họ có cho
thêm chăng?
2/ Sau này hàng Trung Quốc
bị các nước phát giác có rất nhiều chất gây hại sức khỏe, nhất là Ung Thư, có
những nước tương chứa chất gây Cancer 5000 lần hơn bình thường! Có cả list nhiều
hiệu nước tương không thể dùng! nếu kỹ nên dùng nước tương của Singapore, Nhật,
Đức, Đại hàn.
3/Thịt nướng bị cháy không
nên ăn, chất bị cháy cũng là nguyên nhân gây bệnh.
Tránh xa tia Microwave, khi xài oven nên đứng xa dù họ bảo window của nó không leaking các tia.
Tránh xa tia Microwave, khi xài oven nên đứng xa dù họ bảo window của nó không leaking các tia.
4/ Không ăn thịt đỏ như thịt
bò, thịt heo, nên ăn thịt trắng như thịt gà, nhớ tránh ăn cánh gà, vì nơi đây
người nuôi hay chích hormone cho gà mau lớn, mau bán...độc. Nói chung bớt thịt,
thêm rau.
5/Tránh chất béo, tránh quá
nhiều đường, 2 thứ này tế bào Ung Thư ưa thích.
6/Nắng gắt có nhiều tia tử
ngoại UV cũng làm ung thư da, đừng tưởng xài cream chống nắng là OK, rồi ra phơi
nắng (để thêm vitamin D) ( lớp ozone - là phân tử có 3 nguyên tử Oxygen) trên
bầu khí quyển bị trống 1 lổ to, do khí thải của các nước phát triển kinh tế, quá
nhiều nhà máy phun ì xèo khói, có nhiều carbonic bay lên làm phá dần lớp Ozone
che chở ấy!)
Thức uống trong siêu thị
cũng bỏ nhiều chất chống hư = chất bảo quản (preservatives), cũng không tốt, ăn
và uống các thứ trái cây rau cải tự nhiên không qua biến chế, để dành lâu vẫn
tốt hơn. (chuyện đến đây là hết mức của mình, nếu nói xa hơn, trái cây rau cải,
người trồng cũng bỏ phân bón hoá học, thuốc trừ sâu bọ...để cho ra hoa quả tươi
tốt, được mùa, giữ lâu không hư khi bán...). [Hồi đó thấy dân tây phương tự
trồng rau trái, lấy làm lạ sao họ chịu khó đến thế! thì ra là vậy: sợ Ung Thư
quá chừng chừng!]
7/ Có những người làm trong
phòng thí nghiệm, cũng nên lưu ý có nhiều hoá chất gây ung thư gọi là
Carcinogen.
8/ Thứ mà mình ít lưu ý là
tránh mua nhà gần các vùng điện cao thế, nơi đó nhà rẻ hơn, VN ta thích rẻ,
không để ý việc nguy hiễm vô hình, âm thầm!
9/ Một thứ không ai biết là
có những vùng, phía dưới có chất phóng xạ (tia phóng xạ vào người sẽ bắn tứ tung
hết tế bào này qua tế bào khác), từ đất chất phóng xạ lúc nào cũng phát ra nào
ai biết được! chuyện này đành xí cho trời đất thôi, nói cho đủ vậy mà.
(Thật ra sinh viên đi học, có bài vật lý cũng học về chất phóng xạ, có khi chưa học lý thuyết đã cho thực tập, họ đã dặn dùng kẹp gấp nó, mà rớt tới rớt lui, có khá nhiều sinh viên cũng thò tay bóc nó mà không biết trực tiếp tiếp xúc càng nguy cơ Ung thư!)
(Thật ra sinh viên đi học, có bài vật lý cũng học về chất phóng xạ, có khi chưa học lý thuyết đã cho thực tập, họ đã dặn dùng kẹp gấp nó, mà rớt tới rớt lui, có khá nhiều sinh viên cũng thò tay bóc nó mà không biết trực tiếp tiếp xúc càng nguy cơ Ung thư!)
Có nhiều phương pháp tìm
bệnh phải nhờ chất phóng xạ để biết chổ nào tim nghẹt, chổ nào đang bị Ung
Thư...như là làm MRI, họ chích 1 lượng rất ít chất phóng xạ, sau đó cho nằm dài
trong 1 máy to, giữ im lìm như khúc gỗ trong suốt thời gian máy rà từ đầu đến
chân để tìm xem có Ung Thư chổ nào! Khi bị Ung Thư mà nghe cho thêm phóng xạ vào
là lo lắm, nhưng họ bảo đảm là lượng rất nhỏ không gây bệnh! đành vậy
thôi!!)
II/ DÙNG CÁC DUỢC
LIỆU:
Chống Ung Thư là chống các
gốc tự do, free radical, uống 3 vitamin cần kết hợp là (A+C+E) để chống các gốc
tự do ấy.
a/ Tỏi có khả năng chống Ung
Thư và kháng trùng, tạo thêm kháng thể ,vì trị Ung Thư nên dùng liều khá hơn
bình thường, có thể dùng rượu Tỏi (2 củ tỏi xay cho vào 200 ml rượu), mỗi ngày 3
lần, mỗi lần 1 muỗng canh.
b/ Cabbage = Cải bắp: dùng
máy Extractor, sẽ rút nước, bỏ xác, mỗi bắp cải có thể rút ra 500ml, mua vài bắp
rút ra được nhiều hơn, mổi ngày uống 250 ml hay 1 ly.
c/ Măng Tây, broccoli
d/ Chống Ung Thư là chống
các gốc tự do, free radical, uống 3 vitamin cần kết hợp là (A+C+E) để chống các
gốc tự do ấy, các vitamin này có thể mua ở dạng tablet hay mình có thể xay sinh
tố uống rất hiệu quả, có lần xem TV thấy 2 ông bà uống 3 tháng hết bệnh: họ xay
cam, bôm, cà chua, cabbage, cà rốt...
e/ Xay Lô Hội và bỏ thêm 1
muỗng Mật Ong để cơ thể khoẻ hơn, thêm kháng thể.
GIỮ
THÂN KHOẺ MẠNH, TÂM AN VUI:
1/ Tập thể dục, massage cho
máu chạy đều hoà, cho các chất ăn uống trên phân phối đầy đủ cơ thể. Kèm theo
thở theo kiểu thở bụng để thêm
tối đa oxygen và thải toàn vẹn carbonic.
Thở bụng là bắt đầu thở ra trước, khi thở bụng hóp từ từ, cách mô sẽ kéo lên, khí sẽ lùa ra hết, sau đó hít vào từ từ, cách mô kéo xuống, buồng phổi sẽ to ra, chứa nhiều không khí hơn, đến khi hết hít vào thêm được, ngưng 1 chút để áp lục này sẽ làm sự trao đổi khí hiệu quả, oxy vào máu, carbonic thải ra phổi, và sau đó thở ra, cứ thế mà làm.
Thở bụng có thể thực hiện lúc nào cũng nên, ngay cả trước khi ngủ cũng sẽ cho giấc ngủ sảng khoái không mộng mỵ
Thở bụng là bắt đầu thở ra trước, khi thở bụng hóp từ từ, cách mô sẽ kéo lên, khí sẽ lùa ra hết, sau đó hít vào từ từ, cách mô kéo xuống, buồng phổi sẽ to ra, chứa nhiều không khí hơn, đến khi hết hít vào thêm được, ngưng 1 chút để áp lục này sẽ làm sự trao đổi khí hiệu quả, oxy vào máu, carbonic thải ra phổi, và sau đó thở ra, cứ thế mà làm.
Thở bụng có thể thực hiện lúc nào cũng nên, ngay cả trước khi ngủ cũng sẽ cho giấc ngủ sảng khoái không mộng mỵ
2/ Tâm an vui: Người bệnh
Ung thư, thường không là người èo ọt, rất active, nên đôi khi làm quá sức của
mình, và lắm khi cũng rơi vào stress...khi bệnh không làm gì được lại xuống tinh
thần, buồn rầu, lo âu...: những thứ này sẽ làm bệnh tệ ra; cho nên phải giữ tinh
thần vững chãi, chấp nhận việc gì đến cứ đến, nếu cần tập Thiền cũng là cái lợi
không những cho sức khoẻ mà còn cho tinh thần, và xa hơn nữa là cho tâm
linh.
Chính cái thở sẽ là trung
gian giữa thân và tâm linh, khi biết điều hoà hơi thở đến nhẹ nhàng, cũng là làm
cho tâm thanh thản, sẽ điều hoà hai hệ thần kinh Trực Giao Cảm và Đối giao Cảm
sẽ làm mạch máu mở rộng để máu đến nuôi tế bào thần kinh đầy đủ, rồi làm tâm yên
bình và sẽ có thêm đạo lực, khiến tâm không chao đảo trước nhiều tình huống, và
khi gần với đạo, sự chết nếu đến sẽ không còn gì đáng sợ, nhưng cũng trong cái
không còn sợ chết ấy cũng là chỗ có thể còn sống.
Nói chung bệnh Ung Thư phát
giác càng sớm càng có cơ hội sống sót, chờ nó phát tán (di căn) qua chỗ mới là
không thuốc trị cho nên từ lúc không bệnh, nên biết để sinh sống hầu ngăn ngừa.
PHÒNG BỆNH HƠN CHỮA BỆNH.
H viết 1 lèo và gởi nên khó
đầy đủ như ý, nhưng cũng tạm đủ cho người cần nó. Viết dài, thường sau khi gởi
đi mới phát giác trật vài lỗi chính tả, vậy xin các bạn miễn chấp
nhé.
Các bạn có thể chuyển cho
bất cứ ai cũng là điều nên làm, vì may ra có thể giúp những người chưa bệnh sẽ
không bệnh.
Good reading. Share with
your "friends, family, everyone" Dr. K. Austin Practice Limited to Periodontics
Asst. Professor of Clinical Dentistry Division of Periodontology, Diagnostic
Sciences & Dental Hygiene Herman Ostrow School of Dentistry of USC 925 West
34th Street DEN 4379 Los Angeles CA 90089-0641(213) 740-9670
Subject: John Hopkins
Update
Read all please!!!
Johns Hopkins
Update
THIS IS AMAZING INFORMATION ON WHAT FEEDS CANCER, AND
WHAT OTHER TREATMENT IS AVAILABLE. PLEASE READ AND PASS ON TO YOUR LOVED
ONES.
This HAS to be
of interest to everyone... FINALLY!!! News from the medical world that makes
sense!!!
|
Bài cùa BS Vũ
văn Dzi (JJR1960)
Chào các Bạn già,
Sau cái chết của Steve Jobs, người sáng lập ra Đại
Công Ty Apple và được ca tụng như một Thể nhân có khả năng làm thay đổi Thế giới
của thế kỷ thứ 21.
Thế nhưng, ông cũng đành phải bó tay không thể kéo dài sự sống cho ngay chính bản thân mình, bởi vì ông đã trót chọn kiếp làm người phải chấp nhận qui luật tồn sinh của Tạo hóa.
Trong tài liệu mà tôi chuyễn đến Các Bạn sau đây, có một đôi điều chúng ta cần hiểu một cách tường tận. Bằng không, cũng không tránh khỏi
những sai lầm như chính nhân vật đại thông thái nầy.
Thế nhưng, ông cũng đành phải bó tay không thể kéo dài sự sống cho ngay chính bản thân mình, bởi vì ông đã trót chọn kiếp làm người phải chấp nhận qui luật tồn sinh của Tạo hóa.
Trong tài liệu mà tôi chuyễn đến Các Bạn sau đây, có một đôi điều chúng ta cần hiểu một cách tường tận. Bằng không, cũng không tránh khỏi
những sai lầm như chính nhân vật đại thông thái nầy.
PmGiang
=====================
Steve Jobs và ung thư tụy tạng (pancreatic cancer)
*Bác sĩ Vũ Văn Dzi,* Chuyên Khoa Nội Thương
=====================
Steve Jobs và ung thư tụy tạng (pancreatic cancer)
*Bác sĩ Vũ Văn Dzi,* Chuyên Khoa Nội Thương
Steve Jobs, người sáng lập ra đại công ty Apple, đã từ
trần trong tháng 10 vừa qua, hưởng thọ 56 tuổi, về một chứng ung thư hết sức
nguy hiểm mà tỷ lệ tử vong là 95 % sau khi được định bệnh 5 năm. Ung thư tụy
tạng mỗi năm làm cho khoảng 45000 người ở Mỹ mắc phải và 37000 người sẽ chết vì
căn bệnh này, đứng hàng thứ 4 sau ung thư phổi, ung thư vú và ung thư đại tràng
(colo rectal cancer)..
Năm 2004, Steve
Jobs được giải phẫu sau khi mắc phải bệnh ung thư tụy tạng và sau đó được ghép
gan (liver transplant) vào năm 2009 khi chứng ung thư đã lan sang lá gan nhưng
rồi vì bệnh tái phát khiến Steve Jobs phải từ chức lãnh đạo công ty vào tháng 8
2011 và cuối cùng từ trần trong tháng 10 vừa qua.
Steve Jobs được coi là một trong những nhân vật kỳ tài trong thế kỷ 20 vì đã có công sáng tạo ra những thiết bị làm đảo lộn của sống hàng ngày như Iphone, Ipad, Ipod.. giúp cho kỹ thuật truyền thông được dễ dàng hơn, giản dị hơn. Nhờ Steve Jobs nên công ty Apple trở thành lớn nhất thế giới trên cả công ty Exxon/Mobil mỗi năm thu được hàng trăm tỷ USD tiền lời. Gia tài của cá nhân Steve Jobs được ước lượng khoảng 9 tỷ USD..
Khi bệnh trở nặng vào tháng 4 thì Steve Jobs biết rằng không còn sống được thêm bao lâu nữa và viết thư tới ban quản trị rằng “Tôi đã từng tiên đoán rằng đến một ngày nào đó sẽ không còn đủ khả năng để tiếp tục lèo lái công ty và rất tiếc rằng ngày đó đã đến..”
Theo lời BS Timothy Donahue thuộc Đại Học UCLA chuyên về ung thư tụy tạng thì căn bệnh của Steve Jobs rất khó chữa vì sau khi được giải phẫu cắt u bướu thì Steve đã được ghép gan và phải dùng nhiều loại thuốc chống miễn dịch khiến làm cho cơ thể suy yếu và ít ai sống thêm được hơn 2 năm..
*Ung thư tụy tạng..*
Tụy tạng là một tuyến quan trọng của bộ máy tiêu hóa có hai nhiệm vụ khác nhau. Thứ nhất là phần ngoại tiết (exocrine) có nhiệm vụ tiết ra những enzymes giúp tiêu hóa các thực phẩm và thứ hai là những tế bào Langerhans có nhiệm vụ nội tiết (endocrine) tiết ra insulin để điều hòa mức độ đường trong máu. 95 % các trường hợp ung thư tụy tạng xảy ra tại phần ngoại tiết và chỉ có 5 % xảy ra tại các tế bào Langerhans. Steve Jobs bị loại ung thư sau và tương đối dễ chữa trị hơn. Một số BS chuyên khoa cho rằng Steve Jobs
đã dại dột nghe lời khuyên của một vài người không chuyên môn nên đã tin tưởng vào một số phương pháp chữa trị khác thường gọi là alternativemedicine như ăn chay, tập thiền, bùa chú, dùng thuốc Bắc, thuốc dược thảo khiến việc điều trị bị chậm trễ mất đi nhiều thời gian quý báu.Nếu SteveJobs nghe lời các BS chuyên môn áp dụng đúng những quy định chữa trị của ngành ung thư thì có lẽ đã không chết.
Tờ báo Fortune cho biết là vào năm 2004, sau khi biết tin bị ung thư tụy tạng thì Steve Jobs đã bay sang Thụy Sĩ để được điều trị bằng một phương pháp mới thay vì giải phẫu mà chỉ bằng quang tuyến trị liệu và hormone không có ở Mỹ.
Việc điều trị bệnh ung thư tụy tạng hết sức khó khăn nên ngoài những phương pháp cổ điển như giải phẫu, quang tuyến trị liệu, hóa học trị liệu các BS đang có những cố gắng tìm ra những phương pháp mới như gene therapy, miễn dịch trị liệu hoặc gần đây nhất là dùng những loại tế bào có khả năng truy lùng và tiêu diệt các bướu ung thư gọi là killer cells.
BS Ralph Steinman vừa được giải thưởng Nobel Y học là một trong những người khảo cứu về lối điều trị này gọi là dendritic cell therapy nhưng ông đã từ trần sau khi được Ủy Ban tuyển chọn giải công bố kết quả.Sau khi được định bệnh thì BS Steinman vẫn tiếp tục được điều trị bằng những phương pháp cổ điển như giải phẫu và quang tuyến trị liệu trong khi cố gắng cải tiến phương pháp do ông tìm ra nhưng vì bệnh đã tiến triển sang thời kỳ thứ 4 nên ông đã sống thêm được 5 năm thay vì chỉ có 1 năm như các trường hợp khác..
Trong khi chờ đợi các khảo cứu mới thì hiện nay việc điều trị ung thư tụy tạng chủ yếu là giải phẫu cắt bỏ bướu ung thư và một phần ruột non và bao tử gọi là Whipple operation sau khi bệnh được tìm ra. Một số người sau khi được giải phẫu thì được dùng thêm quang tuyến trị liệu và hóa học trị liệu nên có thể sống thêm được vài năm..
Điều quan trọng nhất vẫn là phải làm sao tìm ra bệnh trước khi đã lan đi nơi khác ví dụ như trường hợp của quan tòa Ruth Ginsberg nên đã cắt bỏ được toàn bộ u bướu nên bà đã thoát chết..
Ung thư tụy tạng nguy hiểm ở chỗ là tuyến tụy nằm sâu trong bụng nên khi bệnh khởi phát thường không có triệu chứng gì hoặc không rõ rệt như đau
bụng âm ỉ, đau lưng, mệt mỏi, sụt ký hoặc vàng da.. khiến người bệnh coi thường không chịu được khám kỹ hơn hoặc làm những xét nghiệm chính xác hơn như làm CT scan, MRI, siêu âm.
Khi bướu ung thư đã lan rộng sang lá gan thì tỷ lệ tử vong rất cao như trường hợp của Steve Jobs. Một số nhân vật nổi tiếng như tài tử Patrick Swaze, Michael Landon hoặc như ca sĩ tài danh Luciano Pavarotti đã từ trần về căn bệnh này.
*Nguyên nhân và phòng ngừa..*
Vì là một chứng ung thư nguy hiểm nhất nên Y học Mỹ đã có rất nhiều cố gắng trong việc tìm hiểu nguyên nhân gây bệnh để rồi tìm ra cách phòng ngừa.Thứ nhất là hút thuốc lá vì khoảng 30 % những ung thư tụy tạng do hút thuốc gây ra. Một thống kê của Đại Học UCLA cho biết là những người hút thuốc thì có nguy cơ bị bệnh gấp 6 lần những người không hút thuốc. Đại Học Thomas Jefferson đã tìm ra một hóa chất trong khói thuốc làm cho bướu ung thư lan ra mau hơn. Những người vừa hút thuốc và uống rượu thì còn dễ mắc bệnh nhiều hơn nữa. Tình trạng mập phì (obesity) cũng dễ gây ra ung thư nhất là ở nữ giới vì nguy cơ tăng 25 %.
Vì là một chứng ung thư bộ tiêu hóa nên có nhiều khảo cứu về liên hệ giữa ung thư tụy tạng và lối ẩm thực của những sắc dân khác nhau trên thế giới.
Các kết quả sơ khởi đều khuyến cáo nên ăn nhiều loại rau cỏ nhóm crucifers như bắp cải, xu hào, rau xanh, cà rốt vì trong các loại rau này có rất nhiều hóa chất chống lại các tế bào ung thư. Một khảo cứu của Hội Ung Thư cho biết là những người dùng nhiều rau xanh thì nguy cơ bị ung thư đường ruột và tụy tạng giảm 55 % so với những người ít ăn rau xanh.
Vai trò của chất xớ (fiber) rất quan trọng vì một khảo cứu của báo Journal of Epidemiology cho biết là dùng thêm chất xơ dưới hình thức ngũ cốc, lúa mạch, chất cám bran thì nguy cơ bị ung thư tụy tạng giảm 48 %.
Nên tránh uống nước ngọt (sugary drinks) vì một khảo cứu của Đại Học Georgetown cho biết là những người uống 2 hộp nước ngọt mỗi ngày thì nguy cơ bị ung thư tụy tạng tăng gấp đôi bình thường.
Một khảo cứu của Đại Học Y khoa Hawaii và một số Đại Học khác xác nhận vai trò nguy hiểm của những loại thịt được chế biến (processed meats) như hotdog, thịt đóng hộp, sausage, thịt bò gây ra ung thư đường ruột và tụy tạng hơn 50 % so với những người ít ăn thịt. Có thể những chất mỡ trong thịt bò hay các hóa chất bảo quản nitrites làm thay đổi các DNA trong các tế bào tiêu hóa rồi dẫn đến ung thư. Một vài loại hóa chất lên men có trong các loại thực phẩm như tương, chao, mắm ruốc, mắm tôm cũng gây ra nhiều chứng ung thư đường ruột và tụy tạng..
Gần đây có một vài khảo cứu về vai trò của một số gia vị có khả năng chống lại ung thư. Một khảo cứu của trung tâm trị ung thư nổi tiếng MD Anderson cho thấy là chất curcumin trong củ nghệ (turmeric) hay được người Ấn Độ dùng làm cà ri và có khả năng tiêu diệt những tế bào ung thư tụy tạng trong loài chuột và hiện nay đang có những khảo cứu trên loài người.
Một khảo cứu khác kết hợp củ nghệ với loại mỡ cá fish oil làm giảm mức tăng trưởng các tế bào ung thư tới 70 %. BS Robert Wascher chuyên viên về ung thư khuyến cáo là nên dùng những loại thực phẩm và gia vị kể trên vì hoàn toàn không có hại và có thể giúp tránh một số ung thư nguy hiểm. Chất curcumin trong củ nghệ còn giúp chống lại bệnh Alzheimer và một số bệnh tim mạch khác và hiện nay đang có nhiều khảo cứu về công dụng của loại gia vị này.
Hiện nay đang có nhiều khảo cứu về những phương pháp mới nhất trong việc điều trị bệnh ung thư tụy tạng nhưng quan trọng nhất vẫn là phòng bệnh hoặc như trường hợp của Steve Jobs thì nên tin cậy vào những phương pháp điều
trị đã được chứng minh tại những trung tâm Y khoa nổi tiếng nhất vì ít có mấy ai được may mắn như quan tòa Ruth Ginsberg tìm ra được bệnh khi còn chưa lan đi nơi khác..
Bác sĩ Vũ văn Dzi, MD.
Steve Jobs được coi là một trong những nhân vật kỳ tài trong thế kỷ 20 vì đã có công sáng tạo ra những thiết bị làm đảo lộn của sống hàng ngày như Iphone, Ipad, Ipod.. giúp cho kỹ thuật truyền thông được dễ dàng hơn, giản dị hơn. Nhờ Steve Jobs nên công ty Apple trở thành lớn nhất thế giới trên cả công ty Exxon/Mobil mỗi năm thu được hàng trăm tỷ USD tiền lời. Gia tài của cá nhân Steve Jobs được ước lượng khoảng 9 tỷ USD..
Khi bệnh trở nặng vào tháng 4 thì Steve Jobs biết rằng không còn sống được thêm bao lâu nữa và viết thư tới ban quản trị rằng “Tôi đã từng tiên đoán rằng đến một ngày nào đó sẽ không còn đủ khả năng để tiếp tục lèo lái công ty và rất tiếc rằng ngày đó đã đến..”
Theo lời BS Timothy Donahue thuộc Đại Học UCLA chuyên về ung thư tụy tạng thì căn bệnh của Steve Jobs rất khó chữa vì sau khi được giải phẫu cắt u bướu thì Steve đã được ghép gan và phải dùng nhiều loại thuốc chống miễn dịch khiến làm cho cơ thể suy yếu và ít ai sống thêm được hơn 2 năm..
*Ung thư tụy tạng..*
Tụy tạng là một tuyến quan trọng của bộ máy tiêu hóa có hai nhiệm vụ khác nhau. Thứ nhất là phần ngoại tiết (exocrine) có nhiệm vụ tiết ra những enzymes giúp tiêu hóa các thực phẩm và thứ hai là những tế bào Langerhans có nhiệm vụ nội tiết (endocrine) tiết ra insulin để điều hòa mức độ đường trong máu. 95 % các trường hợp ung thư tụy tạng xảy ra tại phần ngoại tiết và chỉ có 5 % xảy ra tại các tế bào Langerhans. Steve Jobs bị loại ung thư sau và tương đối dễ chữa trị hơn. Một số BS chuyên khoa cho rằng Steve Jobs
đã dại dột nghe lời khuyên của một vài người không chuyên môn nên đã tin tưởng vào một số phương pháp chữa trị khác thường gọi là alternativemedicine như ăn chay, tập thiền, bùa chú, dùng thuốc Bắc, thuốc dược thảo khiến việc điều trị bị chậm trễ mất đi nhiều thời gian quý báu.Nếu SteveJobs nghe lời các BS chuyên môn áp dụng đúng những quy định chữa trị của ngành ung thư thì có lẽ đã không chết.
Tờ báo Fortune cho biết là vào năm 2004, sau khi biết tin bị ung thư tụy tạng thì Steve Jobs đã bay sang Thụy Sĩ để được điều trị bằng một phương pháp mới thay vì giải phẫu mà chỉ bằng quang tuyến trị liệu và hormone không có ở Mỹ.
Việc điều trị bệnh ung thư tụy tạng hết sức khó khăn nên ngoài những phương pháp cổ điển như giải phẫu, quang tuyến trị liệu, hóa học trị liệu các BS đang có những cố gắng tìm ra những phương pháp mới như gene therapy, miễn dịch trị liệu hoặc gần đây nhất là dùng những loại tế bào có khả năng truy lùng và tiêu diệt các bướu ung thư gọi là killer cells.
BS Ralph Steinman vừa được giải thưởng Nobel Y học là một trong những người khảo cứu về lối điều trị này gọi là dendritic cell therapy nhưng ông đã từ trần sau khi được Ủy Ban tuyển chọn giải công bố kết quả.Sau khi được định bệnh thì BS Steinman vẫn tiếp tục được điều trị bằng những phương pháp cổ điển như giải phẫu và quang tuyến trị liệu trong khi cố gắng cải tiến phương pháp do ông tìm ra nhưng vì bệnh đã tiến triển sang thời kỳ thứ 4 nên ông đã sống thêm được 5 năm thay vì chỉ có 1 năm như các trường hợp khác..
Trong khi chờ đợi các khảo cứu mới thì hiện nay việc điều trị ung thư tụy tạng chủ yếu là giải phẫu cắt bỏ bướu ung thư và một phần ruột non và bao tử gọi là Whipple operation sau khi bệnh được tìm ra. Một số người sau khi được giải phẫu thì được dùng thêm quang tuyến trị liệu và hóa học trị liệu nên có thể sống thêm được vài năm..
Điều quan trọng nhất vẫn là phải làm sao tìm ra bệnh trước khi đã lan đi nơi khác ví dụ như trường hợp của quan tòa Ruth Ginsberg nên đã cắt bỏ được toàn bộ u bướu nên bà đã thoát chết..
Ung thư tụy tạng nguy hiểm ở chỗ là tuyến tụy nằm sâu trong bụng nên khi bệnh khởi phát thường không có triệu chứng gì hoặc không rõ rệt như đau
bụng âm ỉ, đau lưng, mệt mỏi, sụt ký hoặc vàng da.. khiến người bệnh coi thường không chịu được khám kỹ hơn hoặc làm những xét nghiệm chính xác hơn như làm CT scan, MRI, siêu âm.
Khi bướu ung thư đã lan rộng sang lá gan thì tỷ lệ tử vong rất cao như trường hợp của Steve Jobs. Một số nhân vật nổi tiếng như tài tử Patrick Swaze, Michael Landon hoặc như ca sĩ tài danh Luciano Pavarotti đã từ trần về căn bệnh này.
*Nguyên nhân và phòng ngừa..*
Vì là một chứng ung thư nguy hiểm nhất nên Y học Mỹ đã có rất nhiều cố gắng trong việc tìm hiểu nguyên nhân gây bệnh để rồi tìm ra cách phòng ngừa.Thứ nhất là hút thuốc lá vì khoảng 30 % những ung thư tụy tạng do hút thuốc gây ra. Một thống kê của Đại Học UCLA cho biết là những người hút thuốc thì có nguy cơ bị bệnh gấp 6 lần những người không hút thuốc. Đại Học Thomas Jefferson đã tìm ra một hóa chất trong khói thuốc làm cho bướu ung thư lan ra mau hơn. Những người vừa hút thuốc và uống rượu thì còn dễ mắc bệnh nhiều hơn nữa. Tình trạng mập phì (obesity) cũng dễ gây ra ung thư nhất là ở nữ giới vì nguy cơ tăng 25 %.
Vì là một chứng ung thư bộ tiêu hóa nên có nhiều khảo cứu về liên hệ giữa ung thư tụy tạng và lối ẩm thực của những sắc dân khác nhau trên thế giới.
Các kết quả sơ khởi đều khuyến cáo nên ăn nhiều loại rau cỏ nhóm crucifers như bắp cải, xu hào, rau xanh, cà rốt vì trong các loại rau này có rất nhiều hóa chất chống lại các tế bào ung thư. Một khảo cứu của Hội Ung Thư cho biết là những người dùng nhiều rau xanh thì nguy cơ bị ung thư đường ruột và tụy tạng giảm 55 % so với những người ít ăn rau xanh.
Vai trò của chất xớ (fiber) rất quan trọng vì một khảo cứu của báo Journal of Epidemiology cho biết là dùng thêm chất xơ dưới hình thức ngũ cốc, lúa mạch, chất cám bran thì nguy cơ bị ung thư tụy tạng giảm 48 %.
Nên tránh uống nước ngọt (sugary drinks) vì một khảo cứu của Đại Học Georgetown cho biết là những người uống 2 hộp nước ngọt mỗi ngày thì nguy cơ bị ung thư tụy tạng tăng gấp đôi bình thường.
Một khảo cứu của Đại Học Y khoa Hawaii và một số Đại Học khác xác nhận vai trò nguy hiểm của những loại thịt được chế biến (processed meats) như hotdog, thịt đóng hộp, sausage, thịt bò gây ra ung thư đường ruột và tụy tạng hơn 50 % so với những người ít ăn thịt. Có thể những chất mỡ trong thịt bò hay các hóa chất bảo quản nitrites làm thay đổi các DNA trong các tế bào tiêu hóa rồi dẫn đến ung thư. Một vài loại hóa chất lên men có trong các loại thực phẩm như tương, chao, mắm ruốc, mắm tôm cũng gây ra nhiều chứng ung thư đường ruột và tụy tạng..
Gần đây có một vài khảo cứu về vai trò của một số gia vị có khả năng chống lại ung thư. Một khảo cứu của trung tâm trị ung thư nổi tiếng MD Anderson cho thấy là chất curcumin trong củ nghệ (turmeric) hay được người Ấn Độ dùng làm cà ri và có khả năng tiêu diệt những tế bào ung thư tụy tạng trong loài chuột và hiện nay đang có những khảo cứu trên loài người.
Một khảo cứu khác kết hợp củ nghệ với loại mỡ cá fish oil làm giảm mức tăng trưởng các tế bào ung thư tới 70 %. BS Robert Wascher chuyên viên về ung thư khuyến cáo là nên dùng những loại thực phẩm và gia vị kể trên vì hoàn toàn không có hại và có thể giúp tránh một số ung thư nguy hiểm. Chất curcumin trong củ nghệ còn giúp chống lại bệnh Alzheimer và một số bệnh tim mạch khác và hiện nay đang có nhiều khảo cứu về công dụng của loại gia vị này.
Hiện nay đang có nhiều khảo cứu về những phương pháp mới nhất trong việc điều trị bệnh ung thư tụy tạng nhưng quan trọng nhất vẫn là phòng bệnh hoặc như trường hợp của Steve Jobs thì nên tin cậy vào những phương pháp điều
trị đã được chứng minh tại những trung tâm Y khoa nổi tiếng nhất vì ít có mấy ai được may mắn như quan tòa Ruth Ginsberg tìm ra được bệnh khi còn chưa lan đi nơi khác..
Bác sĩ Vũ văn Dzi, MD.
Làm sao giữ cho sức khoẻ đươc tốt?
Ngủ sớm, dậy sớm
Tại
sao vậy? Ấy là để phù hợp với tiến trình sinh hoá trong cơ thể
Buổi tối từ 9 đến 11 giờ đêm
là thời gian để giải độc tức là loại các hoá chất độc hại ra khỏi hệ thống kháng
thể ( các hạch bạch huyết- lymph nodes). Trong khoảng thời gian này bạn nên thư
dãn hay nghe âm nhạc. Nếu trong lúc này bà xã của bạn hãy còn chưa nghỉ ngơi mà
còn lau rửa chén bát chẳng hạn thì quả là không tốt cho sức khoẻ.
Đêm từ 11 giờ tới 1 giờ sáng
là tiến trình tẩy độc gan. Lúc này mà bạn ngủ say được thì tốt
nhất
Sáng sớm từ 3 đến 5 giờ sáng
là thời kỳ tẩy độc phổi, vì vậy những người bị ho hay lên cơn ho nặng vào lúc
này. Bạn không cần phải uống thuốc ho vì thuốc này sẽ làm xáo trộn tiến trình
đào thải chất độc ra khỏi phổi.
Sáng từ 5 đến 7 giờ là lúc
kết tràng được giải độc. Bạn nên đi cầu để xả hết phân ra khỏi
ruột
Sáng từ 7 đến 9 giờ là lúc
ruột non hấp nạp chất dinh dưỡng, vì vậy bạn nên ăn điểm tâm vào giờ này..Những
người bị đau yếu thì phải ăn điểm tâm vào lúc trước 6 giờ rưỡi. Nếu bạn muốn cảm
thấy mạnh khỏe thì tốt nhất là ăn điểm tâm trước 7 giờ rưỡi. Nếu bạn luôn luôn
bỏ bữa điểm tâm thì bạn nên ngưng thói quen này ngay và nên ăn cái gì vào buổi
sáng dù là trễ ( 9 đến 10 giờ sáng)
Đi ngủ quá trễ và dậy quá trễ sẽ gây
trở ngại cho tiến trình đào thải các hoá chất không cần thiết. Ngoài ra, từ nửa
đêm tới 4 giờ sáng là thời gian tủy xương sản xuất ra máu. Vì vậy chúc
bạn ngủ cho ngon giấc và đừng bao giờ đi ngủ trễ
Các thói quen làm tổn thương
não
Bỏ bữa điểm tâm Những người
không ăn sáng có mức đường trong máu thấp .Não sẽ nhận không đủ oxi và sẽ thoái
hoá
Ăn quá nhiều làm cứng các
động mạch não dẫn đến sự suy giảm sức mạnh của não
Hút thuốc làm não teo lại và
có thể dẫn đến bệnh Alzheimer
Ăn nhiều đường làm gián đoạn
tiến trình hấp thu protein và các chất dinh dưỡng làm cho cơ thể thiếu dinh
dưỡng và có thể ảnh hưởng tới sự phát triển của não
Thở không khí ô nhiễm Não là
bộ phận cơ thể tiêu thụ oxi nhiều nhất, như vậy không khí ô nhiễm làm giảm lương
oxi cung ứng cho não và do đó não sẽ mất bớt hiệu năng
Thiếu ngủ : Ngủ giúp não
nghỉ ngơi. Thiếu ngủ về lâu dài sẽ tăng số tế bào não bi chết
Chùm kín đầu khi ngủ Ngủ như
vậy sẽ tăng nồng độ carbon dioxide và giảm nồng độ oxigen như vậy có thể tổn
thương đến não
Làm việc trí óc khi đau ốm
Làm việc bằng trí óc nhiều hay học hành khi đau ốm có thể giảm hiệu năng của não
cũng như làm tổn thương não
Thiếu những suy nghĩ kích
thích trí óc. Suy nghĩ là cách tốt nhất để tập luyện trí óc nếu thiếu điều này
não sẽ teo lại
Ít nói chuyện. Các trao đổi
tri thức giúp tăng hiệu năng của não
Các nguyên nhân chính làm tổn thương
gan
Tối đi ngủ quá trễ và
sáng dậy quá trễ là hai nguyên nhân chính
Buổi sáng không đi
tiểu
Ăn quá nhiều
Bỏ bữa điểm
tâm
Uống quá nhiều
thuốc
Dùng quá nhiều các chất bảo
tồn , bổ sung, thêm mầu cho thựcphẩm và các đường hoá học
Food preservatives (chất bảo tồn thực
phẩm)
|
Food additives (chất bổ sung thực
phẩm)
|
Food coloring (chất mầu thực
phẩm
|
Dùng các dầu nấu ăn không
lành mạnh. Giảm tối đa dầu nấu ăn khi chiên, kể cả loại dầu tốt nhất (dầu
ô-liu). Không nên ăn đồ chiên khi mệt mỏi.
Ăn
các thức ăn sống (hay nấu quá chin) cũng tạo thêm gánh nặng cho gan. Rau nên
đươc ăn sống hay nấu chín 3 trên 5 . Các rau chiên nên ăn hết một lần đừng để
lại.
Kết luận
Thực
hiện những điều trên cũng chẳng tốn kém gì thêm. Chúng ta chỉ cần tuân theo một
nếp sống thường nhật và những thói quen ăn uống lành mạnh. Giữ đươc những thói
quen về ăn uống và điều kiện thời gian cho tốt là điều rất quan trọng để giúp cơ
thể chúng ta hấp thu và sa thải các hoá chất theo đúng “lịch
trình”
How to maintain good health
Chú thích
Trans fat Đây là tên chung của một loại chất béo không bão hoà.
Hầu hết các trans fat tiêu thụ hiện nay đươc sản xuất trong kỹ nghệ bằng cách
hydro-hoá một phần các dầu thực vật. Mục đích của sự hydrogen-hoá một phần này
là thêm những nguyên tử hydrogen vào các chất béo không bão hoà để làm chúng trở
thành bão hoà nhiều hơn. Các chất béo bão hoà nhiều hơn đươc tạo thành này có độ
nóng chảy cao hơn nên tốt cho việc nướng lò (baking) và tồn trữ đươc lâu hơn.
Trái với các chất béo khác dùng trong ăn uống, trans fat có hại cho sức khoẻ vì
nâng cao mức cholesterol “xấu” và hạ thấp mức cholesterol “tốt” tăng thêm rủi ro
bị bệnh tim mạch vành.
Các chất bảo tồn, bổ sung và thêm mầu cho phực phẩm
Mặc dầu đươc cho là an toàn cho
việc tiêu thụ nhưng trong các hoá chất sử dụng hàng ngày này cũng có nhiều chất
có tác dụng phụ không tốt trên sự quân bình tự nhiên của cơ thể
1-Các chất mầu nhân tạo Một số những chất này gây dị ứng và tệ hơn nữa có tính
chất gây ung thư.. Môt số chất khác đươc nghi ngờ là nguyên nhân của những chứng
bệnh tăng hoạt động (hyperactivity), dị ứng, hen xuyễn , thiếu tập trung,khó
khăn trong học tập của người lớn cũng như trẻ con. Không nên dùng các đồ uống và
kẹo cũng như các ngũ cốc pha chế mầu
2-Nitrite và nitrate Hai hoá chất này có thể tạo ra trong cơ thể chất gây ung
thư nitrosamine. Nitrite và nitrate thuờng đươc dùng để bảo tồn thịt kể cả thịt
mỡ, hot dog, bologna và salami
3-Sulfite Chất này bao gồm sulfur dioxide trong trái cây, sulfite
trong nho và rươu vang, metabisulfite trong các thực phẩm khác.. Đôi khi chất
này có thể gây những phản ứng dị ứng hoặc làm nhức đầu, buồn nôn và tiêu
chảy
4-Đường Đường và xi-rô bắp chứa nhiều fructose thường hay
đươc dùng để nêm thêm vào thức ăn và nếu lạm dụng sẽ đưa đến nhiều xáo trộn cho
sức khỏe như cao huyết áp, giảm glucoz-huyết, tăng hoạt động, , thèm ăn, tăng
triglyceride (mỡ trong máu). Đường và đường nhân tạo còn liên quan đến các bệnh
mập phì, xâu răng và tiểu đường
5-Đường nhân tạo Thí nghiệm đã chứng tỏ là saccharin có thể gây ung thư
cho súc vật nhưng hiện nay ít còn được sử dụng. Các chất đường nhân tạo khác như
aspartame và acesulfame-K đang đươc dùng rộng rãi trong kỹ nghệ sản xuât nước
ngọt, kẹo, kẹo nhai và nhiều sản phẩm khác. Nghiên cứu cho thấy là aspartame có
thể gây bướu não cho súc vật và phụ nữ mang thai cũng như trẻ em dưới 7 tuổi
không nên dùng .
6-Chất bảo tồn thực phẩm. Có hai loại chất bảo tồn thực phẩm hoặc là chống
vi sinh vật như vi khuẩn và nấm hoặc là chống oxi hoá để giữ
cho các chất cấu thành thực phẩm không bị oxi hoá. Các chất chống vi sinh vật
thông dụng là calcium propionate, sodium nitrate, sodium nitrite, sulfites (
sulfur dioxide, sodium bisulfite,potassium hydrogen sulfite,…)và disodiumEDTA.
Các chất chống oxi hoá gồm có BHA và BHT. Những chất bảo tồn thực phẩm khác gồm
có formaldehyde ( thường dưới dạng dung dịch), glutaraldehyde (trừ diệt côn
trùng),ethanol và methylchloroisothiazolinone. Chất bảo tồn thực phẩm độc hại
đối với gan thận và cũng là nguyên nhân của những phản ứng dị ứng và nhiễm độc
thần kinh. Nên ghi nhận là trẻ em rất nhạy cảm với các chất bảo tồn thực
phẩm
7-Chất tăng mùi vị nhân tạo
Hầu hết các thực phẩm có chất
tăng mùi vị nhân tạo đều đươc biến chế nhiều. Người lớn cũng như trẻ em đều có
thể bị phản ứng dị ứng và nhưng xáo trộn về sức khoẻ khác
8-Olestra Đây là loại chất béo tổng hợp dùng trong việc chế tạo
các lát khoai chiên (potato chips). Loại chất béo tổng hợp này là một dầu
polymer không hấp thu đươc nên không đươc chuyển hoá bởi cơ thể Một số người
tiêu thụ than phiền là bị rối loạn về đường tiêu hóa như tiêu chảy đau
bụng
9-Muối Muối hay sodium
chloride đươc cơ thể sử dụng để duy trì tốt sụ dẫn diện giữa các tế bào và ở
những chức năng chủ yếu khác. Ăn nhiều muối có thể bị bệnh giữ nước (fluid
retention) và cao huyết áp.
UNG THƯ RUỘT GIÀ
(Colon cancer)BS Nguyễn Văn Đức
(Colon cancer)BS Nguyễn Văn Đức
Tobin Gibb, 6
lần đoạt giải thưởng Grammy, ca sĩ của ban nhạc Bee Gees nổi danh một thời vừa
qua đời vì ung thư ruột già vào tuổi 62. Trong vòng hai tháng qua, ông phải trải
qua hai lần giải phẫu khẩn cấp và được trị liệu mạnh bằng chất hóa học, song sự
chữa trị tận tình của các bác sĩ cũng không ngăn được ung thư lan sang gan ông,
gây suy gan khiến ông mất mạng. Con người tài hoa và danh vọng đã mất mạng vì
một nguyên nhân không đáng: ung thư ruột già có thể ngừa được.
Do vậy, chỉ thị của Medicare đưa xuống các tổ hợp y tế chăm sóc sức khỏe cho những vị cao niên gia nhập tổ hợp, là phải truy tìm ung thư ruột già cho các vị. Bác sĩ trong tổ hợp phải gắng thi hành chỉ thị này; mong các vị giúp bác sĩ chu toàn nhiệm vụ. (Đầu năm tới, các vị có Medi-Medi chưa gia nhập tổ hợp cũng sẽ bị buộc gia nhập tổ hợp, và vào ngày 1 tháng 10/2012, sẽ nhận được giấy thông báo.)
Mỗi năm, có 11 triệu trường hợp ung thư ruột già mới xảy ra trên toàn thế giới. Riêng tại Mỹ, ung thư ruột già nhiều chỉ sau ung thư phổi, mỗi năm có thêm 150.000 trường hợp, làm thiệt mạng khoảng 50.000 người. Đây rồi chúng ta ngày sẽ sống lâu hơn, người già nhiều hơn, và số người bị ung thư ruột già sẽ tăng lên. Ung thư ruột già đến với phụ nữ hơi nhiều hơn đàn ông một chút.
Hầu hết các bướu độc ung thư ruột già phát sinh từ những bướu thịt lành tính có tên "adenomatous polyps". Trong lòng ruột già, hay có những chỗ lồi lên, tạo thành những bướu thịt dư ra gọi là "polyp". Tùy theo cấu trúc của các bướu thịt dư này, người ta chia chúng làm 3 loại: juvenile polyp (nonneoplastic hamartoma), hyperplastic polyp (hyperplastic mucosal proliferation) và adenomatous polyp. Theo thời gian, chỉ có loại bướu thịt dư adenomatous polyp là có thể biến thành ung thư. Đến 30% người lớn tuổi chúng ta có bướu thịt adenomatous polyps trong ruột già, và thường thì chúng im lặng, chẳng gây triệu chứng gì cả để ta biết. Thế mới lo, tuy không phải bướu thịt adenomatous polyp nào sau cũng biến thành ung thư.
Ai dễ bị ung thư ruột già?
Một số yếu tố được xem dễ đưa đến ung thư ruột già:
- Tuổi tác: 90% các trường hợp ung thư ruột già xảy ra ở người 50 tuổi trở lên.
- Di truyền:
25% số người bị ung thư ruột già có người thân trong gia đình cũng bị ung thư ruột già. Như vậy, trong nhiều trường hợp, tính di truyền của loại ung thư này rất mạnh. Đi khám bác sĩ, nếu người thân trong gia đình bị ung thư ruột già, bạn nhớ cho bác sĩ biết.
- Người trước bị ung thư ruột già dễ có ung thư ruột già nữa. Người có bướu thịt adenomatous polyp trong ruột già dễ bị ung thư ruột già hơn người khác.
- Thực phẩm:
Tuy nguyên nhân gây ung thư ruột già chưa được biết rõ, nhưng có lẽ ung thư ruột già là bệnh của những người thích ăn thịt.
Người ta thấy ung thư ruột già xảy ra thường hơn ở người thuộc tầng lớp khá, sinh sống nơi phồn hoa đô hội. Những khảo cứu làm tại nhiều quốc gia khác nhau trên thế giới cho thấy càng ăn nhiều chất đạm từ thịt (meat protein), càng tiêu thụ nhiều dầu mỡ (dietary fat and oil), càng dễ tử vì ung thư ruột già. Di dân từ những nơi ít có ung thư ruột già, khi đến một quốc gia mới có thói quen ăn thịt, cũng sẽ dễ bị ung thư ruột già giống như người bản xứ ở quốc gia mới đến cư ngụ. Người theo đạo Mormons ít ăn thịt ít bị ung thư ruột già hơn những ông bà bạn hàng xóm của họ không theo đạo Mormons, ăn thịt nhiều hơn; và người Nhật, trước ít có ung thư ruột già, bây giờ nhiều hơn, vì nay họ có thói quen ăn uống giống với người phương Tây.
- Bệnh viêm ruột (inflammatory bowel disease):
Nhiều người không may mang bệnh viêm ruột "inflammatory bowel disease" (gồm hai bệnh "ulcerative colitis" và "granulomatous colitis"), cứ hay đi cầu ra máu, đau bụng, lâu lâu lại tắc ruột.
Sau 25 năm mang bệnh với các triệu chứng tái phát như vậy, triển vọng bị ung thư ruột già rất cao (8-30%). Sau 15 năm mang bệnh viêm ruột, căn bệnh vẫn hay hành, cắt bỏ hẳn ruột già sẽ làm giảm nguy cơ ung thư, đồng thời cũng giúp người bệnh đỡ khổ vì các triệu chứng.
- Thuốc lá: hút thuốc lá có thể làm tăng nguy cơ bị ung thư ruột già.
- Thiếu vận động: đời sống thiếu vận động cũng khiến ung thư ruột già dễ xảy ra.
Ngược lại, theo vài khảo cứu, calcium (ít nhất 1000 mg mỗi ngày, từ thực phẩm hoặc thuốc uống) có thể giúp giảm nguy cơ ung thư ruột già, thuốc aspirin và các thuốc chống viêm không chứa steroid (nonsteroidal antiinflammary drugs) như ibuprofen, napoxen, … cũng vậy.
Triệu chứng
Như bạn thấy, ruột già của ta dài, gồm nhiều khúc. Triệu chứng của ung thư ruột già tùy vào chỗ ruột già có ung thư.
Khi mới từ ruột non vào ruột già phía bên phải của bụng, phân tương đối còn lỏng nên ung thư nằm ở đoạn ruột già bên phải bụng (gọi là ruột già lên, ascending colon, vì nó đi từ bụng dưới bên phải lên phía bụng trên bên phải), cả đến khi nó đã rất to, thường không gây triệu chứng gì cả. Bướu ung thư tại nơi đây hay gây loét, khiến chỗ loét cứ âm thầm chảy máu tí một, tí một, mắt ta không nhìn thấy, và phân trông vẫn bình thường. Nhưng chảy máu rỉ rả như vậy, về lâu về dài sẽ đưa đến thiếu máu, loại thiếu máu do thiếu chất sắt (iron deficiency anemia). Người có ung thư ruột già bên phải, vì thiếu máu, hay thấy mệt mỏi, hồi hộp, có khi đau ngực do tim không đủ máu nuôi (angina), thử máu thấy các tế bào hồng huyết cầu vừa thiếu, vừa nhỏ, vừa tái, không đỏ như bình thường, làm ta nghĩ đến loại thiếu máu do thiếu chất sắt. Vì thế, ở người lớn chúng ta, nhất là sau 50 tuổi, ai thiếu máu do thiếu chất sắt nhưng không có lý do nào rõ rệt có thể giải thích việc này (như phụ nữ đã mãn kinh, đâu còn ra kinh mỗi tháng, mà sao vẫn thiếu máu), cần được tìm hiểu xem có ung thư ruột già hay không.
Khi đến đoạn ruột già ngang (transverse colon, chạy từ bụng trên bên phải sang bụng trên bên trái) và ruột già xuống (descending colon) bên trái bụng, phân của ta đã trở thành cứng hơn, nên ung thư ở những phần ruột già này cản phân, khiến phân khó di chuyển, gây đau bụng. Ruột có thể tắc, có khi thủng.
Ung thư vùng trực tràng (rectosigmoid area) gần về phía hậu môn hay làm đi cầu ra máu, đi cầu khó phải rặn cho dữ (tenesmus), phân ra bé hơn bình thường. Có điều, thiếu máu lại ít khi xảy ra. Quả những triệu chứng này hay khiến chúng ta nghĩ đến bệnh trĩ, nhưng bất cứ khi nào đi cầu ra máu, và thói quen đi cầu của chúng ta tự dưng thay đổi, ta nên nghĩ đến ung thư ruột già, nhờ bác sĩ dùng ngón tay khám trực tràng cho ta, hoặc soi vùng trực tràng bằng phương pháp soi proctosigmoidoscopy.
Định bệnh
Nghĩ đến ung thư ruột già, nhất là ở những vị 50 tuổi trở lên, là ta đã đặt được bước chân đầu tiên trên con đường định bệnh.
Chúng ta biết rồi, thiếu máu do thiếu chất sắt ở đàn ông hoặc phụ nữ đã mãn kinh mà không có lý do rõ rệt, ta nghĩ đến ung thư ruột già. Đau bụng, thói quen đi cầu thay đổi (mới bón hoặc tiêu chảy thời gian gần đây thôi), đi tiêu ra máu, đi cầu phải rặn dữ quá, phân ra bé tẹo, ..., cũng vậy.
Những phương pháp hiện được dùng để khám phá ung thư ruột già: thử phân hầu tìm xem trong phân có máu không (fecal occult blood test), khám trực tràng bằng ngón tay (digital rectal examination), chụp phim ruột già (barium enema), soi đoạn cuối của ruột già gần về phía hậu môn (sigmoidoscopy), và soi toàn ruột già (colonoscopy).
Soi toàn ruột già được xem là phương pháp khám phá ung thư ruột già chính xác nhất. Sau khi ruột già của bạn được xúc rửa sạch sẽ, bác sĩ đặt một ống soi mềm vào hậu môn bạn và đi ngược lên phía trực tràng, rồi từ từ đi lên cao hơn nữa, quẹo phải trên đoạn ruột cong hình chữ S sigmoid, xong, ngược lên đoạn ruột già xuống bên trái bụng, quẹo trái khi gặp đoạn ruột già ngang, đi hết đoạn ruột già ngang, lại quẹo trái nữa, xuống đoạn ruột già lên bên phải bụng. Với ống soi, vừa đi như vậy, bác sĩ vừa xem xét kỹ lòng ruột già của bạn, và nếu gặp bất cứ chỗ nào khả nghi, sẽ cắt lấy một miếng thịt để đem thử.
Phương pháp soi toàn ruột già tốt, khám phá ung thư rất chính xác, song có thể gây biến chứng chảy máu, thủng ruột già, vì việc đi xa trên cả một cái ruột già dài và vòng vèo như thế, thỉnh thoảng cũng gặp bất trắc. Tuy vậy, những biến chứng này ít khi xảy ra, và nếu cần phải soi toàn ruột già để khám phá hoặc truy tìm ung thư, ta chẳng nên ngần ngại.
Chữa trị
Việc chữa trị ung thư ruột già tùy vào việc ta khám phá được ung thư sớm hay trễ, nó còn tại chỗ hay đã ăn sâu xuống, lan đi xa. Ung thư tiến triển qua 5 giai đoạn (Dukes staging system):
- A: khi ung thư còn ở nông trên lớp niêm mạc lòng ruột già hoặc dưới đó một chút (cancer limited to mucosa and submucosa).
- B1: ung thư xuống đến vùng bắp thịt của lòng ruột già (cancer extends into muscularis).
- B2: ung thư xuống sâu đến lớp bao phủ mặt ngoài ruột già (cancer extends into or through serosa).
- C: ung thư đã ra ngoài ruột già, lan đến các hạch bạch huyết quanh đấy (cancer involves regional lymph nodes).
- D: ung thư lan xa đến các cơ quan khác như gan, phổi, ... (distant metastases).
Trước khi chữa, để biết ung thư đã lan đến đâu, chúng ta cần soi toàn ruột già (nếu chưa soi), chụp phim ngực (chest x-ray), phim Cat scan bụng và vùng chậu (abdominal and pelvic CT scan).
Khám phá sớm trong giai đoạn A, khi ung thư mới còn trên lớp niêm mạc, chưa ăn sâu xuống lòng của ruột già, sự chữa trị giản dị, ta mổ cắt bướu ung thư là xong, và tỉ lệ sống sót được 5 năm (5-year survival rate) của người bệnh rất cao, trên 90%. Dù vậy, ta vẫn cần theo dõi sát trong vòng 5 năm đầu sau khi mổ cắt bướu ung thư thành công, bằng cách đo chất CEA trong máu (carcinoembryonic antigen, một chất tăng cao trong máu khi có ung thư ruột già) mỗi 3 tháng, khám bệnh đều mỗi 6 tháng, và soi lại hoặc chụp phim ruột già mỗi 3 năm.
Ở các giai đoạn B và C, sau khi giải phẫu cắt bỏ ung thư, thường ta phải trị liệu thêm bằng tia phóng xạ (radiation therapy) và các chất hóa học (chemotherapy), với hy vọng tiêu diệt hết những tế bào ung thư chưa cắt hết được.
Còn để quá trễ, khi ung thư đã sang giai đoạn D, lan xa đến cả các cơ quan khác, sự chữa trị chính là hóa học trị liệu (chemotherapy), dùng những thuốc có tác dụng diệt ung thư, nhờ thuốc đến mọi nơi trong cơ thể có tế bào ung thư để giết chúng hộ ta. Việc này không thành công nhiều, và tỉ lệ sống sót 5 năm của người ung thư chỉ khoảng 5%.
Phòng ngừa ung thư ruột giàTừ tuổi 50, dù không có triệu chứng gì cả, chúng ta cũng nên truy tìm, ngừa ung thư ruột già (colon cancer screening) bằng một trong những phương cách sau. (Người có thân nhân bị ung thư ruột già, hoặc một vài yếu tố dễ đưa đến ung thư ruột già cần được truy tìm sớm hơn.)Soi toàn ruột già
Có phương tiện, chúng ta nên soi toàn ruột già (colonoscopy) mỗi 10 năm để truy tìm và ngừa ung thư ruột già.
Soi toàn ruột già giúp bác sĩ nhìn trực tiếp niêm mạc lót lòng của toàn thể ruột già, khám phá hầu hết các bướu thịt và ung thư nếu có.
Chiều hôm trước khi soi, bạn ăn lỏng (clear liquid diet), uống thuốc xổ để xúc sạch ruột. Khi soi, bác sĩ chuyên khoa tiêu hóa cho bạn ngủ, và đưa một ống soi vào hậu môn bạn, đẩy dần lên để coi, cho đến khi đi hết ruột già từ trái sang phải. Thấy có chỗ nào trông bất thường, qua ống soi bác sĩ có thể cắt đi đem thử thịt.
Soi toàn ruột già có thể gây chảy máu hoặc làm rách lòng ruột già với tỉ lệ 1/1000. Vì được cho ngủ, hôm đi soi, bạn cần có người chở về, và không thể đi làm trong cùng ngày. Soi toàn ruột già tốn khoảng 900-1000 Mỹ kim.
CT colonography
CT colonography(computed tomography colonography) là phương pháp dùng máy CT scan để chụp phim ruột già. Với hình ảnh 2 hay 3 chiều cho bởi máy CT scan, bác sĩ quang tuyến dễ nhận diện các bướu thịt hoặc ung thư trong lòng ruột già. Nếu mọi sự bình thường, có thể làm lại CT colonography mỗi 5 năm.
Điểm lợi của phương pháp truy tìm này là bạn không cần phải ngủ, không xảy ra những biến chứng chảy máu, rách ruột.
Vài điểm bất lợi của chụp phim ruột già bằng máy CT scan là ruột bạn vẫn cần được xúc rửa sạch sẽ; nếu phim cho thấy có gì bất thường, bạn lại phải nhờ bác sĩ chuyên khoa tiêu hóa soi ruột già để xác định lại, nếu cần bác sĩ sẽ cắt lấy chỗ bất thường đem thử; phim có thể cho thấy những chỗ bất thường không đáng kể, nhưng trông giống bướu thịt hoặc ung thư, trường hợp này bạn cũng phải nhờ đến bác sĩ chuyên khoa tiêu hóa soi ruột già để xác định lại, tốn thêm lần tiền nữa.
Hiện Medicare và các bảo hiểm ở Mỹ chưa trả cho phương pháp truy tìm với CT colonography.
Sigmoidoscopy
Đây là phương pháp soi đoạn cuối của ruột già (phần ruột già bên trái) gần về phía hậu môn (ống soi chỉ vào sâu 60 cm). Sigmoidoscopy tốn khoảng vài trăm Mỹ kim, và nếu bình thường, sẽ làm lại mỗi 5 năm.
Chiều trước ngày soi sigmoidoscopy, bạn ăn thức ăn lỏng, và chỉ cần được bơm thuốc vào hậu môn để đi cầu cho sạch hết phân ngày hôm sau trước khi soi. Thường khi soi, bạn không phải ngủ và có thể trở lại làm việc trong ngày.
Soi sigmoidoscopy có thể khám phá các bướu thịt hoặc ung thư trong phạm vi các vùng được soi. Việc soi rất ít nguy hiểm, hiếm khi xảy ra chảy máu hoặc rách lòng ruột già.
Sigmoidoscopy rẻ hơn colonoscopy, ít nguy hiểm hơn, song điểm bất lợi nhất của sigmoidoscopy là không tìm được những bướu thịt hoặc ung thư ở phía bên phải của ruột già. Ngoài ra, khi tìm thấy bướu thịt hoặc ung thư tại những vùng soi, sau đó cũng sẽ phải làm colonoscopy (tức tốn thêm lần tiền nữa) để soi toàn ruột già, vì bướu thịt hoặc ung thư có thể xuất hiện luôn tại cả những vùng ruột già bên phải.
Chụp phim ruột già
Chụp phim bằng cách bơm thuốc cản quang vào ruột già (double contrast barium enema)là cách cổ điển trước hay được sử dụng để khám phá ung thư ruột già, nhưng nay không còn được dùng nhiều như trước.
Độ chính xác của phim chụp không bằng CT colonography, có thể sót, không phát giác được những bướu thịt hay ung thư nhỏ. Cũng như phương pháp chụp phim ruột già với máy CT scan (CT colonography), nếu phim chụp với chất cản quang cho thấy có gì bất thường, chúng ta phải nhờ bác sĩ chuyên khoa tiêu hóa soi ruột già để xác định lại xem có thực đúng không.
Phim chụp ruột già với chất cản quang tương đối rẻ, dùng cho những vị không muốn soi toàn ruột già (colonoscopy) hoặc một phần ruột già (sigmoidoscopy). Nếu bình thường, chúng ta chụp lại mỗi 5 năm.
Thử phân
Ung thư ruột già hay gây chảy máu ít một, mắt chúng ta thường không nhìn thấy, song thử phân có thể khám phá thấy máu trong phân.
Vị nào không thích truy tìm ruột già bằng những phương pháp kể trên, có thể thử tìm máu trong phân hàng năm. Thử thấy có máu trong phân, cần soi toàn ruột già tìm ung thư.
Tuy nhiên, phương pháp truy tìm bằng thử phân kém nhất, không mấy chính xác, do các bướu thịt trong lòng ruột già hiếm khi chảy máu nên trắc nghiệm hay ra âm tính (không thấy có máu), ngược lại, nhiều trường hợp trắc nghiệm dương tính (thấy có máu), nhưng thực ra vì những nguyên nhân khác không phải ung thư, chẳng hạn như trĩ.
Trên là những phương pháp truy tìm ung thư ruột già từ tuổi 50 cho người bình thường, không có triệu chứng. Với các vị có những yếu tố quan trọng dễ đưa đến ung thư ruột già (di truyền, bệnh viêm ruột, …) tùy trường hợp, bác sĩ sẽ đề nghị những truy tìm sớm hơn so với người thường.
Ung thư ruột già xảy ra nhiều, giết người cũng lắm. Riêng tại Mỹ, ung thư ruột già nhiều chỉ sau ung thư phổi, mỗi năm có thêm 150.000 trường hợp, làm thiệt mạng 50.000 người. Thực phẩm hàng ngày nhiều rau trái, đủ calcium, dùng thêm aspirin, thường xuyên vận động là những cách giúp chúng ta tránh ung thư ruột già. Từ tuổi 50, tốt nhất, chúng ta truy tìm ung thư bằng soi toàn ruột già mỗi 10 năm; các phương cách truy tìm khác kể trên không tốt bằng soi toàn ruột già, nhưng cũng có thể dùng đến, tùy ý thích và phương tiện tài chánh.
Chỉ thị của Medicare đưa xuống các tổ hợp y tế để bác sĩ trong tổ hợp thi hành: bác sĩ phải truy tìm ung thư ruột già cho các vị cao niên trong tổ hợp, hoặc bằng phương pháp soi toàn ruột già (colonoscopy) mỗi 10 năm, hoặc soi đoạn cuối của ruột già (sigmoidoscopy) mỗi 5 năm, hoặc thử phân (feccal occult blood test) hàng năm.
Năm 2013 tới, ở Cali, tất cả các vị có Medi-Medi sẽ buộc gia nhập một tổ hợp y tế, và đầu tháng 10 này, sẽ nhận được thư thông báo, yêu cầu chọn bác sĩ chính (primary care doctor) và tổ hợp y tế, nếu không, sẽ bị chỉ định bác sĩ và tổ hợp. Vì trong tổ hợp, các vị sẽ được chăm sóc kỹ càng hơn với những chỉ thị trực tiếp của Medicare mà các bác sĩ trong tổ hợp phải thi hành, còn như bây giờ, người có Medi-Medi muốn đi đâu thì đi, dễ sa vào tay những bác sĩ chỉ muốn kiếm tiền bằng nhiều phương cách không chính đáng gây tốn kém công quĩ, chẳng khuyên người bệnh những việc cần làm, chính phủ không kiểm soát được. Với mô thức tổ hợp y tế, chính phủ biết chắc những chỉ thị đưa xuống các bác sĩ sẽ phải thi hành, đồng thời nắm vững được đồng tiền chi ra để chăm sóc sức khỏe cho các vị Medi-Medi, tài sản đất nước không còn bị lọt vào tay những kẻ gian giảo.
BS Nguyễn Văn Đức
Do vậy, chỉ thị của Medicare đưa xuống các tổ hợp y tế chăm sóc sức khỏe cho những vị cao niên gia nhập tổ hợp, là phải truy tìm ung thư ruột già cho các vị. Bác sĩ trong tổ hợp phải gắng thi hành chỉ thị này; mong các vị giúp bác sĩ chu toàn nhiệm vụ. (Đầu năm tới, các vị có Medi-Medi chưa gia nhập tổ hợp cũng sẽ bị buộc gia nhập tổ hợp, và vào ngày 1 tháng 10/2012, sẽ nhận được giấy thông báo.)
Mỗi năm, có 11 triệu trường hợp ung thư ruột già mới xảy ra trên toàn thế giới. Riêng tại Mỹ, ung thư ruột già nhiều chỉ sau ung thư phổi, mỗi năm có thêm 150.000 trường hợp, làm thiệt mạng khoảng 50.000 người. Đây rồi chúng ta ngày sẽ sống lâu hơn, người già nhiều hơn, và số người bị ung thư ruột già sẽ tăng lên. Ung thư ruột già đến với phụ nữ hơi nhiều hơn đàn ông một chút.
Hầu hết các bướu độc ung thư ruột già phát sinh từ những bướu thịt lành tính có tên "adenomatous polyps". Trong lòng ruột già, hay có những chỗ lồi lên, tạo thành những bướu thịt dư ra gọi là "polyp". Tùy theo cấu trúc của các bướu thịt dư này, người ta chia chúng làm 3 loại: juvenile polyp (nonneoplastic hamartoma), hyperplastic polyp (hyperplastic mucosal proliferation) và adenomatous polyp. Theo thời gian, chỉ có loại bướu thịt dư adenomatous polyp là có thể biến thành ung thư. Đến 30% người lớn tuổi chúng ta có bướu thịt adenomatous polyps trong ruột già, và thường thì chúng im lặng, chẳng gây triệu chứng gì cả để ta biết. Thế mới lo, tuy không phải bướu thịt adenomatous polyp nào sau cũng biến thành ung thư.
Ai dễ bị ung thư ruột già?
Một số yếu tố được xem dễ đưa đến ung thư ruột già:
- Tuổi tác: 90% các trường hợp ung thư ruột già xảy ra ở người 50 tuổi trở lên.
- Di truyền:
25% số người bị ung thư ruột già có người thân trong gia đình cũng bị ung thư ruột già. Như vậy, trong nhiều trường hợp, tính di truyền của loại ung thư này rất mạnh. Đi khám bác sĩ, nếu người thân trong gia đình bị ung thư ruột già, bạn nhớ cho bác sĩ biết.
- Người trước bị ung thư ruột già dễ có ung thư ruột già nữa. Người có bướu thịt adenomatous polyp trong ruột già dễ bị ung thư ruột già hơn người khác.
- Thực phẩm:
Tuy nguyên nhân gây ung thư ruột già chưa được biết rõ, nhưng có lẽ ung thư ruột già là bệnh của những người thích ăn thịt.
Người ta thấy ung thư ruột già xảy ra thường hơn ở người thuộc tầng lớp khá, sinh sống nơi phồn hoa đô hội. Những khảo cứu làm tại nhiều quốc gia khác nhau trên thế giới cho thấy càng ăn nhiều chất đạm từ thịt (meat protein), càng tiêu thụ nhiều dầu mỡ (dietary fat and oil), càng dễ tử vì ung thư ruột già. Di dân từ những nơi ít có ung thư ruột già, khi đến một quốc gia mới có thói quen ăn thịt, cũng sẽ dễ bị ung thư ruột già giống như người bản xứ ở quốc gia mới đến cư ngụ. Người theo đạo Mormons ít ăn thịt ít bị ung thư ruột già hơn những ông bà bạn hàng xóm của họ không theo đạo Mormons, ăn thịt nhiều hơn; và người Nhật, trước ít có ung thư ruột già, bây giờ nhiều hơn, vì nay họ có thói quen ăn uống giống với người phương Tây.
- Bệnh viêm ruột (inflammatory bowel disease):
Nhiều người không may mang bệnh viêm ruột "inflammatory bowel disease" (gồm hai bệnh "ulcerative colitis" và "granulomatous colitis"), cứ hay đi cầu ra máu, đau bụng, lâu lâu lại tắc ruột.
Sau 25 năm mang bệnh với các triệu chứng tái phát như vậy, triển vọng bị ung thư ruột già rất cao (8-30%). Sau 15 năm mang bệnh viêm ruột, căn bệnh vẫn hay hành, cắt bỏ hẳn ruột già sẽ làm giảm nguy cơ ung thư, đồng thời cũng giúp người bệnh đỡ khổ vì các triệu chứng.
- Thuốc lá: hút thuốc lá có thể làm tăng nguy cơ bị ung thư ruột già.
- Thiếu vận động: đời sống thiếu vận động cũng khiến ung thư ruột già dễ xảy ra.
Ngược lại, theo vài khảo cứu, calcium (ít nhất 1000 mg mỗi ngày, từ thực phẩm hoặc thuốc uống) có thể giúp giảm nguy cơ ung thư ruột già, thuốc aspirin và các thuốc chống viêm không chứa steroid (nonsteroidal antiinflammary drugs) như ibuprofen, napoxen, … cũng vậy.
Triệu chứng
Như bạn thấy, ruột già của ta dài, gồm nhiều khúc. Triệu chứng của ung thư ruột già tùy vào chỗ ruột già có ung thư.
Khi mới từ ruột non vào ruột già phía bên phải của bụng, phân tương đối còn lỏng nên ung thư nằm ở đoạn ruột già bên phải bụng (gọi là ruột già lên, ascending colon, vì nó đi từ bụng dưới bên phải lên phía bụng trên bên phải), cả đến khi nó đã rất to, thường không gây triệu chứng gì cả. Bướu ung thư tại nơi đây hay gây loét, khiến chỗ loét cứ âm thầm chảy máu tí một, tí một, mắt ta không nhìn thấy, và phân trông vẫn bình thường. Nhưng chảy máu rỉ rả như vậy, về lâu về dài sẽ đưa đến thiếu máu, loại thiếu máu do thiếu chất sắt (iron deficiency anemia). Người có ung thư ruột già bên phải, vì thiếu máu, hay thấy mệt mỏi, hồi hộp, có khi đau ngực do tim không đủ máu nuôi (angina), thử máu thấy các tế bào hồng huyết cầu vừa thiếu, vừa nhỏ, vừa tái, không đỏ như bình thường, làm ta nghĩ đến loại thiếu máu do thiếu chất sắt. Vì thế, ở người lớn chúng ta, nhất là sau 50 tuổi, ai thiếu máu do thiếu chất sắt nhưng không có lý do nào rõ rệt có thể giải thích việc này (như phụ nữ đã mãn kinh, đâu còn ra kinh mỗi tháng, mà sao vẫn thiếu máu), cần được tìm hiểu xem có ung thư ruột già hay không.
Khi đến đoạn ruột già ngang (transverse colon, chạy từ bụng trên bên phải sang bụng trên bên trái) và ruột già xuống (descending colon) bên trái bụng, phân của ta đã trở thành cứng hơn, nên ung thư ở những phần ruột già này cản phân, khiến phân khó di chuyển, gây đau bụng. Ruột có thể tắc, có khi thủng.
Ung thư vùng trực tràng (rectosigmoid area) gần về phía hậu môn hay làm đi cầu ra máu, đi cầu khó phải rặn cho dữ (tenesmus), phân ra bé hơn bình thường. Có điều, thiếu máu lại ít khi xảy ra. Quả những triệu chứng này hay khiến chúng ta nghĩ đến bệnh trĩ, nhưng bất cứ khi nào đi cầu ra máu, và thói quen đi cầu của chúng ta tự dưng thay đổi, ta nên nghĩ đến ung thư ruột già, nhờ bác sĩ dùng ngón tay khám trực tràng cho ta, hoặc soi vùng trực tràng bằng phương pháp soi proctosigmoidoscopy.
Định bệnh
Nghĩ đến ung thư ruột già, nhất là ở những vị 50 tuổi trở lên, là ta đã đặt được bước chân đầu tiên trên con đường định bệnh.
Chúng ta biết rồi, thiếu máu do thiếu chất sắt ở đàn ông hoặc phụ nữ đã mãn kinh mà không có lý do rõ rệt, ta nghĩ đến ung thư ruột già. Đau bụng, thói quen đi cầu thay đổi (mới bón hoặc tiêu chảy thời gian gần đây thôi), đi tiêu ra máu, đi cầu phải rặn dữ quá, phân ra bé tẹo, ..., cũng vậy.
Những phương pháp hiện được dùng để khám phá ung thư ruột già: thử phân hầu tìm xem trong phân có máu không (fecal occult blood test), khám trực tràng bằng ngón tay (digital rectal examination), chụp phim ruột già (barium enema), soi đoạn cuối của ruột già gần về phía hậu môn (sigmoidoscopy), và soi toàn ruột già (colonoscopy).
Soi toàn ruột già được xem là phương pháp khám phá ung thư ruột già chính xác nhất. Sau khi ruột già của bạn được xúc rửa sạch sẽ, bác sĩ đặt một ống soi mềm vào hậu môn bạn và đi ngược lên phía trực tràng, rồi từ từ đi lên cao hơn nữa, quẹo phải trên đoạn ruột cong hình chữ S sigmoid, xong, ngược lên đoạn ruột già xuống bên trái bụng, quẹo trái khi gặp đoạn ruột già ngang, đi hết đoạn ruột già ngang, lại quẹo trái nữa, xuống đoạn ruột già lên bên phải bụng. Với ống soi, vừa đi như vậy, bác sĩ vừa xem xét kỹ lòng ruột già của bạn, và nếu gặp bất cứ chỗ nào khả nghi, sẽ cắt lấy một miếng thịt để đem thử.
Phương pháp soi toàn ruột già tốt, khám phá ung thư rất chính xác, song có thể gây biến chứng chảy máu, thủng ruột già, vì việc đi xa trên cả một cái ruột già dài và vòng vèo như thế, thỉnh thoảng cũng gặp bất trắc. Tuy vậy, những biến chứng này ít khi xảy ra, và nếu cần phải soi toàn ruột già để khám phá hoặc truy tìm ung thư, ta chẳng nên ngần ngại.
Chữa trị
Việc chữa trị ung thư ruột già tùy vào việc ta khám phá được ung thư sớm hay trễ, nó còn tại chỗ hay đã ăn sâu xuống, lan đi xa. Ung thư tiến triển qua 5 giai đoạn (Dukes staging system):
- A: khi ung thư còn ở nông trên lớp niêm mạc lòng ruột già hoặc dưới đó một chút (cancer limited to mucosa and submucosa).
- B1: ung thư xuống đến vùng bắp thịt của lòng ruột già (cancer extends into muscularis).
- B2: ung thư xuống sâu đến lớp bao phủ mặt ngoài ruột già (cancer extends into or through serosa).
- C: ung thư đã ra ngoài ruột già, lan đến các hạch bạch huyết quanh đấy (cancer involves regional lymph nodes).
- D: ung thư lan xa đến các cơ quan khác như gan, phổi, ... (distant metastases).
Trước khi chữa, để biết ung thư đã lan đến đâu, chúng ta cần soi toàn ruột già (nếu chưa soi), chụp phim ngực (chest x-ray), phim Cat scan bụng và vùng chậu (abdominal and pelvic CT scan).
Khám phá sớm trong giai đoạn A, khi ung thư mới còn trên lớp niêm mạc, chưa ăn sâu xuống lòng của ruột già, sự chữa trị giản dị, ta mổ cắt bướu ung thư là xong, và tỉ lệ sống sót được 5 năm (5-year survival rate) của người bệnh rất cao, trên 90%. Dù vậy, ta vẫn cần theo dõi sát trong vòng 5 năm đầu sau khi mổ cắt bướu ung thư thành công, bằng cách đo chất CEA trong máu (carcinoembryonic antigen, một chất tăng cao trong máu khi có ung thư ruột già) mỗi 3 tháng, khám bệnh đều mỗi 6 tháng, và soi lại hoặc chụp phim ruột già mỗi 3 năm.
Ở các giai đoạn B và C, sau khi giải phẫu cắt bỏ ung thư, thường ta phải trị liệu thêm bằng tia phóng xạ (radiation therapy) và các chất hóa học (chemotherapy), với hy vọng tiêu diệt hết những tế bào ung thư chưa cắt hết được.
Còn để quá trễ, khi ung thư đã sang giai đoạn D, lan xa đến cả các cơ quan khác, sự chữa trị chính là hóa học trị liệu (chemotherapy), dùng những thuốc có tác dụng diệt ung thư, nhờ thuốc đến mọi nơi trong cơ thể có tế bào ung thư để giết chúng hộ ta. Việc này không thành công nhiều, và tỉ lệ sống sót 5 năm của người ung thư chỉ khoảng 5%.
Phòng ngừa ung thư ruột giàTừ tuổi 50, dù không có triệu chứng gì cả, chúng ta cũng nên truy tìm, ngừa ung thư ruột già (colon cancer screening) bằng một trong những phương cách sau. (Người có thân nhân bị ung thư ruột già, hoặc một vài yếu tố dễ đưa đến ung thư ruột già cần được truy tìm sớm hơn.)Soi toàn ruột già
Có phương tiện, chúng ta nên soi toàn ruột già (colonoscopy) mỗi 10 năm để truy tìm và ngừa ung thư ruột già.
Soi toàn ruột già giúp bác sĩ nhìn trực tiếp niêm mạc lót lòng của toàn thể ruột già, khám phá hầu hết các bướu thịt và ung thư nếu có.
Chiều hôm trước khi soi, bạn ăn lỏng (clear liquid diet), uống thuốc xổ để xúc sạch ruột. Khi soi, bác sĩ chuyên khoa tiêu hóa cho bạn ngủ, và đưa một ống soi vào hậu môn bạn, đẩy dần lên để coi, cho đến khi đi hết ruột già từ trái sang phải. Thấy có chỗ nào trông bất thường, qua ống soi bác sĩ có thể cắt đi đem thử thịt.
Soi toàn ruột già có thể gây chảy máu hoặc làm rách lòng ruột già với tỉ lệ 1/1000. Vì được cho ngủ, hôm đi soi, bạn cần có người chở về, và không thể đi làm trong cùng ngày. Soi toàn ruột già tốn khoảng 900-1000 Mỹ kim.
CT colonography
CT colonography(computed tomography colonography) là phương pháp dùng máy CT scan để chụp phim ruột già. Với hình ảnh 2 hay 3 chiều cho bởi máy CT scan, bác sĩ quang tuyến dễ nhận diện các bướu thịt hoặc ung thư trong lòng ruột già. Nếu mọi sự bình thường, có thể làm lại CT colonography mỗi 5 năm.
Điểm lợi của phương pháp truy tìm này là bạn không cần phải ngủ, không xảy ra những biến chứng chảy máu, rách ruột.
Vài điểm bất lợi của chụp phim ruột già bằng máy CT scan là ruột bạn vẫn cần được xúc rửa sạch sẽ; nếu phim cho thấy có gì bất thường, bạn lại phải nhờ bác sĩ chuyên khoa tiêu hóa soi ruột già để xác định lại, nếu cần bác sĩ sẽ cắt lấy chỗ bất thường đem thử; phim có thể cho thấy những chỗ bất thường không đáng kể, nhưng trông giống bướu thịt hoặc ung thư, trường hợp này bạn cũng phải nhờ đến bác sĩ chuyên khoa tiêu hóa soi ruột già để xác định lại, tốn thêm lần tiền nữa.
Hiện Medicare và các bảo hiểm ở Mỹ chưa trả cho phương pháp truy tìm với CT colonography.
Sigmoidoscopy
Đây là phương pháp soi đoạn cuối của ruột già (phần ruột già bên trái) gần về phía hậu môn (ống soi chỉ vào sâu 60 cm). Sigmoidoscopy tốn khoảng vài trăm Mỹ kim, và nếu bình thường, sẽ làm lại mỗi 5 năm.
Chiều trước ngày soi sigmoidoscopy, bạn ăn thức ăn lỏng, và chỉ cần được bơm thuốc vào hậu môn để đi cầu cho sạch hết phân ngày hôm sau trước khi soi. Thường khi soi, bạn không phải ngủ và có thể trở lại làm việc trong ngày.
Soi sigmoidoscopy có thể khám phá các bướu thịt hoặc ung thư trong phạm vi các vùng được soi. Việc soi rất ít nguy hiểm, hiếm khi xảy ra chảy máu hoặc rách lòng ruột già.
Sigmoidoscopy rẻ hơn colonoscopy, ít nguy hiểm hơn, song điểm bất lợi nhất của sigmoidoscopy là không tìm được những bướu thịt hoặc ung thư ở phía bên phải của ruột già. Ngoài ra, khi tìm thấy bướu thịt hoặc ung thư tại những vùng soi, sau đó cũng sẽ phải làm colonoscopy (tức tốn thêm lần tiền nữa) để soi toàn ruột già, vì bướu thịt hoặc ung thư có thể xuất hiện luôn tại cả những vùng ruột già bên phải.
Chụp phim ruột già
Chụp phim bằng cách bơm thuốc cản quang vào ruột già (double contrast barium enema)là cách cổ điển trước hay được sử dụng để khám phá ung thư ruột già, nhưng nay không còn được dùng nhiều như trước.
Độ chính xác của phim chụp không bằng CT colonography, có thể sót, không phát giác được những bướu thịt hay ung thư nhỏ. Cũng như phương pháp chụp phim ruột già với máy CT scan (CT colonography), nếu phim chụp với chất cản quang cho thấy có gì bất thường, chúng ta phải nhờ bác sĩ chuyên khoa tiêu hóa soi ruột già để xác định lại xem có thực đúng không.
Phim chụp ruột già với chất cản quang tương đối rẻ, dùng cho những vị không muốn soi toàn ruột già (colonoscopy) hoặc một phần ruột già (sigmoidoscopy). Nếu bình thường, chúng ta chụp lại mỗi 5 năm.
Thử phân
Ung thư ruột già hay gây chảy máu ít một, mắt chúng ta thường không nhìn thấy, song thử phân có thể khám phá thấy máu trong phân.
Vị nào không thích truy tìm ruột già bằng những phương pháp kể trên, có thể thử tìm máu trong phân hàng năm. Thử thấy có máu trong phân, cần soi toàn ruột già tìm ung thư.
Tuy nhiên, phương pháp truy tìm bằng thử phân kém nhất, không mấy chính xác, do các bướu thịt trong lòng ruột già hiếm khi chảy máu nên trắc nghiệm hay ra âm tính (không thấy có máu), ngược lại, nhiều trường hợp trắc nghiệm dương tính (thấy có máu), nhưng thực ra vì những nguyên nhân khác không phải ung thư, chẳng hạn như trĩ.
Trên là những phương pháp truy tìm ung thư ruột già từ tuổi 50 cho người bình thường, không có triệu chứng. Với các vị có những yếu tố quan trọng dễ đưa đến ung thư ruột già (di truyền, bệnh viêm ruột, …) tùy trường hợp, bác sĩ sẽ đề nghị những truy tìm sớm hơn so với người thường.
Ung thư ruột già xảy ra nhiều, giết người cũng lắm. Riêng tại Mỹ, ung thư ruột già nhiều chỉ sau ung thư phổi, mỗi năm có thêm 150.000 trường hợp, làm thiệt mạng 50.000 người. Thực phẩm hàng ngày nhiều rau trái, đủ calcium, dùng thêm aspirin, thường xuyên vận động là những cách giúp chúng ta tránh ung thư ruột già. Từ tuổi 50, tốt nhất, chúng ta truy tìm ung thư bằng soi toàn ruột già mỗi 10 năm; các phương cách truy tìm khác kể trên không tốt bằng soi toàn ruột già, nhưng cũng có thể dùng đến, tùy ý thích và phương tiện tài chánh.
Chỉ thị của Medicare đưa xuống các tổ hợp y tế để bác sĩ trong tổ hợp thi hành: bác sĩ phải truy tìm ung thư ruột già cho các vị cao niên trong tổ hợp, hoặc bằng phương pháp soi toàn ruột già (colonoscopy) mỗi 10 năm, hoặc soi đoạn cuối của ruột già (sigmoidoscopy) mỗi 5 năm, hoặc thử phân (feccal occult blood test) hàng năm.
Năm 2013 tới, ở Cali, tất cả các vị có Medi-Medi sẽ buộc gia nhập một tổ hợp y tế, và đầu tháng 10 này, sẽ nhận được thư thông báo, yêu cầu chọn bác sĩ chính (primary care doctor) và tổ hợp y tế, nếu không, sẽ bị chỉ định bác sĩ và tổ hợp. Vì trong tổ hợp, các vị sẽ được chăm sóc kỹ càng hơn với những chỉ thị trực tiếp của Medicare mà các bác sĩ trong tổ hợp phải thi hành, còn như bây giờ, người có Medi-Medi muốn đi đâu thì đi, dễ sa vào tay những bác sĩ chỉ muốn kiếm tiền bằng nhiều phương cách không chính đáng gây tốn kém công quĩ, chẳng khuyên người bệnh những việc cần làm, chính phủ không kiểm soát được. Với mô thức tổ hợp y tế, chính phủ biết chắc những chỉ thị đưa xuống các bác sĩ sẽ phải thi hành, đồng thời nắm vững được đồng tiền chi ra để chăm sóc sức khỏe cho các vị Medi-Medi, tài sản đất nước không còn bị lọt vào tay những kẻ gian giảo.
BS Nguyễn Văn Đức
8 loại rau ngăn ngừa 8 loại ung thư
Với một số loại ung thư phổ biến đều có một thực phẩm
gánh vác nhiệm vụ phòng bệnh quan trọng.
Chế
độ ăn uống và ung thư cũng có mối quan hệ chặt chẽ. Ăn uống không đúng cách là
một trong những nguyên nhân gây ung thư; ngược lại, ăn uống đúng cách có thể đem
lại hiệu quả chống ung thư.
Ung thư
phổi
Thực
phẩm hàng đầu: Rau bina (Spinach)
Lý
do: Rau bina có chứa nhiều chất chống oxy hóa, giúp ngăn ngừa thiệt hại bởi gốc
tự do gây ra. Ăn một bát rau bina mỗi ngày sẽ giảm nguy cơ ung thư phổi ít nhất
là 50%. Ngoài ra, cà chua, cà rốt, bí đỏ, lê và táo cũng có thể ngăn chặn sự
xuất hiện loại ung thư này.
Ung thư vú
Thực
phẩm hàng đầu: Rong biển
Lý
do: Rong biển không chỉ giàu vitamin E và chất xơ, mà còn phong phú về hàm lượng
i-ốt. Các nhà khoa học tin rằng, thiếu hụt i-ốt là một trong những yếu tố nguy
cơ của ung thư vú, do đó, ăn rong biển có thể giúp ngăn ngừa ung thư vú. Lý do
phụ nữ Nhật Bản có tỷ lệ mắc ung thư vú thấp hơn so với phụ nữ ở các quốc gia
khác có thể liên quan đến việc tiêu thụ rong biển. Trong khi đó, khoai lang, cà
chua, đậu cũng là những thực phẩm có thể ngăn ngừa ung thư vú.
Ung thư ruột
Thực
phẩm hàng đầu: Cây sả
Lý
do: Cây sả, cần tây là những thực phẩm giàu chất xơ, khi vào trong ruột có thể
đẩy nhanh tốc độ làm sạch các thức ăn thừa trong ruột, giảm các chất độc hại và
thúc đẩy bài tiết cực kỳ hiệu quả, phòng chống ung thư đại trực tràng. Ngoài ra,
tiêu thụ tỏi thường xuyên cũng giúp bạn giảm 30% nguy cơ ung thư ruột kết. Bên
cạnh đó, khoai lang, cải bắp, lúa mì lại là những thực phẩm cực kỳ quan trọng
trong việc ngăn ngừa ung thư đại trực tràng.
Ung thư tuyến tụy
Thực
phẩm hàng đầu: Súp lơ
Lý
do: Hội Ung thư Quốc gia Hoa Kỳ gần đây đã chỉ ra rằng, ăn súp lơ và các thực
phẩm họ cải khác có thể làm giảm nguy cơ ung thư tuyến tụy. Trong những năm gần
đây, các nghiên cứu cho thấy, củ cải cũng đóng góp vào việc gia tăng sức đề
kháng của bệnh nhân bị ung thư tuyến tụy.
Ung thư
da
Thực phẩm hàng đầu: Măng tây
Lý
do: Măng tây là trong những loại rau đầu bảng giàu vitamin, axit nucleic và các
thành phần khác có tác dụng nhất định trong phòng chống ung thư hạch, ung thư
bàng quang, ung thư da.
Ung thư
cổ tử cung (UTCTC)
Thực
phẩm hàng đầu: Đậu nành
Lý
do: Đậu phụ, sữa đậu nành được làm bằng đậu nành (đậu tương), có chứa
isoflavone, lignin được coi là có tác dụng chống oxy hóa, có thể ức chế sự phát
triển của UTCTC, giảm phân chia tế bào ung thư, đồng thời có ngăn chặn sự di căn
của khối u hiệu quả. Ngoài ra, cà chua cũng là thực phẩm phòng ngừa UTCTC
tốt.
Ung thư
dạ dày
Thực
phẩm hàng đầu: Tỏi
Lý
do: Những người hay ăn tỏi sống có tỷ lệ mắc ung thư dạ dày là rất thấp, bởi vì
tỏi có thể làm giảm đáng kể hàm lượng nitrit trong dạ dày - một trong những nguy
cơ làm gia tăng ung thư dạ dày. Những người thường xuyên ăn hành cũng có tỷ lệ
mắc ung thư dạ dày thấp hơn 25% so với nhóm người còn lại. Ngoài ra, ăn thức ăn
ít muối, cá hun khói, cá nướng cũng là một cách tốt để ngăn chặn ung thư dạ
dày.
Ung thư
gan
Thực
phẩm hàng đầu: Nấm
Lý do: Nấm có chứa các lớp polysaccharide giúp
ức chế hoạt động của các chất gây ung thư, có thể thúc đẩy hình thành kháng thể
để cơ thể tạo ra miễn dịch với khối u, ức chế tế bào ung thư tăng trưởng để có
thể đề kháng với nhiều loại ung thư, bao gồm ung thư hạch, ung thư ruột kết, và
đặc biệt có lợi cho các bệnh nhân ung thư gan