Từ tờ mờ sáng cho đến khi bóng hoàng hôn phủ trùm lên ngọn núi Đá Chẻ,
chen chúc những tảng đá lô nhô đầy góc cạnh. Tiếng búa nện vào dụng cụ chẻ
đá vang lên không ngừng. Dưới chân núi, những đống đá chẻ vuông vức được
sắp thành chồng chờ xe tải đến chuyển về các công trường xây dựng.
Núi Ðá Chẻ có tên nguyên thủy là núi Bìn-Nin, một di sản của dòng họ Phan
Quang từ thời ông cố tạo mãi. Núi trấn sau lưng một quần thể đại gia cư
qua nhiều đời. Phía trước mặt là dòng sông trong xanh lững lờ uốn khúc. Nà
bắp, nà dưa xanh tăm tắp chạy dọc bờ sông gió lộng quanh năm. Con đường
làng bò quanh chân núi như dải đăng-ten viền quanh cổ áo của người thiếu
nữ. Từ chân núi, cánh đồng lúa trải dài chệch về hướng bắc như hai tà áo
phất phơ theo từng cơn gió nồm. Chiếc áo mang màu xanh khi lúa đang thì
con gái. Ðến mùa lúa chín cánh đồng lại thay áo màu vàng.
Bìn Nin là một hòn núi cây cối um tùm. Những cây đa cổ thụ năm ,sáu người
ôm không xuể tỏa bóng rợp cả một vùng. Ðủ các loại chim muông tề tựu về
đây hót vang bốn mùa. Những năm tháng chưa có bom đạn, từng bầy khỉ chuyền
cành ăn các loại trái cây chín tới. Thỉnh thoảng chúng ra tận bờ sông đào
khoai lang, đậu phụng. Khỉ biết cách quấn dây lang quanh bụng rồi nhét củ
khoai vào lưng mang đi. Ðám học trò mỗi lần đi ngang qua núi thường trốn
trong bụi rậm để rình xem bọn khỉ bắt chước loài người. Khi con khỉ đầu
đàn phát giác có người là bốn chân nó nhảy lên như con choi choi, miệng
kêu khọt khẹt báo động. Rồi cả bầy gọi nhau chí chóe chạy trốn vào núi.
Ðến giai đoạn chiến tranh khốc liệt, loài khỉ bỏ núi Bìn-Nin tìm lên núi
cao sinh sống.
Sau 1975, núi Bìn-Nin trở thành tài sản của nhà nước. “Cha chung không ai
khóc” thiếu người bảo quản.Từ cán bộ đến dân mặc sức thi nhau đốn sạch cây
cối làm củi. Cán bộ kiểm lâm đón ngã nầy thì họ lách đi lối khác. Nếu bắt
gặp thì có “Bác” đỡ đòn. Chỉ mất vài năm là không còn một cây con nào lớn
lên kịp. Núi chỉ còn trơ lại toàn đá. Ðá lúc nhúc, lục cục đủ cỡ.
Những tảng đá lớn đơn độc như loài voi đen đúa bám đầy rong rêu nằm phủ
phục hàng trăm năm dưới bóng râm của cây rừng giờ đây chúng phơi mình
dưới ánh nắng chói chang. Từng chồng đá cao dềnh dàng như tháp đỉnh đứng
chênh vênh dưới bầu trời mông quạnh.
Núi không còn cây cối, mùa nắng cánh đồng thiếu nước khô hạn thường xuyên.
Mùa mưa lúa chìm trong biển nước. Mất mùa liên tục, dân làng thiếu ăn.
Ðói, đầu gối hay bò...dân chúng ùa nhau lên núi chẻ đá kiếm tiền mua thực
phẩm. Thấy nghề không vốn, các nơi khác cũng đổ xô đến núi Bìn Nin chẻ đá
kiếm sống.
Chính quyền xã phát hiện dân xâm chiếm tài sản của nhà nước bèn cho lực
lượng an ninh địa phương tịch thu hết số đá đã chẻ. Biết đây là nguồn lợi
tức trời cho, chính quyền bèn thành lập “Hợp tác xã Chẻ đá”. Người nào
muốn tham gia chẻ đá phải ghi tên gia nhập làm xã viên với điều kiện ăn
chia tứ lục. Cứ chẻ được mười viên đá là hợp tác xã lấy bốn viên còn lại
sáu viên dành cho xã viên. Ủy ban xã độc quyền mua bán trao đổi với các xí
nghiệp xây dựng. Ðá của xã viên đươc Hợp tác xã mua lại với giá quy định.
Từ đó núi Bìn-Nin trở thành núi Ðá Chẻ và làng Diên Thọ thành làng Ðá Chẻ.
Anh Mẹo là một xã viên Hợp tác xã Ðá chẻ có kinh nghiệm lâu năm nên được
cấp trên đề bạt làm tổ trưởng Kỹ thuật. Vợ Mẹo là một phụ nữ sinh ra và
lớn lên tại làng Ðá Chẻ nhan sắc mặn mà, lại cần cù lao động. Một sào
ruộng lúa nước và trăm thước vuông đất canh tác của xã phân chia cho gia
đình, chị lo quán xuyến không cần đến bàn tay chồng. Chị còn cắt lúa lấy
công điểm, đi cấy đổi công. Ðứa con trai duy nhất của chị được bà mẹ chồng
lo chăm sóc hàng ngày. Dù cuộc sống không sung túc gì, nhưng có đồng ra
đồng vào nhờ tiền bán đá chẻ.
* * *
Ðã hai ngày qua, cơn mưa dầm đầu mùa cứ rả rích suốt đêm. Từng cơn gió
mạnh của cơn bão đến sớm làm ngã rạp những đám mía non chưa đủ độ đường,
quật gãy những nà bắp trái chưa tượng hột. Cánh đồng lúa vừa chín tới nước
ngập lai láng. Thế là mùa màng mất sạch, người người đều lo lắng cho những
ngày tháng sắp tới.
Sáng nay, cơn mưa dầm bỗng dưng ngưng hẳn, ánh sao mai ló dạng cuối chân
trời . Vợ chồng Mẹo thức dậy lúc màn sương còn phủ kín cả dòng sông. Họ
chuẩn bị phần cơm trưa, vợ mang ra đồng, chồng mang lên núi.
Khi Mẹo đến khu đá chẻ, các xã viên đã bắt đầu làm việc. Tiếng búa nện vào
đá vang lên những âm thanh khô khốc đơn điệu như bản hợp tấu của loài vạc
sành đua nhau vỗ cánh về đêm. Mồ hôi và nước mắt của người thợ chẻ đá đã
đổ ra thấm vào lòng đá để đổi lấy chén cơm trong ngày. Mùa hè, tấm lưng
trần của người thợ phơi dưới cơn nắng đốt cháy da. Mùa đông, họ vẫn lấy
lưng chống lại với những cơn mưa tầm tã. Một ngày làm việc, đôi chân tê
dại, đôi tay rã rời.
Khi trời sụp tối, họ còn phải chuyển đá từ trên cao xuống chân núi chất
thành đống chờ cán bộ hợp tác đến nghiệm thu.
Mẹo dạo qua một lượt quanh khu vực của tổ làm việc mà anh phụ trách rồi
trở lại tảng đá của anh đã đục xong hai hàng lỗ. Anh đóng mũi chạm thọc
sâu vào thân đá bằng chiếc búa tạ để đường nứt theo ý định của mình. Bỗng,
tiếng động ầm ầm như loài voi di chuyển. Mẹo quay đầu nhìn lên phát hiện
một tảng đá khổng lồ từ trên đỉnh cao vùn vụt lao xuống núi. Bao nhiêu
người chạy tán loạn. Mẹo vừa đứng lên định phóng người qua một bên, nhưng
không còn kịp nữa. Dưới sức nặng hàng tấn của tảng đá lăn qua, thân thể
anh Mẹo bẹp rúm nát nhầy. Máu thịt loang đầy cả tảng đá anh đang chẻ.
Mẹo chết để lại người vợ trẻ, đứa con trai và mẹ già sáu mươi tuổi. Bao
nỗi khó khăn dồn dập đổ lên gia đình chị Mẹo. Một sào ruộng khô cằn, trăm
thước đất trồng bắp không đủ nuôi ba miệng ăn. Lợi dụng thời gian rảnh rỗi
khi mùa vụ làm xong, mỗi sáng sớm chị Mẹo đạp xe xuống thị xã gánh nước
thuê. Ðến cuối ngày, trời tối mịt chị lại đạp xe về nhà với túi gạo, bó
rau và chai mắm trên ba-ga xe.
Lần hồi chị Mẹo phải ở lại thị xã gánh nước đêm đến cuối tuần mới đem
thực phẩm về cho mẹ chồng nuôi cháu nội. Càng ngày chị Mẹo về nhà thăm con
càng thưa dần cho đến lúc người ta không còn thấy bóng dáng chị nữa. Khi
dân làng xì xầm rằng anh đội trưởng hợp tác xã đá chẻ đã dẫn chị Mẹo vào
Long Khánh xây tổ uyên ương, thì hai bà cháu ôm nhau gào khóc tưởng chừng
như con trai bà chết lần thứ hai.
Mẹ anh Mẹo không đủ sức làm sào ruộng đành trả lại cho Hợp tác xã nông
nghiệp. Ðể kiếm tiền mua gạo bà bắt chước lối xóm đặt vài chai xăng trước
ngõ bán cho xe máy nổ qua lại trên đường đi thị xã. Thằng Ni con anh Mẹo
không có tiền đóng phụ phí học đường. Nó đành bỏ học lo giúp bà nội mua
bán xăng với vài vỏ chai serum đựng xăng đặt trên chiếc ghế đẩu. Dù thân
thể gầy còm của tuổi lên mười hai mà thằng Ni phải làm cái việc khuân đá
chẻ nặng nhọc, lăn từ trên cao xuống chân núi từng viên đá sắc cạnh chất
thành đống bên đường để có chút ít tiền công phụ cho nội nó. Thằng Ni còn
phải giành mối, luồn lách mua xăng từ các bác tài xế bộ đội hay xe tải cho
nội nó bán. Nhờ vậy mà bà cháu có đủ tiền mua gạo mắm nuôi sống qua ngày.
Vì tiếp xúc thường xuyên với hơi xăng từ nhỏ, thằng Ni bắt đầu ghiền mùi
xăng. Một ngày không ngửi được mùi xăng là nó ngơ ngơ ngẩn ngẩn như người
lảng trí. Nó ghiền mùi xăng như ghiền thuốc phiện.
Khi con đường chạy vòng qua núi Ðá Chẻ được mở qua hướng khác tiện lợi
hơn, thì đoạn đường đi qua làng Ðá Chẻ vắng hẳn xe qua lại. Những chai
xâng không còn xuất hiện bên lề đường. Bà nội của Ni dẹp nghề bán xăng và
Ni không còn xăng để hít. Nó bắt đầu lang thang đến đoạn đường mới đứng
chờ chực chỗ bán xăng khi nào có xe ghé vào đổ xăng là nó nhào tới hít lấy
hít để. Khi đã cơn ghiền nó nhe răng cười, một nụ cười vô hồn khiến người
ta sợ hãi. Những lúc cơn ghiền nổi lên nó lén mở cả nắp xăng xe Honda để
hít. Không may bị chủ xe bắt gặp, tưởng nó lấy trộm nắp xăng là bị đòn nhừ
tử . Cái tên Ni cúng cơm được thay bằng “Thằng Hít Xăng” từ đó.
Thằng Hít Xăng vừa tròn mười sáu tuổi mà đã mang dáng nét đàn ông, vai u
thịt bắp. Ai sai việc gì nó cũng làm chẳng nề hà nặng nhọc chỉ cần có cơm
ngày ba bữa và có xăng cho nó hít. Ngày ngày nó tiến dần ra thị xã kiếm ăn
quên cả bà nội ở dưới quê, và quên luôn người mẹ đã bỏ nó theo chồng
mới.
Một hôm nó gặp người con gái lai Lào hơn nó hai tuổi con ông Ba Lới một
cán bộ miền Bắc công tác tại Luâng- bra-bang một tỉnh lỵ của nước Ai Lao
hồi hương về Việt Nam sau năm 1975. Ông Ba ăn lương hưu, hưởng tiêu chuẩn
nhà ở do nhà nước cấp. Căn nhà tọa lạc gần quốc lộ ở vùng ngoại ô thị tứ.
Con bé phát triển rất nhanh về thể xác, còn trí tuệ lại trì độn không theo
kịp với tuổi đời. Vì vậy mà việc học hành dở dang. Dù tiếng Việt nó nói
thành thạo nhờ sống chung với cộng đồng Việt kiều ở Lào, nhưng vẫn không
hòa đồng được với đám bạn láng giềng của nó cùng lứa ở quê.
Lúc nó mới lên mười hai tuổi mà đã rủ rê đám nhóc con trai làm tình với
nó. Quờ quạng chẳng được gì, lũ nhóc bị nó đánh bầm cả mặt. Nó lại kéo
những thằng cỡ tuổi lớn hơn ban đêm ra bãi cát ven sông. Cuối cùng, cũng
bị nó cào cấu chửi mắng đuổi đi. Bố nó biết được cấm cửa không cho nó ra
ngoài. Ðêm nào hàng xóm cũng nghe tiếng nó gào thét, đập phá đồ đạc trong
nhà.
Năm mười bảy tuổi nó đã lê la đến các quán cà phê, quán phở. Chỉ cần một
ly nước, tô mì là mấy tay thanh niên có thể dẫn nó đi đâu cũng được. Nó
thú thật, ngày nào mà thiếu đàn ông thì cả ngày rạo rực, bứt rứt đến độ
nổi cơn điên. Nghe đâu bố nó nhờ đến bác sĩ chích thuốc điều trị để quân
bình hai loại hoóc-môn nam va nữ nhưng đâu cũng vào đấy.
Con bé bỏ nhà sống lang thang từ ngày bệnh viện trị liệu bằng giải phẫu
mà không thành công. Bố nó chán nản, buồn bực bỏ cuộc. Con bé lại đi rông
vào các quán ăn gạ gẫm đám khách đàn ông. Ðã mấy năm nay, dân vùng nầy
quen tai, quen mắt xem nó như một con bé bệnh hoạn điên khùng nên ít người
để ý tới nữa.
Từ ngày gặp thằng Hít Xăng, con nhỏ lai Lào hình như đã chịu đèn. Ðêm nào
nó cũng kéo thằng Hít Xăng ra ngoài bờ sông ôm nhau ngủ trên bãi cát. Bố
nó quyết định dẫn hai đứa về nhà vừa hợp tình hợp cảnh mà chẳng tốn kém
gì. Chỉ cần thêm chén, thêm đũa trong ba bữa ăn và chai xăng thường trực
trong nhà là tránh được tai tiếng cho ông. Thằng Hít Xăng ăn uống đầy đủ
lại có áo quần lành lặn trông nó chững chạc và có phần sáng sủa ra. Nó có
sức mạnh và siêng năng nên được nhiều người mướn làm công việc khuân vác
bỏ hàng hóa cho con buôn và làm cả việc nặng nhọc khác trong nhà, cũng như
ngoài đồng.
Năm mười bảy tuổi, một dịp may đến, thằng Hít Xăng được một quả phụ giàu
có ở thị xã mướn ở trong nhà để đạp xích lô chở bà đi giao dịch công việc
làm ăn hàng ngày. Ðược bà chủ sắm cho quần áo mới trông nó cũng ra dáng
lắm. Nó vừa giữ nhiệm vụ đưa rước vừa xách cặp theo sau hầu cận bà chủ.
Sau một ngày đi đó đi đây liên hệ các cơ quan, các xí nghiệp, bà chủ thật
sự mệt mỏi. Tối về, lưng đau nhừ, tay chân rời rã bà sai thằng Hít Xăng
tắm rửa sạch sẽ vào phòng tẩm quất cho bà. Nó chẳng biết gì về cái chuyện
đấm bóp. Khờ khạo, lạng quạng một hồi lâu khiến thêm nhức mình nhức mẩy,
bà chủ bực mình hét toáng lên. Những lần sau bà phải hướng dẫn nó từng chi
tiết chỗ nào trên thân thể cần đấm mạnh tay, chỗ nào chỉ cần bóp nhẹ. Ðôi
bàn tay khỏe mạnh, thằng Hít Xăng lần lượt nắn bóp từng sớ thịt trên đôi
chân đầy đặn, trên đôi cánh tay tròn lẳn rồi qua chiếc lưng trần múp rụp.
Nó thảng thốt nghĩ thầm : Sao da bà chủ trắng đến thế! Quả thật nó chưa
bao giờ được thấy một màu da mịn màng trắng như cơm trái dừa non. Lưng bà
nội nó thì bày cả xương vai, xương sườn, da già nhăn nheo, tái nhợt. Con
lai Lào thì da dẻ tối sầm khô khốc.
Ðôi bàn tay thằng Hít Xăng cứ xoa nhẹ trên làn da lưng êm ái của bà chủ
trong nỗi nhớ mông lung về màu da mát mịn của bầu vú mẹ mình thuở nào.
Thằng Hít Xăng đã vô tình gây kích thích cho bà chủ. Chồng chết đã lâu,
hôm nay mới có bàn tay đàn ông sờ nắn trên thân thể mình đã đánh thức sự
ham muốn của bà. Không kìm chế nổi, bất ngờ bà lật người lại rịt đầu thằng
Hít Xăng siết mạnh vào bộ ngực đồ sộ của mình.
Có phải do hơi xăng tác động vào cơ thể khiến cho thần kinh thằng Hít
Xăng chai lỳ và dẻo dai. Ðặc biệt hơn cả là “cái dương vật khác thường”
của nó mà sau nầy người ta biết được đã ví nó như nhân vật Lao Ái
của Trung Hoa thời xưa. Bà chủ đã qua hai đời chồng cao sang danh vọng
nhưng chưa bao giờ đạt được cơn khoái cảm tột đỉnh của người đàn bà. Giờ
đây dù là đứa nghèo hèn, thằng Hít Xăng đã cho bà hưởng được cái cảm giác
đặc biệt của tạo hóa ban cho nữ giới. Và từ đó đêm nào thằng Hít Xăng cũng
phải làm cái công việc đấm bóp và thỉnh thoảng được ngủ luôn trong phòng
bà chủ.
Dù to con lớn xác của cái tuổi mười tám đôi mươi, nhưng đầu óc nó không
phát triển đồng bộ. Cái tính ngây thơ trẻ con vẫn còn, vì vậy mà nó đi
khoe với bạn bè chuyện của nó được ngủ trong cái phòng thơm tho của bà
chủ.
Các mệnh phụ phu nhân dưới thời "kinh tế thị trường kiêm định hướng xã hội
chủ nghĩa "mỗi ngày mỗi phát giàu nhanh lại càng đua đòi hưởng thụ để bù
lại những ngày đói khổ. Các đấng phu quân là cán bộ gộc lo lập “phòng nhì”
thích “cỏ non” bỏ quên vợ già khiến mấy bà hận tình, hận đời thề quyết
nổi loạn cho khỏi uổng phí cuộc đời.
Bà chủ xích lô rất sành tâm lý nên biết tỏng tòng tong cái thói rạo rực
của các mệnh phụ kia. Vốn là dân chạy mánh bà chủ lợi dụng thằng Hít Xăng
làm vật trao đổi với mấy bà vợ của các ông chồng ty trưởng, sở trưởng,
tổng giám đốc công ty quốc doanh trong công việc đấu thầu, gởi gắm, mối
lái tuyển dụng nhân viên... Quý bà âm thầm giới thiệu thay nhau giữ
rịt thằng Hít Xăng trong nhà. Cây kim trong vỏ bọc lâu ngày cũng phải xì
ra, việc thầm lén của mấy bà cũng vậy. Một hôm, bà chủ xích lô lên tiếng
trách móc vợ của ông giám đốc xuất nhập khẩu :
- Này, đằng ấy thực tình không biết điều tí nào. Ðã nói trước là tôi cho
bà mượn nó vài ngày thế mà bà quên lời hứa không trả lại cho tôi đúng thời
hạn.
- Ơ hay, bà chị xem nó là loại gì, đâu phải con búp bê làm đồ chơi riêng
của chị. Là con người, nó thích ai thì nó ở, tôi làm sao đuổi nó được.
- Nhưng nó là sở hữu của tôi bởi tôi đã đích thân tìm đến quê mướn nó.
- Mặc kệ chị, chừng nào nó nhớ tới chị là nó trở về , tôi không cản.
Bà chủ xích lô giận quá phun miếng kẹo cao su đang nhai bay vèo qua trước
mặt bà vợ cán bộ, mắng :
- Ðồ dâm loạn, rồi bỏ đi.
Bà phu nhân chẳng vừa, nguýt dài, chửi với theo :
- Hứ, còn hơn con lợn nái, rồi quay lưng với thái độ đắc thắng.
Giúp việc cho các bà có nhà cao cửa rộng, ăn uống đầy đủ lại được nuông
chiều, thằng Hít Xăng quên hẳn con lai Lào, ở luôn ngoài tỉnh lỵ. Con lai
Lào thì nhớ nó bèn ra thị xã tìm kiếm đã mấy tháng qua. Biết được thằng
Hít Xăng hiện đạp xích lô nên nó đứng loanh quanh ở ngã tư canh chừng
những chiếc xích lô chạy qua.
Một hôm, bất ngờ nó nhìn thấy thằng Hít Xăng chở một bà trung niên, mặt
trét son phấn lòe loẹt, thân hình phốp pháp. Con lai Lào băng qua đường
chạy theo, kêu lên:
- Bớ Ni, mầy đi đâu mà bỏ tao một mình bao lâu nay.
Kéo thắng chiếc xích lô dừng lại, thằng Hít Xăng xuống xe đứng chờ. Con
Lai Lào nhào tới, hai đứa ôm nhau. Bà chủ bước xuống xe mặt hầm hầm đến
nắm tay con lai Lào kéo ra khỏi thằng Hít Xăng rồi xô nó té sấp. Mặt con
Lai Lào cày trên lề đường, máu mũi tuôn ra ướt cả ngực áo.
Ðứng khựng một lúc, mặt thằng Hít Xăng ngớ ra. Khi bà chủ đến trước mặt
hằm hè hối thúc nó lên xe, bất ngờ nó dang tay tát vào mặt bà chủ một cú
như trời giáng rồi kéo tay con lai Lào chạy ra khỏi thị xã hướng về nhà bà
nội nó ở làng Ðá Chẻ.
Khi đến nơi mới biết nội nó đã chết từ lâu, căn nhà thì đổi chủ. Thằng Hít
Xăng khóc rống lên, nước mắt ràn rụa. Nó đứng thẫn thờ trước hiên nhà đưa
tay đấm vào ngực giận dữ khiến con lai Lào phải ôm nó dìu về nhà.
* * *
Một năm sau, con bé Lai Lào sinh được đứa con trai bụ bẫm. Ông Ba Lới sống
trong cảnh già đơn chiếc mà có được đứa cháu ngoại cũng an ủi được phần
nào. Vả lại, từ ngày đẻ con, đứa con gái của ông đã thay đổi hẳn tính
tình, điềm đạm và biết lo lắng cho con khiến ông rất vui mừng. Thằng Hít
Xăng vẫn mang bịnh nghiền mùi xăng nhưng chịu khó làm ăn. Và đặc biệt nhất
là nó thương con vượt mức bình thường.
Một hôm, thằng Hít Xăng đang làm công việc chất những kiện hàng lên xe
tải. Bỗng một đám khói đen cuồn cuộn bốc lên trong xóm bên kia đầu cầu. Cả
đám khuân vác ngừng tay nhìn về hướng có đám khói. Một người hoảng hốt kêu
lên:
- Cháy nhà !
Người khác hỏi :
- Khu nhà ai ?
- Hình như khu nhà thằng Hít Xăng.
Nghe thế, thằng Hít Xăng ngước nhìn về hướng khói đang bốc lên ngùn ngụt.
Bất giác, nó vất bao hàng trên vai xuống xe rồi cắm đầu cắm cổ chạy về
nhà.
Ðúng là nhà của ông Ba Lới, bố con Lai Lào phát hỏa. Kẻ cầm xẻng hắt từng
xẻng cát, người chuyền tay từng thùng nước tạt vào lửa. Con Lai Lào vừa
gào khóc vừa chấp tay van xin mọi người cứu con nó trong căn nhà đang
cháy.
Mọi người lắc đầu bất lực vì lửa mỗi lúc mỗi bốc lên rần rật, phủ trùm cả
căn nhà.
Thằng Hít Xăng vừa chạy về đến nhà biết được đứa con nó bị kẹt trong căn
nhà, với bộ áo quần ướt đẫm mồ hôi nó phóng người qua ngọn lửa đang liếm
vào khung cửa lớn. Vì quá bất ngờ không ai kịp cản ngăn trước hành động
liều lĩnh của thằng Hít Xăng do lòng thương con thôi thúc. Tình phụ tử
thiêng liêng tạo thành sức mạnh vô biên khiến cho con người không sợ chết
trước hiểm nguy để bảo toàn tánh mạng cho con mình.
Mọi người đang hồi hộp đợi chờ. Bỗng một khối lửa đỏ rực lao qua khung cửa
chính. Thằng Hít Xăng vụt hiện ra trên tay bồng đứa bé năm tháng tuổi cháy
nám đen cùng với thân thể nó đang bốc lửa. Vừa bước ra đến sân, thằng Hít
Xăng đổ nhào, tay vẫn còn ôm chặt con nó vào ngực. Người ta tập trung nước
tưới lên thân thể hai cha con nhưng không cứu kịp. Con bé Lai Lào nhào tới
ôm chầm lấy hai cái xác cong queo. Nó gào lên một hồi rồi ngất lịm.
Mùi thịt khét lẹt trộn lẫn với mùi vải cháy cùng với hình ảnh hai cánh tay
lửa đốt nứt cả da của người cha ôm chặt lấy đứa con vào lòng đến độ dính
vào nhau gỡ không ra đành phải để vậy liệm chung một quan tài, đã khiến
cho bao nhiêu người rơi nước mắt và chắc chắn hình ảnh đó sẽ không phai mờ
trong tâm khảm mọi người.
Sau khi chôn cất cha con thằng Hít Xăng, con bé Lai Lào bỏ nhà ra đi không
về. Bố nó đi hỏi dò khắp nơi. Kẻ bảo thấy nó ngồi sau xe Honda của một
người đàn ông. Người khác nói có chiếc xe con đến đón nó ngoài đầu cầu...
Vài tuần lễ sau, người đi rừng phát giác xác con Lai Lào đã rữa nát nằm
co quắp trên mộ của cha con thằng Hít Xăng chôn tại nghĩa địa của dân
làng tận trên khu rừng đèo heo hút gió.
Mấy năm sau, trong những đêm mưa phùn gió bấc, cánh thợ rừng thường chứng
kiến hai ngọn lửa phụt lên từ hai ngôi mộ của thằng Hít Xăng và con Lai
Lào nhập vào nhau bay là là trên mặt đất rồi vụt tắt trên giữa tầng
không. Người ta bảo đó là khí thiêng của ba linh hồn lạc lõng tìm đến với
nhau! /.
Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích