Sau hơn ba mươi tám năm VNCH bị sụp đổ
nhưng ngày nay vẫn còn nhiều tác giả ngoại quốc khi viết về cuộc chiến trên,vẫn
cứ dựa vào các tài liệu tuyên truyền của cọng sản, nên thường lý luận một
chiều, đôi lúc thật hàm hồ bừa bãi. Chính những cuốn sách này, đã khiến cho ai
khi đọc tới, cũng đều có cái cảm tưởng, là những người lãnh đạo nước Mỹ lúc đó,
toàn ngu xuẩn hay điên rồ, cho nên mới bị sa lầy và tháo chạy khỏi miền Nam,
vào ngày 30-4-1975 một cách nhục nhã . Riêng đối với người Mỹ, qua thói quen tự
cao tự đại, sau khi tháo chạy khỏi chiến trường để bị mang tiếng bội tín với
thế giới tự do, vì không giữ được lời hứa, bảo đãm quyền sống tự do của đồng
bào Nam VN. vẫn cứ phải loay hoay giữa tự ái và lương tâm, khi muốn giải đáp trước
công luận, lý do tại sao một cường quốc bách chiến bách thắng như Mỹ lúc đó và
ngay cả ngày nay, lại có thể bị thua trước một đối phương nhỏ bé, lạc hậu như
cọng sản Bắc Việt ?
Ngày nay nhờ những khai quật từ các
văn khố khắp thế giới, nhất là sự sụp đổ của gần hết khối xã hội chủ nghĩa
trong đó có Liên Xô và các nước Ðông Âu nhưng quan trọng nhất vẫn là những bản
tự khai của các chóp bu tại Bắc Bộ Phủ, cho ta nhận rõ phần nào giải đáp trên,
khi đã biết rõ thực chất của cuộc chiến Việt Nam (1955-1975). Tất cả từ đầu cho
tới cuối, hoàn toàn không ăn nhằm gì tới lòng ái quốc, yêu nước thương dân, mà
báo chí Tây Phương thường gán ghép để có cớ ca tụng Hồ Chí Minh và đảng VC
trong suốt cuộc chiến, vì bị tuyên truyền một chiều. Nay sự thật đã bị phanh
phui, gây chiến tại Ðông Dương lần thứ 2 (1946-1975), thật sự là không cần
thiết lúc đó. Nhưng đối với Liên Xô, gây chiến lại là kế hoạch nô lệ hoá toàn
cầu của cọng sản đệ tam quốc tế. Ðiều này ngày nay cũng đã được nhiều cán bộ
cao cấp của VC như Trần Bạch Ðằng, Võ Văn Kiệt.. xác nhận. Bắc Việt, trước sau,
hồi đó hay bây giờ, miên viễn cũng chỉ là tên lính tiền phương, đánh thuê hay
làm giặc để mong được đổi đời, như mặt thật ta đã thấy suốt ba mươi năm nay tại
quê nhà. Còn hậu cứ lớn không phải tại Hà Nội, mà ở tận Mạc Tư Khoa, Bắc Kinh, được
Hồ Chí Minh cùng đồng đảng mang về bành trướng khắp nước. Sứ mạng của Hồ đã
hoàn thành một phần, ít ra là đã nhuộm đỏ được ba nước Việt-Lào-Cao Mên trên
bán đảo Ðông Dương. Nhưng chiến thắng không phải do quân sự mang tới, mà nhờ
vào sự hèn nhát thụ động, của tập thề quần chúng trong vùng, vì sợ sự khủng bố
tàn độc của chủ nghĩa cộng sản, nên cúi đầu tùng phục, để được yên ổn sống, dù
là kiếp sống nô lệ hèn thừa bên lề đường như hiện tại trong thiên đường xã
nghĩa VN. Do đó, hầu hết đã phó mặc vận mệnh của nước, của chính mình cho ai
muốn làm lãnh tụ cũng được, coi đó như là chuyện không có liên can gì tới họ.
Tóm lại, đây là một cuộc chiến vô cùng phức tạp và như Pháp năm 1954, người Mỹ đã
thua cọng sản trong mặt trận ý chí tại thủ đô Hoa Thịnh Ðốn và ngay trên đất nước
mình, chứ không phải ở chiến trường Ðông Dương. Cũng từ đó, người Mỹ thường
nhắc nhớ tới thành ngữ ‘ No more Việt Nam ‘ như một thứ mặc cảm tội lỗi, luôn đè
nặng đất nước Hoa Kỳ, cho tới lúc Tổng thống Reagan vào ngày 21-5-1982, khai
sinh một nước Mỹ mới, khi tuyên bố chiến lược tấn công, để ngăn chận sự bành trướng
của khối cọng sản quốc tế. Từ đó người Mỹ mới thôi cúi mặt và bắt đầu phục hồi
danh dự cho những chiến binh Hoa Kỳ, đã tham chiến tại VN từ 1955-1975 và gọi đây
là một trong những cuộc chiến chính nghĩa, vĩ đại nhât, mà nhân dân Hoa Kỳ đã
thực hiện được, kể từ ngày lập quốc tới nay. Ðối với VNCH, dù người lính miền
Nam đã hy sinh tột đĩnh nhưng cũng chỉ giữ được nữa mãnh đất quê hương, từ Bến
Hải vào tới Cà Mâu, vỏn vẹn chỉ có hai mươi năm trường kỳ máu lệ. Tất cả không
phải vì QLVNCH không chịu chiến đấu trước kẻ thù, hoặc Miền Nam không có tướng
tài và cấp lãnh đạo xứng đáng sau khi Tổng Thống Ngô Ðình Diệm bị sát hại hay
Chính Phủ VNCH không có chính nghĩa như Thượng Nghị Sĩ Mỹ là Mc.Cain vừa tuyên
bố trên báo chí, mà là NƯỚC MẮT NHƯỢC TIỂU VN, hay nói đúng hơn chúng ta đã bị
Thực Dân Mới nhân danh là Liên Hiệp Quốc, bán đứng trong canh bài phân chia
ranh giới chính trị, quân sự giữa hai khối tư bản và cọng sản, đã sắp xếp sẳn
sau khi Ðệ Nhị Thế Chiến kết thúc. Nhiều nước Ðông Âu kể cả Ðức cũng chịu chung
số phận nhược tiểu như VN và Cao Ly, khi nằm trong thế cờ quốc tế đã định đoạt
sẳn. Nhưng may thay Họ đã tự mình tháo gở được gông cùm nô lệ cọng sản vào đầu
năm 1990, khi Liên Bang Sô Viết và phần lớn khối cọng sản đệ tam quốc tế tan
rã.
Tháng 7-1954, Pháp thua trận Ðiện
Biên Phủ đưa tới thỏa hiệp Genève chia hai đất nước VN, giống như tình trạng
của Ðức và Cao Ly năm 1945. Theo nhận xét của GS người Mỹ Hans Morgenthau, thì đây
là trò che đậy sự bất đồng, cũng là sự phân chia sẳn ranh giới chính trị, quân
sự giữa khối cọng sản và Tây Phương, sau khi kết thúc đệ nhị thế chiến. Tại
Châu Âu, từ năm 1947, Liên Xô xé bỏ cam kết , mặc sức tung hoành, dùng quân sự
lần hồi cưởng chiếm các nước quanh vùng, dựng khối Ðông Âu, cô lập trong bức
màn sắt . Tây Bá Linh và hai nước đồng minh của Mỹ lúc đó là Hy Lạp và Thổ Nhĩ
Kỳ, cũng bị nguy khốn, sắp rơi vào tay cọng sản. Ðể đối phó với tình trạng
trên, Tổng Thống Mỹ Truman, buộc lòng phải ban hành chiến lược ‘ Ngăn Chặn ‘, đồng
thời khai sinh chường trình ‘ Marshall’ , viện trợ giúp cho các nước Tây Âu
phục hồi kinh tế, quân sự đã bị thế chiến tàn phá. Song song Mỹ và các nước
trên thành lập Tổ chức Minh Ước Bắc Ðại Tây Dương, nhằm liên kết quân sự, để
bảo vệ lẫn nhau và chống lại sự xâm lăng của Liên Xô và khối cọng sản quốc tế.
Nói chung những nước nào được Mỹ
khoanh vùng, thì được gọi là Ðồng Minh và tận tình bảo vệ như Cao Ly và Ðài
Loan ở Viễn Ðông. Nhưng dù chiến tranh có xảy ra dưới một hình thức nào chăng
nửa, kể cả cuộc chiến thế giới tại bán đảo Triều Tiên năm 1950, thì chủ trương
của nước Mỹ, qua tuyên bố của Tổng Thống Truman, chỉ để ‘ tái lập hòa bình và
biên giới sẳn có đã được qui định từ trước’. Ðây cũng là chiến lược của Mỹ khi
tham chiến tại VN từ 1960-1975, qua nhiều đời tổng thống của lưởng đảng, chỉ
nhằm mục đích ngăn chận làn sóng đỏ, đừng lấn qua ranh giới đã phân chia sẳn,
chứ không phải tới để giúp cho VN giải phóng khỏi ách nô lệ cọng sản. Vì vậy
cuối cùng để hoàn thành chiến lược, cần phải thương thuyết hòa bình, chứ không
phải đánh nhau, để kết thúc chiến tranh tại đó, khi người Mỹ đã đạt được chiến
lược toàn cầu, có lợi cho quyền lợi của nước Mỹ.
Ðiều bất hạnh nhất của dân tộc VN mà
bất cứ ai cũng nhận thấy, là đã có chung biên giới với nước Tàu. Ðã vậy còn bị
lọt vào quỷ đạo của người Mỹ, khi Hoa Lục và Bắc Việt bị nhuộm đỏ . Nên vừa
nhậm chức Tổng Thống Mỹ, Eisenhower đã tuyên bố không để mất Ðông Dương vì đây
là một trong những quân bài Domino toàn vùng Ðông Nam Á, mà VN là tiền đồn quan
trọng nhất. Còn John Kennedy, từ lúc còn là thượng nghị sĩ, vào năm 1956 cũng đã
coi VN rất quan trọng trong chiến lược quốc phòng của Hoa Kỳ, qua các yếu tố địa
dư chính trị. Vì vậy khi đắc cử Tổng Thống, Ông đã chọn Miền Nam VN làm một thí
điểm tại Châu Á, để thực thi nền dân chủ tự do chống lại chủ nghĩa độc tai
khủng bố cọng sản. Ðây cũng là một cuộc trắc nghiệm đầu tiên sau hai cuộc thế
chiến vừa qua, để đo lường về ý thức trách nhiệm cùng bổn phận, của siêu cường
Mỹ đứng đầu khối tự do.. chống lại chủ nghĩa cọng sản. Nhờ vậy ngày nay người
ta mới có được những kết luận rất mẫu mực, về cái gọi là chính nghĩa mập mờ của
người Mỹ tại chiến trường VN, nói là để giúp dân tộc này chống lại cuộc xâm lăng
của Bắc Việt. Tất cả chỉ là một chiến lược què quặt bất nhất, do một mặt thì sợ
dư luận của quần chúng Mỹ phản đối, mặt khác cứ ham muốn đạt nhanh chiến thắng
tại chiến trường nhưng lại không cho phép phe mình tấn công tiêu diệt địch
quân, với lý do sợ đụng độ với Trung Cộng. Ngoài ra các vị Tổng Thống có liên
hệ tới chiến tranh VN như J.Kennedy, Johnson, Nixon và Ford đều chỉ xữ dụng
những phương tiện nhỏ đẻ đòi đạt chiến thắng lớn, nên cuối cùng phải bị sa lầy
về mặt đạo đức, làm cho nước Mỹ bị thế giới cười chê về thủ đọan con buôn chính
trị, từ sau tháng 5-1975 tới nay vẫn chưa lấy lại được uy tín cũ đã đánh mất
tại VN.
Kuwait là một nước nhỏ nằm giữa
Saudi Arabia và Iraq ( 17.820km2-2.100.000 người) nhưng có kho dầu thô dự trữ
chiếm 1/10 sản lượng toàn cầu, nên luôn luôn bị các nước lớn dòm ngó hù dọa
nhất là Iraq, dù nước này đã tài trợ cũng như cho Saddam Hussein vay mượn rất
nhiều tiền. Mùa hè năm 1990, Iraq đòi vua Kuweit là Al-Sabath xóa nợ, đồng thời
phải nhường hai hải đảo trong vịnh Ba Tư. Sau đó vào ngày 2-8-1990, Saddam
Husein ngang nhiên xua quân tiến chiếm thủ đô của Kuweit, rồi sáp nhập vào ‘ đại
Iraq’. Quốc vương và Hoàng Gia nước này may mắn thoát được tới nước Saudi
Arabia. Ngay 29-11-1990, Hội Ðồng Bảo An LHQ ban hành Nghi Quyết 678, cho phép
Ðồng Minh xử dụng vũ lực để giải phóng Kuweit, nếu Iraq không chịu triệt thoái
khỏi nước này trước ngày 15-1-1991. Và rồi, sau tiếng pháo lệnh xuất quân của
Tổng Thống Hoa Kỳ G.Bush, đại quân Ðồng Minh hơn 700.000 người, của 28 nước, vượt
biên giới Saudi Arabie, tấn công Iraq. Cuộc hành quân trên được mang tên Bão Sa
Mạc ( Desert Shield), bắt đầu từ giờ N, lúc 3 giờ sáng thứ ba 17-1-1991 ở
Baghdad, kéo dài 6 tuần lễ, tiêu diệt gần hết đạo quân hùng hậu của Saddam
Husein. Ngày 27-2-1991 Tổng Thống G.Bush tuyên bố chấm dứt chiến dịch ‘ Bão Sa
Mạc ‘ , sau khi đã giải phóng được Kuweit, tạo sự sống chung hòa bình giữa Do
Thái và Khối Ả Rập nhưng trên hết đã dành được mục tiêu tối hậu,là bảo đãm có được
nguồn cung cấp dâu thô từ các nước Kuweit, Saudi Arabie và các Tiểu Vương Quốc
Vinh, với tổng sản lượng dầu dự trữ tới 50% trên thế giới.
Ngày 11-9-2001, 19 không tặc thuộc
nhóm Hồi Giáo cực đoan (al-Qaeda), có liên hệ tới trùm khủng bố quốc tế là
Osamar Bin Laden, uy hiếp cướp bốn máy bay Boeing chở đầy khách, hai chiếc đâm
vào hai tòa cao ốc của Trung Tâm Thương Mại Quốc tế tại New York, chiếc thứ ba đâm
vào Ngủ Giác Ðài ở Hoa Thịnh Ðốn còn chiếc cuối cùng thì rớt bốc cháy ở Tiểu
bang Pennsylvania .Biến cố lịch sử kinh hoàng trên, đã làm cho hơn 7000 người
thương vong, khiến chính phủ Hoa Kỳ quyết định tấn công Taliban đang câm quyền
tại A Phú Hản, để bắt Bin Laden đang lẫn trốn ở đây. Afghanistan từ ngàn xưa đã
là trung tâm điểm của con đường buôn bán tơ lụa và đồ gia vị từ Trung Hoa sang
Âu-Phi hay ngược lại . Ngày nay quốc gia này vẫn được coi như con đường tơ lụa
mới,từ đó tiến về đông bắc và đông nam Châu Á cũng như ra thẳng Ấn Ðộ Dương, để
vận chuyển nha phiến, vũ khí có cả chất Uranium làm bom nguyên tử của bọn buôn
lậu quốc tế và dầu khí của các công ty Hoa Kỳ-Anh-Nhật, có tại các nước Cộng
Hoà cũ, thuộc Liên Xô ở Trung Á và quanh biển Caspi.. Làm chủ được A Phú Hản là
giấc mơ lớn của các cường quốc Tây Phương, lẫn Ấn Ðộ, Ba Tư va Trung Hoa từ xưa
tới nay nhưng hầu hết đều thất bại ở vùng đất núi non hiểm trở này. Tháng
12-1979, Liên Xô lấy cớ ủng hộ phe nhà, xua cả trăm ngàn quân vào cưởng chiếm
nhưng cuối cùng, cũng phải buông bỏ vì thiệt hại nhân mang quá lớn không được.
Hiện Hoa Kỳ nhân danh LHQ đang chiếm đóng nói là bảo vệ nền dân chủ của nước
này.
Tháng 3-2003, mượn cớ Saddam Husein đang
chế tạo bom nguyên tử và nhiều loại vũ khí sinh hóa học, liên quân Anh Mỹ tấn
công chiếm Iraq và bắt được Tổng thống Saddam đang giam chờ xét xử. Tuy nhiên
từ ấy đến ngày nay, khắp nước này kể cả thủ đô Baghdad, không một giờ yên ổn vì
sự nổi dậy chống Mỹ-Anh, của các lưc lượng giáo phái trong nước và tệ hại nhất
là nổ xe bom, người bom tự sát để cùng chết với kẻ thù. Theo tin từ AP, tính
tới tháng 10-2005, Hoa Kỳ đã có 1.953 binh sĩ thương vong phần lớn do mìn bom
gây ra. Sự thiệt hại về nhân mạng hằng ngày là cơ hội để các phong trào phản
chiến bùng nổ trên đất Mỹ, cộng thêm thiên tai bão lut, tàn phá miền Nam Hoa
Kỳvừa qua, làm cho uy tín của Tổng Thống G.W.Bush và đảng Cộng Hòa xuống thấp
chưa từng thấy. Ðể chống đở dư luận, cũng như tiếp tục ở lại Iraq cho có chính
nghĩa, TT Bush lại tuyên bố ‘ đánh Iraq là thực hiện sứ mệnh của Chúa ‘.Trong
lúc đó nhiều người Mỹ bi quan, thì nói Hoa Kỳ lại sa lầy ở Iraq như trước kia đã
sa lầy ở VN. Nhưng nói gì thì nói, sự kiện chính phủ Hoa Kỳ đem ngân khoản hơn
mấy tỷ đô la, nói là để tái thiết Iraq, chuyển sang chiến lược bảo vệ an ninh
và sản xuất dầu tại nước này, đã trả lời câu hỏi trên. Tóm lại việc Hoa Kỳ tham
chiến ở VN từ 1955-1975, chỉ nhằm mục đích chính trị, nên coi đó như một phương
tiện để đạt tới cứu cánh riêng của mình, vì vậy đã thực hiện bằng hành động con
buôn, được che đậy bên ngoài bằng những danh từ hào nhoáng như giúp đở, bảo vệ
hay tiền đồn chống Cộng.. Tại Iraq, Hoa Kỳ gây chiến vừa để bảo vệ đồng minh đang
bán dầu cho mình như Kuweit, Saudi Arabie, các tiểu quốc Ả Rập và Do Thái.. nhưng
mục đích chính là phá vở hành động của Saddam Husein, trong việc đem kho dầu
khổng lồ của Iraq, xếp hạng thừ 2 toàn cầu, bán hay dâng cho Nga-Trung Cộng,
Hoà Lan, Pháp, Bỉ. để lấy tiền mặt hay đổi chác quân dụng tối tân, hầu thực
hiện giấc mộng lãnh đạo khối Hồi Giáo thế giới..
Tại VN trước năm 1975, dù không bị
sa lầy, Hoa Kỳ vẫn tháo chạy vì mục đích nối kết với Trung Cộng, phá vở thế
liên hoàn Nga-Hoa, đã hoàn thành từ 1972. Tại Iraq dù bị sa lầy thực sự, Hoa Kỳ
vẫn không bao giờ bỏ chạy, khi chưa làm chủ được mỏ dầu Iraq và kho dầu cũng như
con đường vận chuyển dầu, từ Caspi-Trung Á, A Phú Hản ra Ấn Ðộ Dương. Ðây chính
là những khác biệt cụ thể của Hoa Kỳ khi tham chiến tại VN và Iraq.
1-HOA
KỲ SA LẦY TẠI CHIẾN TRƯỜNG VN (1955-1975) :
Sau khi rời khỏi chính trường năm
1977, Ngoại trưởng kiêm cố vấn an ninh quốc gia Kissinger, nhân vật mang tiếng đã
manh tâm bán đứng VNCH cho khối cọng sản đệ tam quốc tế, đã lần lượt xuất bản
nhiều tập hồi ký chính trị như : Những năm tháng ở Bạch Cung (1979), Niên đại
sóng gió (1982) và Bí Lục Kissiger.. đã hé mở nhiều bí ẩn lịch sử cận đại về
các thời kỳ chiến tranh lạnh giữa Mỹ-Liên Xô-Trung Cộng,Chiến tranh VN và cuộc
thăm viếng Trung Cộng của Tổng thống Mỹ Richard Nixon vào tháng 2-1972, trước
khi Hà Nội mở cuộc tấn công mùa hè vào các tỉnh Quảng Trị-Bình Long và Kon Tum,
Bình Ðịnh của VNCH. Cũng nhờ những tiết lộ này, mà ngày nay ta mới biết được bộ
mặt thật của cặp Nixon-Kissinger, chỉ vì lợi lộc của riêng mình,đã bán đứng đồng
minh bạn bè cho kẻ thù. Vì muốn kéo Trung Cộng vào phe cánh, Hoa Kỳ qua
Nixon-Kissinger đã chủ động đề nghị viện trợ tối đa cho Tàu, tất cả những quân
dụng vũ khí chiến lược, kể cả cung cấp vệ tinh để Tàu thu lượm tin tức tình báo
từ Liên Xô. Theo Bill Burr, chuyên gia nghiên cứu các vấn đề ngoại giao của Mỹ,
thuộc Ðại Học Washington, cũng là chủ biên hồi ký Bí lục Kissinger, cho biết
cuộc đi đêm bí mật của Kissinger tai Bắc Kinh , khởi đầu từ năm 1971 qua đề
nghị Hoa Kỳ sẽ thiết lập một chương trình vệ tinh tình báo, để tặng Trung Cộng.
Sau đó tại trụ sở LHQ ở New York vào tháng 12-1971, Kissinger đã cho Hoàng Hoa
nhiều tin tức liên quan tới quân sự của Liên Xô, để chuyển về Tàu. Tuy vậy để
che mắt Liên Xô và thế giới, Hoa Kỳ cũng như Trung Cộng luôn đóng kịch kình
chống nhau tại bàn hội nghị. Tóm lại, giống như trường hợp VN, trước khi Tổng
thống Nixon chính thức thăm Trung Cộng và sau này, Kissinger đã bí mật tới Bắc
Kinh rất nhiều lân, để gặp cả Mao-Chu và Trung Cộng cũng đã đáp ứng cho Mỹ
thiết lập một trạm tình báo-quân sự, dọc theo biên giới Nga-Hoa, để thu lượm
tin tức, theo dõi tình hình chuyển động của Liên Xô. Tháng 7-1973, một điệp
viên CIA tên James Lilley được cữ giữ chức trưởng trạm tình báo này, cũng là người
trực tiếp phụ trách đường dây liên lạc Trung-Mỹ. Tháng 4-1975, theo yêu cầu của
Ðặng Tiểu Bình, Tổng thống G.Ford đã viện trợ cho Trung Cộng rất nhiều quân
trang dụng chiến lược, trong đó có nhiều thiết bị điện tử dùng để chế tạo vũ
khí bom đạn hiện đại. Kissinger còn tiết lộ nội dung cuộc họp thượng đỉnh giữa
Nga-Mỹ cho Trung Cộng. Tất cả cho thấy mức độ khả tín của người Mỹ, trong lúc
cùng hợp tác đồng mình, để từ đó chúng ta mới nhận diện rõ ràng về ý nghĩa của
sự sa lầy tại VN, mà các sử gia trong và ngoài nước thường hay gán ghép cho Hoa
Kỳ.
Ðọc lịch sử nước Mỹ, ta thấy dù dân
chủ hay cộng hòa, tổng thống hèn kém như Carter hoặc cứng rắn cở Reagan, thì ưu
tiên số 1 của chính phủ, cũng vẫn là làm sao cho dân chúng Hoa Kỳ được hưởng
thụ nhiều hơn trước, để đảng nọ đảng kia mới còn cơ hội tái đắc cử cầm quyền
tiếp. Hiểu thêm điều này nửa, mới cảm thấy bớt uất nghẹn khi biết Tổng thống
Johnson đã đưa vào VN tới 550.000 quân + 80.000 của các nước Ðồng Minh và 150
tỷ đô la chiến phí. Rồi đang lúc VNCH sắp đạt được chiến thắng cuối cùng, qua
các trận đại chiến vào Tết Mậu Thân 1968, các cuộc hành quân Toàn Thắng vượt
biên giới sang Kampuchia 1970 và nhất là trận Mùa Hè Ðỏ Lửa 1972.. thì Tổng
Thống Mỹ là Nixon, kế thừa chiến lược của TT.Johnson lại ký Hiệp ước ngưng bắn
Paris 1973, tháo chạy khỏi VN, bỏ mặc cho Miền Nam bị toàn khối cọng sản đệ tam
quốc tế cưởng đoạt vào trưa ngày 30-4-1975.
Ngày nay nhờ Quốc Hội Mỹ đã thông
qua đạo luật ‘ Quyền tự do tư liệu và thông tin’, nên Thư Viện Quốc Gia Mỹ đã
giải cấm những văn kiện tuyệt mật, có liên hệ tới cuộc chiến Ðông Dương lần 2
(1945-1975), qua nhiều đời Tổng Thống Mỹ liên hệ, từ Truman cho tới Carter.. Nhờ
vậy người ngoài mới biết được những bi hài kịch đã diễn ra suốt thời gian Mỹ
tham chiến tại VN, ngay trong hậu trường của những chóp bu tại Tòa Bạch Ốc, mà
những nhân vật quyết định vận mạng của VN , phần lớn là Dân Sự hay Chuyên Viên
Hành Chánh, trong đó hầu hết chưa một ngày ở trong quân ngủ hay trốn quân dịch,
như trường hợp của Tổng Thống Bill Clinton sau này. Ðó là việc quân lực Mỹ chưa
bao giờ được phép xữ dụng hết khả năng chiến đấu, nhất là hai quân chủng Không
và Hải quân Hoa Kỳ, chủ nhân ông của bất cứ chiến trường nào, rất được thế giới
nể sợ. Còn một bí mật khác cũng không kém phần bi thảm, đó là khi Mỹ đưa quân đội
mình tới chiến đấu ở VN, thì cũng đồng lúc tư bản Mỹ tha hồ xuất cảng quân
trạng dụng sang Nga, các nước Ðông Âu lẫn Tàu. Sau đó các nước này thay nhản đổi
hiệu, rồi lại chuyển tiếp tới Hà Nội, để Bắc Việt chuyển vận vào Miền Nam cho
Bộ đội Cọng Sản có phương tiện dồi dào , bắn giết chẳng những QLVNCH mà cả quân
Mỹ và các nước đồng minh đang chiến đấu tại chiến trường. Nói chung dù có thái độ
cứng rắn như Tổng thống Truman, trước chủ nghĩa banh trướng sắt máu của Trùm Ðỏ
Staline vào năm 1947 hay to miệng nhảy múa chống cộng cùng mình như Tổng thống
Nixon, thì cuối cùng cũng vẫn là cùng thỏa thuận với nhau để chia chiến lợi
phẩm trên xác chết của con mồi. Ðó là chân lý của nền chính trị con buôn kiểutư
bản Mỹ, vừa la làng xúi gịuc cũng như viện trợ để đồng minh chống cộng. Rồi
cũng Mỹ lại rất tích cực buôn bán đủ thứ kể cả quân dụng vũ khí tối mật quốc
phòng với các nước cộng sản trên.. như hiện tại cuộc giao dịch giữa Mỹ và hai nước
Trung Cộng-Ðài Loan, ai cũng thấy. Ðây cũng là một chứng minh thực tế, để cho bất
cứ ai còn đang mang ảo tưởng vọng ngoại, trong công cuộc quang phục đất nước
khỏi gông cùm cọng sản, xin chớ có hoài cộng đợi chờ . Vì con đường giải thể
chế độ VC hiện nay chỉ có toàn dân VN mới quyết định được, vì chính họ trong
quá khứ, đã tự mình mang vào cổ ách nô lệ cọng sản.
Riêng về câu hỏi, tại sao siêu cường
Mỹ với một bộ máy chiến tranh ghê gớm , lại để cho 55.000 quân sĩ thiệt mạng và
mấy trăm ngàn người khác bị thương ? cuối cùng tháo chạy, sau khi chỉ lấy được
về nước, một số tù binh bị Bắc Việt cầm tù. Ðô đốc Grant Sharp, cựu tư lệnh
Quân Lực Hoa Kỳ tại Thái Bình Dương, đã giải thích ‘ cuộc chiến thất bại không
phải vì chống không lại địch quân, mà vì chính sách của Hoa Thịnh Ðốn đã đẻ ra
quá nhiều chiến lược, nào leo dần tới đáp ứng, rồi đang mềm dẽo đột nhiên dội
bom, sau đó tự ý ngưng và thương thuyết tại bàn hội nghị để đạt chiến thắng.
Cuối cùng tự mình trói tay đầu hàng, rồi tháo chạy khỏi chiến trường, dù chẳng
hề bị sa lầy hay bị lâm vào tuyệt lộ.. ’ ’ Ðây cũng là kết quả như lời cảnh
giác của Tướng Maxwell Taylor, nguyên cố vấn quân sự của Tổng Thống J.Kennedy,
từ năm 1961 ‘ Nếu Hoa Kỳ tới VN với mục đích tối hậu, là giúp cho nước này
chống lại sự xâm lăng của cọng sản, thì cuộc chiến sẽ không có giới hạn, nên
chúng ta không thể không đánh thẳng ra Hà Nội, để tiêu diệt sào huyệt của chúng
‘.Nhưng tiếc thay đất Bắc , nơi phái sinh ra cuộc chiến VN, lại là vùng đất bão
đãm an toàn nhất, mà các tổng thống Mỹ dành cho VC.. Ðã vậy TT Johnson còn cấm
quân Mỹ không được tấn công hay truy sát quân Bắc Việt, tại lãnh thổ Lào và
Kampuchia giáp ranh với VN. Trong khi đó ai cũng biết trên phần đất này, Hà Nội
đang mở đường mòn HCM, lập các khu hậu cần, mật khu, tích trử lương thực quân
dụng và tập trung quân để tấn công vào lãnh thổ VNCH.. Chính cựự Tổng thống
Eisenhower cũng lên tiếng thắc mắc là tại sao TT. Johnson lại không dám tấn
công thẳng vào đầu nảo của quân Bắc Việt tai Hà Nội, trong lúc đó hầu hết tướng
lãnh Mỹ thì phẩn nộ, vì nhận được lệnh đánh nhau với VC phải đạt chiến thắng nhưng
hai tay họ thì bị trói chặt bởi các luật lệ không biết đâu mà mò.
Có thể dùng thời điểm Tổng Thống Mỹ
Eisenhower gởi thư thông báo cho Thủ Tướng Ngô Ðình Diệm vào tháng 10-1954 với
lời hứa giúp VNCH trở thành một quốc gia mạnh, trường tồn, có khả năng chống lại
mưu toan xâm lăng của Bắc Việt.. như là một cột mốc quan trong về sự nhập cuộc
của Hoa Kỳ tại VN. Năm 1961 lúc Tổng Thống J.Kennedy nhậm chức, quan điểm của nước
Mỹ vẫn không thay đổi về việc Bắc Việt đang xâm lăng VNCH, qua hình thức lập
Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.. Tuy nhiên trong thành phần chính phủ Mỹ lúc đó đã
có nhiều khuynh hướng, như thay thế Tổng Thống Ngô Ðình Diệm hay tăng cường
viện trợ, quân sự kể cả gởi quân tới giúp VNCH chiến đấu chống lại sự xâm lăng
của Hà Nội. Sự tự tin hiểu biết về tình hình VN của các tổng thống Mỹ, sau này được
các nhà báo Norman Podhoretz, Theodore H.White.. mai mĩa là không nhủn nhặn mà
cũng chẳng khôn ngoan chút nào, khi thật sự Hoa Thịnh Ðốn lúc đó không hiểu
biết cho mấy về cái chiến trường VN nhỏ bé xa xôi tận miền Viễn Ðông, thế mà
dám đề ra phương thức, chiến lược tràng giang, để giải quyết tình hình chính
trị,, xã hội, quân sự, kinh tế của đất nước ấy. Ðiều này mãi tới năm 1981 mới
thấy một sĩ quan cao cấp Mỹ nêu lên trong tác phẩm của mình ‘ chiến tranh tại
VN là chiến tranh du kích, đáng lẽ ngay khi nhập cuộc, quân đội Mỹ phải hiểu rõ
thực chất của cuộc chiến, để có chiến thuật chống khuynh đảo, diệt du kích, mà
quân đội của các nước khác đều được huấn luyện học hỏi, trước khi nhập trận ‘.Tóm
lại như Nixon đã nhận biết từ năm 1954, cọng sản dùng chiêu bài ‘ chiến tranh
giải phóng ‘, để mà xâm nhập và khuynh đảo chính trị tại Nam VN, chứ không bao
giờ công khai vượt tuyến như tại Triều Tiên năm 1950. Thêm một điểm đặc biệt
khác, là lúc đầu những người trí thức và khoa bảng Mỹ gần như thờ ơ không ngó
tới việc Hoa Kỳ tham chiến tại VN. Nhưng từ giai đoạn 1967 về sau, nhất là sự
kiện cọng sản bị thảm bại trong trận tổng công kích Tết Mậu Thân 1968, thì giới
trên nhập cuộc qua phong trào phản chiến trên đất Mỹ, chống đối và đánh phá
chính phủ dữ dội, còn hơn VC thứ thiệt ở VN.cũng chưa thấy hoạt động công khai
dữ dằn như phong trào phản chiến tại Mỹ. Ðây là một nghịch lý nổi bật và mai
mĩa nhất của Mỹ, trong cuộc chiến VN. Ðó là sự kiện công dân Mỹ (như đào hát
Jane Fonda chẳng hạn), đã công khai đứng hẳn về phía Hà Nội, cổ vỏ cho giặc
chống lại quân đội và chính phủ mình, qua các cuộc biểu tình phản chiến, cầm cờ
máu đốt cờ Mỹ, lên đài phát thanh truyền hình chửi bới hay tới tận Hà Nội để
hoan hô Hồ Chí Minh..
Khi than rằng ‘ Chúng ta đã đánh bại
chính ta ‘, đó là nhận xét của Tổng Thống Johnson về nước Mỹ và ngay cả bản
thân mình, trong suốt thời gian cầm quyền với một sức mạnh quân sự vô địch, nhưng
đầu óc lại chỉ nghĩ tới chiến thắng VC bằng chính trị, một chiến lược giá rẽ,
mà không một nhà lãnh đạo nào của thế giới nghĩ tới sự kỳ quặt này, nhất là khi
phải đối mặt với những kẻ sát nhân khủng bố thâm độc như cọng sản quốc tế. Năm
1967 Nixon nhậm chức tổng thống, khiến ai cũng nghỉ tới nước Mỹ sẽ leo thang
chiến tranh, vì ông ta là một nhân vật diều hâu có môn bài . Ông ta cũng giống
như TT Kennedy và Johnson, có chung mục tiêu là cả ba đều cương quyết không
muốn VNCH phải sụp đổ vì Bắc Việt xâm lăng. Nhưng cả ba đã lầm lẫn chiến lược
lúc nhập cuộc. Với TT Kennedy và Johnson, cả hai cùng chủ trương tham chiến
trong giới hạn, để không gây xáo trộn tại chính quốc, nên nói ngăn chận nhưng
vẫn không cản nổi sự xâm nhập của bộ đội từ bắc vào nam và sự khuynh đảo chính
trị tại VNCH. Khi Nixon lên cầm quyền, cũng là lúc nước Mỹ qua vai trò của
Kissiger, đang đi đêm để nhun nhén sự nới kết Mỹ-Hoa, phá thế liên hoàn
Nga-Trung, trong thế cờ thời chiến tranh lạnh giữa ba nước Hoa Kỳ-Liên Xô và
Trung Cộng. Bởi vậy Nixon không bao giờ dám leo thang chiến tranh tại VN, vừa
phản lại lời hứa ‘ rút quân ‘ khi ứng cử, vừa làm mất sự thân thiện với Trung
Cộng lẫn Nga đang cổ võ và ủng hộ VC cưởng chiếm miền Nam. Ðó là lý do Nixon
trao lại cuộc chiến đang tiếp diễn ác liệt tại chiến trường Nam VN, cho VNCH tự
lo liệu, qua danh từ hào nhoáng ‘ Việt Nam Hóa Chiến Tranh ‘.
Sau này qua các hồi ký chính trị của
những nhân vật thân cận cao cấp của Chính Phủ VNCH như Nguyễn Tiến Hưng, Hoàng
Ðức Nhã.. ta mới biết được gánh nặng của các nhà lãnh đạo VNCH suốt 20 năm tồn
tại, từ Tổng Thống Ngô Ðình Diệm tới TT Nguyễn Văn Thiệu và Trần Văn Hương.. tất
cả đều bị Hoa Kỳ dùng viện trợ và sinh mệnh, để áp lực VN phải thi hành theo đường
hướng của Mỹ, nhất là sự ký kết hiệp ước ngưng bắn ngày 27-1-1973. Ngoài ra
những bức thơ viết tay của Tổng Thống Nixon và Ford, gửi mật cho TT .Nguyễn Văn
Thiệu, với sự trang trọng cam kết, đã nói lên cái gọi là ‘ thực chất của sự mưu
tìm hòa bình trong danh dự ‘ và trên hết đã phần nào lột trần hai nhân vật ‘
Nixon-Kissinger’, trong vai trò chủ động tháo chạy khỏi Miền Nam, để khỏi bị sa
lầy. Không được đáp ứng theo nhu cầu đòi hỏi, TT J.Kennedy đạo diễn tấn tuồng
binh biến ngày 1-11-1963 hạ sát TT hợp pháp của VNCH là Ngô Ðình Diệm, để gây
xáo trộn chính trị suốt ba năm, rồi kết luận miền Nam thiếu lãnh đạo. TT Nixon
và cố vấn an ninh quốc gia Kissinger, dùng đủ mọi thủ đoạn, kể cả hành động đê
tiện là đe doạ ám sát TT Nguyễn Văn Thiệu, để hoàn thành cho được bản hiệp ước
ngưng bắn Paris 1973, mới có cớ hợp thức cho phép bộ đội miền Bắc có mặt tại
miền Nam. Nói là ‘ Việt Nam Hóa Chiến Tranh ‘ nhưng lại cắt viện trợ, ngưng
cung cấp quân trang dụng như lời hứa, khiến cho QLVNCH lâm vào tình trạng kiệt
quệ, phải bỏ nhiều phần lãnh thổ vì không có phương tiện để phòng thủ. Rồi
trong lúc Bắc Việt xua hết lực lượng, tấn công cưởng chiếm VNCH, thì người Mỹ
tháo chạy trong danh dự, suốt đêm trên nóc nhà bằng trực thăng, qua sự đùm bọc
bảo vệ an ninh của QLVNCH lúc đó . Cuối cùng từ ấy đến nay, vẫn không ngớt đổ
tội cho QLVNCH là không chịu chiến đấu, nên quân đội Mỹ phải sa lầy và Miền Nam
mới bị sụp đổ.
2-TỪ
AFGHANISTAN TỚI IRAQ, ÐOẠN ÐƯỜNG CHIẾN BINH MÀ HOA KỲ PHẢI QUA, ÐỂ CÓ DẦU KHÍ :
*Afghanistan, giấc mơ dầu khí của Hoa Kỳ :
Là một nước Cộng Hòa Hồi Gíáo, tính
tới năm 2005, có diện tích 647.000 km2 và dân số 18 triệu người., Afghanistan
tây và tây bắc giáp Iran và Turkmenistan, phía bắc giáp Ukbekistan, đông giáp
Tadjikistan và Trung Cộng, đông nam giáp Pakistan.Ðây là ngả tư của con đường
buôn bán tơ lụa ngày xưa, từ Á sang Âu và mở đường cho các dân tộc vùng Nga La
Tư xuống biển Ấn Ðộ, khí hậi đại lục vô cùng khắc nghiệt (từ +40C xuống tới
-30C) vì có nhiều núi cao, lắm hoang mạc. Ðây là xứ sở của nền văn minh cổ
Aryan, thời Veda còn tồn tại, với truyền thống du mục, rất thiện chiến vì đất nước
luôn có chiến tranh. Dân Afghanistan là một tập hợp gồm 12 sắc dân có ngôn ngữ
và tập quán hoàn toàn khác biệt . Thủ đô Kabul nằm trên cao độ 1800m, gần như
bị cô lập với thế giới khi mùa đông tới. Do những hoàn cảnh khắc nghiệt về địa
lý, thời tiết và nhất là chũng tộc, đã tạo cho đất nước này bao đời sống trong
cảnh phân chia sứ quân, bộ tộc nên ít khi quan tâm tới chính quyền trung ương.
Do trên đất nước cứ triền miên đánh nhau, làm thiệt mạng hơn 1/10 dân số mà hầu
hết là người dân thường . Ngoài ra còn có hơn 7 triệu người chạy tới Ba Tư và
Pakistan tị nan, khi Liên Xô chiếm nước này trong khoảng thời gian từ 1978-1987
. Năm 1992 khi Liên Xô chính thức sụp đổ, mới có chừng 1.5 người trở về nước.
Ðã vậy trong nước còn tệ nạn phân chia đẳng cấp xã hội, trong đó giới thượng đẳng
gồm quý tộc sắc dân Pachtun, tăng lữ và tư bản nắm hết mọi quyền lực về chính
trị, kinh tế. Còn tuyệt đại dân chúng trong nước, bao gồm nông dân, người lính,
giới du mục, thợ thuyền.. bị gọi lả hạ đẳng
Trong nhiều thế kỷ qua, Afghanistan
là một vùng đất gần như bị thế giới quên lãng, dù hai đế quốc Anh và Nga luôn
luôn muốn chiếm quốc gia bỏ ngỏ này, để làm bàn đạp tiền vào khu dầu khí lớn
nhất Trung Á hay xuống tới miền biển Ấn Ðộ Dương, để không chế thủy lộ dầu từ
Trung Ðông về Viễn Ðông, Mỹ Úc. Vào giữa thế kỷ XIX, vua Abdar Bahman thống
nhất được đất nước, trở thành vùng đất trung lập ngăn chia hai đế quốc Anh-Nga.
Tới thập niên 50 của thế kỷ XX, Afghanistan bắt đầu mở cửa và đón nhận viện trợ
từ mọi phía và lần nửa đất nước này lại trở thành miếng mồi ngon để các cường
quốc xâu xé. Biến cố bắt đầu ngày 17-7-1973 , tướng Mohammed Daud đảo chánh,
truất phế vua Zahir Shad và lập nước Cộng Hòa Afghanistan, tự mình làm tổng
thống, thủ đô vẫn ở Kabul.. Ðầu tháng 4-1978, một đảng viên cọng sản thân Nga
là Noor Mohammed Taraki lại lật đổ Daud và biến A Phú Hản thành một nước cọng
sản, nên cuộc nội chiến đã xảy ra . Ðây là cơ hội vàng ròng, để Liên Xô thực
hiện giấc mộng , nên tính đến cuối tháng 12-1979, một mặt Nga đưa các thanh
niên nam nử sang du học tại Mạc Tư Khoa, mặt khác đem hơn 100.000 Hồng quân,
cùng tăng, pháo, phi cơ.. vào nước này. Nhưng người Nga đã vấp phải sự chống đối
kịch liệt của Du kích quân Hồi Giáo Mujahideen, được Mỹ, Pakistan và Saudi
Arabie yểm trợ. Ðể cũng cố thế lực, quân Nhảy Dù và Lực Lượng Ðặc Biệt Nga, vào
giờ G đã bất thần chiếm thủ đô Kabul, giết tổng thống Hafezollah Amine, để đưa
một đảng viên cọng sản khác tên Babrak Karmal thay thế. Cùng lúc đạo quân viễn
chinh Liên Xô chiếm đóng gần hết lãnh thổ Afghanistan, làm cho các nước Tây Phương
bất ngờ nên không có một phản ứng nào để ngăn chặn. Nhưng người Nga đã không
chịu rút ra những bài học trong quá khứ, khi đưa cả nửa triệu Hồng quân vào một
đất nước mà họ đã quá biết rõ về lịch sử vì đã từng bị bại trận ở nước này. Bởi
vậy sau 10 năm chiếm đóng Afghanistan, cũng là một thập niên tồi tệ nhất của
Liên Xô, với hơn 15.000 binh sĩ thương vong, cuối cùng tháng 2-1989 Liên Xô
tháo chạy thật sự, vì bại trận.
Chính phủ cọng sản do Nga dựng lên
cũng sụp đổ theo sự bại trận của Hồng quân Liên Xô vào năm 1992 mở màn nội
chiến giữa các sứ quân bộ tộc, kéo dài tới năm 1886, tàn phá thủ đô Kabul, đã
tạo cơ hội cho Taliban xuất hiện tại đất nước này vào năm 1994. Trên thực tế,
sự rút lui của Hồng quân khỏi A Phú Hãn, sau đó là sự tan rã của Liên Bang Sô
Viết vào tháng 12-1991, theo nhận xét của các nhà bình luận thế giới, thì sự
kiện trên cũng đồng nghĩa với việc nước này trở thành đồng minh của Mỹ. Ý định
này đã manh nha từ thời Tổng Thống Jimmy Carter (1977-1981) , qua chính sach
ủng hộ Du kích Mujahidden, do Cố vấn an ninh quốc gia Zbigniew Brzezinski chủ xướng,được
Pakistan và Saudi Arabie ủng hộ. Theo ký giả Molly Moore của tờ Washington
Post, thì việc Hoa Kỳ ủng hộ cho phong trào du kìch trên (sau này là Taliban)
với hy vọng họ sẽ cấm trồng và sản xuất nha phiến tại đây ( đứng thứ 2 thế
giới), đồng thời qua họ, Hoa Kỳ có thể thực hiện công tác xây dựng đường ống
khổng lồ , để dẫn khí đốt và dầu hỏa, từ nước Turkmenistan, băng qua A Phú Hản,
Pakistan ra Ấn Ðộ Dương. Một con đường thứ hai, từ Turkmenistan qua Iran, Thổ
tới tận Âu Châu. Từ đó qua CIA và ISI (cục tình báo Pakistan), đã tuyển dụng được
nhiều quân trong các trại tị nạn ở Pakistan, để bổ sung cho quân Du kích đang đánh
nhau với Hồng quân tại A Phú Hản. Trong số này, đặc biệt có Osama Bin Laden,
mang theo đoàn quân chí nguyện từ Saudi Arabie tới, cũng xin gia nhập cuộc
thánh chiến. Trong nhóm này còn có giáo sĩ Mohammed Omar của tổ chức Hồi giáo
Hizb-e-Islami, về sau trở thành lãnh tụ của Taliban.
Vì những quyền lợi riêng tư, nên cả
ba nước Hoa Kỳ, Pakistan và Arabie Saudi , đã phải im lặng nhắm mắt làm ngơ trước
những hành động sát nhân diệt chủng của Taliban, nhất là việc đập nát hàng loạt
các pho tượng Phât , đã tồn tại hàng bao thế kỷ tại nước này. Cho tới khi quyền
lợi của Mỹ bị đụng chạm, qua các cuộc tấn công khủng bố tại Kenya, Tanzania
(Phi Châu) và nhất là vụ khủng bố tại New York và Washington vào ngày
11-9-2001, chừng đó người Mỹ mới ra khỏi im lặng và bắt đầu trả đủa ác liệt.
Trong nước khi Taliban lên cầm
quyền, chỉ còn có Liên Minh Phương Bắc của tướng Ahmad Shah Massoud là lực lượng
quân sự duy nhất chống lại. Ngày 9-9-2001 trước vụ khủng bố tại Mỹ, lãnh tụ
Massoud bị ám sát . Tất cả những bi kịch trên của đất nước A Phú Hản, như một
vòng quay lịch sử, đoạn cuối nay lại là điểm khởi đầu, dù gì chăng nữa người Mỹ
cũng đã đạt được mục đích chiến lược, đang cố gắng vãn hồi an ninh tại
Afghanistan để hoàn thành công tác thực hiện ống dẫn dầu khí tới Ấn Ðộ Dương, đã
manh nha suốt mấy chục năm qua .
IRAQ : Ðiểm Nóng Của Thế Giới Vì Dầu :
So với thập niên 70 của thế kỷ XX,
thì giá trị của dầu lữa đã giảm phần nào trong nền công nghệ hiện tại vì nhiều
nước trên thế giới đã xữ dụng các nguồn năng lượng khac để thay thế như nguồn
nhiệt, gió, nước và nhất là các nhà máy điện nguyên tử. Tuy thế tới nay, dầu
lữa vẫn giữ địa vị then chốt trong sự tăng trưởng kinh tế trên toàn thế giới, đặc
biệt là tại Á Châu, qua sự bành trướng kỹ nghệ của Trung Cộng, Nam Hàn.. đã
khiến cho mức tiêu thụ dầu lửa tăng vọt lên hai lần so với các thập niên trước.
Theo ước tính của thế giới, thì trữ
lượng dầu thô trong lòng đất của IRAQ có khoảng 112 ố 200 tỷ thùng, đứng hàng
nhì thế gới, sau Saudi Arabie với 262 tỷ thùng, gấp 5 lần số dự trử của Mỹ hiện
nay. Số dầu của Iraq trên, nếu được khai thác, đủ cung ứng lượng nhập khẩu dầu
của Hoa Kỳ trong 100 năm. Cũng vì lý do này mà Mỹ luôn cải chính dư luận của
thế giới, khi Mỹ đánh Iraq lần thứ hai vào 2003. Từ sau cuộc chiến vùng vịnh
1991, mặc dù Iraq bị LHQ cấm vận, trong đó cấm luôn xuất cảng dâu thô, mà chỉ được
đem đổi lấy thực phẩm mà thôi. Nhưng cấm thì cấm, Saddam Husein vẫn cứ ký rất
nhiều hợp đồng bán dầu, khai thác thăm dò với các Tập đoàn Hà Lan-Anh (Royal
Dutch Shell), Ý (Eni), Pháp (Total Fina Elf) và Nga (Lukoil) .. với tổng số
tiền đầu tư lên tới 38 tỷ đôla. Ðó cũng là lý do tại sao các nước, nhất là
Nga,Pháp (trừ Anh).. đã không ngớt chống đối Mỹ tại diễn đàn LHQ khi nước này
cho biết sẽ đánh Iraq vì đang chế tạo các vũ khí giết người hàng loạt. Thật sự
các nước trên biết, nếu Mỹ vào được Iraq, lật đổ tổng thống Saddam Husein, thì
coi như cac hợp đồng đã ký sẽ không còn hiệu lực. Ngoài ra việc khai thác dầu
khí tại Iraq sẽ thuộc quyền các công ty Mỹ-Anh, cùng các đồng minh có tham dự
như Nhật, Nam Hàn, Úc, Thái..
Iraq phía bắc giáp Thổ Nhĩ Kỳ, phiá
tây giáp Syria và Jordan, nam giáp Saudi Arabie và phia nam giáp Iran và Kuweit
. Hải cảng Basra duy nhất, nằm bên bờ sông Shatt-al-Arab, chảy ra vinh Ba Tư,
cũng là ranh giới với Iran. Diện tích hiện nay của Iraq là 167.920 dặm vuông,
tức 434.913km2, dân số 19 triệu người (77% Á Rập + Kurd) , ngôn ngữ chính là tiếng
Ả Rạp. Ðất đai Iraq phần lớn phì nhiêu, nhờ phù sa của hai con sông Tigris và
Euphrates bồi đắp. Thủ đô Baghdad (4.648.609 người), các thành phố lớn Basra
(616.700 dân), Mosul (570.926).. Iraq có một nền văn minh tối cổ , hơn 5000 trước
Thiên Chúa giáng sinh, qua cai tên là nền văn minh Mesopotamia với hai đế quốc
Babylon (Iraq) và Assyria (Syria) còn tồn tại tới ngày nay. Người Ả Rập đã
chiếm vùng này từ năm 637-640 sau tây lịch (STL) và đặt thủ đô tại Baghdad cho
tới ngày nay. Năm 1225 Mông Cổ chiếm Iraq cho tới khi đế quốc Nguyên-Mông suy
tàn, thì miền đất này lại lọt vào hai thế lực Ba Tư và Thổ Nhĩ Kỳ. Năm 1831
Iraq bị sáp nhập vào đế quốc Ottoman. Trong đệ nhất thế chiến, Thổ theo phe
Phổ-Áo-Hung, nên bị Anh đánh chiếm Iraq và đươc Hội Quốc Liên giao cho quản trị
nước này từ năm 1920. Năm 1932 Anh cho Iraq độc lập nhưng vẫn nằm trong khối
Liên Hiệp Anh, cũng từ đó Iraq gia nhập Hội Quốc Liên (tiền thân LHQ). Sau thế
chiến 2, Iraq gia nhập Liên Minh Ả Rập và tham dự cuộc chiến chống Do Thái với
các nước Ả Rập khác tại Trung Ðông vào năm 1948-1949
Năm 1958, Abdul Karim Kassem cùng
một số tướng lãnh trong quân đội, đảo chánh , lập chính phủ quân phiệt cực hữu.
Ng2y 8-2-1963 đảng xã hội khuynh tả (Ba’ath) lại lật đổ chính phủ Kassem nhưng
chỉ 8 tháng, thì bị Abdel-Salam-Arif, cùng đảng với Kassem cướp lại chính
quyền. Tháng 7-1968, tướng Ahmed Hassan Al-Bakr đảo chánh, lật đổ tổng thống
Rahman Arif. Chính thời điểm này, Saddam Husein lúc đó là phó tổng bí thư đảng
Ba’ath, đặc trách mật vụ, đã được tướng Hassen đưa lên làm Phó Chủ Tịch Hội
Ðồng Cách Mạng, cũng từ đó Saddam bước dần trên bức thang quyền lực không
ngừng. Th1ng 4-1972, Iraq ký hiệp ước hữu nghị với Liên Xô và nhờ KGB tái tổ
chức và huấn luyện các cơ quan tình báo Iraq. Năm 1979, Saddam Husein ép Huasan
thoái vị và chính thức bước lên ngai vàng, đưa nước Iraq từ cuộc chiến này tới
chiến tranh nọ, tới nay vẫn không ngớt bom đạn và chết chóc hằng ngày.
Từ 1980-1988, chiến tranh giữa
Iraq-Iran vì tranh chấp thủy lộ Shatt-al-Arab, khiến hai nước cùng thiệt hại
nặng nề. Iraq chết 120.000 quân và 300.000 bị thương, làm Iraq bị kiệt quệ về
tài chính, nợ các nước hơn 70 tỷ mỹ kim, trong số này có Liên Xô. Chính vì muốn
giựt nợ, nên Saddam Husein đã bất thần tấn công Kuweit vào sáng ngày 2-8-1990
và sát nhập nước này thành tỉnh thứ 19 của Iraq, mở đầu cho cuộc chiến vùng
vịnh lần thứ 1, do Mỹ và 27 nước đồng minh trong LHQ hơn 700.000 quân, ngày
17-1-1991 vượt biên giới Saudi Arab tấn công Iraq để giải phóng Kuweit. Saddam
Husein đã đi vào huyền thoại bằng hai bàn tay đẳm máu người, qua cuộc thảm sát
giết hàng trăm thường dân vô tội người Kurd bằng bom hóa học, mà hầu hết là đàn
bà trẻ nít. Nắm được quyền hành trong tay, Saddam đã ảo vọng sẽ trở thành
Babylon đại đế thuở trước, mở rộng bờ cõi, đánh đuổi Ba Tư, chinh phục lại được
thánh địa Jerusalem. Trong nước,từ năm 1979, Saddam không ngừng thanh toán giết
hại những người đối lập chính trị trong và ngoài đảng Ba’ ath, bằng thủ thuật điều
tra, xử phạt và hăm dọa , đã học được của KGB. Nói chung Saddam ôm hết mọi
quyền hành trong nước, một mình giữ hàng chục chức vụ từ chức tổng thống nước
cho tới tổng bí thư đảng Ba’ath.. Những chức vụ còn lại, do anh em dòng họ, con
cái của Saddam nắm giữ. Nhờ nguồn tài nguyên trong nước khổng lồ, Saddam đã bỏ
hơn phân nửa (50 tỷ đô la), để mua quân trang dụng của Liên Xô, Pháp, Ðức,
Nhật.. để gây chiến tranh khắp nơi và khủng bố 19 triệu người trong nước., biến
Iraq thành một nhà tù khổng lồ. Cuối cùng sự bại trận của Saddam Husein, đã làm
cho Iraq như thiếu vắng một quyền lực chính trị và tạo nên lổ hổng to lớn tại
Trung Ðông, mở đường cho các phần tử Hồi giáo quá khích có xuất xứ từ Iran, nay
có dịp xuất cảng khắp thế giới và tạo hổn loạn cả nước Iraq.
Trong cuộc chiến vùng vịnh lần thứ 2
, từ tháng 3-2003 tới nay, đã có gần 2000 binh sĩ Hoa Kỳ tử trận. Tình hình an
ninh của Iraq nhất là tại thủ đô Baghdad vẫn không tiến triển là bao, ở đâu
cũng có bom xe, bom người tự sát, gần như nổ hằng ngày, dù chính quyền đã ban
hành nhiều biện pháp như giới nghiêm, cấm tàng trữ xử dụng súng đạn và tăng cường
bảo vệ biên giới với Iran và Syria. Một cuộc trưng cầu dân ý về tương lai chính
trị của Iraq, vào ngày 15-10-2005, về bản dự thảo văn bản Hiến Pháp Mới, gồm 3
phe đại diện 3 thành phần cả nước ( Hồi giáo Shiite, Hồi giáo Sunni và bộ tộc
Kurd. Trong lúc hai phe Hồi giáo Shiite và Kurd muốn Iraq trở thành một liên
bang nhưng phe Hồi giáo Sunni lại bác bỏ vì sợ Iraq bị nội chiến.
Giống như sắc dân Ả Rập chiếm đa số
tại Iraq, người Kurd ở miềm bắc cũng có một lịch sử rát phức tạp và oai hùng.
Về nguồn gốc, họ có liên hệ tới tất cả các sắc dân từng định cư ở Kurdistan,
tính tới năm 1990 có dân số chừng 26 triệu (13,7 ở Thổ Nhĩ Kỳ + 6,6 tại Iran +
1,2 ở Syria + một số sống ở Armenia và Azerbaijan). Tại miền bắc Iraq, có 4,4
người Kurd, đa số theo Hồi giáo Sunni nhưng cũng có một số theo Hồi giáo Shiite
và nguyên thủy. Sống biệt lập trên những đồi núi thấp, người Kurd bao đời thường
hãnh diện về danh hiệu ‘ Pesh Mergas (kẻ đối mặt sẳn sàng với cái chết) , qua
bao thế kỷ luôn đòi độc lập tại Thổ và Iraq. Sau thế chiến 1, tại hiệp ước
Sèvre ký năm 1820, Kurd được cấp cho một mãnh đất trong đế quốc Thổ để lập quốc
nhưng sau đó bị Mustafa Kemal bác bỏ. Ðại chiến thứ 2 kết thúc, Liên Xô chiếm đóng
miền bắc Iran, muốn lập một quốc gia Kurd, có thủ đô là thành phố Mahabad trên đất
Iran, nhưng không thành. Thập niên 1970, một người Kurd ở Iran, tên Mustafa
Barzani, sống lưu vong nhiều năm tại Hoa Kỳ. Sau đó qua sự ủng hộ của Mỹ, Do
Thái và Ba Tư, Barzani về miền bắc Iraq tổ chức chiến tranh du kích, để lập
quốc gia Kurd nhưng bị dẹp tan, ông ta chạy về Mỹ và chết năm 1979. Lợi dụng
Iraq đang bận chiến tranh với Iran ở phương nam, người Kurd lại nổi loạn và lập
quốc gia riêng ở miền bắc, được Mỹ và Iran yểm trợ, nhưng vì có quá nhiều phe
nhóm, nên Mỹ không thể giải quyết nổi sự xung đột của các lực lượng lưu vong
Iraq đang chống Saddam. Vì sắp mãn nhiệm kỳ, nên cuối năm 2000, Tổng thống Bill
Clinton buông tay để mặc cho dân Kurd bị tàn sát vì tin tưởng theo Mỹ.
Ðầu tháng 10-2002, trước khi chuẩn
bị giải phóng Iraq để diệt trừ Saddam Husein, Tổng Thống G.W.Bush đã xử dụng
lại Nhóm Iraq lưu vong, trong số này có hai tổ chức của người Kurd là PUK và
KDP. Ðồng thời Quốc Hội Mỹ cũng đã chuẩn chi ngân sách 92 triệu đô, nhằm huấn
luyện đạo quân Iraq lưu vong, mà quân số phần lớn là người Kurd. Tóm lại tương
lai của Iraq hiện nay, là do quyền lực của các nhóm phân chia như thế nào, và
họ có chịu chấp nhận, nhất là người Kurd, theo sự dàn dựng của Mỹ.
Ðối với Hoa Kỳ, mục tiêu chánh tại
Iraq là khai thác dầu khí, cho dù Tổng thống G.W.Bush có nói Mỹ đánh Iraq là
thực hiện sứ mệnh của Chúa. Theo Bộ Ngoại Giao Mỹ loan báo vào tháng 9-2004, TT
Bush đã quyết định, chuyển 3 tỷ mỹ kim từ chương trình dự định tái thiết Iraq,
sang kế hoạch bảo vệ an ninh và khai thác dầu khí. Ðây là một phần tiền mà Quốc
Hội Mỹ đã chuẩn chi từ tháng 10-2003 với ngân khoản lên tới 87 tỷ mỹ kim, dùng
tài trợ cho chiến tranh Iraq Hiện những ngân khoản dành cho việc tái thiết hạ
tầng cơ sở, ngoài điện và nước sạch, hầu như chưa được xữ dụng tới, vì tình
hình an ninh tại Iraq quá tồi tệ. và mất an ninh. Theo các chuyên gia ngành dầu
khí, tình trạng quặng mỏ tại Iraq đã xuống cấp rất nhiều, trước khi liên quân
Mỹ-Anh vào, vì lệnh cấm vận của LHQ.
Tháng vừa qua, do tình hình bất ổn
tại Iraq và nhất là thiên tai bão lụt tại các tiểu bang miền Nam Hoa Kỳ, phá
hũy nhiều dàn khoan dầu ở vịnh Texas, làm ngưng trệ việc lọc và sản xuất dầu
thô, khiến cho giá xăng lên cao kinh khủng. Cũng vì dầu mà nội chiến đã kéo dài
gần 20 năm tại Afghanistan. Ở khu vực Caucase, sau khi Liên Xô sụp đổ , những
cuộc tranh chấp các điểm có dầu khí quanh biển Caspi, ngày nay coi như đã tuột
khỏi sự kiểm soát của nước Nga, biến Trung Á thành lò thuốc súng thường xuyên
nhuộm mùi tử khí. Tóm lại cuộc chiến hiện nay, dù ở Trung Ðông, Trung Á hay
Caucase.. cho dù có mang một màu sắc nào như chính trị, tôn giáo, giải phóng.. cũng
vẫn đều có mùi dầu và sự liên hệ của các cường quốc, trong đó không thể vắng
mặt người Mỹ.
Hiện Nga Mỹ đang tranh dành ráo riết
về việc khai thác kho dầu khí khổng lồ của nước Cộng Hòa Hồi Giáo Turkmenistan
và đường ống dẫn dầu từ đó, qua A Phú Hản, tới Viển Ðông và một đường khác qua
ngã Ấn Ðộ Dương. Ðất nước Turkmenistan phần lớn đều là hoang mạc, trong đó có
miền Karakoum mới được khám phá, bên dưới là một mõ dầu vĩ đại với trữ lượng hơn
8 tỷ thùng và khoảng 8000 tỷ m3 khí đốt. Nhưng sự khai thác đã bị trì trệ vì
cuộc chiến giữa Hoa Kỳ với Taliban và Iraq. Hiện Tổng thống nước này là Niyazov
đã đồng ý cho Hoa Kỳ đóng căn cứ quân sự ở đây, trong lúc các công ty khai thác
dầu của Mỹ cũng ùa theo, chẳng những tại nước này mà cả nước Ouzbekistan cũng được
chiếu cố, vì cũng có nhiều dầu khí không thua kém gì quốc gia láng giềng. Thế
là lịch sử đã tái diễn ở Trung Á, lần trước vào thế kỷ XIX giửa hai đế quốc
Anh-Nga, lần này là Mỹ-Nga. Trung Cộng hiện cũng nhập cuộc, bảo đãm dầu của
Trung Á, sau khi qua khỏi biên giới A Phú Hản, sẽ được nối ống tới tận Thượng
Hải để qua Nhật, mà không cần phải chuyên chở bằng tàu từ Ấn Ðộ Dương về. Con đường
tơ lụa ngày xưa, nay được mở lại bằng hệ thống ống dẫn dầu và khí đốt. Ðể tranh
dành ảnh hưởng với Nga, dù thực tế đã không còn, các công ty Mỹ ồ ạt bỏ vốn đầu
tư vào thủ đô Tachkent của Ouzbekistan. Trước kia dự án của các nước Tây Phương
là mở đường dầu từ Trung Á xuống vịnh Ba Tư nhưng bất thành, Ngày nay ước vọng
coi như đã thành tựu vì hai vùng cấm địa là A Phú Hãn và Iraq đều do Mỹ-Anh
chiếm đóng. Cuộc chiến tại Iraq năm 2003, đã phá tan các hiệp ước giữa Thổ-Iran
và Turkmenistan, cho nên ta không lấy làm lạ về sự xung đột hiện nay giửa Mỹ và
Iran, có thể dẫn tới chiến tranh không biết lúc nào.
Vùng biẻn Caspi hiện cũng là một kho
tàng dầu khí lớn, với 10% trử lượng của toàn cầu, nằm dưới đất lẫn nước quanh
biển có diện tích bằng VN nhưng luôn bị đe dọa bởi các lực lượng ly khai của
Chechnya và người Kurd. Sau khi Liên Xô tan rã, các công ty dầu khắp thế giới
tụ tập về đây để hy vọng trúng thầu khai thác. Với ba nước cộng hòa cũ của Liên
Xô nằm quanh biển Caspi là Azerbaijan, Kazakhstan và kirdmenistan , đều không
muốn Nga và Ba Tư nhúng tay vào. Người Mỹ tuy chậm chơn nhưng từ tháng 8-1997
CIA cũng đã thiết lập một cơ quan đặc nhiệm, trong đó có nhiều kỷ sư dầu khí, để
kiểm tra và tìm kiếm các mõ dầu tại Trung Á và biển Caspi. Hiện đã có đường ống
dẫn dầu khí của các công ty Mỹ, từ Caspi chạy tới Ceyhen (Thổ Nhĩ Kỳ), ra Hắc
Hải, mà không qua Teheran (Iran), dù ngắn hơn.
Tóm lại dầu khí càng ngày càng khan
hiếm, trong khi các giếng dầu sẳn có thuộc OPEC cũng bắt đầu ít dần. Trong lúc đó
tại Iraq cũng như vùng Trung Á và Biển Caspi, dầu khí coi như mênh mông vô tận,
chỉ mới khai thác một phần nhỏ. Trong lúc các nước phương tây khác muốn kiếm
dầu, phải mất nhiều thời gian hơn ở các vùng xa xôi nguy hiểm. Còn Mỹ-Anh, từ
lâu đời dã có sẳn những đồng minh dầu rất trung thành ở Trung Ðông như Saudu
Arabie, Kuweit, các tiểu vương quốc Ả Rập và cả Iraq lúc trước. Nên việc Mỹ-Anh
đánh Afghanistan hay Iraq, trước sau gì cũng phải xãy ra., cho dù không có biến
cố 9-11-2001, vì đó là vấn đề sinh tử của Hoa Kỳ. Trong nền kinh tế thị trường
hiện nay, không có chuyện gì xãy ra, ở bất cứ nơi nào, mà không ảnh hưởng tới
những nơi khác. Tình trang này càng được tô đậm thêm bởi sự khuynh loát của hai
thế lực cọng sản và tư bản. Trong bối cảnh đó, VN hay A Phú Hản hoặc Iraq .. trước
sau gì cũng là những quốc gia nhược tiểu, nên phải đành chấp nhận những thê
thảm sẳn dành . Buổi trước dân tộc VN vì nằm trong thế cờ quốc tế đã bị chiếu
sẳn, nên bị Mỹ tới gây cuộc đao binh, rồi bỏ đi sau khi đạt xong mục đích. Iraq
và Afghsnistan ngày nay, cũng bị Mỹ khoanh vùng vì tiềm năng kinh tế, nên dù có
bị sa lầy thật sự vì quân sự, Hoa Kỳ vẫn ở lại, cho đến bao giờ vùng này không
còn gì để mà khai thác. Chừng đó dù không cần đuổi , người Mỹ vẫn ra đi.. -/-
Xóm Cồn Hạ Uy Di
1-2012
MƯỜNG GIANG