Bài
viết này trình bày những suy tư cá nhân về trường hợp các nhân vật được
xem hay tự nhận là “đối kháng“ do Hoa Kỳ cấp giấy nhập cảnh nên đã sang
Mỹ nói chung. Nói riêng thì nó chú trọng vào khía cạnh các nhân vật
“đối kháng“ dự kiến tiến hành thủ tục pháp lý nhằm truy tố các tội ác của cộng sản trước nền công lý nhân loại.
Khi người Việt Nam được nước ngoài thu nhận
Sau
ngày 30.04.75 một số lớn đồng bào chúng ta có cơ may được nhiều quốc
gia thuộc “thế giới tự do“ thu nhận. Rất nhiều người nghĩ rằng phen này
mình sẽ đem chuông đi đấm nước người. Các chuyên viên kinh tế tài chánh,
các kỹ thuật gia v.v..thường nuôi mộng sẽ có dịp thi thố tài năng trong
xã hội mới nơi đất khách. Tôi quen một ông giáo sư đại học kinh tế.
Trong một buổi hội thảo, ông lớn tiếng tuyên bố sẽ dạy cho người Đức làm
kinh tế. Một ông giáo sư dạy Đức ngữ ở cấp trung học thời Việt Nam Cộng
Hoà chuẩn bị tâm trạng để sang Đức dạy tiếng Đức. Ngay một bà sinh sống
bằng nghề tiểu thương cũng lạc quan bảo rằng ở Việt Nam mà mình còn
buôn bán được thì sang Đức mình sẽ kinh doanh qui mô. Vân vân. Tất cả
những trường hợp tôi vừa liệt kê đều tỏ ra hết
sức tự tin khi minh hoạ khả năng thi thố tài năng nơi quê người để rồi
sau đó họ sống rất thoải mái trên vùng đất lạ nhờ trợ cấp xã hội. Cho
nên nếu những nhân vật chính trị “đối kháng“ được Mỹ nhân danh điều được
gọi là “nhân quyền“ mang sang nước họ trong thời gian gần đây có lớn
tiếng tuyên bố hơi hơi đại ngôn thì đó là điều rất hợp thế thái nhân
tình.
Khi chư vị “đối kháng“ tuyên bố vào thuở ban đầu
Tất
cả quí Ông quí Bà sang Mỹ theo tư cách “trục xuất“(?) hay không trục
xuất đều đồng thanh khẳng định là mình sẽ tiếp tục đấu tranh. Định luật
này không có ngoại lệ. Chẳng có ai khi mới chân ướt chân ráo ra khỏi phi
cơ mà lại lên tiếng công khai bảo rằng mình sang Mỹ là để sống đời hưu
trí hay ít ra thì cũng để sống cảnh an thân. Cư xử như thế thật đáng
hoan nghênh. Nhưng ý chí quang phục quê hương dần dà nhạt nhoà đi cùng
với cuộc sống kéo dài trên đất lạ và kết quả là những thành phần tạm xem là “đối kháng“ rốt cuộc cũng chỉ sử dụng những biện pháp chống cộng giống y như người tỵ nạn;
thậm chí còn thua người tỵ nạn, ví dụ họ không hề hay rất ít tham gia
các vụ biểu tình chống đối những lãnh tụ cộng sản công du ngoại quốc.
Ngoài ra do chịu ảnh hưởng quá nặng của chính sách tuyên truyền nhồi sọ,
họ dễ có những phát biểu, những nhận thức không đúng chân lý lịch sử;
và tình trạng này hạn chế không ít tác dụng chống cộng của họ.
Đáng
nói hơn là những dự tính riêng tư lúc ban sơ của từng người. Không muốn
bài viết quá dài, tôi chỉ xin đan cử trường hợp hai Ông Bà Nguyễn Văn
Hải và Tạ phong Tần. Ông Điếu Cày Nguyễn Văn Hải vừa mới qua được Mỹ là
đã tuyên bố sẽ canh tân đường lối thông tin trong cộng đồng người Việt ở
nước ngoài và sẽ kết hợp truyền thông giữa quốc nội và hải ngoại. (Tôi
chỉ ghi lại nội dung chính, tôi không chủ tâm phải ghi nguyên văn lời
phát biểu). Cá nhân tôi chờ mãi vẫn chưa thấy kết quả cụ thể của đường lối này.
Ngoài ra, Ông Nguyễn Văn Hải còn cho biết sẽ kiện cộng sản trước các
toà án quốc tế. Tôi rất vui khi nghe tin này, dẫu biết rằng nói và làm
khác nhau rất rất rất xa. Thế rồi mấy hôm nay niềm vui tưởng đã tắt lịm
bỗng nhen nhúm trở lại khi nghe lời tuyên bố của Bà Tạ Phong Tần. Lời
tuyên bố của Bà mạnh mẽ hơn so với lời tuyên bố trước đây của Ông Nguyễn
Văn Hải. Nhiều lần, Bà Tạ Phong Tần dùng tính từ quen thuộc của ngôn từ
cộng sản, tính từ “hoành tráng“. Nói chung, Bà sẽ kiện cộng sản trước
các toà quốc tế một cách “hoành tráng“ vì Bà mang được sang Mỹ đầy đủ hồ
sơ án lệ. Khác và cũng hơn Ông Nguyễn Văn Hải, Bà Tạ Phong Tần tỏ ra
rất tự tin khi trình bày tâm nguyện bản thân.
Truy tố tội ác Việt cộng : hết phe quốc gia...
Nhiều
lần tôi từng nhận định rằng chỉ có biện pháp truy tố tội ác Việt cộng
trước các pháp đình quốc tế mới là một biện pháp tấn công, chủ động,
xung kích nhắm vào phía địch; còn tất cả
các biện pháp khác – biểu tình tuần hành, hội thảo hội luận, dựng lại cờ
vàng, đặt tên Saigon Nhỏ, sáng tác chính luận v.v..– đều chỉ là những
biện pháp thụ động, bị động, tự vệ nhằm giữ đất giữ người. Cho
nên cùng với một vài đồng bào và tổ chức khác, cá nhân tôi đã tìm hiểu
và đệ đơn truy tố tội ác giặc cộng, nhưng chúng tôi, cho đến nay, đã
không đạt được thành quả nào cả. Xin sơ lược kể ra sau đây : Luật sư
Nguyễn Thành ở Florida, Hoa Kỳ; Thiếu tá Liên Thành ở California, Hoa
Kỳ; Ông Trúc Lâm Nguyễn Việt Phúc Lộc ở Bern, Thụy Sĩ. Nếu kể cả bản
thân tôi thì đã có bốn công dân gồm hai công dân Hoa Kỳ, một công dân
Thụy Sĩ và một công dân Đức quốc lập thủ tục truy tố tội ác giặc cộng
trước các cơ quan bảo vệ công lý quốc tế. Chúng tôi sử dụng tố quyền của
những nạn nhân trực tiếp của chính quyền cộng sản; nói cách khác, chúng
tôi tố cáo các trọng tội hình sự của cộng sản trước nền công lý nhân
loại với tư cách là chứng nhân hay hội đoàn. Nhưng không có toà án quốc
tế nào chịu chấp đơn khởi tố của chúng tôi vì những tội danh do chúng
tôi nêu ra đều đã mất thời hiệu. (Tôi chỉ nêu các trường hợp tố tụng
đứng đắn, đàng hoàng).
...đến người cộng sản
Thoạt
nghe nhị vị Nguyễn Văn Hải-Tạ Phong Tần cho biết sẽ kiện Việt cộng, tôi
đã cảm thấy ngỡ ngàng. Cùng chung hoàn cảnh với hai vị, cùng bị cộng
sản câu thúc thân thể một cách phi pháp – theo lời tố cáo của cả ba
người – còn có luật sư Cù Huy Hà Vũ. Hơn nữa, Bà Cù Huy Hà Vũ cũng là
luật sư. Tại
sao tiến hành một công việc thuộc phạm vi luật pháp mà lại không do hai
chuyên gia về luật, nạn nhân trực tiếp của lạm quyền tư pháp, chủ xướng
và chủ trì?
Toà
án quốc tế có rất nhiều nhưng theo sự hiểu biết của cá nhân tôi thì chỉ
có hai cơ cấu thích hợp với việc chúng ta theo đuổi là International Court of Justice (ICJ) thiết lập năm 1945 và International Criminal Court (ICC)
thiết lập năm 2002. Nhưng ICJ chỉ thụ lý những vụ tranh chấp (general
disputes) do các quốc gia khởi tố, hay nói cách khác, các cá nhân không
được phép nộp đơn kiện cáo tại ICJ. ICC nhận đơn truy tố về những trọng
tội quốc tế thuộc ba lĩnh vực diệt chủng, tội ác chống nhân loại và tội
ác chiến tranh (international crimes of genocide, crimes against
humanity, and war crimes). Thuộc loại hình crimes against humanity có
imprisonnement or other severe deprivation of physical liberty và
outrages upon personal dignity [bỏ tù hay câu thúc thân thể trầm trọng
(chẳng hạn “tập trung học tập cải tạo“ đối với “ngụy quân ngụy quyền“)
và xúc phạm nhân phẩm]. Hai nhân vật “đối kháng“ Nguyễn Văn Hải-Tạ Phong
Tần có thể tự xem là đối tượng của hình thức tội phạm hình sự này vì cả
hai đã bị cộng sản giam cầm và ngược đãi. Như thế, đối với ICC và trên
nguyên tắc, họ có tố quyền. Nhưng có tố quyền là một chuyện, truy tố
được hay không là chuyện hoàn toàn khác.
Hai mặt của một vấn đề
Công
pháp quốc tế sẵn sàng tạo cơ hội cho nạn nhân các chế độ tàn bạo sát
nhân giữ một vai trò tích cực, chủ động, trung tâm, trọng yếu trong tiến
trình truy tố tội ác của những chế độ liên hệ. Nạn nhân không phải chỉ
giữ vai trò nhân chứng mà còn có quyền yêu cầu tiến hành điều tra tội ác
để rồi cùng tham gia tiến trình truy tố và đòi hỏi bồi thường. Nhiều
quốc gia văn minh dân chủ đã cùng đồng loạt ban bố thủ tục cụ thể nhằm
tiến hành truy tố và kết tội những tên sát thủ đồng thời bồi hoàn thiệt
hại tinh thần và vật chất cho nạn nhân oan ức. Nhưng đó là lý thuyết.
Khi
thực hành thì khác. Như đã trình bày, hai Ông Bà Nguyễn Văn Hải-Tạ
Phong Tần chỉ có thể truy tố tội ác cộng sản trước ICC. (Thật ra còn có
European Court of Human Rights hoạt động từ năm 1959 lận và chuyên xử
các vụ vi phạm nhân quyền nhưng nó chỉ thụ lý các án lệ liên quan đến
công dân Liên Âu. Egon Krenz, cựu Bí thư Đảng Cộng sản Đông Đức, đã nộp
đơn kiện tại pháp đình này vì cho là mình bị luật pháp Đức tuyên án oan
ức.) Vì là một international court nên dẫu nhị vị là công dân Hoa Kỳ
(hay công dân Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam), nhị vị vẫn được phép
nộp đơn truy sách. Tuy nhiên, hoạt động của ICC vốn đặt cơ sở trên văn kiện mệnh danh là Pháp chế La mã (Rome Statute) mà quốc gia Việt nam cộng sản lại không chịu ký tên
cũng như không chịu phê chuẩn văn kiện lập pháp này. (Đã có 122 quốc
gia ký tên rồi phê chuẩn; có quốc gia đã ký tên nhưng chưa phê chuẩn như
Do Thái, Thái Lan, Hoa Kỳ; 43 quốc gia không ký tên, không phê chuẩn
trong số có Trung Cộng, Ấn Độ, Lào, Bắc Hàn, Việt Nam).
Dẫu
sao đi nữa, Việt cộng không công nhận thẩm quyền của ICC thì chúng sẽ
không chịu trách nhiệm hình sự khi bị kết án; nhưng nếu hai nguyên đơn
Nguyễn Văn Hải-Tạ Phong Tần đạt được một kết quả nào đó trước Toà Hình
sự Quốc tế International Criminal Court ICC thì cũng ngoạn mục lắm rồi.
Cho nên tất cả vấn đề là hai nguyên đơn họ Nguyễn họ Tạ phải chứng minh
rằng mình là nạn nhân của tội ác chống nhân loại, crimes against
humanity. Lợi thế của hai nguyên đơn : tội ác của giặc đối với hai người
chưa mất thời hiệu.
Cho
đến bây giờ, phe quốc gia không gặt hái được thành công khi truy tố tội
ác giặc cộng chỉ vì : a) thảm sát Mậu Thân Huế không mất thời hiệu nếu
được nền công lý nhân loại công nhận là genocide, là tội ác diệt chủng
nhưng bên nguyên, cho đến nay, đã không làm được việc chứng minh này; b)
các tội ác khác [giam cầm không xét xử (học tập cải tạo) chẳng hạn] đã
mất thời hiệu vì xảy ra từ 1975; c) vả lại Toà Hình sự Quốc tế được
thiết lập từ năm 2002 và chỉ thụ lý những án lệ xảy ra sau niên đại này.
Người
có gốc nguồn từ phía quốc gia đã không thành công. Giờ đến lượt người
xuất thân từ phía cộng sản hành động. Nếu hành động đạt được một chút
kết quả nào đó thì những nhân vật “đối kháng“ đáng được xem là hữu ích
phần nào. Nếu, nếu,nếu...
24.09.2015
Trần Văn Tích