(Là
người Việt, hầu
hết chúng ta ai cũng đã từng nghe và nói câu: “Tiếng Việt còn, Người
Việt còn.” Nhưng chúng ta quên một điều vô cùng
quan trọng là; tiếng Việt nô lệ, thì người Việt nô lệ. Và sự nô lệ này
sẽ dẫn đến mất gốc và dân tộc bị hủy dìệt là điều không tránh khỏi.)
TRUNG QUỐC?
Trần Đức Dũng
Khởi
đầu, những bộ tộc nhỏ sống trên vùng đồng bằng giữa hai dòng sông;
Hoàng Hà phía bắc và Dương Tử phía nam, gọi
nơi này là Trung Nguyên. Tức vùng bình nguyên giữa hai con sông. Trung
là ở giữa. Nguyên là cánh đồng. Cho nên chữ Trung Nguyên chỉ có nghĩa là
cánh đồng giữa hai dòng
sông.
Hai
chữ Trung Nguyên quá mơ hồ không rõ ràng, cho cả vùng rộng lớn. Trong
vùng này có
một địa phương, khá đông dân cư, gọi là Hoa Âm (thuộc địa phận tỉnh Hoa
Nam hiện nay), nên còn được gọi là Trung Hoa. Từ đó hai chữ Trung
Nguyên hay Trung Hoa thường được dùng lẫn lộn. Để phân biệt với Bắc Mạc,
tức vùng sa mạc phía bắc sông Hoàng Hà, họ gọi là Trung Nguyên. Để phân
biệt với Lĩnh Nam, tức vùng đồng bằng phía nam sông Dương Tử, họ gọi là
Trung Hoa.
Thế rồi, qua nhiều thời kỳ,
các kẻ nắm quyền cai trị tự vẽ vời ra đủ điều để sơn phết cho hai chữ
Trung Hoa nhằm đánh bóng thân thế đối với các
xứ lân cận.
Lúc này, bọn cầm quyền bắt
tên bồi bút Khổng Khâu, mà người Việt thường gọi là Khổng Tử, vẽ vời
cho rằng Trung là ở giữa, Hoa là có văn hóa. Ý muốn tôn xưng rằng chỉ có
nơi đây mới là trung tâm văn hóa của con người. Một loại “đỉnh cao trí
tuệ” của thế giới vào thời bấy giờ. Vì thế họ gọi những dân tộc sống
vùng chung quanh là súc vật như: Nam Man (chó); Bắc Địch (sâu); Đông Di
(rắn); Tây Nhung (khỉ). Cũng bởi ngu si và đầu óc bán khai, kém tiến
hóa, nên họ không hề biết rằng gọi như thế tự chính họ còn thua cả súc
vật. Kẻ ngu si thường mắc phải căn bệnh hoang tưởng này để giải tỏa ẩn
ức tâm lý hèn kém, mà cho đến nay chúng ta vẫn còn nhận thấy.
Thật ra, tên họ Khổng xứ Lỗ
(nay thuộc tỉnh Sơn Đông) nhận lệnh đi ăn cắp văn hóa của phương Nam,
tức của dân Bách Việt, rồi đem về xào nấu, nên hắn ta chỉ dám gọi là đồ
ăn cắp chứ không phải tự tay tạo ra (thuật nhi bất tác). Bán khai đến
độ, hắn ta cũng không hề biết và cho rằng trà và lúa của dân Bách Việt
phía nam sông Dương Tử đang dùng là kỳ lạ và chẳng phải là những món ăn
uống mà kẻ có văn hóa nên dùng. Thế nhưng sau khi uống thử rồi thấy ngon
thấy ghiền. Cái tài lưu manh của kẻ ăn cắp luôn là tẩy xóa hết dấu vết
cũ rồi cho là của mình. Để bây giờ cả thế giới, ngay người Việt cũng tin
chắc rằng trà phát xuất từ Tàu. Cũng theo lệnh trên, tên bồi bút họ
Khổng này đưa ra những thuyết ma mỵ để đặt ách nô lệ lên đầu người dân
như; thuyết thìên mệnh, ngũ thường, và trung quân ái quốc, vân vân.
Con trời, gì mà bị kẻ khác
soán ngôi tàn sát thẳng tay không chừa một mống. Ngũ thường gì mà trong
cung đình, con giết cha để cướp ngôi, hai cha con cùng lấy một vợ, con
cướp vợ của cha rồi loạn luân, chém giết, tàn sát lẫn nhau lẫn nhau đủ
kiểu. Thế nhưng chúng bắt mọi người dân phải trung thành với kẻ cai trị
mới gọi là yêu nước. Điều này chẳng khác gì hiện nay bọn giặc cộng cố
tình nhét vào đầu người dân Việt câu “yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội.”
Thật ra, tên Khổng Khâu này
chỉ là một kẻ bồi bút cho bọn
cầm quyền vào thời bấy giờ. Chẳng khác nào Tố Hữu, Cù Huy Cận, Chế Lan
Viên, Xuân Diệu sau này của Việt cộng. Và hiện nay, để áp đặt ách nô lệ
này, giặc Bắc ra lệnh cho bọn tay sai Việt cộng thành lập viện Khổng Tử
tại Hà Nội để bắt dân Việt thờ lạy như ngày trước trong thời đại phong
kiến gọi là Văn Miếu.
Những người Việt mang nặng
tinh thần nô
lệ nên cứ mãi bị giặc Bắc lừa gạt mà tôn thờ tên bồi bút này là bậc
thầy muôn đời (vạn thế sư biểu). Hãy để cho những người này thỏa mãn
kiếp nô lệ và thờ
Tàu của họ. Nhưng chúng ta, những người Việt biết tự trọng và có tinh
thần dân tộc, không nên làm điều này. Không những thế, mỗi người nên có
trách nhiệm đối với dân tộc và tổ quốc. Nghĩa là khi nghe người khác
hiểu sai nói sai, chúng ta nên trình bày, giải thích cho họ hiểu rõ sự
việc. Cùng giúp nhau hiểu rõ vấn đề, thì không có gì phải ngần ngại, hay
lo sợ cả. Mà đây lại là vấn đề sống còn của cả một dân tộc. Đây là
trách nhiệm của mọi người Việt, không riêng gì ai cả. Mọi người dân đều
hiểu rõ tức là dân trí được nâng cao. Sự hiểu biết của người dân càng
nhiều, bọn Việt cộng càng lo sợ. Điều này ai cũng hiểu cả.
Để áp đặt tinh thần nô lệ và
phong kiến trở lại, kẻ cầm quyền Việt cộng đang âm thầm đem các từ ngữ
mang nặng tính thần quan liêu phong kiến, vào đầu người Việt như: quan
chức, ngài. Người Việt sống tại Miền Nam trước năm 1975 sẽ dễ dàng nhận
ra điều này. Danh từ quan chức hoàn toàn không có trong ngôn ngữ Miền
Nam. Thay vào đó, là nhân viên, hay viên chức chính quyền. Hoàn toàn
không có chữ quan trong đầu người dân sống dưới chế độ tự do dân chủ
Việt Nam Cộng Hòa. Danh từ ngài, chỉ dùng cho các đấng tối cao, giáo chủ
trong tôn giáo. Trường hợp ngôi thứ hai trong văn bản, thì chỉ là:
“Thưa tổng thống.” Không bao giờ có hình ảnh của kẻ nô lệ cúi đầu khuất
phục như trong câu: “Kính thưa ngài thủ tướng,” như hiện nay trong xã
hội cộng sản. Nêu ra điều này để mọi người cùng nhận ra rằng, qua ngôn
ngữ, Việt cộng đã cố tình đưa người dân Việt trở về thời kỳ quan liêu
phong kiến và nô lệ cũ.
Từ xưa, Trung Nguyên này là
nơi tranh giành quyền lực tự do và được xem là vườn hưu
hoang không có chủ. Kẻ nào giành được thì mặc sức mà cai trị. Và họ
cũng chẳng có khái niệm gì về quốc gia dân tộc. Kẻ nắm quyền cai trị
luôn có tham vọng bành trướng và xâm chiếm các nước chung quanh. Thời kỳ
Chiến Quốc là một thí dụ điển hình lịch sử về sự tranh giành quyền lực
nơi vườn hưu hoang này. Với tinh thần đó, và nhằm trấn áp người dân để
cai trị nên kẻ nào lên nắm quyền cũng tự xưng mình là con trời, là lớn,
là đại. Như Đại Chu, Đại Tần, Đại Hán, Đại Đường, Đại Tống, Đại Nguyên,
Đại Minh, Đại Thanh. Đại sau thẳng tay tàn sát tiêu diệt đại trước. Và
đại cuối cùng thì bị tám cường quốc Tây phương cùng nhau xẻ thịt. Nên
thực tế chẳng có ma nào là đại cả.
Cho nên người Tàu chỉ có
khái niệm về triều đại chứ không biết thế nào là dân tộc và tổ quốc.
Điều này còn
hiện rõ trong nếp sinh hoạt của người Tàu hiện nay nơi hải ngoại. Thí
dụ; Tàu Hồng Kông, Tàu Singapore, Tàu Đài Loan, Tàu Phúc Kiến, Tàu Quảng
Đông, Tàu Mã Lai, vân vân. Không Tàu nào chịu chơi chung với Tàu khác
cả. Bởi điều dễ hiểu, trong đầu người dân đến cả kẻ nắm quyền cai trị,
không có dân tộc Tàu, không có dân tộc Trung Hoa, hay Trung Quốc. Bởi
thế, để thực hiện Bước Tiến Nhảy Vọt, dùng lương thực của Tàu đổi lấy kỹ
thuật của các nước cộng sản Đông Âu, Mao Trạch Đông sẵn sàng cho 17
triệu người Tàu chết đói mà chẳng hề bận tâm.
Chữ triều có nghĩa là nhiều
lượn sóng có ngọn gập đầu xuống cùng nhau chạy về một hướng, là tấp vào
bờ, như thủy triều, hải triều. Từ đó, bọn cai trị dùng chữ triều
mang ý nghĩa cùng khoanh tay cúi đầu chầu và hướng về. Bởi vậy trên
trang phục chúng luôn cho thêu nhiều lượn sóng cuốn gục đầu trên áo quần
các quan lại, hoặc các nơi như sảnh đường xử án. Và khi gặp nhau, kẻ
dưới phải khoanh tay và cúi đầu theo đúng hình ảnh của chữ triều đã thêu
trên quần áo, và hiện hữu khắp nơi qua tranh ảnh, chạm khắc. Nói theo
ngôn ngữ trong khoa Tâm Lý Học, đó là những kỹ thuật khống chế tư tưởng
(mind control) vô cùng tinh vi và ma quỷ.
Triều cống nghĩa là cúi đầu
dâng nộp phẩm vật quý giá lên cho ông chủ. Triều đình là cái sân để cả
đám quan lại đứng khoanh tay cúi đầu chầu về ông vua ngồi trên cao.
Triều đại có ý nghĩa nguyên thủy là khoanh tay cuối đầu hướng về ông chủ
lớn. Những
chữ này, thể hiện tinh thần ngạo mạn, tham vọng quyền lực, luôn bắt các
nước nhỏ xung quanh phải quy phục kẻ cai trị ngồi ở giữa. Các chữ Trung
Hoa hay Trung Quốc cũng mang tinh thần ngu xuẩn nhưng ngạo mạn này.
Ngày nay với kiến thức về địa dư thế giới, mọi người Việt đều biết rõ xứ
này chẳng có gì để tự xưng là Nước Ở Giữa cả. Thế nhưng nhiều người
Việt vẫn đang chấp nhận điều này qua ngôn ngữ. Đây là biểu hiện của một
kiến thức kém cõi và nặng tinh thần nô lệ.
Người Việt, sống trên vùng
đất phía nam sông Dương Tử, từ vùng núi Ngũ Lĩnh và hồ Động Đình trở về
nam, nên gọi là xứ Lĩnh Nam. Họ vẫn luôn biết mình là dân tộc Bách Việt.
Để chống lại ý tưởng bá chủ, hống hách của những kẻ phương Bắc, và
quyết tâm giữ vững tinh thần tự chủ và độc lập, người Việt luôn nêu cao
tinh thần Đại Việt, Đại Nam qua mọi thời kỳ lịch sử.
Lưu
Bang, một tên
thôn trưởng lưu manh sống bên dòng sông Hán Thủy, cướp công Hạng Võ,
diệt Tần lên nắm quyền cai trị (256 trước TL). Để thành lập triều đại,
Lưu Bang lấy chữ Hán từ tên con sông rồi gọi là Triều Hán, và tự xưng là
Đại Hán. Sự cai trị của dòng họ lưu manh này kéo dài suốt 400 năm, nên
hai chữ đại hán đã ăn sâu vào đầu của nhiều thế hệ dân cư trong vùng. Để
sống còn, tránh cảnh bị tàn sát và tiêu diệt, dân tộc hay bộ tộc nào
trong vùng bị cai trị cũng tự gọi mình là người Hán. Ngay cả chữ viết
đã có trước đó từ lâu chúng cũng bắt mọi người gọi là chữ Hán. Người
Việt sau này, dưới sự áp đặt của Tàu mấy trăm năm trước cũng mặc nhiên
chấp nhận điều này. Cho đến nay, hầu hết người Việt cũng vẫn còn gọi là
chữ
Hán. Không mấy ai dám gọi là chữ Tàu cả. Vì họ sợ. Sợ điều gì họ cũng
không rõ. Nhưng vẫn cứ sợ và gọi như thế là đủ an tâm. Nêu điều này ra
để chúng ta cùng nhận rõ cái tinh thần nô lệ này đã truyền đời đến cả
ngàn năm nay vẫn còn nhiều người Việt không chịu nhận ra và quyết tâm
tiêu trừ.
Sau khi Mông Cổ diệt Đại
Tống lập Đại Nguyên cai trị
xứ này cả trăm năm. Đến khi Trần Hữu Lượng (Lượng là con trai Chiêu
Quốc Vương Trần Ích Tắc – qua việc thông đồng với giặc, vương bị anh là
vua Trần Thánh Tông không giết nhưng đuổi ra khỏi Việt Nam và qua Tàu
sống ở vùng Trường Sa, Quảng Đông ngày ngay) đánh đuổi Mông Cổ chuẩn bị
lên ngôi thì bị Chu Nguyên Chương cướp công và lập nên Đại Minh. Dòng họ
Ái Tân Giác La của bộ tộc Mãn Châu (Nữ Chân, Kim sau đổi là Thanh) diệt
Minh, rồi cũng gọi là Đại
Thanh. Thời kỳ nầy không còn ai dám nhận mình là Đại Hán hoặc Đại Minh
nữa cả. Và bọn đại hán (trong đầu người Việt) phải cạo đầu thắt bính như
người Mãn Châu. Nếu không sẽ bị chặt đầu ngay. Lúc bấy giờ, trong dân
gian, vì quen miệng họ vẫn gọi xứ này là Trung Nguyên hay Trung Hoa. Tuy
rằng biên giới đã vượt qua sông Dương Tử và tiến xa xuống phương nam.
Sau này một vài người Tây
phương, vốn không biết nhiều về xứ này, nên cho rằng người sống
ở đây là dân Hán, nhưng họ lại gọi là nước Tần. Người Việt vốn nặng
tinh thần nô lệ lại tôn thờ khoa học tây phương, nghe người da trắng Âu
Châu gọi thế nên vội vã cho là có tộc Hán. Đây là sự di căn của căn bệnh
nô lệ. Ngày trước họ thờ Tàu. Khi Tàu đi, Tây đến thì họ đành phải thờ
Tây. Đối với họ hễ người Tây phương nói là phải đúng, và họ
không hiểu rõ nghĩa chữ tộc trong tiếng Việt. Điều này cũng ngây ngô
chẳng khác nào hiện nay bảo những người sống tại Mỹ là dân tộc Hoa Kỳ.
Ai cũng biết chỉ có người Mỹ chứ không có dân tộc Hoa Kỳ. Xứ Tàu cũng
chỉ là một loại hợp chủng quốc ở Châu Á mà thôi. Hiện nay, ngoài hàng
trăm ngôn ngữ của những dân tộc thiểu số, Tàu vẫn còn xử dụng sáu ngôn
ngữ chính. Ngay cả Mao Trạch Đông vẫn nói tiếng Hồ Nam, khiến nhiều
người Tàu nghe không hiểu. Không có ngôn ngữ Tàu chính thống, tuy rằng
phần lớn là tiếng Việt do dân Bách Việt sống khá nhiều ở vùng phía Nam
sông Dương Tử, mà còn giữ rõ âm Việt nhất là tiếng Quảng Đông, Quảng
Tây. Vì sự kiện này nhiều người Việt Nam, không chịu tìm hiểu lịch sử
của tộc Bách Việt, lại nặng
tinh thần nô lệ, nên cứ cho rằng tiếng Việt hiện nay là mượn từ tiếng
Quảng Đông của Tàu. Dù vẫn còn sáu ngôn ngữ chính, nhưng chữ viết chỉ
một, do Doanh Chính, tức Tần Thủy Hoàng, thống nhất chữ viết để dễ bề
cai trị, và gọi là quan thoại, tức ngôn ngữ của quan lại. Đến thời bạo
chúa Mao Trạch Đông, vốn xem Tần Thủy Hoàng là thần tượng, cũng bắt
chước Doanh Chinh bắt sửa lại chữ Tàu và gọi là chữ Tàu đơn giản. Ở đây
chúng ta gọi là chữ Tàu, nhưng sẽ còn vô số người Việt quyết tâm giữ chữ
Hán trong đầu cho đến chết, và truyền lại cho con cháu.
Dưới áp lực xâm lăng của
giặc Bắc, người Việt từ vùng Động Đình Hồ, dần dần bị đẩy xa về phương
nam. Qua thời gian, người Việt còn ở lại vùng phía Nam
sông Dương Tử đã quên mất nguồn gốc Bách Việt của mình. Nhưng họ không
hề bị đồng hóa, vì dân số Việt tộc ở những vùng này vẫn luôn nhiều hơn
những bộ tộc hỗn tạp nhỏ khác. Họ chỉ mất gốc. Một điển hình trong lịch
sử cận đại là Tôn Dật Tiên (Sun Yat Sen), sinh ở Quảng Đông, người mà
dân Tàu đang thờ phượng và suy tôn là cha đẻ của cuộc Cách Mạng Tam Dân,
vốn là người Việt. Ông ta biết rõ điều này. Tuy vậy, vì quá lâu đời và
vì sự nghiệp chính trị ông không dám nói rõ thân thế. Trong khi đó dòng
họ Lý của Việt Nam sống tại Đại Hàn gần ngàn năm nay vẫn luôn tự hào
mình là người gốc Việt. Nên khi vừa lên cầm quyền, tổng thống Lý Thừa
Vãng của Nam Hàn đã nhờ tổng thống Ngô Đình Diệm truy tìm gia phả của
dòng họ Lý
tại Việt Nam.
Chiến
thắng mùa xuân năm Kỷ Dậu (1789) mọi người Việt đều đã biết. Sau khi
đánh quân Thanh một trận nhớ đời và đuổi ra khỏi bờ cõi, Quang Trung
Hoàng Đế liền có kế hoạch lấy lại đất bị giặc Bắc cướp trước đó. Theo
chương trình, vua Quang Trung sẽ đuổi Mãn Thanh trở ngược về phía Bắc
sông Dương Tử, quyết lấy lại vùng Lĩnh Nam của dân Bách Việt ngày xưa.
Bước đầu, nhà vua bắt Càn Long phải gả con gái và trả lại hai vùng đất
Quảng Đông và Quảng Tây. Sau đó sẽ làm bàn đạp để bắc tiến và tây tiến.
Càn Long liền gởi chiếu mời vua Quang Trung sang Bắc Kinh để đàm phán.
Nhắm để phòng sự tráo trở của giặc Bắc cùng sẵn dịp hạ nhục Càn Long của
Đại Thanh, vị Hoàng Đế Đại Việt cho người giả trang dẫn phái đoàn sang
Tàu. Trên đường
đi phái đoàn Việt cố tình hành hạ bọn quan lại Tàu đủ điều, nhưng chúng
cũng phải cúi đầu chịu nhục. Càn Long vẫn biết rõ trưởng phái đoàn chỉ
là vị vua giả. Nhưng mở miệng ra lại sợ nhục nhã, nên hắn đành phải câm
miệng và dùng đủ lễ nghi để tiếp đãi phái đoàn. Đây cũng là một sự nhục
nhã nặng nề mà Càn Long của Đại Thanh đành phải nuốt sâu vào lòng.
Vua Quang Trung cho Càn Long biết, nếu không chịu trả đất, vua Việt sẽ giúp bọn
phục Minh nổi dậy diệt Thanh.
Vừa
mới bị đánh một trận kinh hoàng, lại muốn giữ ngôi để tiếp tục cai trị
xứ Tàu, Càn Long đành phải nuốt nhục cúi đầu chấp nhận. Nhưng mọi việc
chưa xong thì vua Quang Trung băng hà. Thế là việc đòi lại đất của người
Việt
xem như bất thành.
Nếu
vua Quang Trung không mất sớm và bắt Càn Long của Đại Thanh trả lại
Quảng Đông, Quảng Tây cho Đại Việt thì hôm nay đã không có Tôn Dật Tiên
cho dân Tàu thờ làm Quốc Phụ. Nêu ra điều này để người dân Việt thấy
được
sự ngu ngốc của người Tàu. Đúng ra, mọi người Việt đều có bổn phận phải
nói rõ điều này cho người Tàu, và nhất là cho Tập Cận biết mỗi khi hắn
cúi đầu lạy Tôn Dật Tiên.
Chữ
Qin được Tàu phát âm là Ch’in, người Việt phát âm là Tần. Từ âm Ch’in
này người da trắng gọi xứ này là China hay Sino. Khi nắm quyền Doanh
Chính dùng chữ Đại Tần vì lấy tên
địa phương của xứ Tần (hiện nay thuộc tỉnh Giang Tô). Cho nên người Tây
phương dùng chữ China, Sino, Chinois là do sự diễn âm chữ Tần (Ch’in),
để gọi xứ này. Hoàn toàn không có ý nghĩa gì là Nước Ở Giữa cả. Xin
người Việt không nên đem hình ảnh của hai chữ Trung Quốc trong đầu của
mình mà áp đặt lên chữ China, Sino của người da trắng.
Người da trắng gọi
họ là Tần. Tại sao chúng ta không dám gọi họ là Chệt hay Tàu? Hỏi tức đã trả lời rồi vậy.
Mãi
đến thời kỳ Mãn Thanh vẫn chưa có hai chữ Trung Quốc. Năm 1927, Nhật
tiến chiếm vùng Mãn Châu, lập ra Mãn Châu Quốc, sau đó cai trị toàn
xứ Tàu. Tiếp theo xứ Tàu bị Hoa Kỳ chẻ ra làm hai thế lực chính trị
vào năm 1949. Ngay sau khi đánh bại Nhật, năm 1945, lúc đầu Mỹ tính giao
cả nước Tàu cho Tưởng Giới Thạch, để loại trừ Trương Học Lương, vốn gốc
Mãn Châu, lên năm quyền. Nhưng sau đó, năm 1948, Mỹ đổi ý, đem giao cả
đại lục cho Mao Trạch Đông, được gọi là People's Republic of China. Đảo
Đài Loan thì Mỹ giao cho Tưởng Giới Thạch được gọi là Republic of China.
Để làm vui lòng kẻ bị bạc đãi vì chia đất cho quá ít, Mỹ cho Tưởng Giới
Thạch vào Liên Hiệp Quốc để xoa dịu tự ái. Đến năm 1972, sau thời gian
đủ lâu, Mỹ đuổi Tưởng ra khỏi Liên Hiệp Quốc, đem Mao Trạch Đông vào
thay thế. Và bắt Tưởng phải dẹp bỏ danh xưng Republic of China, mà từ đó
về sau chỉ được gọi
là Taiwan, không có vị thế quốc gia trên chính trường quốc tế.
Hai
xứ này,
lúc bấy giờ, nếu dịch sang tiếng Việt cho đúng nghĩa quốc tế, ở đây
chúng ta sẽ dựa trên tiếng Mỹ, phải là Cộng Hòa Nhân Dân Tàu (Tần), và
Cộng Hòa Tàu (Tần). Cũng như Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam là
Socialist Republic of Vietnam, hay Việt Nam Cộng Hòa là Republic of
Vietnam.
Ở đây, chúng ta nhận ra thêm
một điều vô cùng quan trọng là, do bản chất nô lệ giặc
Bắc, Việt cộng đã âm thầm dùng tiếng Việt theo kiểu Tàu. Các chữ Cộng
Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa đi trước hai chữ Việt Nam. Có nghĩa là tính từ đi
trước danh từ. Trong khi đó danh xưng Việt Nam Cộng Hòa, tính từ phải đi
sau danh từ. Người Việt chúng ta chỉ nói trái ổi xanh, hoặc biển xanh.
Chỉ có dân Tàu mới nói xanh trái ổi, và thương hải.
Có người sẽ cho rằng
chỉ là thứ tự trước sau, ý nghĩa vẫn có đủ, việc gì mà phải chẻ sợi tóc làm tư.
Xin thưa. Một người đảng
viên cộng sản, dù nói hay viết, mà dùng chữ nhân dân, hay nhà nước trước
chữ đảng, chắc chắn sẽ bị giết ngay. Thực tế, không có
người nào dám làm điều này. Bởi họ biết rõ nguyên tắc sinh tử của băng
đảng sắt máu côn đồ này là: Nói Bậy Là Chết.
Trở
lại hai chữ Trung Quốc. Người Tàu, bởi ngu si lại nặng tinh thần hống
hách luôn tự cho mình là lớn, là trung tâm của thế giới, nên họ tự gọi
là Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, và Cộng Hòa Trung Hoa, viết và hiểu theo
cách Tàu dùng tiếng
Việt. Sau khi được Mỹ giao cho cai trị toàn miền đại lục, Mao Trạch
Đông vẫn tiếp tục truyền thống ngu si và bạo chúa nên tự gọi là Trung
Quốc. Thứ nhất; nhắm kích thích tinh thần ngông cuồng của dân trong xứ.
Thứ hai; bắt cộng sản Việt Nam phải tuân dùng theo, để tròng ách nô lệ
lên đầu người Việt, mà trước nhất là những kẻ tay sai Việt cộng. Hiểu
một cách rõ ràng, chữ Trung Quốc vẫn hoàn toàn không có ý nghĩa gì là
Nước Ở Giữa cả. Bởi chữ Trung
vốn có gốc từ chữ Trung Nguyên từ thời xa xưa. Tuy vậy, Tàu cộng vẫn
mập mờ để bắt Việt cộng phải áp đặt vào đầu những người Việt, kém hiểu
biết lại nặng tinh thần nô lệ phương Bắc, nên tự suy diễn ra là Nước Ở
Giữa để nuôi trong đầu.
Xin mở một dấu ngoặc. Trong
hồi ký của mình, ông bác sĩ riêng của Mao Trạch Đông cho biết; kể từ khi
nắm
quyền đến lúc chết (1949-1976), suốt 28 năm Mao không hề tắm, và nhất
định không chịu đánh răng súc miệng. Tên bạo chúa này tuyên bố hắn chỉ
cần “tắm” trong âm hộ của người đàn bà là đủ, và hắn không tin có loại
bệnh có thể truyền nhiễm qua đường tình dục. Để tránh tình trạng này,
ông bác sĩ riêng phải gạt hắn ta bảo là uống thuốc bổ tăng cường sinh
dục, nhằm tránh tình trạng Mao truyền bệnh giang mai cho cả ngàn người
đàn bà mà hắn xem là cung tần
phi nữ. Một loại bạo chúa ngu si của thời đại. Nêu điều này nơi đây để
mọi người Việt biết sự ngu si và bệnh hoạn của Mao, và cũng là của dân
Tàu. Thế mà tên cáo họ Hồ bắt dân Việt Nam phải học tập tư tưởng của
Mao.
Vốn là kẻ tôi tớ luôn cúi
đầu phục tùng mệnh lệnh của ông chủ, lại sống kiếp sống của kẻ vô tổ
quốc, phi dân tộc, nên người
cộng sản Việt Nam không dám gọi là Tàu. Và họ bắt người dân phải gọi là
Trung Quốc để áp đặt và nhồi nhét tinh thần nô lệ vào đầu người Việt
qua ngôn ngữ.
Trước
năm 1975, người Việt tại Miền Nam thường gọi hai quốc gia này là Trung
Hoa Cộng Sản và Trung Hoa Quốc Gia để chỉ cho hai thể chế chính trị,
nhưng vẫn gọi chung là người Tàu. Như; Tàu Đài Loan,
Tàu Chợ Lớn, Tàu Hồng Kông, Tàu Đại Lục. Chính những người Tàu sống ở
Việt Nam cũng tự gọi họ là người Tàu. Từ thời tổng thống Ngô Đình Diệm,
chính phủ Việt Nam Cộng
Hòa cấm không cho người Tàu làm 11 nghề chính để bảo vệ kinh tế cho
người dân Việt Nam. Nguồn gốc phát xuất âm Tàu trong tiếng Việt, cho đến
nay vẫn chưa rõ ràng. Có thể là do nghe và nói lại một cách sai lạc âm
của chữ Tần mà người Tây Phương tại Việt Nam thường dùng vào thế kỷ 18,
19. Cả Philippines, Thailand, Kampuchia, trong ngôn ngữ của các quốc gia
này, họ cũng không gọi xứ này là Nước Ở Giữa. Riêng người Nhật dùng chữ
China với ý nghĩa khinh miệt là lũ người bệnh hoạn, ngu si, nhu nhược,
yếu hèn. Đến nay chỉ có người Tàu và dân Việt dùng chữ Trung Quốc. Nêu
điều này ra nơi đây, để mọi người cùng nhận thấy rõ sự nô lệ trong tư
tưởng, thể hiện qua ngôn ngữ của người Việt, do sự tiếp tay của Việt
cộng, đã bị Tàu cộng áp
đặt sâu nặng đến thế nào.
Một
thí dụ điển hình cho căn bệnh nô lệ giặc Bắc, là cho đến hôm nay, trong
đầu khá nhiều người Việt vẫn tin chắc rằng võ thuật của Việt Nam thì
phải “bắt nguồn từ Trung Quốc.” Hỏi tiếp nữa thì họ chống chế
rằng bởi từ Thiếu Lâm Tự, và do Đạt Ma Sư Tổ truyền ra. Quả là khôi
hài. Nếu vậy thì phải bảo rằng võ thuật của Tàu vốn do Ấn Độ truyền
sang. Khổ thật. Kiến thức của họ đã kém, khả năng suy luận cũng không
có, lại mang nặng căn bệnh thờ Tàu. Từ thời Khổng Khâu xa xưa mãi cho
đến hôm nay, bọn người này chỉ có truyền thống chuyên nghiệp là đi ăn
cắp và ăn cướp, xong đem về bôi xóa dấu vết rồi cho là của mình.
Vì thế, để thể hiện tinh
thần tự chủ và độc lập của dân tộc, người Việt nên ý thức rõ điều này.
Và không
nên dùng hai chữ Trung Quốc. Bởi đây là thâm ý của cộng sản Việt, theo
lệnh ông chủ Bắc Kinh, cố tình nhồi nhét tinh thần nô lệ vào đầu người
dân Việt Nam.
Do đó, để chống Tàu, trước hết mọi người Việt nên chống lại âm mưu áp đặt tinh thần nô lệ này, qua ngôn ngữ, của giặc Bắc.
Nếu
vẫn có người chưa chịu tin điều này, xin hãy nhớ lại chữ triều và hình
ảnh những lượn sóng cuộn đầu trên áo quần quan lại thời phong kiến của
Tàu ngày xưa. Xin nhắc lại, đây là kỹ thuật khống chế tư tưởng (mind
control) nhắm đánh sâu vào vô thức (subconcious, 88%), không nằm trên
bình diện ý thức (concious, 12%) nên khó lòng nhận biết.
Việc chống Tàu qua ngôn ngữ
nô lệ và mất nước này sẽ không dễ dàng
vì bọn tay sai Việt cộng, theo lệnh chủ, đang tận sức phá nát ngôn ngữ
Việt chính thống nhắm thay thế và áp đặt ách nô lệ qua ngôn ngữ trong
mọi hoàn cảnh. Người dân Việt vô tình, nhưng bọn Việt cộng lại quyết
tâm. Tránh sao khỏi cảnh này. Bao năm qua vì
vô tình, không đế ý, nhiều người đã dùng đến quen miệng. Bây giờ mở
miệng ra nói khác đi chắc chắn sẽ khó làm được ngay. Nếu không tin, mọi
người hãy thử và sẽ thấy rõ tác dụng này.
Bảo
rằng do thói quen, thì nên tự hỏi mình có dám bỏ cái thói quen này hay
không? Dĩ nhiên, không mấy ai dám chấp nhận rằng vì sợ nên phải dùng hai
chữ Trung Quốc. Vẫn có
nhiều người sẽ tìm đủ lý do để biện minh cho hai chữ Trung Quốc nơi cửa
miệng.
Chắc
chắn có người sẽ cho rằng Trung Hoa hay Trung Quốc cũng chỉ là danh
xưng, đâu có gì quan trọng. Những người này đang tự lừa dối chính mình
và cố tình dùng xảo ngôn để lấp liếm và che dấu căn bệnh nô lệ truyền
đời. Nếu chỉ là danh từ, và không có ý gì, thì tại sao không
dám gọi là Tàu cộng?
Nhưng xin hãy tự hỏi mình
rằng; cô nữ sinh viên Nguyễn Phương Uyên dù đang sống dưới sự cai trị
của Việt cộng, vẫn dám gọi là Tàu khựa. Và chính họ cũng gọi họ là Tàu.
Vậy tại sao mình phải tìm đủ lý do để dùng hai
chữ Trung Quốc? Hãy cố gắng tự nhớ lại xem mình bắt đầu dùng từ lúc
nào, để bây giờ gọi là quen miệng? Và tại sao mình không dám gọi là Tàu
cộng?
Nếu
không dám tức đã có nỗi lo sợ ẩn sâu trong đầu. Bởi sợ mới không dám.
Sợ điều gì? Sợ ai? Hoàn toàn tìm không ra dấu vết. Đây chính là cái tác
dụng của sự nô lệ và hèn nhược qua ảnh hưởng của ngôn
ngữ. Đây cũng là hậu quả của sự khống chế tư tưởng (mind control) đã
nêu ra ở trên. Có vài người, vì mặc cảm tự ti kém khuyết, để tự gạt mình
nhằm che dấu căn bệnh nô lệ ẩn sâu trong tư tưởng, họ bảo rằng gọi như
thế sẽ làm giảm giá trị trình độ trí thức và lịch sự của họ. Vì thế họ
chỉ dám dùng chữ Trung Quốc, Trung Hoa để chứng tỏ họ là kẻ có học thức,
là người lịch sự.
Khi vua Quang Trung
tuyên bố trước ba quân: “Phải đuổi hết lũ giặc phương Bắc ra khỏi bờ
cõi. Đánh cho chúng nó không còn manh giáp.” Ai dám bảo vua Quang Trung
là phường vô học?
Trong
cuộc hải chiến Hoàng Sa, tháng 1/1974, tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ra
lệnh cho Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa: “Các anh cứ đánh tụi nó thẳng tay
cho tôi.” Ai dám bảo tổng thống Nguyễn Văn Thiệu là
người thiếu lịch sự?
Để giữ gìn nền độc lập và
tinh thần tự chủ của dân tộc, mong rằng những người Việt này cũng nên từ
bỏ cái ảo giác có học thức và lịch sự của mình.
Nên hiểu rằng khi người Tây
phương gọi những xứ này là China, Sino, Chinois, qua ngôn ngữ của họ,
trong đầu họ vẫn xem đó là xứ Tần. Qua ngôn ngữ xử dụng, họ hoàn toàn
không có khái niệm hay ý nghĩ gì về một Nước Ở Giữa cả. Trong khi đó,
người Việt nói đến hai chữ Trung Quốc, chắc chắn cái hình ảnh Nước Ở
Giữa đã
thấp thoáng trong đầu. Xin mọi người để ý đến điều này.
Nếu
người
đọc vẫn tìm mọi cách để chống chế, vẫn chưa đồng ý, và chưa hiểu rõ tác
dụng của ngôn ngữ, xin nêu ra một thí dụ để chúng ta cùng nhận xét.
Khi
nghe nói đến các chữ; cô ấy, bà ấy hay mụ ấy, trong đầu người nói và
người nghe đều có ba hình ảnh khác nhau. Một cô gái trẻ đẹp (cô ấy), một
người phụ nữ lớn tuổi (bà ấy) và một người phụ nữ xấu
xí, lôì thôi lếch thếch (mụ ấy). Khi nói và nghe chữ Trung Quốc hay Tàu
cộng cũng có tác dụng tương tự. Xin mọi người hãy tự suy nghiệm.
Ngôn
ngữ thể hiện tâm lý là điều ai cũng hiểu và đồng ý. Nếu không thế, cô
sinh viên Nguyễn Phương Uyên đã không nói: “Tàu khựa hãy chết đi.” Và
nếu không hiểu ý này, nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đã không bắt cô
ta. Thật ra, vì hiểu nên họ quá lo sợ bị ông chủ phương Bắc trừng trị,
nên họ phải bắt cô ta. Hãy thử tượng tượng cái tác dụng tâm lý khi cô
sinh viên này nói: “Trung
Quốc khựa hãy chết đi.” Rõ ràng, câu này hoàn toàn không có tác dụng.
Bởi tự nó đã thể hiện cái tâm lý nhu nhược hèn yếu và nô lệ qua hai chữ
Trung Quốc trong câu. Hy vọng nhiều người Việt sẽ nhận rõ điềư này.
Khi đăng những bản tin ghe
thuyền của Tàu cộng tấn công ngư dân Việt, báo chí Việt cộng chỉ dám
dùng hai chữ tàu lạ. Mọi người đều hiểu tại
sao. Ở đây chúng ta không cần diễn giải thêm. Rõ ràng là ngôn ngữ thể
hiện tâm lý của người xử dụng. Và ai cũng hiểu đó lá cái tâm lý hèn hạ
nhu nhược nô lệ của người cộng sản Việt Nam đối với bọn giặc phương Bắc.
Tương tự như thế, bất kỳ ai,
mở miệng dùng hai chữ Trung Quốc cũng không thoát khỏi tâm lý này, dù
họ có lớn tiếng hô to: “Đả đảo
Trung Quốc xâm lược.” Hãy tự hỏi chính mình, tại sao mình không mở
miệng nói được câu: “Đả đảo Tàu cộng xâm lược.” Chẳng lẽ mình vẫn còn
muốn chứng tỏ
cho người khác biết mình là con người có học thức và lịch sự?
Đã
không
xóa nổi hai chữ Trung Quốc ra khỏi đầu thì khoan nói đến chuyện chống
Việt cộng hay Tàu cộng. Nếu chỉ là danh từ, tại sao không dám gọi là Tàu
cộng? Không nên tiếp tục lừa dối chính mình nữa. Xin suy nghĩ kỹ điều
này.
Việt Nam cộng sản gọi là
Việt cộng. Trung Hoa cộng sản gọi là Trung cộng. Đâu có gì là không học
thức, không lịch sự ở đây. Mà đối với
bọn giặc Bắc, trong khi họ luôn tìm cách tiêu diệt mình, mà mình cứ mãi
lịch sự với họ thì quả là một tâm lý bệnh hoạn. Ở đây chúng ta không
thể dùng chữ nhu nhược, mà phải gọi là bệnh hoạn. Chúng ta thấy vẫn còn
nhiều người Việt mang nặng cái tâm lý bệnh hoạn này trong đầu.
Những người đảng viên cộng
sản Việt Nam chắc chắn sẽ không bao giờ dám mở
miệng nói đến chữ Tàu, dù là; ông Tàu vĩ đại, bác Tàu kính yêu. Chỉ
nghe đến cái âm Tàu họ cũng đã hoảng sợ đến kinh người. Vì quá kinh sợ
họ trở nên tức
giận điên cuồng. Đối với họ, đó là loại ngôn ngữ phạm thượng. Quen sống
kiếp nô lệ, họ không thể nào chấp nhận loại ngôn ngữ phạm thượng này
đối với ông chủ phương Bắc được. Và cho đó là ngôn ngữ phản động. Bởi
thế họ phải bắt ngay cô sinh viên Nguyễn Phương Uyên.
Đến hôm nay, chúng ta đều
thấy rõ rằng; nhóm cầm quyền cộng sản Việt Nam chỉ
giỏi hèn với giặc, nhưng luôn ác với dân. Để chứng tỏ mình không hèn
với giặc, như bọn người đang sống kiếp nô lệ này, điều đầu tiên và dễ
dàng nhất là mọi người nên vất bỏ hai chữ Trung Quốc ra khỏi ngôn ngữ
của mình. Bảo là dễ dàng nhưng sẽ có rất nhiều người không làm nổi điều
này.
Tùy
theo thái độ tâm lý, mỗi người sẽ tự chọn cho mình
một loại ngôn ngữ thích hợp. Người nặng tinh thần nô lệ và bệnh hoạn sẽ
có lý do để bảo vệ và tiếp tục xử dụng hai chữ Trung Quốc. Người nặng
tinh thần tự
trọng, hiểu rõ trách nhiệm trong việc giữ gìn nền độc lập và tinh thần
tự chủ của dân tộc sẽ có lý do để loại bỏ chữ Trung Quốc và thay vào đó
là Tàu.
Tâm
lý tức giận sẽ dùng ngôn ngữ phẫn nộ. Tâm lý tự chủ sẽ dùng ngôn ngữ
độc lập. Tâm lý hèn nhược sẽ dùng ngôn ngữ nô lệ. Điều này không ai chối
cãi được. Và vì thế, xin mọi người Việt chúng
ta nên loại bỏ hai chữ Trung Quốc để thể hiện tinh thần độc lập, tự chủ
và bất khuất ngay trong ngôn ngữ xử dụng hằng ngày. Hy vọng nhiều người
sẽ đồng ý với đề nghị này. Nhưng đối với người đảng viên cộng sản Việt
Nam thì vô phương. Họ đã chọn kiếp sống tay sai, nô lệ, vô tổ quốc, phi
dân tộc từ thuở chào đời. Chúng ta không mong gì họ thay đổi được.
Đã
giúp mình và cũng giúp người. Mọi người Việt cùng nhau giữ nước qua
ngôn ngữ. Vô cùng quan trọng nhưng lại không hề tốn một giọt máu. Tại
sao chúng ta không chịu làm?
Đây là điều đầu tiên và căn bản, vô cùng quan trọng, trong tinh thần chống lại bọn giặc phương Bắc.
Xin nêu ra nơi đây một bài học lịch sử để mọi người cùng suy nghiệm.
Chọn ngôn ngữ để làm
quốc ngữ cho một quốc gia vừa mới khai sinh là điều vô cùng quan trọng
trong việc giữ gìn nền độc lập. Ngay sau khi Hoa Kỳ giành độc lập
từ tay đế quốc Anh, người Mỹ đã nghiên cứu cẩn thận trong việc chọn
tiếng Anh hay tiếng Đức dùng làm quốc ngữ. Họ không chọn tiếng Tây Ban
Nha vì lúc bấy giờ, ảnh hưởng của Tây Ban Nha đã tràn khắp Nam Mỹ và
phần đất phía tây Bắc Mỹ. Cuối cùng, do kết quả cuộc bầu phiếu, tiếng
Anh được chọn vì hơn tiếng Đức một lá phiếu.
Nhưng ngay sau đó, ông
Noah Webster đã bỏ ra 20 năm liên tục để thành lập tiếng Mỹ, như trường
hợp tiếng Nam dưới thời nhà Trần. Ngoài việc sửa đổi cấu trúc văn phạm
và ngữ pháp, ông còn thay đổi cả ngữ vựng, và thành lập cuốn Tự Điển Di
Sản Hoa Kỳ (American Heritage Dictionnary) cho dân chúng Mỹ xử dụng.
Điều đáng lưu ý, đáng khâm phục, và đáng để mọi người Việt chúng ta học
hỏi, là từ đó và mãi về sau, từ tổng thống đến thường dân, mọi người Mỹ
đồng lòng
quyết không dùng tiếng Anh mà chỉ dùng tiếng Mỹ. Đến hôm nay chúng ta
đều nhận biết sự phổ thông của tiếng Mỹ trên khắp thế giới mà hầu hết
người Việt biết tiếng Mỹ đều quen thuộc.
Xin
ghi ra nơi đây vài thí dụ để mọi người cùng nhận thấy tinh thần quyết
tâm giữ gìn độc lập và tự chủ của người dân Hoa Kỳ qua ngôn ngữ:
----Anh------ ----Mỹ----------------------
colour color ----bỏ bớt giữa
programme program ---bỏ bớt
cuối
theatre theater ---đảo chữ
randomise randomize --- đổi chữ
water
closet restroom --- đặt danh từ mới
Hiểu
rõ sự quan trọng của ngôn ngữ đối với nền độc lập của một dân tộc, giặc
phương Bắc đã tìm mọi cách hủy diệt chữ Nam của người Việt ngay từ thời
nhà Trần. Chúng gọi một cách nhục mạ
khinh bỉ là tiếng nôm na, hèn mạt để gạt ngưởi Việt biết chữ không thèm
dùng đến. Thế mà đến nay vẫn có nhiều người trí thức học giả miệt mài
gọi là chữ nôm. Điều này chẳng khác nào có kẻ côn đồ bảo trẻ con nên về
nhà gọi cha mẹ chúng bằng thằng và nó. Vì ngu khờ kém suy nghĩ, đứa trẻ
liền nghe theo và cứ thế mà gọi.
Hiện nay, Tàu cộng bắt
Việt cộng phải du nhập tiếng Tàu, và bằng mọi cách phải nhét vào đầu để
nô lệ hóa người Việt qua ngôn ngữ. Xin nêu ra vài chữ như: động thái,
quan ngại, bức xúc, tham quan, hộ khẩu,
cải tạo, sự cố, hoành tráng, hiện trường, quan chức, đăng ký, hỗ trợ,
đột xuất, và còn nhiều nữa. Vì cùng hệ thống đơn âm, họ chỉ cần dùng mẫu
tự Việt diễn âm Tàu, và bắt mọi người Việt phải dùng, tức nghe và đọc
trước rồi nói sau. Lúc đầu quen tai, quen mắt. Sau quen miệng. Thế là
xong.
Xin mọi người, còn nghĩ đến
dân tộc và chống cộng, hãy
nhớ lại xem mình đã bắt đầu dùng những từ ngữ này từ lúc nào. Và từ bây
giờ trở đi mình có dám loại bỏ ngôn ngữ này và quyết tâm không dùng nữa
hay không.
Tại sao phải loại bỏ những ngôn ngữ này? Nếu hỏi người Mỹ, họ sẽ giải thích cho chúng ta hiểu lý do tại sao.
Xin thưa thêm. Vì đây là
loại ngôn ngữ mà ông Nguyễn Văn Luận, một người dân Hà Nội bị kẹt lại
Miền Bắc từ năm 1954 đã nhận ra ngay là “ngoại ngữ Việt cộng” do Tàu
cộng đem sang. Suốt 28 năm, mãi cho đến khi vượt biển tìm tự do và cuối
cùng định cư tại Hoa Kỳ, ông Luận vẫn nhất định không dùng đến loại
ngoại ngữ
nô lệ và mất nước này. Thế mà hiện nay vẫn có nhiều người Việt, dù đang
sống tại hải ngoại, hăng hái chống Tàu, chống cộng, nhưng sẵn sàng xử
dụng loại ngôn ngữ nô lệ này. Lại có nhiều người dù không hiểu ý nghĩa
nhưng vẫn dùng một cách hàm hồ và sai hoàn toàn ý nghĩa gốc trong tiếng
Tàu. Thí dụ; chữ đột xuất có nghĩa là sự nổi bật (outstanding) hoàn toàn
không có nghĩa của trạng từ chỉ thời gian như các chữ bất thình lình
hay bất ngờ, trong tiếng Việt. Thật ra, bọn giặc Bắc đâu cần thắc mắc
chuyện người Việt dùng đúng nghĩa hay sai nghĩa. Cứ nhét được những loại
ngôn ngữ này vào đầu dân Việt là chúng thành công. Một vài kẻ đã không
biết mình ngu và dại, lại còn lớn tiếng biện minh cho hành động bệnh
hoạn này. Vua Quang Trung
mà còn sống, chắc chắn ngài sẽ phân thây bọn người mất gốc này để diệt
trừ mầm nô lệ cho dân tộc.
Báo
chí và truyền thông tại Việt Nam cộng sản hiện nay bắt buộc phải dùng
loại ngoại ngữ Việt cộng này. Với kiếp sống của kẻ tay sai và nô lệ, họ
không thể làm khác hơn được. Bởi đây là sách lược nô lệ của Tàu cộng đưa
ra và bắt Việt cộng phải
thi hành.
Tuy
nhiên, trên nhiều diễn đàn ineternet của người Việt hải ngoại hiện nay
chúng ta vẫn thấy đầy dẫy loại ngoại ngữ nô lệ và mất nước này. Về quy
định ngôn từ, nơi nào cũng đưa ra những điều lệ căn bản là; không chấp
nhận ngôn ngữ thô tục, và ngôn ngữ ca tụng Việt cộng; để chứng tỏ đây là
nơi của những người có học thức, lịch sự, và
quyết tâm chống cộng.
Nhưng
than ôi. Họ chấp nhận loại ngôn ngữ nô lệ ẩn chứa mầm hủy diệt tinh
thần dân tộc của giặc phương Bắc mà họ không hề bận tâm. Không những thế
loại ngôn ngữ này được truyền bá và phát huy khá
mạnh mẽ.
Đây là sự thể hiện một trình độ dân trí quá thấp kém của người Việt chúng ta.
Bởi
chúng ta chưa nhận thức rõ được sự quan trọng của ngôn ngữ đối với sự
tồn vong của dân tộc. Hãy nhìn lại gương của dân chúng Hoa Kỳ trong việc
xử dụng tiếng Mỹ để giữ gìn độc lập, may ra mọi người sẽ hiểu rõ vấn đề
vô cùng quan trọng này cho dân tộc và đất nước.
Là
người Việt, hầu hết chúng ta ai cũng đã từng nghe và nói câu: “Tiếng
Việt còn, Người Việt còn.” Nhưng chúng ta quên một điều vô cùng quan
trọng
là; tiếng Việt nô lệ, thì người Việt nô lệ. Và sự nô lệ này sẽ dẫn đến
mất gốc và dân tộc bị hủy dìệt là điều không tránh khỏi.
Mất đất, mất đảo còn có cơ hội lấy lại được. Nhưng mất người thì lấy ai mà đòi lại đất, giành lại biển?
Chống
cộng mà không chống nổi ngôn ngữ Việt cộng trong đầu thì vẫn là tự lừa
dối chính mình. Người cộng sản Việt Nam biết chắc chắn họ luôn
luôn thành công trong việc khống chế tư tưởng người dân Việt. Rõ ràng
nhất là qua ngôn ngữ. Xin mọi người hãy nhìn lại ngôn ngữ mình xử dụng
để chứng minh điều này.
Có
nhiều người chống cộng cảm thấy hài lòng qua việc xử dụng những danh từ
miệt thị, khinh bỉ đối với những người cầm đầu cộng đảng Việt Nam hiện
tai như: Trọng Lú, Sang Ngu, Dũng Dốt. Những người này vẫn mãi say sưa,
tự thỏa mãn với câu: “Người khôn phải gọi
thằng ngu bằng thầy!”
Xin thưa! Nếu chúng ta khôn hơn họ, thì đã không bị họ khống chế từ cái đầu đến cái miệng suốt bao năm qua.
Năm 1954, sau khi Việt cộng chiếm Miền Bắc, thi sĩ Trần Dần đã bàng hoàng thốt rằng:
"Tôi bước đi không thấy phố thấy nhà,
Chỉ thấy mưa sa trên nền cờ đỏ."
Hai
câu thơ đã cho thấy hình ảnh thê lương tang tóc của đất nước dưới ách
cai trị của người cộng sản. Thế nhưng,
từ năm 1954, người dân Miền Bắc đã không chịu nhìn thấy điều này. Và
người dân Miền Nam, năm 1975, cũng không muốn nhìn thấy điều này. Như
thế, dù âm thầm không ai hay biết, nhưng số phận của đất nước Việt Nam
đã được quyết định từ lâu.
Tiền
bạc là vật mà mọi người dân, dù không biết chữ, vẫn phải dùng đến hằng
ngày. Thế
là từ thời kỳ tem phiếu, mãi cho đến hiện nay, không một tờ giấy bạc
nào không có hình của tên bán nước Hồ Chí Minh. Sau khi chết, chúng vẫn
đem cái xác cáo mục rữa trấn ngay thủ đô Miền Bắc và bắt mọi người phải
chiêm ngưỡng. Đến khi cướp Miền Nam, chúng liền xóa ngay địa danh Sài
Gòn, tên gọi thủ đô của Việt Nam Cộng Hòa. Thay vào đó là tên cáo Hồ đã
chết. Rồi chúng xây con đường trên cao nguyên dọc Trường Sơn, xương sống
của bản đồ Việt Nam với tên đại lộ Hồ Chí Minh. Tất cả mọi việc trên
đều nhằm mục đích thực hiện kế hoạch to lớn và lâu dài. Đó là khống chế
tư tưởng toàn thể dân Việt qua những hình ảnh này. Hãy thử tính xem
trong một ngày, hình ảnh của tên cáo Hồ bán nước đánh vào đầu người dân
Việt bao
nhiêu lần qua tờ giấy bạc. Đây là một kỹ thuật trấn áp tư tưởng vô cùng
hiệu quả trên bình diện vô thức mà khoa Tâm Lý Học gọi là khống chế tư
tưởng (mind control) vô cùng tinh xảo và thâm độc.
Xin được nêu ra ở đây để những người vẫn còn ngây thơ cho rằng Việt cộng là những kẻ ngu ngốc nên suy nghĩ lại.
Là
một người Việt cộng nằm vùng tại Miền Nam trong thời kỳ chiến tranh, nên
lúc bấy giờ ông y tá Nguyễn Tấn Dũng bắt buộc phải dùng ngôn ngữ của
Việt Nam Cộng Hòa. Nhưng ngay sau khi cộng sản cướp được Miền Nam ,
chắc chắn ông Dũng và bao nhiêu người cộng sản nằm vùng khác đã không
thèm dùng tiếng Việt của Miền Nam ngày trước. Năm 2010,
trong buổi trả lời trước quốc hội cộng sản, vì lúng túng, thủ tướng
cộng sản họ Nguyễn đã lỡ miệng phát ra hai chữ “bảo đảm” của Việt Nam
Cộng Hòa. Biết bị hớ,
liền ngay sau đó ông ta vội vàng tìm mọi cách để chữa lại bằng hai chữ
“đảm bảo” của Việt cộng cho mọi người ngồi dưới kia cùng nghe thật rõ.
Chỉ bấy nhiêu cũng đủ để dạy cho nhiều người Việt trí thức chống cộng
cần học bài học về sự quan trọng của ngôn ngữ, cùng thái độ quyết tâm
của ông ta khi xử dụng ngôn ngữ. Có thể lỡ lời nói ra hai chữ bảo đảm.
Nhưng chắc chắn ông Dũng không bao giờ dám lỡ miệng đảo thứ tự để nói
nhà nước (trước) và đảng (sau) cả. Đến đây hy vọng nhiều người sẽ nhận
ra sự quan trọng cùng sự quyết liệt của những người cộng sản trong việc
xử dụng ngôn ngữ. Nói một cách khác, nhưng vô cùng thực tế, họ hiểu rõ
quy luật sinh tử là, đối với họ: Dùng Chữ Sai Là Chết.
Khi
dùng
ngôn ngữ Việt cộng để chống cộng, chống Tàu, chúng ta có thể nghe họ
lớn tiếng cười mỉa mai khinh bỉ và bảo nhau rằng: “Cứ để cho bọn người
đang sống ở hải ngoại đó chống cộng. Ngôn ngữ, tức cái đầu của chúng, mà
đảng ta đổi tới thay lui chúng chẳng hề hay biết. Thế thì chúng chống
cái chi. Ta vo tròn bóp méo cái đầu của chúng như thế mà chúng chẳng hay
biết. Thì chúng chống được điều gì. Chúng đang sống nơi hải ngoại cách
xa ngàn dặm, nhưng đảng ta nhét vào đầu chúng điều gì cũng được, thì có
chi mà lo ngại. Ha ha ha. Chỉ cần mười năm nữa thì bọn người này sẽ nằm
trong các nghĩa địa. Chẳng có chi để chúng ta phải bận tâm cả.”
Chống
Tàu cộng xâm lược, mà không chống nổi ngôn ngữ nô lệ của chúng đang bám
chặt trong đầu, thì chỉ làm
trò cười cho bọn tay sai Việt cộng là thế đấy. Nên hiểu rằng, Việt cộng
không bao giờ lo ngại chuyện mìn bom súng đạn, chúng chỉ sợ cái đầu của
người dân. Mà thể hiện của cái đầu là qua ngôn ngữ đang xử dụng. Mong
mọi người nên suy nghĩ kỹ điều này.
Hãy
nhìn cô sinh viên trẻ tuổi
Nguyễn Phương Uyên sẽ biết mình thế nào. Hãy nhìn bài học quốc ngữ của
người Mỹ, hy vọng, và may ra, có người sẽ hiểu rõ sự quan trọng của ngôn
ngữ trong việc giữ gìn nền độc lập và tinh thần tự chủ của dân tộc.
Xin chuyển đến mọi người để cùng suy nghiệm và chọn loại ngôn ngữ thích hợp cho chính mình.
Trần Đức Dũng