9/11: Do Thái là thủ phạm – Kỳ I
** Nội dung chính của tài liệu nầy lấy từ Information Underground forum, tháng 5/2009, với tựa đề "Israel did 9/11 - All the proof in the world". Đây chỉ là một trong số vài phiên bản khác nhau về đề tài nầy. – Đỉnh Sóng
Khi
một biến cố xảy ra làm thay đổi triệt để động năng của địa chính trị
toàn cầu, có một câu hỏi trên tất cả những câu hỏi khác mà câu trả lời
hầu như chắc chắn sẽ nêu đích danh các thủ phạm. Câu hỏi là "Cui bono"
(Ai được lợi?) Nếu những kẻ bị lên án đồng thời được xem là có cả động
cơ lẫn phương tiện thì ở Hoa Kỳ người ta nói chắc chắn những kẻ đó là
thủ phạm. Và biến cố 9/11 cũng thế. Những phiên bản chính thức về biến
cố 9/11 hiển nhiên là vô lý, vì, cho đến nay, chỉ có hai tổ chức trên
toàn thế giới có được kỹ năng, phương tiện, quyền truy cập và bảo vệ
chính trị cần thiết để vừa thực hiện vụ 9/11 vừa tiến hành bao che. Hai
tổ chức đó là những Cơ Quan Tình Báo – CIA của Hoa Kỳ và Mossad của
Israel - cơ quan nầy được xem là có những động cơ thôi thúc nhất. Những
động cơ nầy ăn khớp tuyệt vời với nghị trình của nhóm thảo thuyết bảo
thủ PNAC (Project for the New American Century), với nhu cầu công khai
đặt ra là phải có "một biến cố thảm khốc, và xúc tác – như một tân Trân
Châu Cảng" đẻ động viên dư luận cho những cuộc chiến tranh đã hoạch
định, với hệ quả là tiêu diệt những kẻ thù của Do Thái.
Ai kiểm soát Tòa Tháp Đôi
Bước thứ nhất để chuẩn bị cho những vụ tấn công 9/11 là nắm quyền kiểm soát Trung Tâm World Trade Center(WTC ). Điều
nầy là then chốt vì không nắm được quyền kiểm soát toàn bộ thì việc gài
những chất nổ để đánh sập toà nhà sẽ gần như bất khả thi vì rủi ro bị
phát hiện rất lớn.
Bốn tay đầu sỏ trong hệ thống Do Thái
Larry Silverstein – Silverstein là một thương gia Mỹ gốc Do Thái ở New York. Vào ngày 24/7/2001, Silverstein có được một hợp đồng thuê toàn bộ WTC 99 năm. Hai tòa tháp thực sự gần như chẳng đáng giá gì vì tràn ngập những amiăng, nhưng Larry "cảm thấy rất muốn có được chúng." Silverstein thường ăn điểm tâm ở nhà hàng Windows on the World (lầu
107, North Tower) mỗi sáng, nhưng y vắng mặt ở buổi điểm tâm đó vào
buổi sáng 11 tháng 9. Hai người con của Silverstein – cùng làm việc
trong Tòa Tháp Đôi – cũng quyết định nghỉ việc hôm đó. Silverstein được
hảng bảo hiểm trả hơn $4.5 tỉ do tòa nhà bị phá hủy. Silverstein rất
thân tình với Rupert Murdoch, một tay trùm truyền thông gốc Do Thái, với
Ariel Sharon, cựu tổng thống Do Thái, cũng như với Thủ Tướng Do Thái PM
Benjamin Netanyahu. Silverstein thân thiết với Netanyahu đến độ, theo
tờ báo Do Thái Haaretz, y thường nói chuyện với ông ta qua điện thoại mỗi chủ nhật.
Frank Lowy –
Lowy, một người Do Thái sinh ở Tiệp Khắc, là chủ nhân của Westfield
America, một trong những tổ hợp trung tâm thương mại lớn nhất thế giới.
Lowy đã thuê khu thương mại trung tâm (Mall) ở WTC ,chiếm khoảng 427,000 feet vuông
diện tích bán lẻ của lầu. Lowy cũng là bạn bè thân thiết với những viên
chức cao cấp Do Thái như Ehud Olmert, Ariel Sharon, Bibi Netanyahu, và
Ehud Barak. Frank Lowy không có mặt tại Tòa Tháp Đôi ngày 9/11.
Lewis Eisenberg –
Eisenberg là giám đốc của Port Authority of New York và đã chấp thuận
hợp đồng thuê phố cho Silverstein và Lowy. Eisenberg là một người cống
hiến tiền quan trọng cho chiến dịch tranh cử tổng thống của Bush-Cheney,
cũng như là một đối tác trong ngân hàng Do Thái Goldman-Sachs. Eisenberg từng là một thành viên của Hội Đồng Planning Board của nhóm áp lực chính phủ thân Do Thái mệnh danh là United Jewish Appeal/United Jewish Federation.
Ronald Lauder –
Trùm tỉ phú mỹ phẩm Estée Lauder là chủ tịch ủy ban tư hữu hóa của
Thống Đốc New York George Pataki. Y là nhân vật then chốt đứng ra vận
động hành lang để tư hữu hóa WTC – và y cũng đóng vai trò then
chốt trong việc tư hữu hóa căn cứ không quân Stewart Air Force Base. Lạ
thay, đường bay của phi vụ 175 và 11 lại trực tiếp gặp nhau trên phi
trường nầy. Lauder hoạt động tích cực trong nhiều tổ chức Do Thái và đã
thành lập một trung tâm cho cơ quan tình báo Mossad ở Herzliya, Do Thái, mang tên Lauder School of Government Diplomacy and Strategy. Lauder được nghi là tay đầu sỏ trong kế hoạch 9/11.
An ninh của World Trade Center trong tay Do Thái
Yếu tố kiểm soát then chốt thứ nhì là an ninh cho WTC . Yếu
tố nầy cần có để cho phép truy cập vào những khu vực chiến lược của
trung tâm để đặt chất nổ trong giai đoạn trước khi xảy ra các cuộc tấn
công. Hợp đồng điều hành an ninh tại WTC được giao cho Kroll Associates sau vụ đánh bom năm 1993. Kroll còn có biệt hiệu là "Wallstreet's CIA". Hợp đồng nầy do cơ quan Port Authority của New York chấp thuận, và Kroll Associatesđược trả $2.5 triệu để tăng cường lại hệ thống an ninh cho WTC. Chủ nhân của Kroll Associates là hai tay Do Thái tên là Jules & Jeremy Kroll. Quản đốc của Kroll Associates lúc bấy giờ là Jerome Hauer, và tay nầy cũng được chọn để điều hành cơ quan Office of Emergency Management (OEM) của Thị Trưởng Guiliani từ 1996 đến 2000. Y là nhân vật chủ chốt đã vận động để cơ quan nầy được đặt để trong WTC Building 7 của Silverstein (tòa nhà thứ ba sẽ bị đánh sập trong vụ 9/11). Jerome Hauer cũng là người Do Thái và là một tayZionist sừng sỏ. Rose Muscatine Hauer, mẹ của Hauer, là chủ tịch danh dự của phong trào Lập Quốc Israel, một trong những tổ chức Zionist trung
tâm dính líu trong việc thành lập và hỗ trợ Nhà Nước Israel. Chính
Jerome Hauer là người đã khuyến cáo Tòa Bạch Ốc xử dụng "CIPRO," một loại kháng sinh chống Anthrax – một tuần lễ trước vụ tấn công Anthrax qua bưu điện. Hauer là một "chuyên viên" về khủng bố sinh học (Bio-Terrorism), nhưng phản ứng của y trong vụ tấn công Anthrax qua bưu điện lại chậm chạp, và y lợi dụng thời cơ để nhắc đi nhắc lại điệp khúc "Osama Bin Laden."
Ai giết John O'Neil?
John O'Neil, một cựu đặc vụ FBI, trước kia tình cờ lại được giao nhiệm vụ điều tra Bin Laden, và nay được Jerome Hauer thuê làm giám đốc an ninh tại WTC. Quả là ngoạn mục khi O’Neil lại bị giết ngay trong ngày làm việc đầu tiên của ông tại WTC – 9/11. Điều quan trọng cần ghi nhớ là O’Neil đã nghĩ việc ở FBI sau khi cuộc điều tra của ông về vụ tấn công khu trục hạm U.S.S. Cole bị Đại Sứ Mỹ gốc Do Thái ở Yemen là Barbara Bodine cản trở và phá hoại. Lý do là vì vụ tấn công đó có thể không do Al Qaeda thực hiện. Khu trục hạm nầy bị hỏa tiễn Do Thái bắn để chuyển hướng dư luận chống lại người Ả Rập (Al Qaeda),
cũng như để trả đũa đảng Dân Chủ đã không xem trọng những đe dọa khủng
bố. Kết qua là một George Bush Jr. được phóng lên tổng thống kịp lúc cho
vụ 9/11. Tất cả kịch bản nầy được chôn vùi trong khối hỏa mù quan liêu
phức tạp.
An ninh phi trường trong tay Do Thái
Yếu
tố kiểm soát thứ ba cần được thiết lập là yếu tố an ninh tại tất cả
những phi trường từ đó những phi vụ không tặc sẽ xuất phát. Công tác rà
soát hành khách cần phải được đảm trách bởi những nhân viên được điều
khiển để cho phép một số người hay vật dụng nào đó (như vũ khí, chẳng
hạn) được lên máy bay. Công ty phụ trách an ninh phi trường tại ba phi
trường xảy ra những vụ mệnh danh là không tặc là Huntsleigh USA, một chi
nhánh của ICTS International và do Ezra Harel và Menachem Atzmon
làm chủ - cả hai đều là Do Thái. Công ty nầy được điều hành bởi những
"chuyên viên" trong lãnh vực an ninh và tình báo – nghĩa là tình báo Do
Thái. Đa số nhân viên đều thuộc phong trào Lập Quốc Do Thái (Zionism).
Thật khó tin khi công ty an ninh nầy – vốn phụ trách an ninh tại cả hai
phi trường Boston Logan và Newark – lại "lơ là" đến nỗi cho phép 19
người Ả Rập lên 4 phi cơ khác nhau với những dụng cụ rạch thùng, gậy, và
thậm chí một cây súng nữa.
Menachem
Atzmon, nguyên thủ quỹ của đảng Likud trong thập niên 80, đã dính dáng
trong một tai tiếng chính trị Do Thái, cùng với Ehud Olmert và những
đảng viên Likud khác. Y bị kết án gian lận, giả mạo giấy tờ, và vi phạm
luật Party Funding Law.
Công ty ICTS International cũng
phụ trách an ninh phi trường khi tên mang bom trong giày (shoe bomber)
Richard Reid lên một phi cơ với cái được nói là một quả bom trong giày.
Nếu Reid thực sự là một tên khủng bố thay vì một con mòng của Mossad, thì lý ra ICTS đã không để hắn lên máy bay. Một điểm nữa cho thấy sự đồng lõa của ICTS: một vài tiếng trước khi Dự Luật Patriot Act được
bỏ phiếu thành luật, nó được sửa đổi để giúp những công ty ngoại quốc
phụ trách an ninh trong vụ 9/11 được miễn tố. Điều nầy ngăn chặn những
tòa án Hoa Kỳ không được đòi hỏi ICTS ra làm chứng hay trao những băng ghi hình an ninh từ các phi trường.
Umar
Farouk Abdulmutallab (được mệnh danh là "Underwear Bomber") là một
người Đạo Hồi ở Nigeria và được nói là một tên khủng bố đã toan châm
ngòi những chất nổ giấu trong quần lót khi đang trên chuyến bayNorthwest Airlines Flight 253 từ
Amsterdam đến Detroit, Michigan, vào ngày Giáng Sinh 25/12/2009.
Abdulmutallab đã lên phi cơ đến Mỹ từ phi trường Schiphol Airport ở
Amsterdam. Kurt Haskell, một luật sư ở Michigan, cũng đáp cùng chuyến
bay đó và nhớ đã nhìn thấy Abdulmutallab và một người đàn ông trông
giống người Ấn Độ ăn mặc bảnh bao đã giúp Abdulmutallab lên máy bay.
Haskell nói rằng Abdulmutallab đã lên máy bay mà không có thông hành. An
ninh tại phi trường Schiphol Airport cũng do công ty Do Thái ICTSInternational đảm trách.
Biết trước
Vào
tháng 10/2000, khoảng 11 tháng trước khi xảy ra vụ 9/11, một sỹ quan
Phòng Không Do Thái về hưu và một cựu chiến binh của trận Yom Kippur War (1973), đi thu thập những cành thường xuân Anh (English Ivy Cuttings) tại nghĩa trang Gomel Chesed Cemetery ở McClellan và 245 Mount Olive Avenue, gần ranh giới thành phố Elizabeth và Newark, New Jersey. Gomel Chesed Cemetery là một nghĩa trang Do Thái. Câu chuyện giữa họ và một người thứ ba đến từ một chiếc xe Lincoln đã có người nghe lỏm được:
- "The Americans will learn what it is to live with terrorists after the planes hit the twins in September." (Người Mỹ sẽ biết thế nào là sồng với bọn khủng bố sau khi những máy bay đánh vào tháp đôi vào tháng Chín).
- "Don’t worry, we have people in high places and no matter who gets elected, they will take care of everything." (Đừng lo, chúng ta có những người trên chóp bu và bất luận ái đắc cử đi nữa thì họ cũng sẽ lo hết mọi chuyện).
Người nghe được câu chuyện trên đã thuật lại cho FBI nhiều lần chỉ để bị làm ngơ mỗi lần như thế.
Các công dân Do Thái được báo trước
Odigo, một công ty instant messaging (hội thoại trực tuyến) của Do Thái, thú nhận rằng, hai tiếng trước khi chiếc máy bay đầu tiên đâm vào WTC,
hai nhân viên của họ đã nhận được những cảnh báo về một vụ tấn công sắp
xảy ra. Cảnh báo nầy đã không được chuyển đến các cơ quan hữu trách. Odigo có
một qui định trong những dịch vụ của họ cho phép chuyển tiếp những nội
dung hội thoại qua một hệ tìm dựa trên quốc tịch. Nếu hai người Do Thái
nào đó được cảnh báo thì có thể hai người nầy đã chuyển tiếp cảnh báo đó
đến những người Do Thái khác. Có thể là như thế nếu xét rằng, trong số
4000 người Do Thái được nghĩ đã làm việc trong hay chung quanh WTC
và Pentagon, chỉ có 5 (năm) người chết – 5/4000 người Do Thái. Theo
thống kê, nếu không được cảnh báo, thì khoảng 10% có thể đã chết (nghĩa
là 400/4000). Nhưng chỉ có 5 người Do Thái chết và 2 trong số 5 người đó
đang bay trên những chuyến bay được nói là bị không tặc! Như thể chỉ có
3 người Do Thái chết tại chính trung tâm WTC vào ngày 9/11 –
một con số thống kê đầy ngạc nhiên! Con số đó chỉ áp dụng cho những
người dân Do Thái (Israeli nationals), chứ không phải những người Mỹ gốc
Do Thái (American Jews) – số người nầy chết khá nhiều tại WTC trong vụ 9/11. Odigo có những văn phòng tại New York, và ở Herzliya, thuộc Israel. Herzliya cũng là địa bàn của những tổng hành dinh Mossad.
Những cảnh báo khác
Vào ngày Sep 10, 2001, chi nhánh Tokyo của Goldman Sachs cảnh báo những nhân viên Mỹ của họ nên lánh xa những buildings Mỹ. ZIM, một công ty Do Thái, đã di tản khỏi văn phòng của họ (10,000 square feet) trên tháp North WTC một
tuần trước biến cố 9/11, bỏ ngang hợp đồng thuê phố. 49% của công ty
nầy do chính phủ Israel sở hữu. Hợp đồng thuê phố đến cuối năm 2001 mới
mãn, và công ty nầy phải chịu phạt $50,000 vì chấm dứt sớm.
Sau nầy, Michael Dick, một nhân viên FBI,
người bấy giờ đang điều tra việc gián điệp của Israel trước và sau vụ
9/11 và theo dõi những động thái đáng nghi ngờ, đã bị Michael Chertoff
cách chức – tay nầy bấy giờ là giám đốc cơ quan hành sự Bộ Tư Pháp, và
là một tay hỗ trợ đắc lực cho chủ nghĩa Zionism (Lập Quốc Do Thái). Theo nguồn tin của một nhân viên chìm CIA từng làm việc bên cạnh Dick, những "dọn nhà Do Thái (Israeli movers)" đã đưa chất nổ vào khi ZIM di tản ra. Như thế chỉ còn một công ty Do Thái trong WTC làClearforest với
19 nhân viên vào ngày 9/11, nhưng thực sự chỉ có 5 nhân viên có mặt
trong tòa nhà hôm đó và tất cả 5 người nầy đều thoát được cả.
Những móc nối của cơ quan tình báo Mossad
Năm
2001, một trung tâm nghiên cứu ưu tú của Quân Đội Hoa Kỳ đã thiết kế
một kế hoạch nhằm thực thi một hòa ước quan trọng giữa DoThái –
Palestine, một kế hoạch đòi hỏi khoảng 20,000 binh sỹ được trang bị tối
tân đồn trú khắp Israel và nhà nước Palestine mới thành lập. Người ta
tiên liệu những biến cố trong năm đầu tiên của hoạt động bảo vệ hòa ước,
và nhìn thấy những hiểm họa đối với những binh sỹ Hoa Kỳ đến từ cả hai
bên. Khi nói về Mossad, cơ quan tình báo Do Thái, các sỹ quan Quân Đội Hoa Kỳ nhận xét: "Wildcard. Ruthless and cunning. Has capability to target U.S. forces and make it look like a Palestinian/Arab act." (Khó lường. Tàn nhẫn và xảo quyệt. Có khả năng nhắm vào lực lượng Hoa Kỳ và xem đó như là một hành động Palestine/Ả Rập). Điều ngạc nhiên là nhận xét trên được tường thuật lại trên tờ Washington Post vào ngày September 10, 2001.
Gián điệp Do Thái quanh vụ 9/11
Trước
vụ 9/11 không bao lâu, hơn 140 người Do Thái đã bị bắt vì bị tình nghi
gián điệp. Một số trong bọn họ đóng vai những sinh viên nghệ thuật.
Những nghi can nầy nhắm vào và thâm nhập những căn cứ quân sự, DEA, FBI, Secret Service, ATF, U.S. Customs, IRS, INS, EPA, Interior Dept., U.S. Marshal’s Service, US Attorneys Offices,
những văn phòng bí mật của chính phủ, những tư gia không niêm yết của
các viên chức công lực và tình báo. Hầu hết những nghi can đều phục vụ
trong ngành tình báo quân sự Do Thái, trong những đơn vị chặn sóng thám
sát điện tử hay những đơn vị cài đặt chất nổ. Hàng chục tên Do Thái
bị bắt trong những quày (kiosks) của các trung tâm thương mại Hoa Kỳ
giả bán đồ chơi để làm bình phong cho các hoạt động gián điệp. 60 nghi
can bị bắt đã làm việc cho công ty Do Thái AMDOCS chuyên cung cấp
hầu hết những dịch vụ điện thoại qua hổ trợ thư mục (directory
assistance calls) và hầu hết những hồ sơ gọi (call records) và dịch vụ
hóa đơn cho Hoa Kỳ thông qua những hợp đồng được ký với 25 công ty điện
thoại lớn nhất Hoa Kỳ. Tất cả những tên mệnh danh là không tặc 9/11 đều
có căn cước giả. Trong một cuộc hành quân hỗn hợp FBI-CIA nhắm vào tên
không tặc đầu sỏ Mohammad Atta ở căn cứ Fort Lee, NJ, năm 2001, cuộc
hành quân nầy bị những nhân viên Do Thái chụp hình và do đó đã thất bại.
Những tên Do Thái nầy được xem như đã tìm cách bao che những toán không
tặc tương lai.
Sau vụ 9/11, hơn 60 tên Do Thái đã bị bắt dựa trên Đạo Luật Patriot anti-Terrorism Act hay
vì vi phạm nhập cảnh. Một số trong bọn họ là lính hiện dịch Do Thái.
Một số bị hỏng trắc nghiệm nói dối khi bị thẩm vấn về những hoạt động
thám sát chống Hoa Kỳ. Một số được xác định đã gián điệp chống người Ả
Rập. Trong số 90 tên Do Thái bị bắt có một nhóm năm tên, nay được nhiều
người biết đến như là những "dancing Israelis," bị nhận điện tại
nhiều địa điểm đang quay phim và reo mừng những cuộc tấn công. Những tên
nầy bị cảnh sát New York bắt. Những nhân viên cảnh sát và FBI bắt đầu
nghi ngờ khi họ tìm thấy những bản đồ của thành phố với một số địa điểm
được tô nổi, những dao rạch thùng (những thứ mà các tay không tặc được
nói đã xử dụng), $47,000 tiền mặt độn trong một bít tất, và những thông
hành ngoại quốc. Cảnh sát cũng nói với một tờ báo địa phương ở New
Jersey, những con chó đánh hơi bom đã được đưa đến chiếc xe van và chúng phản ứng giống như đánh hơi được chất nổ. Về sau, FBI xác định rằng ít nhất hai trong số 5 tên Do Thái nêu trên là những nhân viên của Mossad. Năm tên đó là Sivan, Paul Kurzberg, Yaron Schmuel, Oded Ellner, và Omer Marmari.
Xe bom trực chỉ cầu George Washington Bridge
Tờ Jerusalem Post về sau tường thuật rằng một xe van trắng bị chặn lại khi nó đến gần cầu George Washington Bridge, nhưng
quốc tịch của những nghi can không được tiết lộ. Nội dung bản tường
thuật: "Các cơ quan an ninh Hoa Kỳ trong đêm đã chặn một xe bom trên cầu George Washington Bridge. Chiếc
xe van, có chứa thuốc nổ, bị chặn lại trước đầu cầu. Nhà chức trách
tình nghi bọn khủng bố dự định cho nổ đoạn giao thông giữa New Jersey và New York. Đoạn
băng truyền tin của cảnh sát cho thấy rằng hai nghi can trong chiếc xe
bắt đầu bỏ chạy khi xe bị chặn lại và ngay sau đó bị bắt với một số
chống cự nào đó. Một trong những biến cố lạ lùng hơn của ngày đến dưới
hình thức một chiếc xe van trắng bí ẩn đậu cách WTC vài lốc đường, trên đường 6th và
King Street, có một bích họa (mural) bên hông vẽ hình một chiếc phản
lực đâm vào tòa tháp đôi và nổ tung. Tất cả những chiếc xe van trắng (white vans) đều thuộc về công ty "Urban Moving Systems" do Dominic Suter làm giám đốc, một điệp viên Do Thái; tên nầy lập tức bay trở lại Israel sau vụ tấn công. Hai cựu viên chức CIA xác nhận rằng công ty Do Thái nầy là một bình phong cho Mossad.
Hai viên chức nầy ghi nhận rằng những xe dọn nhà là một một bình phong
tình báo thông thường. Những tên Do Thái bị câu lưu 71 ngày trước khi
được Michael Chertoff lặng lẽ phóng thích – tay nầy là một thành viên
của phong trào lập quốc Do Thái và là giám đốc cơ quan hành sự thuộc Bộ
Tư Pháp thời đó.
Tình báo Do Thái và P-Tech, công ty nhu liệu Do Thái
Những hệ thống nhu liệu P-Tech là
cửa hậu đột nhập máy tính. Hầu hết những hệ thống vi tính nào có thể
liên quan đến quyết định cho cất cánh những phản lực cơ chiến đấu vào
ngày 9/11 đều xử dụng nhu liệu P-Tech. Danh sách khách
hàng của P-Tech bao gồm FAA (Cơ Quan Quản Trị Hàng Không Liên Bang),
N.A.T.O (Tổ chức Minh Ước Bắc Đại Tây Dương), United States Armed Forces
(Quân Đội Mỹ), Congress (Quốc Hội HK), Dept. Of Energy (Bô Năng Lượng),
Dept. of Justice (Bô Tư Pháp), FBI (Cơ Quan Điều Tra Liên Bang),
Customs (Thuế Quan), the IRS (Sở Thuế), the Secret Service (Sở Mật Vụ),
và ngay cả Tòa Bạch Ốc.
Michael S. Goff, một Zionist, là quản đốc tiếp thị của P-Tech và cũng đã làm việc cho công ty cơ sở dữ liệu Do Thái, Guardium (Amit Yoran làm giám đốc). Công ty nầy nhận tài trợ của Cedar Fund, Veritas Venture Partners, và StageOne, tất cả đều là những công cụ tài trợ cho Mossad. Do đó, với P-Tech, những gì người Mỹ có, khi cần, cũng chỉ là một điệp viên Mossad mang quốc tịch Mỹ (American "sayan") – tức Michael S. Goff, với những nhân viên Mossad cung cấp thông tin và chỉ huy trong khi y làm việc với những "đối tác" Hồi Giáo người Leban của y ở P-Tech.
Tại
sao một luật sư Mỹ trẻ đang làm việc cho một xí nghiệp luật danh tiếng
(Sedar & Chandler) tại tỉnh nhà của y bỗng nhiên bỏ nghề luật để làm
việc cho một công ty nhu liệu tầm thường mới ra nghề do một người
Leban và một người Saudi sở hữu và tài trợ? Gia đình của Goff là một gia
đình khả kính và tiếng tăm ở Worcester, Mass. Y có vị thế vững vàng tại
một xí nghiệp luật danh tiếng sau khi ra trường luật. Với Goff, nhu
liệu P-Tech –được cấy khuẩn trapdoors (cửa hậu) and Trojan Horses (ngựa
gỗ) – được bán ra và tải lên hầu hết những hệ thống vi tính nhạy cảm.
Cùng những hệ thống đó, nhưng vào ngày 9/11/2011, chúng đã thất bại thê
thảm hay hoạt động hữu hiệu là tùy theo quan điểm của bạn.
Tập đoàn nhu liệu vi tính MITRE
MITRE là
một tổ chức hợp đồng quốc phòng đứng đầu là cựu Giám Đốc Trung Ương
Tình Báo James Schlesinger. Người ta nói Schlesinger là một tín đồ Luther sùng đạo, nhưng biên dạng Wikipedia cho thấy bố mẹ của y là người Nga/Áo gốc Do Thái và do đó chắc chắn y là một Zionist. P-Tech, cùng với tập đoànMITRE, đã chiếm tầng trệt của FAA trong hai năm trước vụ 9/11. Công việc đặc biệt của họ là tìm hiểu những vấn đề tương tác giữa FAA, NORAD và Không Quân HK trong trường hợp khẩn cấp.
Phi cơ điều khiển tự động
Phi cơ đầu tiên đâm vào WTC (North Tower) và đánh trúng phòng máy điện toán của công ty Marsh & McClennan vừa mới thuê Kroll Associates để phụ trách về an ninh. Nhiều nhà nghiên cứu tin rằng những phi cơ đâm vào WTC đều được điều khiển chính xác bằng remote control. Mặc dù nghe có vẻ như khoa học giả tưởng, kỹ thuật remote control cho phi cơ đã có từ nhiều thập niên. Tập đoàn SPC Corporation đã cung ứng hệ thống flight termination system (Chấm dứt phi vụ bằng remote control) và hệ thống command transmitter system (hẹ
thống điều khiển viễn liên), một kỹ thuật cho phép phi cơ được điều
khiển viễn liên trong trường hợp phi công mất khả năng hay phi cơ bị
không tặc. Rabbi Dov Zakheim, một công dân Mỹ gốc Do Thái, là giám đốc của công ty Systems Planning Corporation và là Thứ Trưởng Quốc Phòng được bổ nhiệm từ 2001 đến 2004 dưới thời George
W. Bush. Zakheim là người chịu trách nhiệm về sự biến mất của $2.6
TRILLION khỏi những sổ sách của Pentagon. Câu chuyện nầy bị chôn vùi
dưới đống gạch vụn của vụ 9/11. Đặc khu của Pentagon bị "đánh trúng" hay
"nổ tung" có chứa thông tin ngân sách của nhiều năm, cũng như những
nhân viên kế toán, lưu trữ hồ sơ – nhiều người trong số họ đã chết trong
vụ 9/11. Vào tháng 5/2001, khi Zakheim phục vụ tại Pentagon, chính Tridata Corporation, một chi nhành của công ty SPS của y, giám sát cuộc điều tra về đợt tấn công "khủng bố" đầu tiên vào WTC trong năm 1993. Cơ hội nầy có lẽ đã giúp họ hiểu biết cặn kẻ những hệ thống an ninh và những thiết kế của WTC. Theo trang web SPC, một khách hàng mới nhất thời đó là căn cứ không quân Eglin AFB ở Florida. Eglin rất gần với một căn cứ không quân khác ở Florida – tức căn cứMacDill AFB, nơi mà Dov Zakheim đã hợp đồng để gởi ít nhất 32 chiếc Boeing 767, như một phần của hợp đồng thuê mướn phi cơ giữa hảng Boeing và Pentagon. Căn cứ trên quyền được truy cập vào những phi cơBoeing, những hệ thống điều khiển viễn liên, và những quan điểm công khai của y trong tài liệu PNAC, rất có thể y thực sự là một khuôn mặt chủ chốt trong những vụ tấn công 9/11.
Quân Đội Hoa Kỳ biết Israel đã làm chuyện đó
Theo Dr. Alan Sabrosky, cựu Giám Đốc Nghiên Cứu tại Đại Học Chiến Tranh của Quân Đội HK, "Với
tư cách một phân tính gia chiến lược, tôi tuyệt đối tin rằng vụ 9/11,
từ đâu đến cuối, là một hoạt động cổ điển do Mossad đạo diễn. Nhưng
Mossad không hành động một mình…" Ông nói tiếp, "Bin Laden phủ
nhận trách nhiệm, do đó nói rằng, mặc dù y cám ơn Allah vì những cuộc
tấn công đã xảy ra, nhưng y không làm chuyện đó, nhưng Hoa Kỳ đòi hỏi
Afghanistan do Taliban cai trị phải giao nạp y cho Hoa Kỳ. Taliban trả
lời rất hợp lý: ‘Hãy cho chúng tôi bằng chứng và chúng tôi sẽ giải giao
ông ta cho các ông.’ Nhưng HK phớt lờ và tấn công. Tại sao? Tại vì họ
không có bằng chứng thuyết phục, và sẽ không bao giờ có – ngay cả vào
đêm trước cái chết công khai của Bin Laden năm 2011, FBI cũng không đề
cập gì đến 9/11 trên bố cáo ‘Most Wanted’ liên quan đến y trên
Internet."
9/11: Do Thái là thủ phạm - II
** Nội dung chính của tài liệu nầy lấy từ Information Underground forum, tháng 5/2009, với tựa đề "Israel did 9/11 - All the proof in the world". Đây chỉ là một trong số vài phiên bản khác nhau về đề tài nầy. – Đỉnh Sóng
Quân Đội Hoa Kỳ biết Israel đã làm chuyện đó
Dr.
Alan Sabrosky, cựu Giám Đốc Nghiên Cứu tại Đại Học Chiến Tranh của Quân
Đội Hoa Kỳ (HK), đặt vấn đề không những đối với âm mưu bao che vụ 9/11
mà còn đi xa hơn thế. Cũng như nhiều người khác, ông cho thấy, về mặt
vật lý, vụ tấn công khó có thể thực hiện được. Tuy nhiên, ông thuộc số
ít ỏi những người đã đưa ra một kết luận mà nhiều người cho là hiển
nhiên nhưng ít ai có can đảm nhìn nhận: không thể tiến hành vụ 9/11 mà
không có những tài nguyên đầy đủ của cả CIA lẫn Mossad; và
vụ 9/11 đã phục vụ quyền lợi cốt lõi của cả hai cơ quan nầy. Sabrosky
cũng đặt vấn đề liên quan đến bao che truyền thông đối với vụ 9/11:
Chúng ta hãy nhìn kỹ tại sao truyền thông chính dòng lại chú ý đến cái
phòng quần áo của Sarah Palin thay vì phải phanh phui những trò lừa dối
trắng trợn, những mâu thuẫn và bất nhất trong hành xử của chính phủ Mỹ
đối với vụ 9/11 và những hậu quả của nó.
Chủ nghĩa Zionism (Lập Quốc Do Thái) và sự phản bội
Điểm
hiển nhiên không phải là 60,000 người Mỹ đã chết hay bị thương trong
một cuộc chiến khởi động do sự phản bội hay cái thế giới mà cuộc chiến
đó đe dọa tiêu diệt. Người Mỹ đã quay lưng trước những thực tại hiển
nhiên nầy tương tự như họ đã quay lưng với Việt Nam. Sabrosky gởi lời
cảnh cáo dưới đây đến Israel và những người Mỹ gốc Do Thái đang hỗ trợ
họ, những người mà ông xem như là những kẻ phản bội:
"Nếu
những người Mỹ nầy và những ai giống họ nhận thức đầy đủ mức độ đau khổ
của họ ra sao - và đau khổ mà chúng ta đã giáng xuống người khác ra sao –
khi những đau khổ đó được đặt để trên ngưỡng cửa của Israel và những
người hỗ trợ Israel ở HK, thì họ sẽ quét sạch hết những tay làm chính
trị, báo chí cũng như bọn bồi bút mà những trò nói dối và bất trung đã
đưa đến cảnh nầy và che đậy nó với họ. Rất có thể họ sẽ rời bỏ Israel
bấy giờ chẳng khác nào Carthage sau khi bị La Mã tiêu diệt. Đó sẽ là sai
lầm lớn của chính Israel."
Chúng ta có bao giờ tự hỏi tại
sao những điều Sabrosky nói ra ít có người nghe? Phải chăng HK đang
trong một cuộc đấu súng trong đó kẻ thù lớn nhất của họ lại ở phía sau
lưng, giết hại dân của họ, cướp bóc họ trắng trợn?
BAO CHE
Điều tra 9/11 trong tay Do Thái
Ngay sau những vụ tấn công 9/11, hệ thống Zionist lũng
đoạn một cách bài bản ở hậu trường để thui chột bất kỳ cuộc điều tra
hợp pháp nào có thể cho thấy những gì đã thực sự xảy ra hôm đó. Mục tiêu
của họ là kiểm soát bất kỳ và tất cả những góc cạnh của cái mệnh danh
là điều tra để họ có thể nhanh chóng bao che bất kỳ và tất cả bằng chứng
nào cho thấy sự dính líu của Do Thái.
Tất cả những thẩm phán bổ nhiệm đều là người Do Thái
Alvin K. Hellerstein – Một thẩm phán của U.S. District Court thuộc
Southern District, New York, và đã từng dính líu trong một số ca liên
quan đến những khuôn mặt lớn trong vụ 9/11, kể cả ca chính liên quan đến
ba hảng hàng không, những công ty phụ trách an ninh phi trường ICTS International NV và Pinkerton, các sở hữu chủ của World Trade Center (WTC), và Boeing Co., công ty sản xuất máy bay. Hellerstein là một thành viên Zionisttrung
kiên và một công dân Israel có những móc nối vơi Mafia Do Thái từ năm
1965. Vợ của Hellerstein là một cựu viên chức cao cấp và hiện là thủ quỹ
của AMIT. Theo trang web của tổ chức nầy, "Được thành lập năm 1925, AMIT là
cơ quan hỗ trợ hàng đầu thế giới cho giáo dục và những dịch vụ xã hội
dành cho trẻ em và thanh niên Do Thái, bồi dưỡng và giáo dục trẻ em Do
Thái trở thành những thành viên hữu ích, đóng góp cho xã hội." (Như sẽ
thi hành những âm mưu qui mô hơn 9/11?)
Michael B. Mukasey – Thẩm
phán Do Thái chính thống nầy giám định cuộc tranh tụng giữa Larry
Silverstein và các công ty bảo hiểm sau vụ 9/11. Silverstein được bồi
thường $4.5 tỉ. Mukasey đã ngăn chặn mọi điều tra qui mô về trương hợp
năm tên Dancing Israelis bị bắt vì dính líu đến vụ 9/11. Y đã
đóng một vai trò trong việc phóng thích chúng. Sau nầy y được Tổng Thống
Bush bổ nhiệm làm Bộ Trưởng Tư Pháp.
Michael Chertoff
- Giám Đốc Cơ Quan Hành Sự của Bộ Tư Pháp lúc xảy ra vụ 9/11. Y chủ yếu
theo đuổi chủ trương KHÔNG điều tra vụ 9/11. Y đã để cho hàng trăm gián
điệp Do Thái bị bắt trước biến cố 9/11 trở về lại Israel. Y cũng là một
thẩm phán trong vụ tấn công đầu tiên vào WTC năm 1993. Người ta
nói Chertoff mang quốc tịch đôi Mỹ/Do Thái. Gia đình y là một trong
những gia đình lập quốc Israel và mẹ y là một trong số những nhân viên
đầu tiên của Mossad, cơ quan tình báo của Israel.
Kenneth Feinberg – Người đứng ra thành lập quỹ bồi thường nạn nhân ($7 tỉ). Quỹ nầy được một đảng Zionistkiểm
soát và đã thuyết phục được 97% những gia đình nạn nhân nhận tiền với
điều kiện bãi bỏ yêu cầu điều tra luật định về vụ 9/11.
Sheila Birnbaum – Một tay Zionist chủ
chốt khác thuộc xí nghiệp luật Skaddan, dính líu trong âm mưu bao
che vụ 9/11. Birnbaum được chỉ định là "'special mediator (trọng tài đặc
biệt)" cho những đơn kiện của 3% những gia định quyết định không để bị
mua chuộc bằng tiền. Từ đó không thấy có kết quả nào đáng kể xảy ra cho
những đơn kiện nói trên.
Benjamin Chertoff – (Anh em họ với Michael Chertoff). Ben đã viết một bài trên tờ Popular Mechanics, tuyên
bố sẽ "vạch trần những thuyết âm mưu về 9/11." Ngụy luận khôi hài của y
làm mất giá trị đáng kể cho bài viết mặc dù nó vẫn được trích dẫn rộng
rãi bởi những người bênh vực "official narrative (phiên bản chính
thức)."
Stephen Cauffman – Lãnh đạo những cuộc điều tra của Viện National Institute of Standards and Technology(NIST) về xây cất và hỏa hoạn của WTC, những điều tra chung qui chỉ đưa đến một bao che có hệ thống việc sụp đổ building số 7 của WTC. Luận điểm của NIST vẫn là: hỏa hoạn, cùng với những thiệt hại nhẹ do các mảnh gây ra, đã làm sập building số 7.
9/11 Commission (Ủy Ban 9/11) bị Do Thái kiểm soát
Philip Zelikow (Quốc tịch kép Mỹ/Do Thái) là giám đốc điều hành của 9/11 Commission. Zelikow
được xem như là kẻ gác cổng của ủy ban nói trên và chức giám đốc điều
hành (executive director) được xem là chức năng quyền thế nhất của ủy
ban đó. Tay Do Thái Zionist nầy trách nhiệm tạo dựng phiên bản hư cấu được trình bày như là 9/11 Commission Report – phiên
bản chính thức. Bản báo cáo chứa đựng không biết bao nhiêu điểm bất
bình thường rõ rệt, mâu thuẫn, thiếu sót, và giả tạo trắng trợn.
Ban đầu Henry Kissinger được bổ nhiệm vào chức nầy nhưng đã từ chức vì bị phản đối dữ dội. Đó là cơ hội giúp tay điệp viên Zionist Zelikow
nắm quyền. Zelikow có nhiều xung đột quyền lợi rõ ràng khiến y không
thể nói sự thực với người dân HK về những vụ tấn công 9/11. Zelikow là
một tay trong của chính quyền Bush, từng có mặt trong toán chuyển tiếp
đầu năm 2000. Từ năm 1989 đến 1991, y làm việc với Condoleezza Rice
trong Hội Đồng An Ninh Quốc Gia (National Security Council) cho chính
quyền Bush. Từ năm 1996 đến 1998, Zelikow là giám đốc của Aspen Strategy Group, trong
đó có Condoleezza Rice, Dick Cheney và Paul Wolfowitz như là những đồng
sự của y. Sau khi George W. Bush nhậm chức, Zelikow được bổ nhiệm vào
một chức vụ trong Hội Đồng Tư Vấn Tình Báo Hải Ngoại của Tổng Thống
(PFIAB). Chức vụ giám đốc điều hành của Zelikow trong Ủy Ban 9/11 biến y
thành "kẻ gác cổng (Gatekeeper)," có quyền định đoạt vấn đề nào được
phép hay không được phép điều tra. Y cũng bí mật tiếp xúc vơi một trong
những cô vấn thân cận của Bush - Karl Rove – xuyên suốt quá trình thai
nghén bản báo cáo.
Tang vật hiện trường bị nhanh chóng lấy đi và phá hủy
Hai công ty Metals Management và SIMS group của Alan D. Ratner đã nhanh chóng dọn hết những sắt thép/mảnh vụ của WTC và
chở đến những lò đúc Á Châu. Alan Ratner là người Do Thái. Y đã bán hơn
50,000 tấn thép tang vật hiện trường cho một công ty Trung Quốc với giá
$120/tấn. Y không những thủ tiêu bằng chứng từ một trong những hiện
trường tội phạm lớn nhất trong lịch sử, mà còn thu được một món lợi béo
bỡ khi làm thế.
Những nhân vật Do Thái trong vụ 9/11
Cần
ghi nhận rằng những tay Do Thái thuộc phong trào Lập Quốc Do Thái
(Zionism) có mặt rất đông đảo trong chính quyền Bush. Một nhóm chủng tộc
thiểu số chỉ có 2% dân số HK lại có đến 42 người trong những chức vụ
chóp bu trong nội các của Bush. Những con số đó minh họa rõ nét qui mô
kiểm soát của người Do Thái trên chính phủ HK trong thời điểm 9/11. Vụ
9/11 không thể xảy ra nếu không có sự dính líu của những nhân vậtZionist chủ chốt dưới đây:
Giáo sỹ Dov Zakheim – Đồng tác giả của tài liệu PNAC (Project
for the New American Century) nói về tái thiết quốc phòng HK với chủ
trương cần phải có một vụ Trân Châu Cảng tương tự để động viên HK. Phục
vụ tại Ngũ Giác Đài với chức vụ kiểm soát viên từ tháng 5/2001 đến tháng
3/2004. Hai khoảng tiền lớn do y giám sát đã biên mất khỏi Ngũ Giác
Đài. Lúc đầu, $2.3 trillion ($2,300 tỉ) được Donald Rumsfeld báo cáo đã
biến mất (September 10, 2001) và về sau Zakheim không thể giải thích sự
biến mất của một ngàn tỉ khác nữa. Zakheim cũng đã cho bán thêm những
máy bay F-15 và F-16 cho Israel với giá chỉ bằng một phần giá thực sự của chúng.
Michael Chertoff – Phụ
tá bộ trưởng tư pháp đặc trách cơ quan hành sự Bộ Tư Pháp, sau nầy là
Giám Đốc An Ninh Quốc Gia (Homeland Security). Vợ y, Meryll Chertoff, là
một giám đốc vùng của ADL (Anti-Defamation League), một tổ chức cực đoan Do Thái từng tai tiếng về gián điệp.
Richard Perle – Chủ
tịch Hội Đồng Chính Sách Quốc Phòng của Ngũ Giác Đài. Y bị đuổi khỏi
văn phòng của TNS Henry Jackson trong thập niên 1970 sau khi Cơ Quan An
Ninh Quốc Gia (NSA) bắt quả tang y chuyển giao những tài liệu mật cho
Israel.
Paul Wolfowitz – Thứ Trưởng Quốc Phòng và là thành viên của Hội Đồng Chính Sách Quốc Phòng của Ngũ Giác Đài.
Douglas Feith (Quốc
tịch kép Mỹ/Do Thái) – Giám đốc chương trình tái thiết Iraq. Cùng với
Wolfowitz, Feith thực sự làm việc trong Nội Các Chiến Tranh (War
Department) khi vụ 9/11 xảy ra. Y bị sa thải khỏi Hội Đồng An Ninh Quốc
Gia năm 1976 vì bị nghi ngờ chuyển giao những tài liệu bí mật cho
Israel. Douglas Feith đã thành lập "Office of Special Plans" ngay
sau vụ 9/11, nguồn gốc của tất cả những tin tức tình báo ngụy tạo nhằm
tố cáo Iraq phát triển vũ khí hủy diệt hàng loạt và có những quan hệ
với Al Qaida.
Eliot Abrams – Cố vấn then chốt của Hội Đồng An Ninh Quốc Gia (National Security Council). Liên kết với các nhóm thảo thuyết tội phạm Zionist thân Do Thái: AEI, PNAC, CSP, và JINSA. Quan hệ mật thiết với những tay Zionist đầu nậu khác như Perle, Feith, Wolfowtiz, và Bill Kristol. Bí buộc tội nói dối trước Quốc Hội trong vụ Iran-Contra nhưng về sau được Bush khoan hồng.
Marc Grossman (Quốc
tịch kép Mỹ/Do Thái) – Thứ Trưởng Ngoại Giao đặc trách chính sách chính
trị lúc xảy ra vụ 9/1. Y từng tiếp xúc với Tướng Mahmoud Ahmad, Giám
đốc Cơ Quan Tình Báo Pakistan(Pakistan’s ISI).
Ari Fleischer (Quốc
tịch kép Mỹ/Do Thái) — Phát ngôn nhân Tòa Bạch Ốc cho Bush khi vụ 9/11
xả ra; có quan hệ với nhóm cực đoan mang tên Chabad Lubavitch Hasidics.
Chính y đã trình bày với báo chí những nói láo về vũ khí hủy diệt hàng
loạt của Iraq.
Những tay viết diễn văn cho Bush thổi phồng số thương vong Do Thái
Vào
ngày Sept 20, 2001, trong bài diễn văn đọc tước lưỡng viện Quốc Hội
theo sau vụ 9/11, Bush đã thổi phồng con số thương vong của người Do
Thái trong vụ tấn công từ 5 lên 130.
Ai viết diễn văn cho Bush?
David Frum: Tay Zionist nầy
là người viết diễn văn cho Bush vào lúc đó và là người chịu trách nhiệm
thổi phồng số người Do Thái chết lên 26 lần so với con số thực sự. Tại
sao y làm điều nầy? Vì y là một tay Zionistvà cố gặt hái cảm tình
đối với Israel và phóng Israel lên như một "đồng minh vĩ đại" của HK
và nay là những "đồng đội" trong cuộc chiến toàn cầu chống khủng bố. Y
cũng là đồng tác giả với tay Zionist Richard Perle nhan đề "An End To Evil: How To Win The War On Terror." Y ủng hộ cuộc xâm lăng phi pháp và gian trá vào Iraq và kêu gọi thay đổi chế độ ở Iran và Syria.
Mohammed Atta trực tiếp cho thấy tội ác của Do Thái
Chưa được một tuần trước vụ 9/11, một số không tặc khờ khạo, kể cả Atta, leo lên một tàu sòng bài Sun Cruz Casino Boat ở Florida. Không ai hiểu tại sao, và chuyện nầy chẳng bao giờ được điều tra.
Jack Abramoff: chủ nhân của những tàu sòng bài nói trên và là một tay Do Thái Zionist đã
tiếp đãi những tên khờ Ả Rập đó trên du thuyền của y. Abramoff là một
tay trong của chính quyền Bush đã từng có mặt trong Toán Cố Vấn Chuyển
Tiếp (Transition Advisory Team) chỉ định cho Bộ Nội Vụ vào năm 2001.
Abramoff là một tay vận động hành lang có tiền án và là một khuôn mặt
trọng tâm trong nhiều vụ tai tiếng chính trị, gian lận, và những trò lừa
đảo khác. Y hiện bị tù 5 năm về tội gian lận, đồng lõa, và trốn
thuế. Y cũng biết trước cuộc chiến Iraq do đám Zionist đạo diễn.
Một cuốn băng video tử đạo được thực hiện trước khi xảy ra vụ 9/11 cho thấy Mohammed Atta ở bên cạnh Ziad Jarrah, một tay bù nhìn Mossad người
Leman có người anh em họ Ali Al Jarrah được khám phá mới đây là một
điệp viên cho Israel trong 25 năm. (Ngay cả Adam Yahiye Gadahn, được
mệnh danh là phát ngôn viên của Al Qaida, hóa ra là một tay Do Thái Zionist có
tên thật là Adam Pearlman ở California. Ông nội của Adam, Carl
Pearlman, là một bác sỹ nổi tiếng và nằm trong Ban Giám Đốc của Anti-Defamation League, một tổ chức cực đoan Do Thái).
Ai toan phá hoại Tòa Nhà Quốc Hội Mexico?
Theo tường thuật của La Vox De Atzlan, hai người đàn ông giả dạng người chụp hình - nhưng thực sự là những nhân viên Mossad của
Do Thái - đã bị bắt bên trong trụ sở quốc hội Mexico ngày 10/10/2001 có
mang theo súng 9 mm, 9 quả lựu đạn, chất nổ, ba ngòi nổ, và 58 viên
đạn, nhưng được thả vì áp lực của Sứ Quán Israel. La Vox De Atzlan nhận định: "Chúng
tôi tin rằng hai tên khủng bố Zionist sẽ phá sập trụ sở quốc hội
Mexico. Giai đoạn thứ nhi là động viên cả báo chí Mexico lầm báo chí HK
qui trách Osama bin Laden. Rất có thể lúc đó Mexico cũng sẽ tuyên chiến
với Afghanistan, đưa binh sỹ và tất cả xăng dầu có thể có để chống lại
bọn khủng bố Hồi Giáo."
Những tên khủng bố bị bắt là
Salvador Guersson Smecke (Đại tá hồi hưu Israeli), 34 tuổi, và Saur Ben
Zvi, 27 tuổi. Những tên nầy được phóng thích sau một cuộc họp khẩn cấp
cao giữa Bộ Trưởng Ngoại Giao Mexico Jorge Gutman, Tướng Macedo de la
Concha, và một đại diện ngoại giao của Ariel Sharon bay sang Mexico City
vì mục đích nầy.
Nhận định của một số nhân vật tầm vóc
Cựu Tổng Thống Ý Francesco Cossiga –
Ông là người phát hiện "chiến dịch đội lốt" nầy, và đã nói với tờ báo
lâu đời nhất và nhiều độc giả nhất của Ý rằng vụ tấn công khủng bố 9-11
là một cuộc tấn công đội lốt doMossad và CIA điều hành, và đây là chuyện dễ hiểu giữa những cơ quan tình báo thế giới. Đây là đại để phát biểu của Cossiga với tờ Corriere della Sera:
"Nay tất
cả những chính giới dân chủ ở Hoa Kỳ và Âu Châu, đặc biệt những giới
thuộc cánh trung tả của Ý đều biết vụ tấn công tai họa đó được hoạch
định và thi hành bởi CIA của Mỹ và Mossad của Israel với sự giúp đỡ của
thế giới Zionist, nhằm qui trách cho những quốc gia Ả Rập và để thuyết
phục những cường quốc Tây Phương can thiệp vào Iraq và Afghanistan."
Cựu Giám Đốc Cơ Quan Tình Báo Pakistan – Trong một cuộc phỏng vấn chỉ vài tuần lễ sau vụ 9/11, Hamid Gul - Cựu Giám Đốc Cơ Quan Tình Báo Pakistan (ISI) từ 1987-1989 – nói với Arnaud de Borchgrave của hảng thông tấn United Press International rằng ông ta tin Mossad, chứ không phải al-Qaeda là thủ phạm của vụ tấn công, và cho rằng, "nếu
Hoa Kỳ có bằng chứng nào đối với Al Qaeda, thì họ nên trình ra cho một
tòa án quốc tế. Ông tuyên bố: "Hoa Kỳ bỏ ra $40 tỉ mỗi năm cho 11 cơ
quan tình báo của họ. Đó là $400 tỉ trong 10 năm. Tuy nhiên chính quyền
Bush nói họ bị đánh bất ngờ. Tôi không tin điều đó. Trong vòng 10 phút
sau khi tháp thứ nhì của World Trade Center bị đánh trúng, CNN liền nói
Osama bin Laden đã làm chuyện đó. Đó là một lối thông tin xuyên tạc do
những thủ phạm thực sự hoạch định. Nó tạo ra ngay một định kiến và khích
động dư luận quần chúng, ngăn chặn cả những người thông minh cũng không
thể suy nghĩ cho chính mình được."
(…) "Tôi
đệ trình bản tự khai có tuyên thệ nầy như bằng chứng về những hành động
tội ác của Tổng Thống George Bush, Phó Tổng Thống Richard Cheney, Bộ
Trưởng Tư Pháp John Ashcroft, Bộ Trưởng Tư Pháp Alberto Gonzales, Bộ
Trưởng Quốc Phòng Donald Rumsfeld và Cố Vấn An Ninh Quốc Gia Condoleeza
Rice… Nó sẽ chứng minh rằng những viên chức đó đã đánh trống thổi kèn
cho một cuộc chiến chống Iraq như một hệ quả khả thể của cuộc tấn công
(9/11), kích thích động lực và thời cơ cho một toán tình báo độc lập đặt
những chất nổ khắp Toà Tháp Đôi để tối ưu hóa những thiệt hại và bảo
đảm kết quả."
(I
submit this sworn affidavit as evidence of criminal actions by
President George Bush, Vice President Richard Cheney, Attorney General
John Ashcroft, Attorney General Alberto Gonzales; Secretary of Defense
Donald Rumsfeld and National Security Adviser, Condoleeza Rice…
It will prove that those officials hyped a War with Iraq as a probable
outcome of the attack, exciting motive and opportunity for an orphan
intelligence team to lay explosives through the Towers to maximize
damage and guarantee the outcome.)
(…)
Tôi, Susan Lindauer, xin tuyên thệ rằng tôi lần đầu được biết về Âm mưu
9/11 qua đơn vị trưởng CIA của tôi, Dr. Richard Fuisz, vào trung tuần
tháng Tư 2001…Những đe dọa đó bắt nguồn từ những cấp cao nhất trong
chính phủ, trên Giám Đốc CIA và Ngoại Trưởng…Đó chỉ có nghĩa là Tổng
Thống George Bush, Phó Tổng Thống Richard Cheney hay Bộ Trưởng Quốc
Phòng Donald Rumsfeld… Văn phòng Tổng Thống và CIA biết rõ âm mưu. CIA
thiếu "tình báo động cơ" để chặn đứng cuộc tấn công, nhưng chính âm mưu
đó đã được họ biết.
Còn tiếp