CHIẾN TRANH VIỆT NAM
1955-1975
Trong phạm vi hạn hẹp của
bài viết nầy, chúng tôi chỉ đề cập sơ lược đến những nét chính về Nguyên Nhân,
Diễn Tiến và Hậu Quả của chiến tranh Việt Nam, hầu gíúp cho độc giả và đặc biệt
là giới trẻ Việt Nam hiểu rõ hơn về cuộc
chiến nầy.
I-NGUYÊN NHÂN:
Trận
đánh Điện Biên Phủ chấm dứt vào ngày 7-5-1954 với kết quả là thực dân Pháp bị
thất trận trước lực lượng của Cộng Sản VN cùng sự chỉ huy và viện trợ dồi dào của
Trung Cộng về vũ khi và nhân sự. Qua sự kiện nầy, Pháp phải ký Hiệp Định
Geneve ngày 20-7-1954 với sự tham dự của
Nga, Trung Cộng, Mỹ, Pháp, Anh và CSVN nhằm chấm dứt sự hiện diện của quân đội Pháp tại VN. Riêng chính
quyền VNCH của miền Nam chỉ được tham dự với tánh cách là quan sát viên,
không có quyền quyết định.
Hiệp
định Geneve lấy vĩ tuyến 17 chia đôi VN. Miền Bắc do Hồ Chí Minh lãnh đạo theo
chế độ Cộng Sản. Miền Nam theo chế độ tự do dân chủ do Thủ tướng Ngô Đình Diệm
lãnh đạo. Hiệp định cho thời hạn 300 ngày để người dân của hai miền có quyền
quyết định chọn nơi cư ngụ.Với sự ngăn cản, hăm dọa đủ điều, nhưng cũng có khoảng
1 triệu người dân miền Bắc đã di cư vào Nam tìm tự do. Riêng chỉ có gần 100
ngàn cán bộ Cộng Sản từ Nam đi tập kết ra Bắc. Một số còn lại được CSBV cho gài
lại ở miền Nam để sử dụng cho cuộc chiến
sau nầy.
Hiệp
định cũng qui định hai năm sau tức vào năm 1956 sẽ có cuộc Tổng Tuyển Cử thống
nhất đất nước với sự giám sát của tổ chức quốc tế.Tuy nhiên, cuộc tổng tuyển cử
đã không thành hình.Tổng Thống Ngô Đình Diệm cho rằng Miền Nam VN vì không tham
dự Hiệp Định Geneve nên không có bổn phận phải thi hành. Tổng Thống Eisenhower
của Hoa Kỳ thì cho rằng, dân số của Bắc Việt đông hơn miền Nam 2 triệu và với
chính sách độc tài của Hồ Chí Minh, người dân miền Bắc không có quyền tự do để
bầu cử. Trong khi ấy, Hà Nội cũng lâm vào tình trạng khó khăn là qua cuộc Cải
Cách Ruộng Đất kéo dài từ năm 1953 đến 1956 xảy ra rất tàn độc đã giết hại trên
50 ngàn người và trên 100 ngàn người bị
bắt giam, khiến người dân Bắc Việt oán hận chế độ. Chính vì những lý do trên, Ủy
Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến Đông Dương đã không tiến hành cuộc tổng tuyển
cử.
Thất
bại trước giải pháp Tổng Tuyển Cử, Hồ Chí Minh dưới sự yểm trợ mạnh mẽ của Trung Cộng và Liên Xô liền tiến hành cuộc
chiến xâm lăng Miền Nam VN hầu bành trướng chủ nghĩa Cộng Sản.
II- DIỄN TIẾN CUỘC CHIẾN:
Chiến tranh VN không
thuần nhất là cuộc nội chiến giữa người dân của hai miền Nam Bắc mà là một cuộc
chiến ý thức hệ giữa hai khối Cộng Sản và Tự Do.Vì thế, với chủ trương bành trường
chủ nghĩa Cộng Sản, nên Cộng Sản Bắc Việt đã được yểm trợ dồi dào của Liên Xô
và Trung Cộng cho cuộc chiến xâm lăng miền Nam VN. Phía Nam Việt Nam thì được
Hoa Kỳ cho rằng phải yểm trợ và xem Miền Nam VN là tiền đồn chống Cộng hầu ngăn
chận sự bành trướng chủ nghĩa Cộng Sản do Liên Xô và Trung Cộng chủ trương.
Tổng
thống Ngô Đình Diệm sau khi lãnh đạo đất nước, ông đã ra sức đón nhận và định
cư cho 1 triệu người Bắc di cư vào Nam.Ông cố gắng ổn định đất nước qua việc dẹp
các sứ quân như Bình Xuyên, Cao Đài và Hòa Hão và thiết lập một thể chế tự do
dân chủ qua bản Hiến Pháp 26-10-1956. Ngoài việc xây dựng, kiến thiết đất nước
qua việc phát triển giáo dục, kinh tế, thương mãi, hành chánh v.v.. Tổng thống
Diệm cũng cũng cho thành lập Quân Đội Quốc Gia và nhiều quân trường tên tuổi
như Võ Bị Quốc Gia, Trường Bộ Binh Thủ Đức, Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung, Vạn
Kiếp, Nha Trang v..v. để đương đầu với cuộc xâm lăng của Cộng Sản Bắc Việt.
Phía
Hồ Chí Minh thì cho cán bộ Cộng Sản ra sức phá rối, áp dụng chiến thuật du kích
nhằm tạọ tình trạng bất an cho miền Nam VN.
Phải công nhận rằng thời
gian từ năm 1955 đến 1960, Miền Nam VN tương đối yên ổn, vì lực lượng của Việt
Cộng còn yếu kém. Nhưng đến ngày 20-12-1960, Hà Nội cho thành lập Mặt Trận Giải
Phóng Miền Nam giao cho Ls Nguyễn Hữu Thọ làm Chủ Tịch và đến ngày 15-2-1961
chính thức cho thành lập Quân Đội Giải Phóng thì lực lượng Việt Cộng bắt đầu
phát triển mạnh. Chúng ta phải nhìn nhận rằng đây là một đòn chính trị mà Hà Nội
đã tung ra để lừa bịp quốc tế và người dân cả hai miền Nam Bắc. Vì thực tế, Mặt
Trận Giải Phóng Miền Nam chỉ là công cụ của Hà Nội đặt dưới quyền điều động và
chỉ huy của Hà Nội.
Nhận
thấy đòn chính trị của Hà Nội cho rằng chiến tranh VN là cuộc nội chiến giữa
nhân dân Miền Nam tranh đấu đòi độc lập, tự do dân chủ, Tổng Thống Diệm yêu cầu
Hoa Kỳ chỉ viện trợ vũ khí, tiền bạc và cố vấn để gìn giữ chính nghĩa và chủ
quyền cho miền Nam là không cho quân nước ngoài tham chiến. Năm 1962, Tổng Thống
Diệm cho phát động chiến dịch Ấp Chiến Lược tại vùng nông thôn nhằm bảo đảm an
ninh và ngăn chận tầm ảnh hưởng của Việt Cộng đến nông dân VN. Chính sách Ấp
Chiến Lược đề ra đã đạt được nhiều kết quả tốt đẹp. Tiếc rằng sau ngày đảo
chánh 1-11-1963, các tướng lãnh của QLVNCH đã hủy bỏ chính sách nầy.
Chính
vì không cho quân đội Mỹ vào VN, chính phủ Hoa Kỳ tìm mọi cách để lật đổ chính
quyền Ngô Đình Diệm. Hoa Kỳ đã yểm trợ nhiều cuộc biểu tình của Phật Giáo, Sinh
Viên, các đảng phái đối lập và nhất là cuộc đảo chánh ngày 1-11-1963 do các tướng
lãnh cầm đầu cuối cùng đã chấm dứt được chế độ Đệ I Cộng Hòa Miền Nam. Tổng Thống
Ngô Đình Diệm và bào đệ là ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu bị sát hại. Trước sự việc nầy,
Hồ Chí Minh đã thú nhận là ông ta rất sung sướng và nhận định rằng cuộc xâm
lăng miền Nam của Hà Nội sẽ càng dễ dàng hơn.
Miền
Nam những năm sau đó không còn được ổn định chính trị.Các cuộc đảo chính, chỉnh
lý liên tục xảy ra qua các thời của các tướng Dương Văn Minh, Nguyễn Khánh và
Nguyễn Cao Kỳ tạo thuận lợi cho cuộc xâm lăng của CS Bắc Việt. Cũng trong thời
gian nầy, Hoa Kỳ liên tục cho đổ quân vào Miền Nam VN và Trung Cộng cùng Liên
Xô càng gia tăng viện trợ cho Cộng Sản Bắc Việt. Sang thời chính quyền của các
tướng lãnh từ năm 1964 và TT Nguyễn Văn
Thiệu từ năm 1966 , Hoa Kỳ đã có lúc gởi quân sang VN lên đến 500 ngàn người.
Hoa Kỳ cũng sắp xếp cho các quốc gia Úc, Tân Tây Lan, Phi Luật Tân, Đại Hàn,
Đài Loan đem quân sang yểm trợ cho miền Nam VN.
Nhưng
điểm khó khăn cho Miền Nam VN là chính sách tham chiến của Hoa Kỳ chỉ là chiến
đấu cầm chừng với quân CS Bắc Việt vì e ngại cuộc chiến sẽ lan rộng với sự tham
chiến của Liên Xô và Trung Cộng. Riêng phía CS Bắc Việt ngoài sự viện trợ dồi
dào của Liên Xô, Trung Cộng và khối Cộng Sản còn có lợi thế là Miền Bắc luôn được
an toàn không bị quân đội Hoa Kỳ và Miền Nam VN tấn công, còn được dùng lãnh thổ
của hai nước Lào và Camphuchia là hậu phương an toàn sau những trận chiến tại
miền Nam VN và dùng đường mòn Hồ Chí Minh để chuyển quân và vũ khí vào Nam VN.
Hoa
Kỳ chỉ viện trợ những vũ khí có tầm hạn hẹp cho Miền Nam để không cho quân đội
Miền Nam tấn công ra Bắc. Phía CS Bắc Việt đã chuyển từ chiến thuật du kích
sang chiến thuật tập trung quân rồi tấn công vào địa điểm chiến trường mà chúng
chọn, rồi sau đó rút quân về các nơi an toàn tại Lào và Campuchia. Phía quân đội
VNCH với quân số một triệu quân với các đơn vị tổng trừ bị thiện chiến như Nhảy
Dù, TQLC, Biệt Động Quân cùng 10 sư đoàn Bộ Binh và lực lượng Địa Phương Quân cùng
125 ngàn Cảnh Sát Quốc Gia, nhưng vì phải gìn giữ dân và lãnh thổ nên phải trải
quân mỏng ra khắp nơi, vì vậy hầu hết các trận chiến, quân đội VNCH phải đương
đầu với số lượng quân CS Bắc Việt đông hơn gấp bội.
Tuy
thế, tinh thần chiến đầu của người lính VNCH rất cao và đã thắng lợi trước nhiều
trận tấn công ác liệt với lực lượng đông đảo của quân Bắc Việt được trang bị
nhiều vũ khí tối tân hơn miển Nam VN.Trong cuộc chiến có cả ngàn trận đánh, QLVNCH
có lúc thắng, lúc thua nhưng người lính QLVNCH luôn chiến đấu anh dũng. Điển
hình là các trận Tết Mậu Thân 1968, tấn
công vào hậu cần của VC tại Campuchia vào năm 1970 và các trận tại An Lộc, Quảng
Trị, KonTum vào mùa hè đỏ lửa năm 1972.
Trong
trận chiến Tết Mậu Thân năm 1968, Việt Cộng đã trắng trợn vi phạm lệnh hưu chiến.
Lợi dụng ngày Tết khi mà số đông quân nhân QLVNCH đang nghỉ phép, Việt Cộng liền
mở cuộc tổng tấn công 44 tỉnh của Miền Nam ngay cả thủ đô Sài Gòn và Tòa Đại Sứ
của Hoa Kỳ. Kết quả, quân đội VNCH dù tự chiến đấu với vũ khí trang bị kém hơn
Việt Cộng nhưng đã đẩy lui được các cuộc tấn công của Việt Cộng, tái chiếm lãnh
thổ và tiêu diệt được 60 ngàn quân của Việt Cộng.
Tuy thất bại về quân sự,
nhưng CS Bắc Việt lại có lợi trên lãnh vực chính trị, ảnh hưởng đến người dân Mỹ
và tạo nên phong trào phản chiến tại Hoa Kỳ, vì cho rằng Hoa Kỳ không thể thắng
trận chiến tại VN. Nó cũng là dịp để làm cho lực lượng của Mặt Trận Giải Phóng
Miền Nam bị tổn thất nặng nề để không còn làm eo sách sau nầy. Cũng trong trận
Tết Mậu Thân, quân đội Bắc Việt đã giết hại dã man bằng cách chôn sống gần 6
ngàn quân dân cán chính của VNCH tại cố đô Huế.
Tổng Thống Johnson của
Hoa Kỳ từ khi cầm quyền sau khi TT Kennedy bị ám sát vào cuối năm 1963, ông đã
phát động chiến tranh ra Bắc Việt nhưng chỉ bằng các cuộc oanh tạc có giới hạn.Trong
khi đó, Liên Xô viện trợ cho Bắc Việt nhiều hỏa tiển Sam chống lại các phi cơ của
Hoa Kỳ.
Vào
ngày 29-4-1970, nhằm tiêu diệt hậu cần của CS Bắc Việt tại Campuchia, lực lượng
Hoa Kỳ và QLVNCH đã phối hợp tấn công vào Mõ Vẹt, Lưởi Câu là những nơi trú ẩn
của quân đội CSBV.Trận chiến đã loại 30 ngàn bộ đội Bắc Việt.
Vào
ngày 8/2/1971, QLVNCH đã mở cuộc hành quân Lam Sơn 719 kéo dài đến
ngày 23-3-1971 tấn công vào Tchepone cách 42 km biên giới Việt-Lào nhằm cắt đứt
đường tiếp vận của CSBV qua ngã đường
mòn Hồ Chí Minh với hầu hết những đơn vị thiện chiến như Nhảy Dù, TQLC, Biệt Động
Quân, SĐ 1 BB, Thiết Giáp, Pháo Binh với quân số 55 ngàn quân để đương đầu với
60 ngàn quân của CSBV với trang bị vũ khí tối tân cùng nhiều xe thiết giáp T
54.Tiếc rằng, vì nhu cầu bảo mật làm hạn chế việc lập kế hoạch kỷ càng nên
QLVNCH đã bị thất bại và làm tổn thất nặng nề những đơn vị thiện chiến nhất của
mình.
Vào
mùa hẻ đỏ lửa năm 1972, CSBV lần lượt mở các cuộc tấn công vào các tỉnh An Lộc,
Kontum và Quảng Trị của miền Nam VN.
Tại mặt
trận An Lộc, quân CSBV với lực lượng hùng hậu gồm các Sư Đoàn 5,7,9 cùng các
đơn vị Pháo Binh, Thiết Giáp, Phòng Không với quân số gần 36 ngàn quân đã ồ ạt
tấn công các đơn vị phòng ngự của QLVNCH gồm có SĐ 5/BB, 3 Liên Đoàn BĐQ cùng lực
lượng ĐPQ chỉ có khoảng 7.5 ngàn quân vào ngày 13/4/1972. Sau đó, QLVNCH phải
tiếp viện thêm 25 ngàn quân cùng sự yểm trợ hữu hiệu của Không Quân và Pháo
Binh của Việt- Mỹ và đến ngày 12//6/1972
QLVNCH đã hoàn toàn đẩy lui quân CSBV ra khỏi An Lộc và thu về nhiều chiến lợi
phẩm.
Tại mặt
trận Kontum, quân CSBV với các SĐ 2 và
SĐ 320 cùng sự yểm trợ của lực lượng xe tăng, trọng pháo và phòng không đã tấn
công vào các đơn vị phòng thủ gồm SĐ 23/BB của chuẩn tướng Lý Tòng Bá, lực lượng
Dù và ĐPQ. Trận chiến khai diễn từ ngày 14/4/1972 và kết thúc vào ngày
5//6/1972 , sau 3 đợt tấn công quân CSBV đành phải rút lui vì tinh thần chiến đấu
anh dũng cùng sự yểm trợ hữu hiệu của ông Paul Vann qua các cuộc không kích bằng
phi cơ B52 của Hoa Kỳ.
Tại mặt
trận Quảng Trị, nhằm dành lợi thế cho cuộc hội đàm tại Paris, quân CS Bắc Việt
đã tấn công Quảng Trị. Đây được xem là trận chiến ác liệt nhất trong mùa Hè đỏ
lửa kéo dài đến
81 ngày từ ngày 28/6/1972 đến ngày 16/9/1972 làm tổn hại nặng nề về nhân mạng
cho cả đôi bên. Riêng phía QLVNCH khiến cho hai lực lượng thiện chiến là Nhảy
Dù, đặc biệt là TQLC bị tổn thất nặng nề. Phía CSBC cũng thế khiến hai Sư đoàn
320 và 325 cũng bị thiệt hại năng nề gần như tan hàng.
Trước
áp lực phản chiến tại Hoa Kỳ và sau chiến công du của TT Nixon cùng ngoại trưởng
Kissinger đến Bắc Kinh năm 1972, chính quyền Hoa Kỳ tìm cách rút lui khỏi chiến
tranh VN trong danh dự.Nhằm ép CS Bắc Việt vào bàn hội nghị, TT Nixon cho phát
động chiến dịch oanh tạc Bắc Việt từ năm
1972 khiến chính quyền Hà Nội đã sắp sửa muốn đầu hàng, nhưng tiếc rằng Hoa Kỳ
sau đó lại ngưng các cuộc oanh kích .Trong khi đó, Liên Xô cũng leo thang viện
trợ cho Bắc Việt nhiều hỏa tiển Sam chống lại các phi cơ của Hoa Kỳ.
Hội đàm Paris với danh
nghĩa chấm dứt chiến tranh và tái lập hòa bình cho VN đã diễn ra với sự tham dự
của bốn bên là Hoa Kỳ, Bắc Việt, Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và VNCH chấm dứt
vào ngày 27-1-1973. Đây là hiệp định hoàn toàn bất lợi cho VNCH vì chỉ cho Hoa
Kỳ rút quân ra khỏi VN mà vẫn chấp nhận sự hiện diện của quân Bắc Việt tại miền
Nam VN.Ngoài ra, phía VNCH bị ép phải chấp nhận nhiều điều khoản bất lợi cho Miền
Nam VN.
Sau Hiệp định Paris
1973, phía VNCH đã bị Hoa Kỳ cắt giãm viện trợ quân sự.Trong khi ấy, Liên Xô và
Trung Cộng không ngừng gia tăng viện trợ vũ khi và nhân sự cho phía Hà Nội.
Biến động chính trị tại
Hoa Kỳ lại càng bất lợi cho VNCH, khi TT Nixon vì vụ Watergate do vụ nghe lén
tin tức của đảng Dân Chủ khiến ông phải từ chức tổng thống vào ngày 9-8-1974. Sự
việc nầy khiến những điều cam kết của TT Nixon với TT Nguyễn Văn Thiệu là tái
oanh tạc Bắc Việt khi họ vi phạm hiệp định Paris đã không thực hiện được. Chủ tịch
Hạ Viện là Gerald Ford lên thay thế TT Nixon dù muốn giúp VNCH nhưng luôn bị Quốc
Hội do đảng Dân Chủ nắm đa số cản trở.
Cuộc chiến đã cho ta thấy
hoàn toàn bất lợi cho Miền Nam VN và vì thế phía CSBV đã gia tăng cuộc xâm lăng
miền Nam bằng cả hai mặt trận quân sự và chính trị. Hà Nội vận động chính trị
quốc tế nhất là dư luận Hoa Kỳ phải cắt mọi viện trợ cho VNCH và tạo tình trạng
bất ổn chính trị tại miền Nam bằng nhiều cuộc biểu tình chống TT Thiệu.Riêng về
quân sự, chính quyền Hà Nội lần lượt đem tất cả lực lương quân sự của CSBV với
sự viện trợ dồi dào của Liên Xô và Trung Cộng mở nhiều mặt trận đánh chiếm miền
Nam VN.
Nhằm xem Hoa Kỳ có tái
can thiệp vào cuộc chiến VN hay không, CSBV đã cho lực lượng tấn công và chiếm
tỉnh Bình Long vào ngày 6-1-1975. Phía Hoa Kỳ không lên tiếng và phía TT Thiệu
vì làm eo sách với Hoa Kỳ nên đã không cho lực lượng tái chiếm Bình Long.Vì thế,
lực lượng CSBV liền mở rộng các cuộc tấn công vào miền Nam VN.
Vào ngày 10/3/1975 CSBV
tấn chiếm thị xã Ban Mê Thuột đưa đến quyết định di tản của Tổng Thống Thiệu thất
bại tại Vùng II đến Vùng I và sau cùng làm QLVNCH phải thất trận vì sự thiếu đạn
dược, vũ khí, tiếp liệu và qua lệnh đầu
hàng của tổng thống Dương Văn Minh dù các quân nhân QLVNCH thuộc mọi binh chủng
đã chiến đấu rất anh dũng.
Nhìn qua diễn tiến của
cuộc chiến tranh VN thì Miền Nam VN luôn ở vào vị thế bất lợi vì miền Nam luôn ở
vào thế thủ mà không được tấn công ra Bắc.Tổng thống Ngô Đình Diệm đã nhìn thấy
rõ cuộc chiến sẽ bị khó khăn khi có quân Hoa Kỳ trực tiếp tham chiền. Đây là lý do khiến CSBV ra sức tuyên truyền với
nhân dân Bắc và Nam VN là phải đem quân vào “giải phóng” miền Nam mà quên đi sự
độc tài và tàn ác của chủ nghĩa Cộng Sản. TT Diệm cũng thấy rõ chủ quyền của Quốc
Gia sẽ bị xâm phạm và suy giãm chính nghĩa khi Hoa Kỳ lảnh trách nhiệm chính
trong cuộc chiến. Thực tế cho chúng ta thấy Hoa Kỳ quyết định tham chiến và sau
đó tự quyết định rút lui bỏ rơi Miền Nam chỉ vì quyền lợi của Hoa Kỳ.
III- HẬU QUẢ:
Vì
không chấp nhận chế độ độc tài CSVN, trước và ngay ngày 30-4-1975 đã có hàng
trăm ngàn quân dân VNCH đi tị nạn tại nhiều quốc gia trên thế giới. Tiếp theo đó,
làn sóng người dân bỏ nước ra đi bằng đường biển, đường bộ lên đến cả triệu người
và có khoảng vài trăm ngàn người đã phải bỏ mạng trên biển cả.
Không như cuộc nội chiến của Hoa Kỳ kéo dài 4
năm từ năm 1861 đến 1865, Tổng thống Abraham Lincoln, sau khi chiến thắng miền
Nam đã đối xử tử tế với quân miền Nam, ngược lại các cấp lãnh đạo của CSBV đã xem
quân dân của VNCH là kẻ thù không đội trời chung.
Sau khi cưỡng chiếm Miền
Nam, nhuộm đỏ toàn thể VN, CSBV liền ra tay trả thù tàn độc quân dân cán chính của
VNCH, Hàng trăm ngàn quân dân cán chính VNCH phải bị đi tù nhiều năm, làm tan
nát bao gia đình.Các thân nhân của quân dân cán chính của VNCH thì bị đày đi
các vùng kinh tế mới. Con cái của họ không được lên học đại học và không có việc
làm. Các mộ bia trong các nghĩa trang quân nhân của VNCH bị đập phá không
thương tiếc. CSVN cũng cho dẹp ngay tổ chức Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.
Trong suốt cuộc chiến, thanh niên của cả hai miền
phải bị đưa ra chiến trường, bỏ dỡ việc học để thành nhân tái hầu xây dựng và
tái thiết đất nước.
Chính vì thế, vào ngày
14-9-1958, Hồ Chí Minh đã chỉ thị cho Phạm Văn Đồng ký “Công Hàm” giao đứt quần đảo Hoàng Sa cho
Trung Cộng.Tổng Bí Thư Lê Duẫn trong cuộc chiến xâm lăng Miền Nam VN đã từng
tuyên bố: “Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô
và Trung Cộng”. Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh thì để lại câu nói phản quốc: “Tôi cũng biết rằng, dựa vào Trung Quốc là mất
nước, nhưng còn hơn mất Đảng”.
Thực
trạng của cuộc chiến tranh kéo dài 20 năm chỉ gây tang thương cho dân tộc Việt.
Cả hai miền Nam Bắc VN đều bị thua mà kẻ hưởng lợi lại là Trung Cộng. Lần lượt
Trung Cộng đã chiếm hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa của VN.Nhà cầm quyền
CSVN đã nhượng cho Trung Cộng nhiều lãnh hải và lãnh thổ trong những năm qua.
Đây là
điều bất hạnh và bi thảm cho dân tộc Việt,
dù CSVN đã thống nhất đất nước bằng giải pháp quân sự, nhưng lại dốt về việc kiến
thiết và nhất là đã đặt quyền lợi của đảng Cộng Sản lên trên quyền lợi của quốc
gia và dân tộc./.
NGUYỄN VẠN BÌNH
Note:
Tài liệu Tham khảo từ:
*Chiến Tranh Quốc Cộng tại VN của Gs Lê Đình Cai
* Các tài liệu trên
Google