Từ
xưa đa số người Việt mặc nhiên cho rằng Trần Khắc Chung và Huyền Trân
công chúa là một mối tình. Họ kể truyền miệng đời này qua đời khác thành
ra vô tình đã “Đóng Đinh” đó là một mối tình như có thực. Chính
tôi từ mấy chục năm qua cũng tin như vậy. Cứ cho là trước khi đi làm vợ
vua Chiêm Chế Mân, Huyền Trân công chúa đã có ý tình dan díu với Trần
Khắc Chung, nên khi Chế Mân chết, vua Trần sai Khắc Chung đi cứu con gái
khỏi bị hỏa thiêu chết theo chồng theo phong tục của hoàng gia Chiêm
Thành, thì hai người “Tình cũ” lại được “tái hợp”. Cuộc cứu hộ công chúa thành công và hai người lênh đênh trên biển một thời gian khá dài có đến hàng năm, mới về tới Thăng Long.
Mãi
cho đến khi thành phố Huế xây dựng Trung tâm văn hóa Huyền Trân, mà dân
Huế gọi là Đền thờ Huyền Trân công chúa; tôi có dịp đến viếng, tìm hiểu
cặn kẽ, đọc kỹ sử liệu và văn bia tại đền thờ, thật sự tôi đã sững sờ,
ngỡ ngàng khi biết ra sự thật có trong sử liệu và văn bia tại Đền Thờ do
Ban Nghiên Cứu Sử uy tín đã viết lại cho đúng sự thật. Ôi! Một nỗi oan
đã kéo dài với thời gian mấy thế kỷ, mà không ai minh oan cho hai người.
Theo sử liệu, khi công chúa Huyền Trân còn ở Thăng Long, chỉ mới 13
tuổi, đã được vua cha hứa gả cho Chế Mân. Khi đó, lão tướng Trần Khắc
Chung đã rất già, vốn không phải họ Trần, mà là họ Đỗ, vì có nhiều công
chiến trận nên được vua cho cải ra họ Trần. Lão tướng ngoài tài trận
mạc, còn có tài thêu thùa rất khéo tay, vì vậy các công chúa trong triều
được lão tướng dạy cho học thêu thùa. Công chúa Huyền Trân lúc đi lấy
chồng mới 15 tuổi, là cháu ngoại của danh tướng Trần Hưng Đạo, bạn lão
tướng chí thân của lão tướng Trần Khắc Chung. Lúc đó, lão tướng Khắc
Chung đã già, đã có 3 đời vợ, con cháu đầy đàn, không thể nào lại dan
díu với cô công chúa 13 tuổi là cháu ngoại của bạn mình được. Thuở xa
xưa trên 700 năm trước đó, một cô gái nhỏ mới 13, 14 tuổi có dám yêu một
ông già bạn của ông ngoại, và đã có vợ, con, cháu đầy đàn? Ngay thời
đại ngày nay, điều đó cũng khó có thể xảy ra.
Cho
đến khi vua Trần sai đi cứu công chúa là vì lão tướng đáng tin cậy, có
nhiều mưu kế, từng trải trận mạc, mới có thể cứu được công chúa thoát
khỏi lên giàn hỏa thiêu. Lúc này công chúa mới sinh hoàng tử được 2
tháng. Lão tướng Khắc Chung đã tương kế tựu kế, vừa thay mặt vua Trần để
phúng điếu với triều đình Chiêm Thành (Chế Mân chết, Chế Cũ lên nối
ngôi vua cũng chỉ mới trên dưới 15 tuổi, là con trai của bà Hoàng hậu
lớn của Chế Mân, còn con của Huyền Trân là Chế Chí mới sinh được 2
tháng) vừa đề nghị với triều đình Chiêm Thành cho phép công chúa
Huyền Trân ra biển Đông để hướng về quê hương bái biệt vua Cha, rồi sẽ
trở vào để lên giàn hỏa.
Triều
đình Chiêm Thành đã bị mắc mưu của lão tướng Việt Nam, đã bằng lòng cho
công chúa Huyền Trân ra biển để bái biệt vua cha. Vừa hay trời phù hộ
cho lão tướng, sương mù dày đặc bao phủ cả biển khơi, ba bên bốn bề đều
không thấy rõ, nhân cơ hội đó, lão tướng đưa công chúa qua thuyền nhẹ,
và dông tuốt về phía Bắc. Trên thuyền chỉ có mấy thủy binh chèo thuyền,
thuyền nhẹ đi rất nhanh, sương mù đã che khuất bóng họ. Khi thuyền vào
đến vùng biển Quảng Trị thì bị bão lớn, sóng đánh dữ dội suýt chìm
thuyền, phải tấp vào bờ. Vùng đất Quảng Trị bấy giờ thuộc hai Châu Ô, Lý
là đất mà Chế Mân đã dâng cho vua Trần làm sính lễ để cưới công chúa
nhà Trần. Đất đã là của nước Việt, có quan trị nhậm do vua Trần cử đến
cai quản. Chính quan cai quản đất mới này đã giấu nhẹm rất bí mật tung
tích của lão tướng và Huyền Trân, chờ hết mùa giông bão, sửa chữa thuyền
xong mới có thể tiếp tục hành trình ra Bắc. Tại sao phải giấu tung
tích? Bởi thủy quân Chiêm Thành rất giỏi thủy trận, đã từng đánh ra tận
Thăng Long thời Chế Bồng Nga, do đó họ có thể cho thuyền truy lùng
thuyền của Khắc Chung và công chúa. Hai người được vị quan Việt Nam giấu
kỹ đồng thời lo sửa chữa thuyền bè đã bị bão làm hư hỏng nặng. Hơn năm
sau, hết mùa bão, trời yên biển lặng, quân Chiêm không truy đuổi nữa,
thuyền cũng đã sửa chữa xong, họ mới tiếp tục cuộc hải trình ra Bắc.
Tuy
được cứu thoát, nhưng công chúa trong tâm trạng mất một đứa con trai
đầu lòng mới 2 tháng tuổi, cùng với nỗi đau vừa mất chồng, cùng nỗi sợ
hãi vừa thoát lên giàn hỏa thiêu. Thử hỏi trong tâm trạng đau buồn mất
chồng, mất con, và lo sợ như thế, còn tâm trạng đâu để dan díu, ngoại
tình? Sở dĩ người đời sau thêu dệt nên mối tình Trần Khắc Chung và công
chúa Huyền Trân là do họ đồng hóa với mối tình Tây Thi – Phạm Lãi bên
Tàu. Sau khi báo thù vua Tàu, Tây Thi đã theo người tình cũ là Phạm Lãi
chèo thuyền chu du vào Ngũ Hồ sống với nhau, lênh đênh bềnh bồng trên
sóng nước, bỏ lại thế gian sau lưng. Do đó người Việt đời sau cứ thản
nhiên đồng hóa mối tình Tây Thi – Phạm Lãi và Huyền Trân – Trần Khắc
Chung như là một. Đó là nỗi oan của Lão Tướng Trần Khắc Chung và là nỗi
oan của sương phụ Huyền Trân mà ngày nay chúng ta phải hiểu và đánh giá
lại cho rõ ràng.
Khi
về đến Thăng Long, Huyền Trân lên núi Yên Tử trình diện vua cha là Phật
Hoàng Trần Nhân Tông, rồi quy y đi tu, lấy pháp danh là Hương Tràng ni
sư. Bà vừa tu hành vừa dạy dân dệt vải và làm thuốc cứu bệnh cho dân.
Tôi ước mong rằng người Việt Nam ta ai cũng có dịp đến viếng đền thờ
Huyền Trân công chúa ở Huế để có dịp tận tường đọc kỹ văn bia và sử liệu
chính thức đáng tin cậy để minh oan cho công chúa Huyền Trân và Lão
tướng Trần Khắc Chung. Riêng tôi, sau lần có dịp đến viếng đền thờ và
đọc cặn kẽ sử liệu, văn bia. Tôi đã thắp hương cúi đầu chân thành tạ lỗi
với người xưa, vì mình đã lầm tưởng mấy chục năm qua chỉ vì hai chữ “tương truyền”, oan cho một người phụ nữ đoan hạnh và một vị lão tướng tài ba.
Nếu 0 có Huyền Trân Công Chúa, thì cũng chẳng có miền Trung ngày nay (với âm jọng
ReplyDeletefa trộn của fong thổ đất Chàm (Champa).Như vậy cũng chẳng có Hội An,Đà Nẳng,Huế.