Năm 1955,
từ
miền
Bắc,
tôi
tránh
họa
cướp
cộng
sản,
nên
cùng gia
đình
bỏ
lại
quê
hương
thân
yêu,
nơi
chôn nhau,
cắt
rốn
để
suôi
Nam.
Sự học hành lem nhem của
tôi ở xứ Bắc khiến tôi không biết mình thực sự đang có trình độ của lớp
nào.
Khi tôi tới Saigon, thì các trường còn đang nghỉ hè. Tôi được phép
ra Nha Trang tắm biển và nghỉ một tuần, rồi sẽ phải về Saigon
học.
Tuy nhiên, Nha Trang đã chiếm được trái tim tôi. Hết một tuần được
phép ở Nha Trang, tôi đã không trở lại Saigon, và ghi tên học lớp đê Tứ, tại một
trường Tư thục nhỏ, là trường TƯƠNG LAI ở số 7 đường Công Quán, Nha Trang.
Tôi xin ghi lại it dòng về một vị thày của Trường Tương Lai. Nếu
quý bạn không thấy nhạt nhẽo, vô duyên, thì tuần tới, tôi lại xin viết về các
thày khác thời Trung Học của tôi.
THẦY THẠCH TRUNG GIẢ
Thầy dạy Việt văn lớp Đệ Tứ của
tôi ở trường Tương Lai, Nha Trang,là giáo sư Thạch Trung Giả -Người Trong
Đá-. Đây là biệt danh của thầy. Chỉ tới
khi viết bài này, tôi mới tìm ra tên của thầy. Thầy viết sách, viết báo, dạy
học, làm thơ…nhưng đều ký bút danh là Thạch Trung Giả, nên không ai biết tên
thực của thầy.
Mấy ngày trước khi thầy tới dạy, ông
Hiệu Trưởng Thái Văn Châu, trong lúc dạy toán, đã ngừng giảng it phút để quảng
cáo về thầy Giả : “ Năm nay lớp này sẽ đậu hết ! Tôi đã mời được ông thầy
lừng danh để dạy quốc văn. Rồi các anh sẽ được học với thầy Thạch
Trung Giả , độc
nhất của trường ta ”
Chúng tôi hồi hộp đợi ngày thầy Giả
tới. Ông có vóc người tầm thước, vẻ mặt thanh tú, tóc hớt ngắn, phục sức giản
dị, tiếng nói trầm ấm. Ngay buổi học đầu tiên, ông đã “hớp hồn” chúng tôi. Với
phong cách của một nghệ sĩ, ông giảng bài cho học trò mà say sưa như đang diễn
thuyết cho một đám thính giả vô hình nào đó. Đôi lúc ông mới “bừng tỉnh” và quay
về với vai trò của một thầy giáo giảng bài trong lớp.
Những bài luận văn chúng tôi viết đều
bị ông sửa be bét, từng câu, từng chữ.
Ngày nay, mỗi khi viết, dù chỉ là một
câu giản dị, tôi cũng ngập ngừng suy nghĩ, vì tôi như vẫn còn thấy những trang
giấy luận văn của tôi bị thầy Giả gạch xóa đầy mực đỏ. Tôi phải gắng hết sức khi
làm các bài luận Việt văn, cản thận dò từng dấu chấm, dấu phết và những từ
ngữ Hán Việt. Nhờ sự cố gắng đó, ông không còn gạch xóa bài viết của tôi
nhiều như trước. Bài của tôi đôi khi được ông đọc cho cả lớp nghe.
Một hôm thình lình ông hỏi tôi có
phải là người trong họ của ông Bùi Xuân Uyên không. Tôi ngạc nhiên và không biết
tại sao ông hỏi như thế. Thì ra Bùi Xuân Uyên là chủ nhiệm tờ Tập san Thế
Kỷ, tờ báo ông thày thường đăng bài và thơ. Nghe tôi trả lời không
biết Bùi Xuân Uyên là ai, ông có vẻ thất vọng, nhưng không nói gì.
Hồi ấy chúng tôi không biết
đang được một vị thày lừng danh dạy dỗ. Sau này rất lâu, khi đã vào Saigon, và
học tới Đại học, tôi mới biết thầy tôi là một học giả uyên thâm, đã từng giảng
dạy Quốc Văn và Triết học ở các trường danh tiếng, như trường Võ Tánh,Trường Bồ
Đề, trường Lê Quý Đôn, và cũng là giảng sư Triết cuả Đại Học Vạn Hạnh.
Thầy cũng viết sách viết báo.
Thầy
viết nhiều bài cho tạp chí Thời Tập và là tác giả của cuốn
“Văn Học Phân Tích Toàn Thư” dầy
hơn 700 trang, một cuốn sách giáo khoa dạy đọc và viết văn, do Lá Bối xuất bản
lần đầu năm 1973. Thày Giả cũng là tác giả những dịch bản nổi tiếng:
Nhất
Nguyên Thế Giới (tuyển dịch Swami Vivekananda, Thái Bình Dương xuất bản,
1971) -
Áo Nghĩa Thư Upanishads (dịch kinh văn Shri Aurobindo với lời
bình giải, An Tiêm in 1973) -
Số Không với Vô Tận (dịch Le Zero et
L'Infini của Arthur Koesler, An Tiêm 1973).
Thạch
Trung Giả xuất hiện trên tạp chí Thế Kỷ ở Hà Nội từ 1950 tới 1954, bên
cạnh những Bùi Xuân Uyên, Trúc Sĩ, Triều Ðẩu, Tạ Tỵ, vào Nam viết cho tạp chí
Liên Hoa, Thời Tập, đặc biệt về thơ luận và triết thư. “Văn thơ ông
rành rọt, khúc chiết, trải nghiệm, câu nào câu nấy như nét chạm trổ. ” (Viên
Linh- Tạp Chí Văn Học)
Trong
Tạp chí Thời Tập, Chủ Nhiệm là nhà thơ Viên Linh viết về Thạch Trung Giả
như sau:
“Giáo
sư, Học giả, Thạch Trung Giả tên thật là Trần Văn Long, không rõ ngày năm
sinh, dạy Quốc văn và Triết học tại trung học Võ Tánh, Nha Trang. Thạch Trung
Giả vóc người đầy đặn, trên trung bình, tóc cắt ngắn, gọn ghẽ, mang kính trắng,
mặc đồ trắng, không để lại một cảm giác gì rõ rệt nơi người đối diện, ngoài cảm
giác là một người chin chắn, chững chạc, ăn mặc xuề xoà xong thôi. Bài ông viết
kỹ, lối viết không để ai có thể biên tập, thêm thắt… Ông thuộc lớp những nhà văn
miền Bắc khi di cư vào Nam vừa có danh, nhưng chưa có tác phẩm in thành sách
hoặc chỉ mới có một cuốn những năm 1952-1953. Phần lớn các nhà văn nhóm Thế Kỷ
sinh khoảng 1920-1925, khi vài Nam vừa ở tuổi trên dưới 30. Tôi đoán Thạch Trung
Giả sinh trong khoảng này”
Khi
Ban Mê Thuột thất thủ vào tháng 3 năm 1975, Tạp chí Thời Tập của Viên
Linh xuất bản số báo cuối cùng. Trong số báo này, ông Viên Linh có đặt ra hai
câu hỏi cho các nhà văn. Một trong hai câu hỏi đó như sau : “ Anh/chị có phải
từng tự hỏi về vai trò người cầm bút là mình, trước một tình thế đất nước biến
động như trong những ngày qua hay không ?”
Giáo
sư Thạch Trung Giả đã “trả lời” câu hỏi của Viên Linh bằng một bài thơ như
sau:
Những Ai Nằm Đó?
Nhửng
ai nằm đó?
Dưới
khuya này thăm thẳm mấy ngàn năm
U
minh hình bóng trập trùng
Miên
miên Đất Tổ vua Hùng dựng nên
Bước
chân chạm mấy cửu tuyền,
Mấy
tầng huyết đổ lệ hoen chốn này
Những
ai nằm đó?
( Thạch Trung Giả trả lời Viên Linh, Thời Tập số 23 Saigon
15-4-1975)
Tôi
nghe tin giáo sư Thạch Trung Giả đã tự tử tại một ngôi chùa nào đó, sau
khi cộng sản chiếm Saigon năm 1975, nhưng không biết hư thực. Mới đây, đọc trên
Net, thấy có người học trò cũ ở trường Võ Tánh viết về Thầy như sau:
“Nhiều
người cho biết là cứ đến mùa Hè, thầy [Thạch Trung Giả] lên chùa Vào Hạ(một khóa
học của các tu sĩ) tham thiền với các vị sư. Sau năm 1975 thầy Giả thường hay
lên chùa và thầy đã mất tại chùa. Vì hoàn cảnh khó khăn, chùa quá nghèo, không
có tiền mua hòm, nên các vị sư chỉ còn cách quấn chiếu, và tìm ván cũ đóng hòm
chôn thầy… Học sinh trường Võ Tánh cảm thương thầy quá, thầy ơi !
(Phạm
Vũ Newvietstar.com)
Để
tưởng nhớ một vị thày có một nhân cách cao quý và một tâm hồn kinh triết, xin
mời độc gỉả đọc môt đọan thơ về biển của thầy, có lẽ được viết ra khi thầy ở Nha
Trang.:
Châu
Trầm Bé Nhỏ,
Mang
tim người rỏ xuống đại dương kia
Biển
vô cùng nhưng giọt mắt tan lià,
Mang
vô tận mấy trùng kia thế giới.
Nước
thăm thẳm nhưng sầu kia vời vợi
Toả
vô cùng bao quát đại dương kia
Hằng
ha sa góp lại cũng khôn bì
Mấy
vạn lý với bao đời Kim tự tháp
Rút
thiên cổ thu vào trong một hạt
Vạn
sắc cờ phai nát với hư vô.
(Thạch
Trung Giả, Thời Tập số 15-11-1974)
Nhớ công ơn và cảm phục tư cách của một ông thầy, tôi ghi lại it dòng tưởng
nhớ này.
BXC
No comments:
Post a Comment