(Ðể Tưởng-Niệm Những Người Ðã Chết trong cuộc chiến Việt-Nam)
Mùa
tựu trường bắt đầu vào cuối tháng Tám, thời tiết như dịu đi chút nóng
của mùa hè, buổi sáng đã có chút gió heo may thổi về trên rặng cây xồi
cổ thụ quanh khu công viên! Trên các nẻo đường vào buổi sáng, đã xuất
hiện những chiếc xe school-bus màu vàng đưa đón các em học sinh!!!
Năm
nay, lớp học tôi phụ trách có vài em học sinh người Á-Châu, có lẽ chúng
nó ở trong những chung cư phía bên kia đường đối diện với ngôi trường
Tiểu Học! Thỉnh thoảng lái xe ngang đấy, tôi lại bắt gặp những khuôn mặt
lạ lẫm, ngộ nghĩnh của mấy người Á-Ðông, vài phụ nữ lớn tuổi vẫn còn
mặc y phục của xứ họ, trên đầu đội thêm chiếc nón lá!
Ðó
là hai đứa bé trai và đứa bé gái, chúng như đôi nét chấm phá đậm nét
trong lớp học giữa các học sinh bản xứ, với mái tóc đen mượt và đôi mắt
cũng màu đen long lanh, hơi dài ra như một chiếc lá, nhìn chúng rất ngộ
nghĩnh và dễ thương! Vì khác biệt ngôn ngữ nên chúng có vẻ e dè, tôi
thấy cô bé gái vẫn đứng khoanh tay nhìn tôi bằng đôi mắt ướt, có lẽ bé
vừa khóc xong vì lần đầu tiên phải xa Mẹ đến trường, xung quanh toàn là
trẻ con tóc vàng, mắt xanh đang tò mò nhìn chúng!
Tôi
đọc hồ sơ của học sinh, mấy đứa nhỏ này người Việt-Nam có những cái tên
phát âm thật khó, nhưng chính nơi xuất xứ của chúng đã gợi lại trong
tôi biết bao kỷ niệm đằm thắm của ngày trẻ tuổi, với mối tình đầu hình
như vẫn bàng bạc những hình ảnh đẹp đẽ trong lòng! Davis đã viết cho tôi
bao nhiêu lá thư từ miền đất xa xăm đó, ngày chàng ra đi, chúng tôi đã
đắm chìm trong những giọt nước mắt chia ly, những nụ hôn cuống quýt
tưởng có thể ngộp thở trong phút giây gần gũi của hai kẻ yêu nhau! Vậy
mà đã hơn ba mươi năm trôi qua, những giòng chữ của Davis vẫn còn in
trong lòng tôi:
"Jane yêu quý của anh,
Lá thư đầu tiên anh viết cho em từ miền đất nhiệt đới, trên bản đồ
có lẽ em chỉ nhìn thấy một giải đất dài và hẹp nằm ven bờ
Thai-Bình-Dương. Tuy mới bước vào mùa Xuân, nhưng khí hậu nóng và ẩm làm
anh muốn ngộp thở! Lúc nào người anh cũng nhơm nhớp mồ hôi, thời tiết
quả rất là khó chịu! Anh nhớ em vô cùng, nhớ em và nhớ cả những mùa xuân
của quê nhà, bây giờ chắc cánh đồng cỏ hoa đã rộ lên những bông hoa "blue bonnet" màu xanh thật đẹp, những rừng thông bạt ngàn chắc đã xanh biêng biếc!!!
Mùa xuân ở bên này khác hẳn mùa xuân ở xứ mình, tuy đường phố nhộn
nhịp người qua lại, không vắng vẻ, yên tĩnh như thành phố của chúng
mình! Từ Phillipine chuyển tiếp sang Việt-Nam, mỗi một đường bay như dài
thêm nỗi xa cách giữa anh và em! Anh nhớ em vô cùng, Jane, anh mong đợi
thời gian qua nhanh để trở về với em!!!"
Năm
1968, sau khi tốt nghiệp Trung học, tôi bắt đầu theo học một trường Ðại
học lớn ở Houston. Vốn yêu thích trẻ em từ khi còn sinh hoạt trong một
tổ chức hướng đạo của nhà thờ, tôi chọn ngành sư phạm! Cha Mẹ tôi cũng
đồng ý với sự chọn lựa ấy, tôi sống với Cha Mẹ trong một căn nhà cũ kỹ ở
vùng ngoại ô trong một thành phố đất rộng, người thưa có rất nhiều di
dân từ Mễ-Tây-Cơ tới!
Davis
là bạn trai của tôi từ thuở Trung học, chàng gia nhập Không quân Hoa-Kỳ
để làm đúng nỗi ước ao được trở thành một phi công! Ðất nước tôi không
có chiến tranh, nhưng nhu cầu quân đội và chiến trường lại nằm ở những
quốc gia khác! Tôi thật sự lo lắng cho Davis, nhưng người Mỹ vốn vậy,
thích là làm, dù yêu tôi Davis vẫn theo đuổi ý muốn được bay bổng trên
không trung, dù chàng biết sẽ rất nhiều gian nan!!!
Hai
đứa yêu nhau mải miết, thỉnh thoảng tôi đi quân trường thăm chàng,
thỉnh thoảng chàng về thăm tôi! Gia đình hai bên đã tổ chức một lễ đính
hôn nho nhỏ, cái nhẫn ấy cho đến bây giờ tôi vẫn còn giữ, như một kỷ vật
khó quên trong đời!!!
Sau
khi ra trường, lúc chàng báo tin được phân phối sang chiến trường
Việt-Nam, tôi đã khóc biết bao nhiêu! Nhìn trên bản đồ, tôi không hình
dung nổi giải đất bé nhỏ cong cong hình chữ S, nằm ven bờ đại dương xa
xăm đó lại là một vùng đất đầy máu lửa!!! Ðã nhiều lần tôi tự hỏi, chàng
sang đấy làm gì? Chiến đấu cho ai? Việt-Nam đâu phải quê hương tôi! Mỗi
lần nhìn chiếc nhẫn đính hôn trên tay, tôi lại không ngăn được những
giọt lệ nhớ nhung! Chiếc nhẫn ấy chưa đủ cột chặt đời chúng tôi bên
nhau, cho nên tôi vẫn lủi thủi đếm bước trên hành lang của khu giảng
đường rộng thênh thang, từng tiếng giày gõ nhịp trên nền đá hoa khô
lạnh, như đếm được cả nỗi cô đơn trong lòng người con gái trẻ!!!
"Jane yêu quý của anh,
Không biết đây là lá thư thứ mấy anh viết cho em, từ đất nước xa xăm
có những người dân dáng người bé nhỏ nhưng nhanh nhẹn, đôi mắt đen như
dấu kín những tư tưởng khó hiểu khi họ nhìn anh, nhưng nụ cười của họ
lại làm anh yên tâm!
Khí hậu ở đây thật là khác biệt với quê mình! Mưa chỉ bắt đầu vào
mùa hè, những cơn mưa tầm tã đổ xuống đột ngột rồi ngưng để cái nóng lại
trở về, nhưng đất trời có vẻ như dịu đi! Anh đang ở căn cứ Không quân
Biên- Hòa, thuộc miền Ðông của thủ đô Sài-Gòn, bay khoảng mười lăm phút!
Nếu lái xe, anh có thể nhìn thấy nhiều thửa ruộng và vườn cây nằm chen
lẫn nhau, vùng này lại có núi, tất cả đều có vẻ bình yên!!!
Bây
giờ thì anh đã quen một phần nào với khí hậu ở đây, quanh năm giống như
mùa hè ở Texas, nhưng dễ chịu hơn vì vào buổi tối trời lại trở nên mát
mẻ! Anh có theo mấy người bạn ra phố, rất buồn cười khi có những đứa bé
chạy theo anh và nói "OK. Salem!", chúng
nó là những đứa trẻ của vỉa hè, nhìn chúng đen đủi và gầy guộc, cái
miệng toác ra cười mỗi khi bày tỏ sự thân thiện! Tuy nhiên, anh cũng thấy
có nhiều trường học, trẻ con mặc đồng phục đến trường, chúng được Cha
Mẹ chở trên những chiếc xe đạp hoặc xe gắn máy. Anh thấy có một cái gì
đó khác biệt trong cuộc sống của những đứa trẻ trên đất nước này, có cái
gì đó không bình thường giữa những cái bình thường, nhưng với anh đứa
bé nào cũng có nét dễ thương! Anh lại nhớ đến em mai này khi thành cô
giáo trẻ, với những đứa học trò mũm mĩm, hồng hào trong một trường tiểu học!!!"
Năm
nay là mùa hè thứ hai tôi xa Davis, những lá thư vẫn đều đặn gửi về, có
nhiều chuyện vui vui nhưng cũng có những chuyện khá buồn, nhất là khi
bạn Davis có người vĩnh viễn nằm xuống! Davis vẫn thường an ủi tôi, và
cho rằng con người sống hay chết là do sự an bài của Thượng-Ðế, tôi cũng
cố tin như vậy, và hy vọng chiến tranh ở đất nước xa xôi chóng đến ngày
kết thúc!!!
Davis
có gửi cho tôi vài xấp lụa dệt bằng tơ tằm, đó là thứ lụa quý dùng để
may áo dài cho những người phụ nữ thanh lịch! Davis kể cho tôi nghe về y
phục cổ truyền của những người đàn bà Việt-Nam, khiến mỗi khi họ bước
đi, hai tà áo như được bọc trong gió, và bay phất phơ như hai cánh
bướm!!! Cầm tấm lụa với đường vân óng ánh, nó mềm mại và mát dịu như
tình yêu của chàng đã xoa dịu phần nào nỗi buồn của sự xa cách, mặc dù
tôi chưa biết sẽ may kiểu áo nào với xấp lụa mềm mà Davis gửi cho tôi!
Không biết tôi có thể chờ chàng bao lâu vì tôi còn trẻ quá, tôi thèm
những đêm đắm đuối bên chàng, tôi thèm nụ hôn ngọt ngào và vòng tay của
Davis vào những buổi chiều như buổi chiều nay! Ôi những chiều cuối tuần
mùa hè cùng chàng tung tăng bên bờ biển Galveston, đùa rỡn với những đợt
sóng đẩy vào bờ, nằm phơi nắng trên bãi cát, bây giờ chỉ còn là kỷ
niệm! Bạn bè tôi thật hạnh phúc với người tình của chúng nó, còn tôi sẽ
đợi chàng đến bao giờ???
Chủ
nhật tôi thích đi nhà thờ, sinh hoạt với nhóm Hướng-Đạo sinh ngoài trời
vào những ngày trời đẹp! Tôi muốn gói nỗi nhớ chàng trong những sinh
hoạt chung của xã hội, của gia đình, nhưng không đơn giản thế, lúc nào
tôi cũng cảm thấy thiếu vắng, lúc nào tôi cũng cảm thấy cô đơn!!!
Davis
gởi cho tôi nhiều tấm hình cảnh Việt-Nam, hầu hết là hình ảnh thành phố
Sài-Gòn đông vui, người qua lại như mắc cửi! Davis nói đó chỉ là mặt
nổi của đô thị, còn trong ngõ hẻm hay ở vùng quê thì lại có bao nhiêu
cảnh đời khốn khổ!!! Người ta đổ dồn về thành phố, chen chúc nhau trong
những khu lao động, cuộc sống thật là tăm tối! Chiến tranh có mặt ở khắp
mọi nơi, sống và chết kề cận bên nhau, hạnh phúc và đau khổ như lẫn lộn
đến nỗi người ta không biết thế nào để chọn lựa hoặc lẩn tránh!!!
Tuy
vậy, tôi ao ước được đến đó, được gặp chàng, ôm lấy chàng, đắm đuối
trong đôi mắt chàng! Chỉ thế thôi, để biết rằng đời không phải là
mộng!!!
"Jane yêu quý,
Không biết đến bao giờ anh mới được trở về bên em, hơn một năm rồi anh
xa gia đình, xa quê hương, xa người bạn tình yêu dấu đầu tiên của đời
anh!
Anh đã được thuyên chuyển đến một căn cứ khác thuộc miền Tây miền Nam
Việt-Nam. Từ trên máy bay, anh nhìn thấy đồng quê Việt-Nam đẹp như một
bức tranh, với những thửa ruộng nối tiếp nhau và bao nhiêu sông rạch tạo
thành một bức tranh màu xanh của hy vọng! Vậy mà ngấm ngầm ở đâu đó vẫn
là nỗi chết rình rập, vẫn là phân định không rõ rệt giữa bên này và bên
kia!!!
Thành
phố Cần-Thơ trù phú, hiền hòa nằm ven bờ Hậu-Giang của nhánh sông
Mê-kông. Sông mênh mông là nước, những lượn sóng vỗ vào bờ, những thân
dừa soi nghiêng trên mặt sông đục màu phù sa, anh
thấy có một loại hoa màu tím lênh đênh trôi theo dòng nước, đẹp một
cách kỳ lạ! Mỗi một dòng sông như chuyên chở bao sức sống của những miền
đất khác nhau! Bởi vậy mà anh vẫn thấy nó khác, nó lạ vì nó buồn quá,
mênh mông quá!!!
Mùa hè nữa lại đến, thời gian qua đi nhanh quá phải không Jane,
ráng chờ anh Jane nhé! Anh sẽ thất vọng vô cùng nếu ngày trở về không có
em đón anh với những nụ hôn ngọt ngào và những giọt nước mắt mừng vui
của ngày đoàn tụ!!!
Những
cơn mưa mùa hè như tưới mát cây cỏ, cái nóng của miền Nam như dịu đi ,
thành phố ướt át và bóng bẩy sau cơn mưa làm sáng lên màu đỏ rực rỡ của
một loại hoa mùa hè, dân địa phương gọi là hoa phượng! Chưa bao giờ anh
thấy một loại hoa nào tươi thắm đến thế, bên này phố xá không nhiều cây
cối như
bên mình, cho nên màu đỏ của hoa như lung linh cả một góc trời, và
những cô nữ sinh trong màu áo trắng đồng phục thướt tha, nhặt những
chiếc hoa ấy để cài lên những chiếc nón lá dễ thương của họ! Nhìn những
tà áo trắng tung bay trên đường phố, anh không biết diễn tả làm sao được
vẻ đẹp rất dịu dàng của những cô gái Việt-Nam còn đang tuổi học trò!
Những cô gái cũng thật lạ, anh không muốn nói đến những người đàn bà son
phấn trong những quán rượu của lính Mỹ, nhưng muốn làm quen với một
người con gái Việt-Nam thật không dễ! Jane đừng ghen với họ nghe, anh
không bao giờ quên em đâu, anh chỉ muốn nói đến tâm hồn kỳ lạ của họ!
Vài người bạn phi công Việt-Nam nói với anh, những người con gái xinh
đẹp ấy, nhìn rất dễ thương, nhưng thương không phải dễ là vậy!!!"
Phong trào chống chiến tranh nổi lên khắp nơi, sinh viên bỏ học xuống đường giương cao biểu ngữ "Make love, not War" đằng
sau minh tinh màn bạc Jane Fonda ở Hoa-Thịnh-Ðốn. Chiến tranh phải chấm
dứt, trả lại Việt-Nam cho Việt-Nam, trên màn ảnh truyền hình, mọi người
nhìn thấy những chiếc quan tài của lính Mỹ được chở về quê hương trên
mỗi chuyến bay, mỗi lần nhìn những hình ảnh đó, tim tôi muốn vỡ ra làm
trăm mảnh! Tôi mong Davis trở về, chứ không thì tôi cũng đã mỏi mòn
trong chờ đợi! Lũ bạn chế nhạo tôi thuộc loại phụ nữ cổ điển chỉ tôn thờ
những mối tình vô vọng! Làm sao tôi có thể giải bày cho họ hiểu, tình
yêu của tôi dành cho Davis, chính vì cảm phục lòng can đảm và chấp nhận
tất cả khó khăn, nguy hiểm khi trở thành một người lính!!!
"Jane yêu dấu của anh,
Như
thư trước anh đã kể em nghe, Việt-Nam dần dần đã trở thành một miền đất
dễ thương trong tâm hồn anh, dù nó bị tàn phá bởi chiến tranh! Những
người bạn phi công Việt-Nam đã chiến đấu không mỏi mệt trong mọi điều
kiện thiếu thốn, chắc hẳn phải có một lý do sâu xa nào đó, hẳn nhiên để
bảo vệ một chính nghĩa! Ðất nước ấy như một bức tranh đẹp đẽ trong lòng
dân tộc họ, có ai lại nghĩ đến chuyện gạch những nét ngang dọc lên tác
phẩm quê hương, có ai lại muốn dội xuống quê hương mình hằng ngàn tấn
bom đạn? Nó là khuôn mặt của Mẹ, của Cha, là sức sống mọc lên từ cây
lúa, từ bờ tre, từng thân dừa để tô điểm vẻ đẹp, sức sống của cả một dân
tộc!
Chiến
tranh tàn nhẫn quá em ạ. Anh phải làm nhiệm vụ và cả những người phi
công Việt-Nam cũng làm nhiệm vụ của họ, nhưng mỗi người mang một nỗi
niềm đau xót khác nhau! Chỉ vì ý nghĩ "chậm tay thì chết" mà
con người phải giết lẫn nhau, kinh khủng quá phải không em? Muốn có
thỏa hiệp hòa bình mà phải trả một giá quá đắt cho cả một dân tộc khốn
khổ như thế, anh ngậm ngùi lắm!!!
Chúng
ta đã có bốn năm lầm lẫn cho cuộc nội chiến ngu xuẩn trong lịch sử
Hoa-Kỳ, Việt-Nam cũng lại tương tàn trong một cuộc chiến tranh dai dẳng
cũng chỉ bởi tham vọng kỳ cục, khi muốn đem về cho đất nước họ một triết
thuyết không tưởng và một thiên đàng không làm sao có được trên mặt địa
cầu!!!"
Năm
1972, xong bốn năm Ðại Học, tôi ra trường, Davis báo tin sắp trở về sau
bốn năm phục vụ tại Việt-Nam! Bao nhiêu đợt lính Mỹ hồi hương được
chiếu trên truyền hình mỗi buổi tối, nhìn nét mặt hân hoan của họ, tôi
nôn nao chờ ngày vui của đời mình! Hòa bình đã được ký kết, chiến tranh
Việt-Nam sắp kết thúc, chàng sẽ trở về và chúng tôi sẽ có một đám cưới,
sau đó là những ngày trăng mật! Tôi mừng cho hạnh phúc của mình, cho
hạnh phúc của cả một dân tộc khi hai miền Nam Bắc của họ được phân định
rõ rệt, không còn chiến tranh, bức tranh đẹp đẽ của đất nước xa xăm kia
sẽ chỉ là một màu xanh, màu xanh của hy vọng và vươn lên, để người dân
Việt-Nam có một cuộc sống dễ chịu hơn!!!
Vậy
mà có một ngày, một ngày bi thảm và tàn khốc nhất đã đến với Davis, với
tôi khi cả hai cùng ngây thơ tin rằng có một ngày người ta thôi không
còn giết lẫn nhau! Chuyến bay đưa Davis về Sài-Gòn để lên đường trở về
quê hương đã bị bắn rơi bởi những người phía bên kia! Chắc ngay cả những
giây phút cuối cùng của đời mình, Davis vẫn chưa hiểu tại sao đời mình
lại có một kết thúc bi thảm như vậy???
Bên
này bờ đại dương, người ta đang hoan hỉ vì đã tìm ra được một giải pháp
cho cuộc chiến ở Việt-Nam, họ được ban tặng giải thưởng hòa bình! Nào
ai nghĩ nổi, trong khi ấy có cả một dân tộc vẫn đang quằn quại vì những
vết thương chiến tranh, có cả những người như Davis đã chết vì sự bịp
bợm ấy!!!
* * *
Thời
gian qua đi rất nhanh, mới đó mà tôi đã trở thành người Mẹ của ba đứa
con nay cũng đã lớn khôn! Không còn sống chung với Cha Mẹ, nhưng không
hiểu sao tôi vẫn nhờ Mẹ tôi giữ những kỷ niệm của tôi và Davis, tôi
không có can đảm tiêu hủy nó, bởi vì nó đẹp và trong sáng quá! Trong đời
tôi, ít nhất đã có vài lần tìm vào căn phòng nhỏ, lật từng lá thư và
những tấm ảnh đã ố vàng với thời gian, để lòng vẫn ngậm ngùi và thổn
thức với những kỷ niệm của dĩ vãng!!!
Cách
đây vài năm, tôi có dịp lên Washington D.C. Tôi đã đi tìm đến bức tường
đá đen, đài tưởng niệm những người lính Mỹ chết ở Việt-Nam! Tôi đã tìm
thấy tên chàng, William Davis, tôi đã khóc khi đặt những đóa hồng dưới
chân tường, ngậm ngùi đọc tên chàng như có lần tôi đã thì thầm những lời
vĩnh biệt trước nấm mộ của chàng ở nghĩa trang Arlington! Phản chiếu từ
bức tường đá đen ấy, những bóng người buồn bã đi lại trên con đường xào
xạc lá khô! Một ngày cuối thu có hơi gió heo may se lạnh, tôi cứ ngỡ
linh hồn của Davis và của bao nhiêu người chiến binh năm xưa đang dật dờ
trở về từ cõi chết!!!
Năm
nay tôi đã năm mươi tuổi, cái tuổi có thể là hơn nửa đời người mà cũng
có thể là cả một đời người, như Davis thì cuộc đời chàng chỉ vỏn vẹn hai
mươi mấy năm! Con người vẫn không quyết định được cuộc đời mình, Thượng
đế muốn lấy đi lúc nào chẳng được!!!
Mười
năm rồi tôi dạy ở ngôi trường này, lớp học có thêm những đứa học trò
Việt-Nam ở khu chung cư bên kia đường! Tôi có dịp tiếp xúc với những phụ
huynh Việt-Nam, họ đã làm tôi cảm phục vì họ vẫn cố gắng bảo tồn nền
văn hóa của họ qua sự dạy dỗ những đứa trẻ, biết trân trọng và biết ơn
những người mang trách nhiệm giáo dục và khai sáng con người! Mỗi lần
nghĩ đến đây, tôi đã hiểu phần nào tại sao tôi lại thông cảm với nỗi đau
của những người Việt-Nam lưu vong, mỗi lần nhớ đến quê hương yêu dấu
của họ bên kia bờ đại dương!!!
Nguyên-Nhung
(Ðể Tưởng-Niệm Những Người Ðã Chết trong cuộc chiến Việt-Nam)
No comments:
Post a Comment