Biến
cố tháng 11/1963 tại Miền Nam Việt Nam đã gây khá nhiều rắc rối cho
chính phủ Hoa Kỳ về đối nội cũng như đối ngoại. Nhưng cho đến nay, ít ai
tin rằng Hoa Kỳ sẽ từ bỏ các phương thức đã áp dụng tại Miền Nam Việt
Nam trước đây để bảo vệ quyền lợi của Mỹ, nhất là của nhóm tài phiệt
quốc phòng, nên các nhà đấu tranh cho một nước Việt Nam dân chủ và phát
triển cần rút kinh nghiệm lịch sử để không bị biến thành những con bài
thí như VNCH trước 30.4.1975.
Các
tài liệu được tiết lộ cho thấy có ba nhân vật quan trọng của chính phủ
Hoa Kỳ lúc đó đã dính líu trực tiếp đến việc hạ sát Tổng Thống Ngô Đình
Diệm và ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu, đó là Averell W. Harriman (1891 – 1986), Thứ Trưởng Ngoại Giao đặc trách về Các Vấn đề Chính trị; Henry Cabot Lodge (1902 – 1985), Đại Sứ Hoa Kỳ tại VNCH và Lucien E. Conein (1919 – 1998), đặc vụ của CIA tại Việt Nam. Trong ba nhân vật này Harriman là người đóng vai trò chỉ đạo và quyết định.
Tài liệu cũng cho thấy tại sao cả Tổng Thống Diệm lẫn Tổng Thống Kennedy phải bị giết.
VAI TRÒ CỦA HARRIMAN
Ngày
4.4.1963, một nhà ngoại giao nổi tiếng của Mỹ là Averell W. Harriman
được bổ nhiệm làm Thứ Trưởng Ngoại Giao đặc trách về Các Vấn đề Chính
trị, kiêm Chủ tịch Đoàn Công tác Đặc biệt về Chống Du kích chiến. Ngoài
các chức vụ này, ông còn được giao cho lãnh đạo bốn cơ quan tình báo
chính của Hoa Kỳ nên quyền hành rất lớn.
Harriman (giữa) đang nói chuyện với Stalin
“Toán Việt Nam của Harriman”
(Harriman’s Vietnam team) được thành lập do Roger Hilsman đứng đầu.
Hilsman là Phụ Tá Ngoại Trưởng đặc trách Viễn Đông Vụ, Cố vấn về chính
sách Việt Nam và Giám Đốc Văn Phòng Tình Báo và Sưu Tầm tại Bộ Ngoại
Giao. Toán này gồm có 5 chuyên gia phụ trách về Đông Nam Á là Michael V.
Forrestal, William Heal Sullivan, Joseph A. Mendenhall, Paul Kattenburg
và James Thomson. Kế hoạch phá sập chế độ Ngô Đình Diệm đều do nhóm này
đưa ra và thực hiện.
Ngày
8.3.1963, một vụ nổ trước đài phát thanh Huế đã làm cho 8 em tham dự
biểu tình bị tử nạn. Cho đến nay, nguyên nhân của biến cố này vẫn chưa
được xác định. Ngày 11.6.1963 Hòa Thượng Thích Quảng Đức đã “tự thiêu”
tại ngã tư Phan Đình Phùng và Lê Văn Duyệt, Sài Gòn. Tin này được các
phóng viên CIA của Mỹ chụp hình và loan đi, làm thế giới rung động.
Nhiều người tin rằng đó là một biến cố do Phật Giáo tổ chức để chống ông
Diệm. Nhưng sau này, các tài liệu mật của Mỹ công bố cho biết vụ này do CIA thực hiện. Người trực tiếp chỉ huy là William Kohlmann, và hai người có nhiệm vụ thi hành là Trần Quang Thuận, một nhân viên CIA, và Đại đức Thích Đức Nghiệp, một cộng tác viên của CIA. Cuốn video được công bố cho thấy Thầy Quảng Đức bị thiêu sống chứ không phải “tự thiêu”!
Ngày
ngày 18.8.1963, CIA bảo Tướng Trần Thiện Khiêm, một nhân viên CIA, dẫn
một số tướng lãnh Việt Nam vào Dinh Gia Long xúi ông Diệm ban hành lệnh
giới nghiêm, lục xét các chùa và bắt các tăng ni gây rối loạn, nếu không
thì quân đội sẽ không chịu chiến đấu nữa. Ông Diệm đã trúng kế CIA. Vụ
lục xét các chùa đã xảy ra đêm 20 rạng ngày 21.8.1963.
Sau
đó, Harriman bảo Roger Hilsman soạn thảo công điện ra lệnh đảo chánh.
Họ gặp ông George Ball ở sân golf và yêu cầu ông gọi cho Tổng Thống
Kennedy ở Cap Cod biết. Tổng Thống trả lời rằng ông đồng ý công điện gởi
đi nếu các cố vấn của ông cũng đồng ý như vậy. Thế là ngày 24.8.1963 một công điện ra lệnh đảo chánh mang tên DEPTEL 243 được gởi cho Đại Sứ Cabot Lodge ở Sài Gòn để thi hành. Khi trở về và xem lại công điện đó, Tồng Thống Kenndy đã tỏ ra hối tiếc:
“Theo
sự xét đoán của tôi, bức điện đó đã được soạn thảo tồi tệ.. Bức điện đó
phải không bao giờ được gởi vào hôm thứ bảy. Tôi phải không bao giờ
biểu đồng tình nếu không được bàn luận bàn tròn.”
VAI TRÒ CỦA ĐẠI SỨ CABOT LODGE
Trong cuốn hồi ký “The Storm Has Many Eyes”
(Bảo Tố Có Nhiều Con Mắt), Đại Sứ Henry Cabot Lodge đã kể lại rằng một
nhân viên tình báo cao cấp và hiểu biết rất rõ về Việt Nam đã nói với
ông trước ngày ông đi Sài Gòn rằng “trừ
khi họ rời đất nước của họ, không có một quyền lực nào trên trái đất có
thể ngăn cản việc ám sát Thổng Thống Ngô Đình Diệm, người em của ông ta
là ông Ngô Đình Nhu và người em dâu của ông ta là bà Nhu.”
Theo ông, sự tiên đoán này đã trở thành chính xác một cách bi thảm. Ông
Lodge cũng đã từng nói với ký giả David Haberstam, người đã viết nhiều
sách về chiến tranh Việt Nam: “Chúng ta phải làm gì với họ nếu họ còn sống? Bất cứ Đại Tá Blimp (một nhân vật biếm họa) nào trên thế giới đều có thể xử dụng họ.”
Trên đây là hai mẫu chyện được ông Lodge đưa ra để giải thích rằng việc giết ông Diệm và ông Nhu là chuyện phải làm.
Đại Tá Mike Dunn, Phụ Tá Đặc Biệt (Special Assistant) và là bạn thân của Đại Sứ Lodge đã tiết lộ:
Sau
khi đầu hàng, ông Diệm có gọi điện thoại cho ông Lodge một lần nữa vào
lúc 7 giờ sáng ngày 2.11.1963 trước khi ông bị bắt và bị hạ sát. Ông
Diệm xin ông Lodge giúp đỡ trong giờ cuối cùng của ông ta, ông Lodge bảo
ông ta “giữ máy” (put on hold) rồi bỏ đi một lúc (có lẽ đi xin chỉ
thị). Khi trở lại, ông Lodge đề nghị cho hai anh em được tỵ nạn, nhưng
không hứa sẽ sắp xếp việc ra đi cho đến ngày mai. Khi đó Đại Tá Dunn
tình nguyện chính ông ta đi cứu hai anh em khỏi tay các nhà lãnh đạo
cuộc đảo chánh. Ông Lodge đã từ chối một cách thẳng thừng: “Chúng ta không thể can dự vào việc đó.”
Cũng
trong cuộc phỏng vấn nói trên, ông Dunn cho biết khi ông Lodge bảo ông
Diệm “giữ máy”, ông liền thông báo cho Lucien Conein tại bộ chỉ huy của
cuộc đảo chánh về ông Diệm đang ở đâu.
Trong cuốn “Lodge in Vietnam”
bà Blair cho biết lúc 5 giờ sáng ngày 2.11.1963, ông Lodge đã leo lên
một bao lơn (balcony) để quan sát thành phố và ở đó cho đến khi cuộc
chiến đấu chấm dứt vào lúc 7 giờ. Không có nơi nào ghi lại những quyết
định hay mệnh lệnh của ông trong những giờ đó.
Tướng Trần Văn Đôn, một thành phần của bộ chỉ huy đảo chánh, xác quyết: “Tất cả những sự việx xẩy ra đều có sự tiếp tay của Đại Sứ Hoa Kỳ Cabot Lodge.” (Việt Nam nhân chứng, tr. 274).
VAI TRÒ CỦA LUCIEN CONEIN
Lucien
Conein sinh năm 1919 tại Paris, đã từng làm điệp viên cho OSS (tiền
thân của CIA) từ năm 1943. Từ 1954 đến 1956 ông đến Việt Nam hoạt động
trong toán đặc nhiệm dưới quyền của Đại Tá Edward Lansdale, sau đó, ông
trở về Mỹ và tham gia Lực Lượng Đặc Biệt (Special Force). Năm 1961 ông
đã xin về hưu, nhưng năm 1962 ông được CIA gọi làm việc trở lại và phong
cho chức Trung Tá với bí danh là Lulu hay Black Luigi, rồi gởi qua Sài
Gòn làm cố vấn cho Bộ Nội Vụ. Nhưng trong thực tế, Lucien Conein có
nhiệm vụ móc nối với các tướng Việt Nam mà ông đã có dịp quen biết khi
phục vụ dưới quyền của Đại Tá Lansdale, để tổ chức đảo chánh lật đổ Tổng
Thống Ngô Đình Diệm. Các tướng Trần Thiện Khiêm, Dương Văn Minh, Nguyễn
Khánh… đều do Lucien Conein móc nối. Đại Sứ Henry Cabot Lodge gọi
Lucien Conein là “the indispensable man” (con người cần thiết)
Lucien Conein (trên-giữa) và các tướng Kim, Đính, Đôn, Vỹ, Xuân.
Khi
cuộc đảo chánh ngày 1.11.1963 xẩy ra, Lucien Conein đến Bộ Tổng Tham
Mưu chỉ đạo trực tiếp cuộc đảo chánh. Ông ngồi trên ghế của Tướng Lê Văn
Tỵ, đặt hai túi bạc dưới ghế, hai chân gác lên bàn, bên cạnh có khẩu
375 Magnum, chỉ huy các tướng Việt Nam thực hiện đảo chánh. Trong cuốn
Việt Nam Nhân Chứng, Tướng Trần Văn Đôn cho biết khi hay tin ông Diệm và
ông Nhu đã ra khỏi Dinh Gia Long, Lucien Conein đã hỏi: “Hai ông ấy đi đâu? Phải bắt lại cho kỳ được, vì rất quan trọng”. Lucien Conein đã nói với các tướng đảo chánh bằng tiến Pháp: “On ne fait pas d'omelette sans casser les oeufs.” (Người ta không thể làm món trứng rán mà không đập bể những cái trứng..) (Việt Nam nhân chứng, tr. 228)
TIẾT LỘ CỦA TỔNG THỐNG JOHNSON
Cuốn
băng dài 30 tiếng đồng hồ do thư viện Johson Library ở Austin, Texas,
công bố ngày 28.2.2003, cho biết vào ngày 1.2.1966, Tổng Thống Johnson
đã gọi điện thoại cho Thượng Nghị Sĩ Eugene McCarthay nói về cuộc đảo
chánh lật đổ và giết ông Diệm như sau:
“Johnson: ... Nhưng ngài nhớ, lúc đầu họ nói với tôi về ông Diệm...
MacCarthy: Có chứ.
Johnson: (rằng)
ông ta tham nhũng và ông ta phải bị giết. Vì thế, chúng ta đã giết ông
ta. Tất cả chúng ta đã họp lại với nhau và XỬ DỤNG MỘT BỌN ÁC ÔN CÔN ĐỒ
ĐÁNG NGUYỀN RỦA để hạ sát ông ta. Bây giờ, chúng ta thật sự không có sự
ổn định chính trị [ở Miền Nam Việt Nam] từ lúc đó.”
Ít
phút sau, trong một cuộc nói chuyện với Tướng Maxwell D. Taylor đang là
Đại Sứ Hoa Kỳ ở Nam Việt Nam, Tổng Thống Johnson lại nhắc lại điều đó.
Ông nói với Tướng Taylor:
“Họ
khởi đầu và nói: ‘Chúng ta phải giết Diệm, bởi vì ông ta không tốt.
Chúng ta hãy, chúng ta hãy lật đổ ông ta. Và chúng ta đã làm.”
Tướng Taylor đồng ý:
“Phải, sự việc đã khởi đầu tất cả như thế. Đúng là sự việc đã khởi đầu như thế.”
Tổng Thống Johnson giận dữ trả lời:
“Và lúc đó tôi đã van nài họ, ‘Xin vui lòng đừng làm điều đó’. Nhưng sự việc vẫn được khởi sự. Và họ đã lật đổ ông ta.”
XÁC ĐỊNH NGƯỜI RA LỆNH GIẾT
Sau khi vụ hạ sát ông Diệm xảy ra, Tổng Thống Kennedy đã ra lệnh cho ông William R. Corson,
một nhân viên CIA cao cấp tại Sài Gòn năm 1963 điều tra xem việc gì đã
xẩy ra và ai có trách nhiệm. Trả lời của ông Corson như sau:
“Mọi
chỉ thị từ Averell Harriman... Các lệnh đưa đến cái chết của ông Diệm
và bào đệ của ông ta phát xuất từ Harriman và được phụ tá quân sự của
Henry Cabot Lodge thực hiện.”
Phụ tá quân sự của Đại Sứ Henry Cabot Lodge được ông Corson nói ở đây không ai khác hơn là Trung Tá Lucien Conein.
Theo
ông Corson, năm 1963, Harriman đã điều hành Việt Nam không cần hỏi ý
kiến của Tổng Thống hay Tổng Trưởng Tư Pháp. Ông Corson cho biết Tổng
Thống Kennedy bắt đầu nghi ngờ rằng không một ai trong toán an ninh quốc
gia là trung thành.
Trưởng Trạm CIA tại Saigon là “Jocko” Richardson được thay thế bằng một toán không tên (no-name team). Nhân vật chính là một sĩ quan của Đội Hành Quân Đặc Biệt (Special Operations Army), đó là Đại tá John Michael Dunn, nhận mệnh lệnh không phải từ hệ cấp CIA thông thường mà từ Harriman và Forrestal. Theo Corson, “John Michael Dunn được biết như là người tiếp xúc với những người âm mưu đảo chánh”,
mặc dù vai trò của Dunn không bao giờ được công khai hoá trước công
luận. Corson tin rằng Richardson bị cất chức để Dunn, một người được Đại
Sứ Cabot Lodge chỉ định cho “các công tác đặc biệt” (special
operations), có thể hành động không bị trở ngại.
TỔNG THỐNG KENNEDY KHÔNG KIỂM SOÁT ĐƯỢC!
Trong cuốn hồi ký “In Retrospect the Tragedy and Lessons of Vietnam”,
ôngt Robert S. McNamara, Bộ Trưởng Quốc Phòng Mỹ lúc đó, đã ghi lại
phản ứng của Tổng Thống Kennedy sau khi được tin ông Diệm đã bị giết như
sau:
“Khi
Tổng Thống đọc mẩu tin này, mặt ông tái xanh như tàu lá. Tôi chưa hề
thấy ông xúc động mạnh như vậy đến bao giờ. Theo ông Forrestal thuật
lại, cái chết của hai người “đã làm ông rúng động một cách sâu xa, gây
bàng hoàng tâm trí và đánh mạnh vào tiềm thức tín ngưỡng... làm lung lay
lòng tin tưởng... về những gì ông được khuyến cáo liên quan đến Nam
Việt Nam”. Arthur Schlesinger Jr. ghi nhận rằng Tổng
Thống “rất buồn thảm và bối rối cùng cực”, tinh thần suy sụp chưa từng
thấy kể từ sau vụ thất bại ở Vịnh Con Heo.
“Đọc xong bản tin, Tổng Thống nghĩ đến ảnh hưởng của cái chết của hai người có tác dụng xấu ngay trong nước và ở hải ngoại... Tổng Thống nghĩ rằng sau hai mươi năm phục vụ quê hương Việt nam, sinh mạng ông Diệm không thể kết thúc như vậy.”
Tổng Thống Kennedy
Sau
khi ông Diệm bị lật đổ, Tổng Thống Kennedy không còn tin tưởng vào cuộc
chiến thắng tại miền Nam Việt Nam. Trong cuộc họp báo ngày 14.11.1963,
Tổng Thống hỏi:
“Bạn có chào thua tại miền Nam Việt Nam không?”.
Rồi ông tự trả lời câu hỏi của chính mình:
“Chương trình quan trọng nhất, dĩ nhiên là cho nền an ninh của chúng ta, nhưng tôi không muốn Hoa Kỳ đưa quân tác chiến sang đó.”
Sau đó ông nói:
“Giờ
đây mục tiêu của chúng ta là đưa quân nhân Hoa Kỳ về nước, cho phép
Việt Nam tự duy trì lấy nước mình như là một quốc gia độc lập.”
Ngày 22.11.1963 Tổng Thống Kennedy đã bị hạ sát tại Dallas.
LÝ DO KENNEDY CŨNG BỊ GIẾT NHƯ DIỆM
Lý do Tổng Thống Ngô Đình Diệm phải bị giết đã được Đại Sứ Henry Cabot Lodge giải thích rất rỏ: “Chúng ta phải làm gì với họ nếu họ còn sống? Bất cứ Đại Tá Blimp (một nhân vật biếm họa) nào trên thế giới đều có thể xử dụng họ.”
Còn Tổng Thống Kennedy cũng phải bị giết vì hai lý do:
Lý do thứ nhất là báo cáo của ông William R. Corson, một nhân viên CIA cao cấp tại Sài Gòn, đã cho biết: “Các
lệnh đưa đến cái chết của ông Diệm và bào đệ của ông ta phát xuất từ
Harriman và được phụ tá quân sự của Henry Cabot Lodge thực hiện.”. Biết rằng khó tránh khỏi các biện pháp thanh trừng nội bộ mà Tổng Thống Kennedy sẽ đưa ra, các thủ phạm đã ra tay trước.
Lý
do thứ hai là trong khi các thế lực quân phiệt đứng đàng sau đòi hỏi
phải mở rộng chiến tranh để tiêu thụ vũ khí cũ và thí nghiệm các vũ khí
mới, Kennedy gây trở ngại bằng cách ra ra lệnh rút quân khỏi Việt Nam
nên ông phải bị giết.
Khi
hay tin Tổng Thống Kennedy bị ám sát, Phó Tổng Thống Lyndon B. Johnson
chỉ vào bức hình Tổng Thống Ngô Đình Diệm đang treo trong nhà ông và
nói: “Chúng ta đã nhúng tay vào việc giết ông ta. Bây giờ chuyện đó lại xẩy ra ở đây.”
Đúng
như vậy! Nhưng người Mỹ vẫn tiếp tục hành động theo quyền lợi của giới
tài phiệt Mỹ, bất chấp những hậu quả tai hại có thể gây ra.
Ngày 19.10.2017
Lữ Giang
No comments:
Post a Comment