Hồi
còn sinh viên tôi mướn căn nhà của ông bà Vương Hồng Sển và Bà Năm Sa
Đéc cạnh ngôi nhà xưa của ông bà. Thời gian đó sau Mậu Thân 1968 cho đến
1970. Số nhà tôi ở là
5D Nguyễn Thiện Thuật, Gia Định đường vào khu Đồng Ông Cộ. Mỗi ngày tôi thường nghe ông bà nói chuyện
và thấy sinh hoạt của ông bà. Hình ngôi nhà đó chụp 1994 khi tôi từ Mỹ về lần đầu.
Chuyện tình ông Vương Hồng Sển…Nhân đọc hai câu thơ của ông Vương Hồng Sển “Khóc em Năm Sadec” làm năm 1988:
* Trăm năm dầu lỗi hẹn hò,
* Chén cơm Bà Chiểu, con đò Sóc Sa.
* (Sóc là Sóc Trăng; Sa là Sadec)
Tôi
bồi hồi nhớ đến mối tình già của ông Vương Hồng Sển, ông già năm mươi
năm mê cải lương và mê cô đào Năm Sadec, người chuyên đóng vai Mạnh Phu
Nhơn, Tô Ánh Tuyết, Đổng Trác, Lữ Phụng
Thiên… trên sân khấu hát bội và sân khấu Phụng Hảo.
Ông
Vương Hồng Sển trong những dịp trà dư tửu hậu, kể những kỷ niệm ngày
đầu gặp gỡ, những khó khăn trở ngại và những lúc hạnh phúc nhất trong
cuộc đời chồng vợ của ông và bà Năm cho
tôi và một số ít nghệ sĩ thân thiết trong Ban kịch Phương Nam nghe khi
chúng tôi đến nhà ông ở
số 9 đường Nguyễn Thiện Thuật gần chợ Bà Chiểu, Gia Định, để tập kịch thu truyền hình (năm 1967).
Ông
Sển cho biết sau khi người vợ thứ hai của ông là bà Dương Thị Tuyết bỏ
ông, rồi lấy cái hộp sắt đựng 360 viên hột xoàn từ 3 đến 4 ly của bà Phủ
An cho hai vợ chồng ông hưởng gia
tài để sang thuyền khác (lấy ông bạn Hà Văn Thân), ông Sển ra tòa ly dị
với bà Tuyết xong nên về Saigon ở để kiếm việc làm. Ông ở nhờ nhà của
bà Hai Hẩu ở đường Aviateur Garros tức đường Thủ Khoa Huân và ông được
nhận cho làm việc ở Viện Bảo Tàng trong Thảo
Cầm Viên năm 1948, ăn lương công nhựt, mỗi tháng $1,173.
Ông
Sển nhắc lại “cái thuở ban đầu lưu luyến ấy…”: Tôi quen biết Năm (khi
nói đến vợ ông, ông thường gọi là Năm, tức là cái thứ Năm của bà Năm
Sadec) lúc năm 1943, khi đoàn hát Phụng
Hảo hát Sóc Trăng. Nhà tôi rộng rãi nên tôi rước anh chị em đào kép về
nhà tôi ở. Lúc đó có chị Bảy Phùng Há, vợ chồng anh Tư Út (Phạm Văn Đẩu
và vợ là Sáu Ngỗng), cô Kim Thoa, cô Thanh Tùng, cô Sáu Ngọc Sương, cô
Tường Vi, anh Hai Tiền và Năm đây… Tôi làm
công chức, đứng bàn ông chánh tỉnh trưởng Tây nên ở Sadec, tôi cũng
thuộc về hạng có máu mặt. Tôi mê coi hát bội, hát cải lương hồi còn đi
học trường Tây, giờ đây được dịp gần gũi chuyện trò với những anh chị
đào kép hát mà tôi qúy mến thì còn gì thích cho
bằng? Bởi vậy trong nhà tôi cứ ba ngày có một tiệc lớn, bảy ngày có
tiệc nhỏ theo kiểu Tào Tháo chiêu đãi Quan Vân Trường, Tam nhật đại yến,
thất nhật tiểu yến… tôi thật sự mến mộ đặc biệt với Năm đây…
Lúc
Năm hát bội thì được giới hát bội nhà nghề đánh giá là thuộc về nhóm
Ngũ Châu tức là năm viên ngọc quý: đó là các cô Năm Đồ, cô Cao Long Ngà,
cô Ba Út, cô Hai Nhỏ và cô Năm Sadec
đây (hồi hát bội có nghệ danh là Năm Nhỏ). Khi qua lãnh vực hát cải
lương thì Năm đây đổi nghệ danh là Năm Sadec, Năm cũng được báo chí và
khán giả khen tặng là tài danh thinh sắc lưỡng toàn. Tôi chú ý tới Năm
là vì lúc đó Năm vừa đẹp, vừa hát hay mà lại là
con người chịu khó làm lụng chuyên cần. Mỗi khi tôi bày cuộc tiệc ăn
nhậu cho các bạn đào kép thì Năm là người đầu tiên xăn tay áo nhào vô lo
việc bếp núc. Khi cuộc tiệc tàn thì Năm xăn tay áo lo thu dọn, rửa chén
bát, quét nhà, dọn dẹp như chính là cái nhà
của Năm. Lúc đó thì con vợ của tôi, bà Tuyết đó, bả lo đi đậu chến, đi
từ sáng tới tối mịt, đứt chến mới mò về, nhà cửa bất biết, thằng chồng
no hay đói cũng không hỏi han tới… tôi thương vợ tôi thiệt nhưng mà sao
trong lòng hỏng thấy quý bà ta như quý em
Năm…
Bà Năm cằn nhằn: “Thôi mà! Chuyện đã mấy chục năm rồi, tuồng cũ rồi mà ông hát hoài sao ông?
- Tuồng cũ nhưng mà tuồng hay, hát hoài coi càng hấp dẫn, đâu có ngán…
-
Hồi đó anh chị đều có gia thất riêng (1943), bốn năm sau, ông Tơ bà
Nguyệt làm sao mà lấy dây tơ hồng cột gút hai anh chị vậy?– tôi tò mò
hỏi vậy!
-
Tui nói là số trời, duyên thiên định. Bả hỏng chịu. Bả nói là tại bả
ưng tui… Lúc đó, cái năm 1947, tui buồn cho cái thân tui bị vợ cặm sừng,
nó bỏ tui… Cái tự ái của thằng đàn ông,
tính hỏng thèm lấy vợ nữa… Còn bả thì bả bị thằng chồng nó theo con vợ
bé, nó cũng bỏ bả… Tui thì ra tòa chờ tòa tuyên bố cho ly dị, còn bả khi
có chồng thì hồi đó nghệ sĩ đâu có làm hôn thơ giá thú chi cho nó tốn
tiền mà lại giấy tờ rắc rối. Bởi vậy khi thằng
chồng nó quất ngựa chuối truy phong thì cô vợ xách rương ôm trấp kiếm
chỗ khác mà sống. Bởi vậy bả hận đàn ông, còn tui hận đàn bà…
- Thôi mà ông! Chuyện cũ nhắc hoài… tui đi lo nấu cơm đây. Nguyễn Phương ở lại ăn cơm canh chua cá kho tộ nghe!
- Tôi: Dạ, cám ơn chị Năm…
-
Rồi thì trời xui đất khiến, cái đêm tôi đi coi hát bội gánh Tấn Thành
Ban hát ở chùa Dọn Bàn, Dakao, bỗng nhiên tôi gặp lại em Năm trong vai
Lữ Phụng Tiên… Khi nghe em hát… Giỏ lá
vai mang nhè nhẹ, em xuống giọng “thoàng”… tôi nghe thiệt là mê man
trong dạ. Vãn hát rồi tôi chưa chịu về, còn nấn ná ở cửa hậu trường để
gặp Năm khen mấy tiếng thì mới đành bụng. Ai ngờ gặp nhau, nói đủ thứ
chuyện, tôi dắt chiếc xe đạp, dẫn bộ theo em lại
cầu Mac Mahon, em nói em ở xóm Cù Lao nằm bên nầy đường Võ Di Nguy. Đêm
đó tôi nhất quyết đi theo cho biết nhà em ở đâu và trong bụng cũng tính
khi có dịp thuận tiện thì sẽ lại mời em xuống Chợ Cũ lại tiệm Cao Lâu
ăn một bữa cơm Tàu.
-
Tới xóm cù lao, muốn vô trong xóm phải đi qua một cái cầu làm bằng các
miếng ván như đòn dài bắc cho người ta đi lên đi xuống ghe chài, có chổ
kê bằng mấy tấm dalle sắt, cầu bắc đi
xiên qua xẹo lại chớ không có thẳng băng một đường từ lộ vô xóm.
Tới
đây thì Năm không cho tôi theo qua bên kia cù lao để vô xóm, vô nhà.
Tôi tới đây rồi đâu có lẽ chịu về không. Nhứt là thời buổi chiến tranh,
lính Pháp đi tuần, gặp chúng nó mà biết
tiếng Tây tiếng u cũng dễ… rồi còn một nỗi lo khác nữa, bọn cướp trộm
cũng lộng hành và cũng còn phải sợ một nỗi khác nữa là các ông công tác
thành về ám sát hay liệng lựu đạn, bởi vậy tôi kèo nài để tôi đưa Năm về
tới trước cửa, Năm vô nhà đóng cửa khóa chốt
cho an toàn rồi tôi sẽ đạp xe máy về nhà của tôi.
-
Năm thấy tôi lo cho Năm chí tình chí cốt vậy, Năm cũng xiêu lòng, nói:
“Ừ! Muốn tới cho biết nhà thì tui cho đi theo. Mà điều giao trước, tui ở
nhà lá, nghèo lắm, thấy cái nhà dột
cột xiêu, trống trước hở sau không được chê à nghen. Nhìn thấy cái nhà
rồi là anh trở ra lộ về liền à nghen…
Muốn gặp tui thì tới rạp hát, mua giấy coi hát thì gặp, đừng có tới nhà, kỳ lắm à nghen…”
- Được rồi…được rồi… tôi y hẹn mà…
-
Ai mà dè, ông trời đã định trước hết mọi sự rồi. Tôi theo Năm vô tới
trong xóm, mới nhìn thấy cái nhà, còn đứng dang ca nhìn trước nhìn sau
để ghi nhớ hình dáng cái nhà của Năm và
những căn nhà lá kế bên ra sao để ban ngày có tới đây thì tôi kiếm được
nhà của Năm liền, khỏi phải hỏi bà con lối xóm, mất công họ dị nghị,
lời ra tiếng vào. Bỗng đâu tiếng tu huýt thổi rét rét rân trời, bốn
phương tám hướng…
Lính
partisan bao vây cả xóm, bắt ra ngồi trước hiên nhà, hai tay để lên
đầu, trình giấy laisser – passer cho nó xét. Chỉ huy nhóm lính nầy là
một thằng thiếu úy Pháp và hai thằng xét
dăng (sergent) người Pháp. Nhờ nói tiếng Tây rốp rốp, tôi bỗng thành ra
thông dịch viên tình nguyện cho mấy thằng Tây đó. Nó cũng nể, có người
có học ở trong xóm nầy, biết tiếng Pháp nên xét qua loa rồi kéo ra lộ”.
Đã
gần 12 giờ khuya, giới nghiêm rồi làm sao mà về nhà đây… Năm cũng biết
vậy nên biểu tôi vô nhà ngủ, sáng sớm sẽ về. Mà trong nhà chỉ có một
chiếc chõng tre một người nằm, tôi ngủ
chung trên chõng đó sao được. Bởi vậy tôi kiếm giấy nhựt trình trải
dưới đất, tính dọn một chỗ để ngã lưng qua đêm. Ai dè Năm cười cười: “Bộ
tính ngủ ở dưới nền đất thiệt sao? Ngủ như vậy, tới sáng thì bịnh đó”
- Thì cũng ráng chịu, bụng làm dạ chịu, đâu có than van… Tôi trải giấy nhựt trình xong, sửa soạn nằm xuống.
- Năm nói: “Nè, hỏi thiệt, anh có thương tui hông? Có muốn thiệt tâm làm vợ làm chồng với tui hông? Nói thiệt đi…
- Thiệt tình tôi thương Năm, tôi thề…
- Khỏi thề! Lên giường đây ngủ. Anh đàng hoàng hay không đàng hoàng, tui biết liền…
Ông
Sển kể tới đó, chúng tôi ôm bụng cười nghiêng ngửa. Bà Năm dọn cơm lên,
hỏi: “Nè cái ông già mắc dịch nói bậy gì mà các anh cười dữ vậy?”.
Tôi đỡ lời cho mọi người: “Dạ, ông Năm kể chuyện ông Trượng với Tiên Bửu, chuyện hát cương hồi xưa đó mà”
- Thôi, lại ăn cơm đi, đừng nghe ổng nói chuyện đời xưa nữa…
Ông Sển vẫn thích nói chuyện đời xưa, ông nhắc:
Hồi
1947, 48, 49, đang hồi chiến tranh Việt Pháp còn sôi động, công tác
thành của Việt Minh liệng lựu đạn vô các dancing, quán nhậu, rạp hát vì
nơi đó có bóng dáng của lính partisan,
lính mã tà, lính rờ sẹt… Anh Năm Bằng, lính rờ sẹt, chồng của cô bé
Hoàng Vân, diễn viên đoàn Hậu Tấn – Năm Nghĩa bị ban ám sát VM bắn chết
trước cửa rạp hát Thuận Thành Dakao.
Lần
khác, anh Thomas, người Việt lai Pháp, ở bên kia cầu Bông, vừa qua khỏi
cầu, quẹo lại rạp hát Thuận Thành, bị bắn ngã trọng thương. Chở tới
bệnh viện thì chết. Rạp hát bóng Asam
(Dakao), tiệm cơm tây La cigalle bị liệng lựu đạn… Còn nhiều vụ bắn
lộn, ám sát, liệng lựu đạn nữa nên trước tình hình lộn xộn đó, ông Sển
dù đang làm công chức, lương bổng dư sống nhưng đêm đêm ông cũng phải
đạp xe đạp hiệu Peugeot đưa vợ ông là bà Năm Sadec
đi hát và rước về khi vãn hát.
Ông
sợ những tai nạn dọc đường, những bọn cướp cạn và bọn lính Tây đi ruồng
bố. Ông biết nói tiếng Tây, lại đang là một công chức nên coi như ông
là một bảo đảm cho vợ khỏi bị hoài
nghi có dính dáng tới bên kháng chiến.
Bà
Năm Sadec tên thật là Nguyễn Kim Chung, sanh năm 1907 (Mậu Thân) tại
Sadec. Cha là ông bầu gánh hát bội tên Nguyễn Duy Tam, gọi là bầu Tam.
Bà Năm Sadec được cha dạy hát từ nhỏ,
từng hát trên sân khấu nhà. Lúc nổi danh, hát trên sân khấu Bà Ba Ngoạn
ở rạp hát Palikao, Chợ lớn, bà Năm Sadec nổi danh là cô Năm Nhỏ, sau
qua hát cho gánh hát Bầu Thiềng và vài gánh hát bội khác. Đến khi chuyển
qua hát cải lương thì mới dùng nghệ danh Năm
Sadec cũng như các bạn cô Ba Trà Vinh, cô Ba Bến Tre, cô Năm Cần Thơ…
Khi
hát cho đoàn hát Phụng Hảo, bà Năm Sadec hát vai Mạnh Phu Nhơn trong
tuồng Mạnh Lệ Quân thoát hài, bà đã hát khiến cho khán giả khóc mùi mẫn.
Khi hát vai Đổng Trác trong tuồng Phụng
Nghi Đình, bà làm cho khán giả cười nôn ruột. Khán giả ái mộ nhớ hoài
vai bà Phán Lợi trong tuồng Đoạn Tuyệt. Thanh Nga vào vai cô giáo Loan,
Việt Hùng vai Thân, thằng chồng khờ và Ngọc Nuôi trong vai Bích, cô em
chồng đanh đá. Bà Năm Sadec trong vai bà Phán,
không cần có thái độ hầm hừ, những cử chỉ hung dữ, chỉ cần giọng nói
ngọt mà đay nghiến đủ cho khán giả thấy rõ tánh chất của một bà mẹ chồng
phong kiến, ỷ giàu hà hiếp con dâu. Một hình tượng khắc sâu vào tâm
khảm của khán giả, mấy chục năm sau cũng khó quên.
Bà
Năm Sadec được mời đóng các vai bà má nông dân, bà Phán, bà Huyện trong
các chương trình Thép Súng, chương trình Gia đình Bác Tám và các chương
trình của các Ban kịch Kim Cương,
Túy Hồng, Thẩm Thúy Hằng, Phương Nam. Khi vào vai hiền hay vai dữ, vai
người phụ nữ giàu sang hay bần cùng, vào vai nào bà Năm Sadec cũng diễn
tả như mẫu người thật mà chúng ta có nhiều dịp gặp trong cuộc sống.
Không bao giờ cường điệu, hát quá lố nhưng không
có nghệ sĩ nào diễn hay như bà.
Đối
với đồng nghiệp, bà Năm Sadec được sự nể trọng của mọi người. Làm việc
luôn luôn đúng giờ, chu đáo và không bao giờ gây khó dễ cho bầu show hay
các nghệ sĩ cùng trong một suất hát.
Ngoài
tài năng và đức độ của một người nghệ sĩ lão thành đáng kính như bà Năm
Sadec, tôi nhớ về bà có một chuyện mà suốt đời tôi không thể nào quên.
Sau
ngày 30 tháng 4 năm 1975, các nghệ sĩ nghe tin loan trên đài phát Thanh
là phải đến đăng ký tại trường Quốc Gia Âm Nhạc Saigon cũ, kế bên Bộ
Sắc Tộc ở đường Nguyễn Du, ai không
đăng ký sẽ bị cấm hành nghề. Tôi đến vào khoảng 12 giờ trưa, thấy có
nghệ sĩ của đoàn hát Thanh Minh Thanh Nga, đoàn Dạ Lý Hương… các nghệ sĩ
lão thành: anh Năm Châu, anh Văn Lâu, Tám Lắm, Bà Năm Sadec, chị Kim
Cúc, Kim Lan, Tám Vân, Minh Tơ, Thành Tôn, chị
bảy Ngọc Hương…
Ngồi
bàn thơ ký ghi chép tên nghệ sĩ đến đăng ký, tôi thấy có anh kép Năm
Sơn mà chúng tôi quen gọi là Năm Thịt. Năm Sơn là anh kép hát nằm vùng,
bây giờ mới lộ mặt ra. Tôi vừa đăng
ký xong, người đi kế tôi là bà Năm Sadec. Khi bà Năm Sadec tới ghi tên
thì kép Năm Sơn chận lại, nói: “Chị tố Cộng trong Ban Thép Súng Đài
Truyền Hình quân đội Ngụy, chưa bắt giam chị là phước cho chị rồi. Không
được đăng ký!”
Bà
Năm Sadec như bị một gáo nước dơ dội vô mặt, loạng choạng như muốn té
sụm xuống trước bàn viết của tên kép hát nằm vùng đó, mặt bà xanh dờn,
đôi môi run run, tôi vội dìu bà bước
ra ngoài vì không biết bà sẽ phản ứng ra làm sao, e gặp rắc rối. Ra tới
trước cửa bà Năm Sadec nói với tôi, giọng nói bình tĩnh trở lại: “Được
rồi. Nguyễn Phương về đi. Tôi không sao đâu. Để tôi kiếm xe đi về nhà”.
Tôi
nói: “Ở đây khó kiếm xe lắm. Để tôi chở chị về nhà nghỉ cho khoẻ”. Tình
cờ, nhìn vô nơi các nghệ sĩ đăng ký, tôi thấy anh Năm Châu, chị Kim
Cúc, Kim Lan, anh Thành Công, anh Chín
Sớm, soạn giả Mộc Linh ra về, mắt nhìn xuống đất… Tôi nói: Chị Năm coi
kìa, anh Năm Châu, chị Kim Cúc, ca sĩ Thành Công…
Bà
Năm nhìn theo tay tôi chỉ, cười buồn: “Tôi thì không sao, mấy người đó
chắc sẽ khổ. Anh Năm Châu bị họ ghim vì anh lập gánh hát Ánh Chiêu
Dương, được ông Hồ Văn Châm, Bộ Thông Tin
Chiêu Hồi giúp đỡ tiền bạc”
Sau
đó mấy tháng, tôi được biết anh Năm Châu bị mời đi học tập kiểm thảo
tập trung trong tòa tỉnh trưởng Gia định trong ba tháng. Ca sĩ Thành
Công, soạn giả Mộc Linh, Chín Sớm bị đi
học tập cải tạo 7 năm ở trại cải tạo Hàm Tân.
Theo
các bạn của tôi kể lại, năm 1986, khi ông Nguyễn Văn Linh tuyên bố cởi
trói cho văn nghệ sĩ thì bà Năm Sadec mới được mời vô Đồng Tháp Mười
đóng phim, trong vai bà già nông dân.
Bà đóng được ba phim ở Nha Mân, Sadec, nơi chôn nhau cắt rún của bà và ở
Đồng Tháp Mười bà đóng phim Phù Sa trong mùa nước nổi, giữa nắng lửa và
muỗi mòng, hai ngày sau khi bà hết đóng phim, bà trở về Saigon và chết
vì kiệt sức. Khi bà mất, không có ai thông
báo cho nghệ sĩ biết để đi viếng, phúng điếu, tiễn đưa bà. Chỉ có những
người trong xóm của bà và các bạn nghệ sĩ làm phim chung với bà, biết
bà mất, đến tiễn đưa.
Bà
cũng không được quàn ở nhà Hội Nghệ Sĩ ở đường Cô Bắc, không được chôn ở
nghĩa trang nghệ sĩ ở Gò Vấp. Ông Vương Hồng Sển di quan của bà, đem về
chôn cất ở Nha Mân, quê hương của
bà.
Trong bài điếu văn của ông Vương Hồng Sển khóc vợ, có đoạn kết như sau:
* Trăm năm gì nữa? Muôn thuở là đây;
Trời quên mất đời còn một lũ, quyết thư hùng vì ấn tướng ngôi vua;
Bà đi rồi, tôi khổ muôn phần, sống cô độc giữa bình xưa lọ cổ;
Thôi, thôi;
Bà vào cửa hư vô bất diệt, nhớ đến thăm Năm Phỉ, Bảy Nhiêu;
Tôi đợi tin Bắc Đẩu, Nam Tào, sẽ tìm đến Năm Chung, Tư Bốn.
Ô hô!
Đây sầu riêng, đây vú sữa, của chồng công vợ, kẻ mất người còn, nghẹn ngào dâng một lễ đơn sơ;
Đây rượu cúc, đây hương trầm, kẻ mất người còn, đau đớn khóc ngàn thu vĩnh biệt.
Hỡi ôi, Thương thay; Có linh xin hưởng.
Bà Năm Sadec sinh năm 1907, mất năm 1988.
Ông Vương Hồng Sển sinh năm 1902, mất năm 1996.
Kính nhớ anh chị Vương Hồng Sển & Nguyễn Kim Chung (Năm Sadec).
Nguyễn Phương
No comments:
Post a Comment