Tác giả là cư dân San Jose, đã góp nhiều bài viết đặc biệt. Bài mới của ông lần này là hồi ức từ một khung ảnh người thân trên bàn thờ gia đình.
Tết năm rồi, vợ tôi về Việt Nam thăm gia đình. Ông nhạc tôi tuổi đã ngoài 90, nhớ con gái, con rể nên hối thúc chúng tôi phải về quê cho ông gặp một lần.
Tôi bị kẹt công việc không thể đi cùng với vợ. Nhân dịp nầy, tôi viết thư yêu cầu cháu tôi ở quê nhà thu thập một số hình ảnh cũ của những người trong tộc họ còn sống hoặc đã chết để in vào cuốn gia phả của dòng họ tôi.
Ngày trở lại Hoa Kỳ, vợ tôi mang về một cuốn album đầy những hình ảnh cũ. Nào hình của gia đình tôi cách nay đã trên nửa thế kỷ thuở tôi còn là một cậu bé mặc quần short đứng lơ ngơ bên ghế ngồi của cha mẹ. Hình vợ chồng Bác Cả Thìn chụp trước năm 1940. Hình của anh tôi chụp nhân chuyến về phép trước ngày anh tử trận.
Đến tấm hình của một phụ nữ đã khiến tôi xúc động nhiều. Đó là chị Hai con bác tôi. Chị mặc chiếc áo dài theo thời trang áo"Le Mur" do họa sĩ Cát Tường vẽ kiểu vào thập niên 30. Tà áo dài rộng phủ quá đầu gối, thân áo ôm sát vòng eo. Mái tóc chị chải phồng về phía trước, tay xách chiếc giỏ mây. Dù tấm hình có nhiều chỗ bị mờ nhạt, nhưng tôi vẫn nhận ra chị. Ký ức chợt hiện ra như một khúc phim trước mắt đã khiến cho lòng tôi xót xa vô cùng.
Cháu chắt tôi lớn lên ở Mỹ, rồi sẽ không còn biết gì về tấm hình của người phụ nữ mà tôi trịnh trọng đặt lên bàn thờ cùng với cha mẹ và vợ chồng Bác ruột của tôi.
Nay tôi ghi lại như một hồi ức của một thời quá vãng. Một thời kỳ mà người dân Liên Khu Năm đã trải qua và đã để lại vết nám trong tâm hồn. Bài viết sau đây, là một phần tiểu sử của chị Nguyễn thị Hồng Lưu, con Bác tôi. Người đàn bà Việt Nam có tâm hồn cao thượng đã bị cộng sản xử bắn, để cho con cháu tôi trên xứ người đời đời ghi nhớ.
*
Căn nhà của ông bà Nội tôi để lại nằm ngay khúc quanh của con đường làng. Một con đường đất rộng, ba chiếc xe bò có thể tránh nhau một cách dễ dàng. Cái cổng với hai trụ tròn xây bằng gạch nâng tấm bảng gỗ có viền hoa văn với 3 chữ đại tự : NGUYỄN TỰ ĐƯỜNG màu vàng nhụ. Bên trên là mái cong lợp bằng loại ngói âm dương màu xanh trông như vẩy con rồng. Bên trái đoạn đường từ cổng vào nhà là hồ sen .
Đến mùa hoa sen nở hương thơm tỏa ngát cả một vùng. Lối đi xung quanh bờ hồ có lan can sơn màu đỏ, nơi mà bác Cả, cha tôi và cụ Tú Mẫân thường hay dạo chơi và đàm đạo thơ văn vào những buổi chiều hè. Khu nhà xây gồm ba dẫy theo hình chữ U. Dẫy giữa làm nơi thờ tự. Dẫy bên trái là nơi vợ chồng bác Cả và người con gái ở . Dẫy bên phải là phần của gia đình cha mẹ tôi. Tiếp giáp ba khu nhà là cái sân lót gạch bát tràng rộng thênh thang.
Năm tôi lên ba, chị Hai con bác Cả về nhà chồng. Chồng chị còn là một thư sinh, con cụ Bang Hoành ở tận phủ Tư Nghĩa. Anh Thân chồng chị Hai theo Tây học, đang học lấy bằng Thành Chung ở trường Khải Định ngoài Huế. Anh chị chỉ được gần nhau trong ba tháng nghỉ Hè.
Tháng Tám năm 1945, Việt Minh khởi nghĩa cướp chính quyền. Bác Cả và cha tôi bị ghép vào thành phần địa chủ, cường hào ác bá . Đội Cảnh vệ đến bao vây nhà và bắt hai người dẫn đi trong đêm. Sau một thời gian, cha tôi được tha về nhưng Người bị phẫn chí nên lâm trọng bịnh mà chết. Về số phận của bác Cả, mãi đến sau này cũng chẳng tìm ra tông tích. Ông bố chồng chị Hai là cụ Bang Hoành thì bị xử chém trong ngày khởi nghĩa. Tháng 12 năm 1946,Việt Minh tuyên cáo "Toàn quốc kháng chiến". Họ phát động phong trào "Tiêu thổ kháng chiến, vườn không nhà trống". Kêu gọi toàn dân triệt hạ tất cả nhà cửa, vườn tược, bỏ thành thị tản cư đến vùng nông thôn. Quốc lộ Một hoàn toàn bị cắt đứt. Chính quyền sức dân đào đường đắp ụ, cầu cống đều bị giựt sập để chặn bước tiến của quân đội Pháp thường hay đổ bộ từ biển vào mở các trận càn quét dọc vùng duyên hải. Hai bên lề đường người ta đào các loại hầm tròn có ngách để khách bộ hành ẩn núp, tránh các cuộc oanh tạc của phi cơ địch.
Trong thôn xóm, địa phương nào cũng phải thực hiện những hệ thống đường hầm liên lạc nối dài làng này với làng khác, xã này tiếp xã khác có trồng cây ngụy trang để bộ đội di chuyển trong lúc tác chiến. Trong giai đoạn này, bài hát Phá Đường được phổ biến sâu rộng trong quần chúng, kêu gọi mọi người thi đua tham gia phong trào phá đường :
"... Nhà em con bế con bồng.
Em cũng theo chồng đi phá đường quan.
Con ơi con ngủ cho ngoan.
Sang canh trăng lặn buổi tan mẹ về...
...Hì hà hì hục, lục cục lào cào.
Anh cuốc em đào, đá lở đất nhào ..."
Anh Thân chồng chị Hai bị kẹt ngoài Huế kể từ ngày tháng đó. Chị trông ngóng tin tức mỏi mòn. Một năm, hai năm rồi bảy năm chị chờ đợi. Vào đầu năm 1952, chị từ quê chồng về thăm gia đình . Đêm ấy chị thì thầm với bác Cả và mẹ tôi: - Ba ngày nữa con sẽ đi Huế tìm chồng con.
Mẹ tôi hỏi :
- Tình hình ngăn sông, cấm chợ và lạ cảnh lạ người làm sao con đi "
- Quyết tâm là đi được . Con sẽ theo chân những người đi buôn, rồi dò đường ra Huế. Chị Hai vừa nói vừa nắm chặt tay bác tôi và mẹ tôi như để cho hai người thân được yên lòng.
- Nhưng con ơi, Bác tôi tiếp - Thân gái dặm trường, từ đây ra Huế xa hàng mấy trăm cây số làm sao con chịu đựng nổi. Thôi thì ở nhà chờ đợi vài năm nữa rồi hẵng hay. Bác tôi vừa khuyên nhủ vừa vuốt mái tóc cháy nắng của con gái.
Những năm tháng lam lũ ngoài đồng thân thể chị Hai trông cằn cỗi, già đi trước tuổi. Từ ngày Việt Minh nắm chính quyền, vùng nông thôn vừa bị thuế nông nghiệp cao lại thêm phong trào giảm tô giảm tức, khiến các điền chủ nhiều ruộng đất kham không nổi đành phải hiến bớt cho chính phủ. Đến khi phong trào "Phóng tay Phát động Quần chúng" "Chính sách Cải Cách Ruộng Đất" ra đời thì thật là thê thảm.
Những gia đình thuộc thành phần "Trí Phú Địa Hào" bị "đào tận gốc, trốc tận rễ" hoàn toàn mất sạch tài sản. Nghe chị Hai đề cập đến những người đi buôn, tôi sực nhớ đến mấy câu thơ truyền miệng trong vùng Liên khu Năm:"Đầu phồng đá lửa. Ruột chửa ka ki. Chửa tại Tam Kỳ. Vô Bồng Sơn đẻ".
Vùng Liên khu Năm gồm 4 tỉnh, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên thuộc Việt Minh chiếm giữ được gọi là vùng Tự do. Đời sống của dân chúng cơ cực. Thực phẩm thiếu thốn, hàng tiêu dùng khan hiếm. Các loại vải ngoại hóa như kaki, ba-tít, đầm đen, phin, các loại pin và đá lửa... đều thuộc hàng quý hiếm. Giai đoạn này, phụ nữ có phong trào kẹp phồng mái tóc lên cao. Con buôn lợi dụng đầu phồng dấu đá lửa vào trong tóc. Các loại vải ngoại thì bó phía trước bụng giả làm đàn bà chửa để qua mặt công an Việt Minh.
Họ đi trót lọt thì kiếm lời gấp sáu bảy lần tiền vốn.
Nếu rủi ro bị công an Việt Minh bắt được, hàng hóa bị tịch thu, còn bị phạt tù và ghi vào sổ đen " thành phần bất hảo" để địa phương theo dõi. Hai ngày sau, Bác tôi moi dưới chân giường lấy ra một chiếc hộp thiếc đưa cho chị tôi. Trên mặt hộp, có mấy tờ giấy bạc Tín phiếu (tiền của Việt Minh phát hành tiêu dùng trong vùng) còn lại là toàn bạc Đông Dương hình người gánh dưa. Bác tôi, nước mắt lưng tròng nắm tay chị Hai dặn dò:
- Con cố giữ mình. Mẹ khấn nguyện Phật Trời phò hộ cho con ra đi được suôn sẻ. Khi gặp được chồng con rồi, có điều kiện thuận lợi thì tin cho gia đình mừng.
Chị Hai ôm bác Cả và mẹ tôi khóc nức nở. Chúng tôi đứa nào cũng sụt sùi trước cảnh chia tay. Chị đến ôm hôn từng đứa em một. Giọt nước mắt của chị rơi trên má tôi khiến cho tim tôi nhói đau tưởng chừng chị ra đi không còn trở lại.
Ngày đám cưới của chị, lúc từ biệt về nhà chồng, chị cũng nước mắt giọt vắn giọt dài khóc sướt mướt nhưng lòng tôi lại vui mừng hớn hở. Chúng tôi được nghe pháo nổ rộn ràng, được ngắm xem họ hàng ăn mặc áo quần rực rỡ. Anh rể tôi, mặc bộ vét-tông vải tít-xuy màu trắng, mang đôi giày da màu trắng và chiếc nón cối cũng màu trắng theo thời trang Âu phục bấy giờ. Chị Hai mặc áo cặp lụa hồng, quần lãnh trắng, guốc cao gót, tay cầm dù hồng được anh rể tôi đưa lên chiếc xe hơi màu đen lánh có dải lụa đỏ thắt nơ treo trước đầu xe.
Ngày nay, chị Hai từ biệt gia đình đi tìm chồng trên đất lạ quê người với tấm thân gầy gò, tàn tạ. Bộ áo quần vải ta đen nội địa dãi dầu mưa nắng đã trở màu bạc phếch. Hai hình ảnh trái ngược đó như khắc sâu trong ký ức của tôi không bao giờ phai nhạt.
Chị Hai ra đi vào lúc trời vừa hừng sáng. Anh em tôi tiễn chân chị đến ngã ba huyện lộ mới quay về. Từ ngày đó gia đình tôi không được tin tức gì về chị.
Mãi đến hai tháng sau, vào một buổi chiều mùa Đông. Một người mặc áo tơi, đội nón lá đi vào nhà tôi dưới cơn mưa tầm tã. Người thanh niên trẻ tuổi nhưng gương mặt rắn rỏi, phong sương đi thẳng vào nhà để nguyên áo tơi ướt dầm dề, đưa cho Bác tôi một gói giấy rồi quày quả ra đi, không nói một lời nào. Bác tôi cầm gói giấy mà cả người run lên. Anh em chúng tôi cũng vô cùng hồi hộp. Chẳng biết bên trong gói giấy ấy có những gì. Tin vui hay tin buồn, niềm hạnh phúc hay nỗi đau thương tang tóc.
Dù trong cơn nôn nóng, cả nhà cũng đành chờ đến tối mới dám mở ra. Ngừa cảnh "tai vách mạch rừng", mẹ tôi vội mang gói giấy bỏ vào ống tre nơi chuồng heo để che mắt những cặp mắt cú vọ đang làm công tác theo dõi "kẻ thù của giai cấp công nông".
Trời mới chập choạng tối, chúng tôi đã vội vã lên đèn. Dưới ánh sáng của ngọn đèn dầu leo lét, bác Cả khui gói giấy vừa nhận lúc xế chiều. Dù người khách lạ không nói gì nhưng chúng tôi đoán biết đó là tin tức của chị Hai gởi về. Bác tôi vừa mừng vừa lo, khiến đôi tay bà run lẩy bẩy. Khó khăn lắm bác mới mở được những nuột dây cột vòng quanh gói giấy. Đây, đúng là quà của chị Hai gởi về gồm một lá thư và xấp tiền tín phiếu. Thư chị viết :
"Kính thưa Mẹ và thím Ba,
Từ lúc con ra đi đến nay đã trên một tháng. Con theo mấy người đi buôn lậu vừa trốn tránh công an Việt Minh vừa phải đi bộ suốt mấy ngày mới tới khu giáp ranh.
Từ quê mình đi bộ đến An Tân khoảng năm mươi cây số, đợi đêm xuống lên chuyến đò dọc. Từ đây đi suốt đêm mới ra đến chợ Được, Quảng Nam. Từ chợ Được đi bộ men theo những con đường làng đầy đụn cát mất trên nửa ngày thì đến Tiên Đõa.
Tại đây, bên bờ Nam sông Faifoo (Hội An) ban đêm Việt Minh kiểm soát ngăn chặn "Bọn Dinh Tề " *(Danh từ Việt Minh gọi những người trốn sang vùng Quốc Gia). Bờ Bắc trở ra do lực lượng của Pháp và Nghĩa Dũng Đoàn của chính phủ Bảo Đại đóng đồn trấn giữ. Trong lúc chờ đợi để lấy thêm tin tức về đường đi nước bước, con tận dụng số tiền mẹ cho mua hết hàng hóa rồi theo đoàn người trở vào An Tân bán lại cho con buôn đi tuyến đường trong Bồng Sơn thuộc tỉnh Bình Định. May mắn là những chuyến hàng của con đi trót lọt nên kiếm được một số tiền khấm khá. Nay con gởi lại số tiền mẹ đã cho con để phòng khi đau yếu. Đồng thời con biếu các em một ít để mua giấy bút đến trường. Tình hình ranh giới hiện nay rất căng thẳng, công an Việt Minh kiểm soát gắt gao lắm. Lý do là những ngày vừa qua có một số người từ Quảng Ngãi trốn qua vùng Tề tại địa điển nầy, như thầy Nguyễn Ngọc Ngư (1), Ông Phạm Văn Diêu (2), ông Hồng Tiêu(3). Riêng bác sĩ Huỳnh Tấn Đối (4) người huyện Bình Sơn đã bỏ trốn trước đó. Con biên thư nầy cho mẹ và thím Ba trước khi con thực hiện chuyến đi. Hy vọng ơn trên độ trì cho con thoát được. Cuối thư, con cầu chúc Mẹ và Thím cùng mấy em luôn được khỏe mạnh. Mong một ngày nào đó chúng ta sẽ đòan tụ.”
Con gái của mẹ.
Nghe chúng tôi đọc xong thư, bác Cả và mẹ tôi nước mắt chảy ròng. Đêm đó và những đêm kế tiếp, bác tôi không ngủ được cứ trằn trọc mãi, hết than vắn thở dài lại ngồi dậy nhai trầu. Bác thắp hương lên bàn thờ rồi bó gối ngồi trên giường lâm râm khấn nguyện.
*
Suốt tuần lễ qua, một người đàn bà điên quần áo xốc xếch không biết từ đâu tới, miệng cứ nói lầm bầm không ra lời, đi nghều nghễu qua lại trên quãng đường từ làng Tiên Đõa đến chợ trời Kiến Tân nằm về tả ngạn con sông Hội An. Đêm nay dưới cơn mưa rả rích của những ngày vào Đông, người đàn bà điên lại ra đi trong bóng tối mịt mùng. Cơn mưa dần dần nặng hạt từ lúc xế chiều kéo dài đến khuya và cũng có thể đến ngày mai. Nước đã ngập trắng xóa cánh đồng dọc theo con sông trước mặt. Người đàn bà điên đi trong đêm tối không mấy người để ý đã vượt qua đoạn đường của lực lượng canh phòng Việt Minh. Bỗng, một loạt súng nổ vang, bà ta phóng người xuống dòng sông. Đêm đen cùng với dòng nước đục ngầu đang chảy xiết đã cuốn người đàn bà điên mất dạng trong thoáng chốc.
Ba ngày sau, người đàn bà điên xuất hiện trong đoàn người đi nhận cơm của trại Quy-Thuận-Hội-An. Bà ta hoàn toàn tươi tỉnh với bộ áo quần rộng thùng thình của trại cấp phát. Trong danh sách tiếp nhận những thường dân bỏ vùng Việt Minh trốn sang vùng Quốc Gia, người đàn bà giả điên ấy khai tên Nguyễn Thị Hồng Lưu, sinh quán tại Quảng Ngãi. Đó là chị Hai con của Bác tôi, Trời Phật ạ. Gia đình tôi biết được tin này nhờ người đi buôn ở chợ trời Kiến Tân bên này sông Hội An thông báo. Cả nhà như trút được gánh nặng suốt hai tháng liền. Bác tôi thì luôn miệng cảm ơn Trời Phật. Chị Lưu khai với Ủy ban Tiếp nhận chồng chị hiện ở thành phố Huế. Anh ấy bị kẹt bảy năm không về nhà được. Nay chị xin chính phủ cho phép ra Huế thăm chồng.
Gần nửa tháng trôi qua, chị Nguyễn Thị Hồng Lưu lơ ngơ, láo ngáo trên thành phố Huế như mang lạc xuống đồng. Ban đêm vào chùa xin nghỉ, ban ngày chị đi khắp hang cùng ngõ hẻm hỏi thăm tên Võ Hoàng Thân học sinh trường Khải Định nhưng chẳng một ai biết cái tên học trò xa lạ cách nay đã sáu, bảy năm, không gốc gác, không địa chỉ. Quả thật chị Lưu như đang làm công việc mò kim đáy biển. Chị tỉnh táo lắm nhưng người ta nhìn chị như nhìn kẻ thất chí. Cuối cùng tiền hết, sức khỏe mòn mỏi , chị Lưu đành phải đi xin việc làm để nuôi sống bản thân và tiếp tục tìm chồng.
Một sự may mắn đến với chị là được một gia đình ở gần cửa Đông Ba nhận vào làm việc nhà và trông coi hai đứa bé. Chủ nhà là một thiếu phụ còn khá trẻ sinh trưởng tại Huế nên bà luôn giữ nếp sống và cung cách của người phụ nữ chốn kinh thành. Vẻ mặt dịu dàng thuần hậu, một nét đẹp đài các nhưng bình dị, lại nói năng từ tốn, điềm đạm khiến cho mọi người người mến phục. Chồng bà là một sĩ quan thuộc lực lượng Việt- Binh- Đoàn của chính phủ Bảo Đại. Hai đứa bé có khuôn mặt bầu bĩnh, hồng hào trông rất khôi ngô. Đứa trai 3 tuổi, đứa gái lên 2. Ngay từ giờ phút đầu, chị Lưu đã cảm thấy quyến luyến với cái gia đình này và đặc biệt là hai đứa nhỏ. Chị âm thầm làm việc, giữ kín tông tích của mình.
Lợi dụng những ngày lễ lạc, chị xin phép chủ nhà đến các nơi hội hè trà trộn vào đám đông may ra tìm được manh mối về anh Thân, chồng chị. Đã mấy tháng ở việc mà chị Lưu không hề thấy người chồng nhà binh của bà chủ về nhà một lần nào. Hình như đây là thói quen của họ nên bà chủ không có chút gì vướng bận, lo âu cho chồng. Chị Lưu tò mò hỏi :
- Ông nhà đi đâu mà lâu lắm chưa thấy về thăm vợ con" Bà chủ cười bảo : - Nhà binh mà chị. Anh ấy đi công tác, nhiều khi một vài tháng, có lúc tới nửa năm mới về nhà thăm vợ con là thường.
Một buổi sáng, bà chủ đi chợ, chị Lưu tắm cho hai đứa nhỏ. Chị đang mặc áo quần cho bé trai, bất ngờ bé gái chạy lững thững mang cả mình nước vào phòng ngủ của bố mẹ nó. Chị Lưu vội chạy theo vào buồng. Thình lình, chị nhìn thấy một bức ảnh lồng trong khung đặt trên đầu tủ đối diện với cửa ra vào. Một chàng Sinh viên Sĩ quan mặc bộ lễ phục ôm vai bà chủ nhà.
- "Một cặp vợ chồng đẹp như tranh vẽ, thật xứng đôi vừa lứa". Chị Lưu tấm tắc khen và nghĩ thầm trong bụng: "Ông Tơ bà Nguyệt khéo xe". Tấm ảnh như thu hút cả tâm hồn và tình cảm của chị.
Người chồng trong bộ quân phục uy nghi cùng với nét mặt cương nghị kề bên là khuôn mặt trái soan hiền hòa của người vợ với ánh mắt sáng rực tình yêu. Chị ngắm ảnh say sưa quên cả hai đứa nhỏ bên ngoài. Bất chợt, chị phát giác ở khuôn mặt người đàn ông trong ảnh có nét gì rất quen thân. Chị đến sát bức hình xem kỹ hơn. Và để nhìn được rõ ràng hơn nữa, chị mở tung cánh cửa sổ cho ánh sáng ùa vào phòng.
Bỗng dưng tim chị nhói đau, đôi mắt mờ dần rồi đôi chân khụy xuống. Chị gục đầu trên chiếc giường nệm trước mặt. Không khóc, nhưng lòng chị đớn đau, tê dại. Chị kêu lên : "Sao con tạo lại trớ trêu thế này, hở trời!"
Lồng ngực chị như muốn vỡ toang, những cơn đau dồn dập như bóp nát quả tim chị, như hàng trăm mũi dao thi nhau rạch nát ruột gan. Chị ngất lịm. - Chị Lưu đã nhận ra chồng chị trong ảnh, anh Võ Hoàng Thân!
Người chồng đã xa cách bảy năm. Người mà chị có thể hy sinh mang sống của mình để tìm đến. Người đã khiến cho chị mất bao nước mắt nhớ thương đêm ngày. Người mà chị đã dành cả tuổi đời thanh xuân dâng hiến và đợi chờ.
Võ Hoàng Thân, ngày từ biệt vợ lần cuối cùng ra Huế tiếp tục việc học còn mang dáng nét thư sinh. Giờ đây khuôn mặt rắn rỏi, đĩnh đạc hơn nhưng làm sao chị quên được chấm nốt ruồi bên dưới đôi môi đầy đặn đó. Làm sao chị quên được chiếc mũi cao và to thể hiện tính kiên cường của đấng nam tử.
Bà chủ đi chợ về thấy người làm bị bất tỉnh liền gọi bác sĩ đến cấp cứu kịp thời. Ngày hôm đó chị Lưu cáo bệnh và xin bà chủ được nghỉ vài ngày. Chị nằm trong phòng không đoái hoài đến ăn uống. Chị để mặc cho nước mắt trào ra, để mặc cho nỗi đau đớn từng đợt đến cào xé trái tim chị. Trái tim của người đàn bà nhân hậu nhưng không tránh được nỗi ghen tức điên cuồng. Mặc dầu bà chủ nhà rất quan tâm đến chị nhưng chị từ chối tất cả những ân cần mà bà dành cho.
Ngày hôm sau, với đôi mắt sưng húp vì khóc, chị Lưu xin nghỉ việc. Bà chủ nhà nhìn đôi mắt chị, ngạc nhiên hỏi :
- Có chuyện gì đã xảy ra cho chị vậy"
- Tôi vừa nhận được tin chồng của tôi chết rồi. Bà chủ nhà đến nắm tay chị, với tâm trạng của người bạn, bà chia sẻ nỗi đau mất mát của người vợ. Bà tỏ ý tiếc rẻ một người giúp việc lúc nào cũng làm tròn bổn phận như chị và một mực thương yêu con trẻ, bà tiếp:
- Rất tiếc là anh Thân chồng tôi không có nhà để giúp đỡ được phần nào cho chị.
-Nghe nhắc đến tên Thân, chị Lưu òa lên khóc rồi ôm mặt chạy vào phòng tức tưởi.
Sáng ngày hôm sau chị Lưu lên đường về lại quê nhà.
*
Ngày xưa, cái sân lót gạch bát tràng trước nhà, gia đình tôi làm nơi đập lúa, phơi bắp, đâïu và phơi đường mía chà thành bột vô bao chở đi Hà Nội bán. Nay nhờ cái sân rộng thênh thang ấy mà bác Cả và mẹ tôi biến thành khoảnh vườn tự túc trồng các loại rau quả dư ăn còn mang ra chợ bán. Cái hồ sen nay trở thành hồ nuôi cá, nhờ đó mà gia đình tôi không lâm vào cảnh thiếu thốn. Thi hành quốc sách của nhà nước "Tiêu thổ kháng chiến, vườn không nhà trống" căn nhà thờ ba gian cũng được tháo gỡ xuống chỉ còn trơ lại nền nhà để rồi chúng tôi cũng tận dụng cuốc lên trồng bắp.
Tuổi thơ mất hết niềm vui của ngày Tết. Những món ăn chơi như rượu, bánh , kẹo mứt thuộc hàng xa xỉ phẩm. Tất cả đều bị cấm sản xuất để dành gạo nuôi quân. Những ngày Tết của thời kỳ "Gạo châu củi quế" người dân Liên khu Năm chỉ còn mong ước được hưởng ba bữa cơm không độn.
Chiều nay, anh em tôi phụ giúp mẹ và bác Cả gánh nước tưới vườn rau vừa mới bón phân. Thình lình chị Hai xuất hiện ngoài ngõ. Chị ôm gói quần áo ủ rũ vào nhà. Bác tôi buông chiếc bình vòi sen chạy đến ôm chị Hai vào lòng. Vốn có thể chất khỏe mạnh, tinh thần cứng cỏi, thế mà nay chị lại mềm nhũn, rũ xuống trong vòng tay mẹ chị. Chúng tôi đến giúp bác Cả đưa chị vào nhà. Đoán biết là việc tìm chồng của chị bị thất bại nên chẳng ai dám hỏi han điều gì.
Chị tịnh dưỡng được vài ngày rồi kể lại những ngày tháng mà chị đã trải qua nơi kinh đô Huế. Đến ngày thứ ba, công an địa phương đến nhà áp giải chị đến cơ quan huyện làm việc. Chị khai rõ ràng là chị đã ra Huế tìm chồng, nhưng khi biết được chồng đã chết thì chị quay về sống với gia đình. Giới chức an ninh của Việt Minh nghi chị làm gián điệp cho Pháp, vì vậy họ chuyển chị đếùn nhà giam tỉnh .
Từ ngày biết chắc anh Thân đã có vợ và hai đứa con ở Huế, chị Hai xem như chồng chị đã chết. Chị không muốn cảnh hạnh phúc của gia đình đó bị xáo trộn, bởi vợ con anh hòan toàn vô tội. Ngay cả anh Thân, chị cũng không hề có một lời trách móc.
Chị cho đó là hoàn cảnh tạo nên, là định mệnh an bài.
Qua mấy tháng bị điều tra, khai thác liên tục, tinh thần chị Hai hoàn toàn bị suy sụp. Những lần chúng tôi vào nhà giam thăm, chị cứ nói lầm bầm trong miệng. Nhiều lúc chị ngồi một mình hướng tầm mắt vô hồn về nơi cõi xa. Tình trạng nầy khiến cho những người làm công tác điều tra đặt thêm nghi vấn: "Giả điên là nghề của gián điệp địch để qua mắt cán bộ an ninh của ta". Từ nghi vấn đó đã trở thành kết luận trong hồ sơ phúc trình lên thượng cấp : "Nguyễn Thị Hồng Lưu là điệp viên của địch".
Tòa án Nhân dân Liên khu Năm mở phiên xử đặc biệt dành cho một "nữ gián điệp của Pháp" đã xâm nhập từ vùng Tề vào vùng Tự Do. Bản án kết luận như sau: "Nhờ mạng lưới tình báo nhân dân của ta chặt chẽ nên đã bắt được tên nữ điệp viên nguy hiểm của địch tại địa đầu ranh giới. Nay, Hội đồng xét xử tuyên án tử hình tên phản quốc Nguyễn thị Hồng Lưu đã manh tâm làm gián điệp cho giặc".
Mười lăm ngày sau, chị Lưu bị xử bắn tại Rừng Cầy. Hôm ấy, bác tôi nằm liệt giường, chỉ có hai anh em tôi đến chứng kiến. Người ta quấn dây chung quanh thân thể chỉ còn da bọc xương của chị vào trụ gỗ . Phía sau lưng là ụ đất cao để ngăn đạn. Ánh mắt vô hồn của chị nhìn về nơi cõi xa. Một vị linh mục già đến làm phép giải tội và ban phép lành cho chị.
Người ta bịt mắt chị mà chẳng khác nào bịt cặp mắt người đã chết rồi. Khi viên chỉ huy ra hiệu bằng thủ lệnh, bốn xạ thủ đồng loạt nã đạn vào người chị. Chị Hai khụy xuống kéo theo cả phần dây cột. Một khắc sau, máu từ ngực chị thấm đỏ cả thân trước vạt áo màu lam. Viên thủ trưởng của toán hành quyết đến bắn vào nơi thái dương của chị một phát súng lục khiến toàn thân chị giật mạnh rồi đầu chị gục xuống làm rớt chiếc khăn bịt mắt.
Ngay lúc đó, anh em tôi cùng kêu lên "chị Hai ơi," rồi chạy vụt đến ôm xác chị gào khóc. Người ta đẩy chúng tôi ra, rồi bỏ xác chị trong quan tài bằng gỗ đã để sẵn tại địa điểm xử bắn do địa phương cung cấp từ trước. Bác Cả tôi làm đơn xin được mang xác chị về chôn tại nghĩa địa của gia đình.
Hiệp định Geneve 1954, chia đôi đất nước.
Tất cả các lực lương Việt Minh tập kết ra Bắc. Chính phủ Quốc Gia tiếp thu vùng Liên khu Năm. Khi tình hình đã ổn định, Anh Thân nghe tin vợ trước đã mất, vội vã đưa vợ sau từ Huế về Quảng Ngãi đến nhà Bác tôi để tạ lỗi. Vợ chồng anh chị ấy đến trước bàn thờ chị Hai thắp hương khấn lễ. Bỗng, chị vợ anh
Thân thất thanh kêu lên: "Chị Lưu!"
Gương mặt thất thần tái mét, hai tay run rẩy như người lên đồng, chị chỉ vào khung ảnh người quá cố trên bàn thờ rồi quỵ xuống. Anh Thân vội vàng đỡ vợ đứng lên mà chẳng biết việc gì đã xảy ra. Bà chủ nhà gần cửa Đông Ba ở Huế đã nhận ra người giúp việc cho mình ba năm về trước lại là vợ trước của chồng. Chị quỳ bên bàn thờ khấn vái :
" Chị Lưu ơi, giờ đây em mới vỡ lẽ chị đã liều chết đi tìm chồng. Khi phát giác chồng mình đã yên bề gia thất, chị lại âm thầm quay về mà không hề có một lời trách móc kẻ đã giật hạnh phúc của mình. Ngày ấy chị đã khóc đến sưng húp cả đôi mắt, bỏ luôn ăn uống. Thế mà chị nói dối với em rằng: "Nghe tin chồng chết nên chị phải trở về quệ" Ôi, tâm hồn chị cao thượng quá, tấm lòng chị bao dung quá. Chúng em xin chịu tội trước linh hồn chi.."
Chị Thân quỳ mọp trước bàn thờ một hồi lâu đến khi Mẹ tôi đỡ dậy thì khuôn mặt chị đã đầm đìa nước mắt. Chị ôm Bác tôi nói trong nghẹn ngào : - " Mẹ ơi, xin mẹ tha lỗi cho con. Từ nay con sẽ thay chị Lưu như là con đẻ của mẹ. Vợ chồng con sẽ lo phần phụng dưỡng mẹ già."
Sau đó, vợ chồng anh Thân xin phép Bác tôi được để tang, xây mộ và hàng năm về lo ngày giỗ của chị. Riêng phần đề nghị đưa bác Cả về Huế sống với anh chị và các cháu thì Bác tôi từ chối bởi Bác còn phải lo mồ mả của ông bà.
Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích
***
(1) Nguyễn Hữu Ngư sau vào Sài Gòn, bút hiệu Nguyễn Ngu Í
(2) Phạm Văn Diêu tác giả "Việt Nam Văn Học Giảng Bình"
(3) Hồng Tiêu em ruột ông Bút Trà (báo Sài Gòn Mới)
(4) Huỳnh Tấn Đối, Bác sĩ Quân y trưởng - viện Quân y Liên khu Năm
No comments:
Post a Comment