Tôi đã từ bỏ quê hương điêu tàn, đã quay lưng với tương lai đen tối. Tôi đã chọn một nơi khác để cất nhà, một miếng đất khác để gieo hạt. Tôi đã dùng nước sông của họ để tưới tẩm, dùng đồi núi của họ để chăn nuôi. Tôi đã dùng chất xám của họ để tiến thân, dùng lòng tốt của họ để sống còn. Tôi không bao giờ quên dòng máu Việt trong tôi nhưng tôi sẽ không ngồi đó nhìn non nước này, dân tộc này với một ánh mắt hờ hững, dửng dưng, một thái độ vô ơn, rẻ rúng. Tôi sẽ không coi đây chỉ là một mảnh đất tạm dung và ngồi khóc thương cho một khung trời đã mất, mơ tưởng về một dĩ vãng đã tàn phai.
Tôi
người Việt Nam. Ông xã người Mỹ. Chúng
tôi gặp nhau và thành hôn năm tôi 30
tuổi, đã một lần ly dị và có hai đứa
con. Ông xã thì cũng 30 tuổi và còn là
trai tơ.
Vùng
I chiến thuật lấy Ðà Nẵng (nơi tôi và ông
xã gặp nhau) làm thủ phủ nên có rất nhiều
bộ chỉ huy trong đó có nhà thương của Hải
quân Mỹ là trung tâm y tế cho tất cả binh
sĩ Mỹ trong vùng. Qua khỏi ngã tư Mỹ Khê,
quẹo mặt để đi vào núi Non Nước, nằm về
phía tay mặt là nhà thương. Tôi đoán nó
chiếm trọn ít nhứt là năm mẫu đất với các
trung tâm y tế mổ xẻ, chữa trị đủ loại,
nhà ở cho binh sĩ và dĩ nhiên là một nhà
xác! Một nhà xác không có nhiều nước mắt
vì thân nhân ở mãi mười ngàn dặm xa!
Trước
mặt nhà thương là một bãi đáp trực thăng
để tải các thương binh, các chiến sĩ tử
trận từ các chiến trường vùng I. Mỗi lần
trực thăng đáp xuống thì con đường xe chạy
được các quân cảnh Mỹ chặn lại, từng chiếc
cáng được vội vã khiêng ra chạy thẳng vào
cổng chánh, có người sẽ tỉnh lại với một
cái chân nằm đâu đó trong lá rừng rậm rạp,
có người sẽ được trở về quê hương dưới lá
cờ phủ kín, có người sẽ ngậm ngùi từ biệt
những giấc mơ vì cánh tay đã mất, gương
mặt đã bị tàn phá, linh hồn đã bị tổn
thương…
Vì
ông xã thuộc binh chủng hải quân và đóng
quân trong nhà thương nên tôi đã có biết
bao lần phải ngừng xe, tắt máy, ngồi nhìn
những bước chân vội vã, những gương mặt
chịu đựng, những ánh mắt buồn hiu của
những người tải thương. Mỗi khi có một cái
cáng phủ cờ Việt Nam hay Mỹ thì những
người Mỹ xuống xe đứng nghiêm chỉnh đưa
tay chào vĩnh biệt. Tôi ít khi thấy thương
binh Việt Nam, có thể vì họ được chuyển
tới một trung tâm y tế khác. Chỉ có một
lần tôi thấy một cái cáng được khiêng ra
khỏi cửa trực thăng, lá cờ Việt Nam Cộng
hòa phủ kín. Tôi không thấy mặt cũng như
binh chủng của tử sĩ nhưng một người đàn
bà đầu tóc rũ rượi, cánh tay quấn băng
treo vào vai còn đẫm máu đang lảo đảo nhảy
ra khỏi cửa trực thăng. Tóc chị trước kia
chắc được cột lại bằng dây thun, nay chỉ
còn một vài lọn lỏng lẻo trên đỉnh đầu còn
bao nhiêu thì thả dài rối rắm xung quanh
mặt.
Bạn ơi,
hình ảnh đau thương nhứt không phải là cái
cáng có người chết nằm phủ kín lá cờ vàng
chói, không phải dòng nước mắt đầm đìa
trên mặt người sống sót mà là một miếng
băng vải mỏng dùng để quấn vết thương. Nó
bị dơ vì đất và máu. Nó chỉ dài bằng một
chiếc khăn mùi soa. Nhưng nó lại được
người vợ trân trọng để ngang lên trán,
dùng một cọng lạt dừa cột vòng lại sau
đầu. Mảnh khăn tang được vội vã quấn tạm
thời nhưng sự ly biệt thì chắc chắn ngàn
trùng xa cách. Người thiếu phụ Việt Nam
đang để tang cho người chồng chiến sĩ đã
hy sinh vì Tổ quốc!
Tôi
không ra khỏi xe chào vĩnh biệt người
chiến binh nhưng gục mặt vào tay lái nước
mắt tuôn rơi khóc thương cho những đứa trẻ
đang quẩn quanh trong thôn xóm chờ cha trở
lại. Tôi tưởng tượng tới lúc gia đình nghe
tiếng chuông reo, mở cửa ra và thấy một
người binh sĩ đứng trước mặt với cái nón
cầm trên tay. Người mẹ ở ngàn dặm xa kia
có ngã xuống vì trái tim tan nát?… Một cái
gì đó nhen nhúm trong tâm hồn tôi. Chiến
tranh tiếp diễn cho tới một lúc nào đó thì
hòa ước được ký, quân đội Mỹ rút đi.
Anh
nấn ná xin ở lại Việt Nam và là nhóm binh
sĩ cuối cùng ra khỏi phi trường Tân Sơn
Nhất vào đầu năm 73. Tháng 6, 1973, tôi
sanh đứa con trai đầu lòng cho anh. Tháng
9 năm 74 tôi qua Mỹ thăm anh tiện thể thăm
dò chuyện xuất nhập cảnh. Chúng tôi dự
định chờ anh ra khỏi quân đội và sẽ về
sinh sống tại Việt Nam. Ðiều kiện để tôi
nói “I do” là chúng tôi phải ở Việt Nam và
sẽ có bảy đứa con. Tôi nào biết trời cao
đất rộng là gì, chỉ biết rằng tôi rất ham
con và bảy đứa là một con số chấp nhận của
gia đình VN, đâu nghĩ rằng đối với người
Mỹ hai đứa là lý tưởng, ba đứa là chau
mày, bốn đứa là nổi điên, năm đứa là tan
nát, sáu đứa là thảm họa mà bảy đứa là…
rồi đời!
Thời
cuộc thay đổi, đến tháng 3 năm 75 thì tôi
quay về Việt Nam để đón các con. Lúc đó
tôi đang có thai đứa thứ hai được bảy
tháng. Khi còn bên Mỹ, qua tin tức trên
báo và tin rỉ ra trong quân đội thì chúng
tôi biết chắc là Saigon sẽ mất, nhưng khi
về Việt Nam thì Saigon vẫn vui vẻ, vẫn
bình yên. Rạp chiếu bóng vẫn hát, tiệm ăn
vẫn mở cửa, đám cưới vẫn tiến hành, tình
yêu vẫn nở hoa… Tôi thầm cằn nhằn báo chí
Mỹ thật là dỏm, toàn là đưa tin vịt không
hà.
Nhưng
với ngày qua, mọi việc có vẻ tệ hơn. Nhóm
người quen bán hột xoàn với mẹ con tôi
cùng nhau an ủi rằng “bà Mỹ” còn ở đây
chưa chạy thì lo gì. Ông xã tôi kêu điện
thoại ngày một hối thúc tôi ra đi. Tôi trả
lời là má tôi không cho đi, sợ về Mỹ sanh
rồi lấy ai săn sóc, làm sao có củi lửa để
hơ, có lá xông để tắm, có nghệ vàng để
thoa mặt, v.v. Sanh xong rồi tôi sẽ qua.
Một
tuần sau tôi mất liên lạc với anh.
Ngày
20 tháng 4, 1975 một trung sĩ Việt Nam lái
xe jeep đến nhà tôi, gõ cửa:
“Xin
lỗi đây có phải là nhà của bà Lê Thị Hoa
không?”.
Tôi trả
lời:
“Trung
sĩ ơi, ở đây không có bà Lê Thị Hoa chắc
trung sĩ muốn kiếm bà Lệ Hoa phải không?”
Viên
trung sĩ vội nói:
“Tôi
cũng không biết chắc. Tôi làm việc cho ban
an ninh phi trường và được lịnh tới đây
chở cái bà có chồng Mỹ lên gặp Đại tá Mỹ
phụ tá tùy viên quân sự…”
Tôi cầm
lấy giấy và thấy tên tôi. Tôi vội dẫn theo
hai đứa con nhỏ nhất lên phi trường Tân
Sơn Nhất. Khi vào văn phòng, vị Đại tá cho
tôi biết là ông xã đã liên lạc với cơ quan
của ông và nhờ họ giúp tôi và các con
phương tiện để rời Việt Nam.
Vị Đại
tá nhìn xấp tài liệu nói:
“Chồng
bà yêu cầu Tòa Đại sứ giúp đỡ bà và ba đứa
con di tản khỏi Việt Nam lập tức. Xin bà
hãy để hai đứa trẻ này lại đây cho cô thơ
ký tôi trông chừng, còn bà thì theo xe trở
lại nhà và dẫn đứa thứ ba tới đây, chúng
tôi sẽ làm giấy tờ và gia đình bà sẽ ra đi
nội trong ngày nay”.
Tôi
ngẩn ngơ nhìn vị Đại tá ngồi nghiêm chỉnh
trước mặt:
“Ngài
Đại tá, ngài có nói chơi không? Tôi sanh
ra, lớn lên, sống ba mươi lăm năm tại non
nước nầy giữa cha mẹ, thân nhân, bạn bè…
và bây giờ ngài cho tôi hai tiếng đồng hồ
để từ bỏ tất cả… Xin ngài hãy nói là ngài
nói chơi, chuyện này không có thật…”
Nước
mắt tôi ứa ra và chắc là tôi có vẻ bi
thương của một con thú sắp chết nên vị Đại
tá rộng lượng nhìn tôi:
“Tôi
biết tình cảm của bà. Thôi bà hãy dẫn con
về và ngày mai trở lại. Ngày mai, bà có
nghe rõ không? Chuyện đầu tiên bà thức dậy
ngày mai là cùng ba con lên xe đến đây.
Tôi sẽ gởi người trung sĩ này đến nhà bà
sáng mai”.
Tôi về
nhà và cả nhà bắt đầu khóc. Tôi đi lên đi
xuống thang lầu, mở các hộc tủ ra rồi đóng
lại, ra sân thượng nhìn chậu cúc héo queo,
xuống nhà bếp ngồi lên bộ ván ngựa, vô nhà
tắm rờ rờ cái lon múc nước, ra phòng khách
nằm lên võng đưa kẽo kẹt… Tôi như người
mộng du, làm tất cả những hành động vô
nghĩa đó với tiếng khóc hụ hụ.
Ba giờ
chiều tôi gọi điện thoại cho vị Đại tá
biết là vì tôi bị xúc động nên đã động đến
cái thai. Hiện giờ tôi đang ra huyết và
Bác sĩ cấm không cho tôi di chuyển cho đến
ba ngày sau. Dĩ nhiên vị Đại tá không dám
giỡn với tánh mạng người khác nên phải
đồng ý cho tôi thêm ba ngày nữa. Tôi không
nghĩ là sau ba ngày đó tôi còn có được một
giọt nước mắt nào nữa trong cuộc đời.
Ba má
tôi không đi vì tôi có người anh đi tập
kết: ông bà chờ sự trở lại. Anh rể tôi
không đi vì là sĩ quan Cộng hòa: sợ mang
tội trốn lính. Chị tôi không đi vì theo
chồng.
Ba đứa
cháu trai theo tôi vì sợ sẽ phải bị đày đi
lính. Một đứa cháu gái theo tôi vì sợ sẽ
bị gả ép cho thương phế binh Cộng sản.
Vì thế
ba ngày sau tôi mang một bụng bầu tám
tháng và bảy đứa nhỏ lên phi trường. Vị
Đại tá nhìn tôi như nhìn con quái vật:
“Xin
lỗi bà, theo giấy tờ thì tôi chỉ có quyền
cho bà và ba đứa con của bà đi. Hiện tại
bà có tới bảy đứa! Tôi thật không thể giúp
bà”.
Khi
người ta phải phấn đấu cho sự sống chết
thì can đảm và khôn ngoan ở đâu bất chợt
hiện ra. Tôi nhẹ nhàng nói:
“Tôi
hiểu thưa Đại tá. Tôi không trách ông.
Nhưng đây là những đứa cháu tôi nuôi từ
nhỏ giống như con tôi vậy. Nếu ngài không
cho chúng đi thì mẹ con tôi cũng xin ở
lại”.
Vị Đại
tá bối rối nhìn tôi. Có lẽ ông đã biết
rằng rồi thì Việt Nam sẽ mất, rồi thì một
làn sóng người sẽ cuồn cuộn ra đi. Sớm một
vài ngày, bốn đứa trẻ này có thấm gì đối
với số người đang rần rộ chen lấn ngoài
kia. Ông thở dài, ngồi xuống ghế ký cái
công văn “eight months pregnant wife and
seven children of US citizen need to be
evacuated” rồi đưa cho tôi. Chúng tôi theo
dòng thác người nhớn nhác ra đi.
Chúng
tôi tới Camp Pendleton ngày 5 tháng 5 năm
1975. Anh đang đóng quân ở Ferndale, một
tỉnh lẻ nhỏ nhắn hiền hòa chỉ có bảy ngàn
dân, cách San Francisco sáu tiếng đường xe
về hướng Bắc. Lúc đó chiến tranh lạnh giữa
Hoa Kỳ và Nga Xô vẫn tồn tại nên đây là
một căn cứ hải quân rất quan trọng nằm
trên một ngọn đồi cao ngó ra biển. Các đài
radar tối tân được đặt cùng khắp để theo
dõi các tàu ngầm xâm phạm bất hợp pháp vào
hải phận Mỹ và California.
Khí
trời California lúc đó là 75 độ mà mọi
người lạnh cóng. Ðêm thứ hai tại camp, anh
lái xe một lèo 16 tiếng để đến đón mẹ con
tôi. Mười một giờ khuya một người lính Mỹ
đến lều để dẫn tôi lên văn phòng nơi anh
đang làm thủ tục.
Bạn có
biết lúc đó tôi giống ai không?
Không
Giống Ai Hết!
Ðây là
một người đàn bà 36 tuổi, tóc hơi dính
chùm lại vì cát bụi, mặt hỏm vào, gò má bị
nám, mặc một cái áo dài xanh bên hông chỉ
gài được một nút ở dưới nách vì thai bụng
quá lớn, ngoài khoác một áo bầu thùng
thình màu trắng, đầu trùm cái mền xám cột
thắt dưới cằm, chiều dài mền thả phấp phới
sau lưng. Le lói hơn nữa là người lính Mỹ
trẻ thấy tôi run cầm cập nên cởi cái áo
lính trận ra, trước mặt đầy những túi để
dao găm, lựu đạn v.v… và trùm lên tôi. Tôi
bước vào căn lều. Bàn làm việc nằm cuối
phòng và anh đang đứng cúi xuống ký giấy
tờ.
Chưa
bao giờ trong đời tôi lại bước những bước
chân nhẹ nhàng, nặng nề, tủi hổ, hoang
mang, giải thoát, run sợ như lúc đó. Ðây
là lúc bắt đầu cho những ngày tươi sáng
với sum họp thương yêu, với nhà lầu chọc
trời, với ngựa xe rộn rã, với tương lai
đại học hay là lúc chấm dứt cho dòng sông
Hậu hiền hòa với hàng dừa nặng trái, lúc
từ giã những hàng me xanh thân yêu Trần
Quý Cáp, lúc quay lưng lại với bến Ninh
Kiều đằm thắm xinh tươi, lúc quì lạy cha
mẹ quê hương nói lời vĩnh biệt?
Tiếng
bước chân tôi làm anh quay lại. Anh bước
tới ôm lấy tôi. Tôi cố gắng để khỏi ngất
đi, quì xuống sàn nhà, tay ôm lấy mặt và
nghẹn ngào: “Oh My God honey, I lost my
family, I lost my country, I lost
everything!” rồi tôi khóc nức nở. Anh quì
xuống ôm đầu tôi. Anh cũng khóc. Tất cả
người Mỹ trong phòng đều rưng rưng.
Ngày 13
tháng 6 năm 1975 tôi sanh cháu Jimmy.
Tháng 9 tựu trường, tôi gởi hai đứa nhỏ
nhất cho cô bạn, đi làm phụ giáo lớp một
trường tiểu học Ferndale, hai đô la rưỡi
một giờ.
Hè
1976, tôi đứng bán hot dog trong hội chợ
và ba thằng lớn thì đi dọn rửa phân ngựa
trong trường đua. Lúc đó Chánh phủ Mỹ còn
giàu nên cứ hai năm là các quân nhân được
đổi tới một trạm binh khác. Tôi thấy tụi
nhỏ rất buồn và sợ rằng sự dời chỗ thường
xuyên sẽ làm tụi nó hụt hẫng vì xa bạn nên
khuyên anh giải ngũ. Và chúng tôi dọn
xuống miền Nam California, tỉnh La Habra.
Tôi thì
để tất cả sự nghiệp lại Việt Nam, anh thì
trước khi biến cố Việt Nam xảy ra, đã bị
thua lỗ tất cả vốn liếng trong một vụ hùn
hạp mở tiệm in với một nhóm dân sự nên
chúng tôi hoàn toàn… sạch sẽ. Khi đi mướn
nhà ở đường Dexford, La Habra, chúng tôi
chỉ dẫn theo bốn dứa nhỏ nhất, hai trai
hai gái. Chủ nhà là một người đàn ông Mỹ
dễ thương, khi biết anh vừa giải ngũ thì
rất vui vẻ nói:
“Ô, căn
nhà nầy có ba phòng lớn, thật là lý tưởng
cho gia đình ông bà với hai trai hai gái.
Tôi rất vui lòng cho ông bà mướn”.
Chúng
tôi dở khóc dở cười. Anh là người ít nói
và chậm chạp nên tôi bèn duyên dáng cười
cười nhìn ông
“Thưa
ông, nếu tôi nói với ông là chúng tôi có
tám đứa con thì ông có tin chúng tôi
không?”
Lần nầy
thì chủ nhà nhìn chúng tôi dở khóc dở
cười. Ông ngẫm nghĩ một lát rồi nói:
“Thôi
được, tôi đồng ý cho ông bà mướn. Mỗi
tháng tôi sẽ đích thân đến thâu tiền nhà.
Hy vọng là mọi sự sẽ tốt đẹp”.
Ông đâu
có biết rằng tên tôi là Lệ Hoa nghĩa là
một bông hoa mỹ lệ, đẹp đẽ chớ chẳng phải
là nước mắt của hoa nghe bạn. Vì thế tôi
thích trồng bông, thích vườn tược. Tôi
sanh ra và lớn lên ở Cần Thơ, bà con sống
ở Ô Môn, Thới Lai, Phong Ðiền, Cờ Ðỏ nên
mỗi mùa Hè chị em tôi thường về vườn đi
cầu khỉ, chèo ghe, bắt ốc gạo, hái vú sữa.
Cái chất vườn Nam Bộ đã ăn sâu vào máu tôi
nên hiện giờ nhiều người còn cho rằng tôi
không có vẻ gì là sang trọng như người
Việt Nam sống ở Mỹ. Biết sao!
Sau khi
dọn vô, tôi và các con hì hục cuốc đất, đổ
phân và biến cái sân trống rỗng của ông
thành ra một cái vườn đầy hoa vạn thọ (đây
là để honor má tôi vì bà rất thích bông
vạn thọ). Tháng sau khi ông tới thu tiền
nhà thì ông ngẩn ngơ và phán một câu, “Tôi
không cần phải tới tận nhà thâu tiền nữa,
bà cứ viết check gởi cho tôi là được. Cám
ơn bà về những bông vạn thọ”.
Một vài
người quen xúi tôi xin đi làm waitress vì
nghề này tiền lương chẳng bao nhiêu nhưng
tiền tip thì… ăn chết không hết. Trời ơi
tôi nghĩ tới cái viễn cảnh, anh sẽ đi làm,
tôi sẽ đi làm lại còn tiền hưu trí từ quân
đội nữa thì quả nhiên là… ăn chết không
hết! Tôi vội vàng vác đơn tới tiệm Red
Lobster gần nhà xin việc.. Người manager
hỏi bà có làm waitress bao giờ chưa? Dạ
chưa. Bà có khi nào làm chủ nhà hàng chưa?
Dạ chưa. Cứ hỏi…bà có… bà có… bà có…. Cứ
trả lời… dạ chưa… dạ chưa… dạ chưa… và thế
là tiền ăn chết không hết chỉ là mộng ảo.
Tôi mua
tờ báo thấy rao là “Chương trình CETA của
Chánh phủ sẽ trả tiền trường cho một năm
học để giúp bạn học các nghề văn phòng như
thơ ký, kế toán, phụ tá hành chánh v.v…
Mỗi tuần chương trình sẽ tặng bạn bốn chục
đô để di chuyển và sau khi tốt nghiệp sẽ
kiếm việc làm cho bạn…”. Tôi nói với anh
đây chắc hẳn là một sự lường gạt vì làm gì
lại có sự tốt đẹp như thế. Anh thì lớn lên
đã nhập ngũ, phần nhiều thời gian nếu
không lang thang trên biển cả thì cũng
đóng quân ở một xứ khác ngoài Mỹ nên đối
với xã hội dân sự cũng có chút bỡ ngỡ. Tôi
hăng hái tới cơ quan xin vào chương trình
thơ ký. Người phụ trách chương trình thấy
tôi là người tị nạn, chồng lại là cựu quân
nhân, hình dạng có vẻ nghèo nên thương
tôi. Sau khi nói chuyện và đọc cho tôi
viết một đoạn Anh văn, bà nhận tôi vào
chương trình thơ ký. Khi tôi lui cui làm
giấy tờ, bà dịu dàng hỏi:
“Bà có
giỏi toán không? Làm nhân viên kế toán thì
nhiều lương hơn thơ ký thường và rất dễ
kiếm việc làm”.
Tôi
không dám trả lời vì không biết “toán” của
bà thuộc về loại gì nên ngập ngừng:
“Dạ tôi
cũng không biết chắc”.
Bà lấy
ra một bài thi toán đưa cho tôi. Ái dà, bà
ơi. Có phải là bà đang chà đạp cái trường
Gia Long của tôi không? Tôi là học sinh đệ
nhất A đây nha bà, dù tôi không được như
bà Dương Nguyệt Ánh ngày nay phát minh ra
cái gì là bom tìm nhiệt thì ba cái 25% của
100 là bao nhiêu, 1/3 của 75 có lớn hơn
2/3 của 40 không v.v.. là cái chuyện nhắm
mắt cũng trả lời được.
Một năm sau tôi được giới thiệu
vào làm cho Công ty nhà hàng Dennys, bộ
phận kế toán xuất nhập.
Làm
việc bảy năm tại Dennys tôi đã học được
biết bao điều về gia đình, xã hội, dân
tình Mỹ. Trong những buổi ăn trưa tôi học
đan áo, học móc khăn, học cách nấu món ăn
Mỹ, Ý, Tây Ban Nha, học cách dạy con, cách
đối xử với chồng, học cách không bao bạn
ăn để rồi kể lể khi giận hờn nhau, mà mạnh
ai nấy móc túi trả phần mình và tình bạn
thì không bao giờ sứt mẻ.
Những
người bạn ngoại quốc mới này giúp tôi hoàn
thiện ngôn ngữ, hiểu rõ những tiếng lóng,
sử dụng thành thục những thành ngữ, trả
lời điện thoại một cách chuyên nghiệp.
Giúp
tôi biết nói cám ơn với con cái. Biết dằn
lòng không mở thư của chúng ra kiểm soát.
Biết chỉ dẫn chúng tự thực nghiệm cuộc đời
hơn là bao che lầm lỗi. Biết nói xin lỗi
khi phạm phải sai trái.
Biết
văn minh không phải là mặc áo hở ngực hở
mông mà là tuân thủ theo Hiến pháp. Biết
tự do không phải là mạnh ai nấy làm mà là
kính trọng nhân vị của chính mình và của
đồng loại. Biết thành công là nhờ vào sự
mẫn cán, học hỏi, cầu tiến chớ không nhờ
vào nịnh bợ lấy lòng.
Biết
các sắc dân khác cũng đầy thương yêu và
nhiều đau khổ. Biết kính trọng người Mỹ
đen. Biết thương yêu người Mễ nghèo.
Họ cười
lăn lóc với cái accent Á Ðông của tôi
nhưng họ không chê tôi dốt nát. Họ chỉnh
sửa lại những tiếng tôi dùng sai trật
nhưng không có ý khinh khi. Họ không đánh
giá tôi cao vì tôi đến từ gia đình trưởng
giả như tôi khoe khoang. Họ không nhìn tôi
thấp kém vì tôi thuộc third world country
như báo chí thường đăng tải. Họ nhìn tôi
giống như họ, một người vợ, một người mẹ
đang cố gắng kiếm tiền một cách lương
thiện để giúp chồng nuôi dạy đàn con.
Chín
mươi phần trăm nhân viên kế toán là đàn
bà. Ðây là những bà mẹ, bà vợ ban ngày làm
toàn thời gian, chiều về nấu ăn chăm lo
con cái, cuối tuần giặt giũ, lau chùi nhà
cửa, dạy con làm bài tập, đi chợ, đi chơi
với gia đình. Họ sống bình thường mà còn
giỏi hơn tôi là đằng khác.Vậy mà khi xưa
tôi cứ nghĩ đàn bà Mỹ là đồ bỏ. Tôi mang
tội khinh người. Khi ở Việt Nam tôi ít khi
nào giặt quần áo cho tôi, cho chồng, cho
con. Tôi chưa khi nào lau chùi cầu tiêu,
thức khuya dậy sớm cho con bú, kiểm soát
từng bài văn điểm toán cho con. Tất cả đều
có anh tài xế, chị vú, anh bồi, chị bếp,
cô giáo dạy kèm. Biết bao người đã than
trời trách đất rằng sống ở đây sao mà cực
quá, xã hội gì mà sướng đâu không thấy chỉ
thấy cái gì cũng tự mình làm, thời gian
hưởng thụ chẳng bao nhiêu mà làm việc thì
quay tròn như chong chóng chẳng lúc nào
ngừng. Cực ơi là cực. Chỉ chăm chăm muốn
về Việt Nam hưởng thụ.
Bạn ơi,
bạn hãy dừng chân một bước. Bạn hãy mỉm
cười cầm từng món đồ dơ bỏ vào máy giặt,
nhìn vết bẩn trên chỗ đầu gối và hình dung
lại gương mặt mếu máo đáng yêu của con nhỏ
khi té quị xuống bãi cỏ, nhớ lại ánh mắt
chờ mong tin tưởng của con khi mẹ đến đỡ
lên.
Bạn hãy
nhìn cả nhà húp sột soạt chén canh bầu,
cùng chia nhau miếng sườn nướng, cuộn chả
giò. Bạn hãy cúi xuống đứa bé đang nở nụ
cười ngây thơ chờ mong bình sữa bạn đang
đu đưa trước mặt. Bạn hãy vừa xào món tàu
hủ vừa trả lời thằng con đang cắm cúi làm
bài tập bên kia bàn là Los Angeles không
phải là thủ phủ của California con ơi. Thủ
phủ của CA là Sacramento hoặc square of
three is not three, it’s nine. Và năm phút
sau đứa con vui vẻ đứng dậy: “Thank you
mom (or dad). My home work is done”.
Ðây mới
chính là lúc bạn sống, là lúc mà bạn xuyên
thủng qua lớp giáp để linh hồn và huyết
nhục bạn và gia đình cùng hòa quyện vào
nhau. Ðây chính là lúc hột mè trí tuệ nảy
nở trong các con do bạn gieo xuống, lúc
hạt giống tình yêu thẩm thấu vào linh hồn
chúng do bạn cày cấy vào. Chúng sẽ lớn lên
với ân cần bạn gởi vào chén cơm, với giúp
đỡ bạn sẻ chia trong bài tập, với thương
yêu bạn vuốt thẳng áo quần, với mồ hôi bạn
chảy dài trong trận đấu. Và vợ chồng bạn
có cùng một trận tuyến, cùng một hướng đi.
Tôi đã
từ bỏ quê hương điêu tàn, đã quay lưng với
tương lai đen tối. Tôi đã chọn một nơi
khác để cất nhà, một miếng đất khác để
gieo hạt. Tôi đã dùng nước sông của họ để
tưới tẩm, dùng đồi núi của họ để chăn
nuôi. Tôi đã dùng chất xám của họ để tiến
thân, dùng lòng tốt của họ để sống còn.
Tôi không bao giờ quên dòng máu Việt trong
tôi nhưng tôi sẽ không ngồi đó nhìn non
nước này, dân tộc này với một ánh mắt hờ
hững, dửng dưng, một thái độ vô ơn, rẻ
rúng. Tôi sẽ không coi đây chỉ là một mảnh
đất tạm dung và ngồi khóc thương cho một
khung trời đã mất, mơ tưởng về một dĩ vãng
đã tàn phai.
Tôi sẽ
hòa vào các chủng tộc khác nhau, rơi lệ
khi thấy tòa nhà chọc trời sụp đổ, đau
thương khi nhìn xác lính được chở về, hân
hoan khi nghe bài quốc ca trong các cuộc
tranh tài. Tôi sẽ dạy các con cùng tôi
nhận nơi này làm quê hương, sẽ đem tất cả
khả năng lao động hay học vấn đóng góp vào
sự thịnh vượng chung của quốc gia này.
Thay vì
trồng cây cổ thụ tạm thời trong một cái
chậu nhỏ để nó chỉ được lớn èo uột trong
bóng râm, tôi và gia đình muốn đào một hố
sâu, đổ đầy phân bón, tưới tẩm nó với tất
cả ân cần, săn sóc nó với tất cả sức lực
để cho rễ mạnh nó ăn sâu vào lòng đất, cho
tàn xanh nó tỏa rộng khắp không gian.
Chúng tôi không tạm dung. Chúng tôi mọc rễ
và yêu thương quê hương này. Rồi một ngày
nào đó, ở bên kia góc trời có cần tới một
bóng mát bình an, chúng tôi sẽ chiết bớt
một nhánh cổ thụ đem về…
Chúng tôi chỉ có thể làm như thế
khi chúng tôi nhận nơi này làm quê hương.
No comments:
Post a Comment