Bức hình gây
chấn động báo giới Hoa Kỳ với tựa đề “Lên tàu” do một thủy thủ chụp được trên
chiến hạm USS White Plan Tháng 7 năm 1979. Đấy là hình ảnh một người đàn ông
Việt Nam
được vớt đang leo lên thang dây bên mạn tàu với tất cả hành trang của gia đình
trong túi vải cắn chặt trong miệng. Cuối năm 1979 tin tức về tàu Mỹ vớt người
tỵ nạn bay về Việt Nam,
cả Sài Gòn lên cơn sốt. Nhà nhà vượt biển, người người vượt biển. Đó cũng là
năm cuối cùng của thập niên 70 với người phụ nữ có bầu cũng ra đi, sanh trên
tàu Mỹ, đặt tên con theo tên tàu có khai sanh công dân Hoa Kỳ do thuyền trưởng
ký.
Trong thời gian
hải quân Thái làm việc, bọn cướp vắng mặt nhưng ngay sau khi lính Thái vừa bỏ
đi thì lập tức bốn chiếc tàu hải tặc tràn người lên đảo. Bọn cướp lại lục soát
thêm nhiều lần nữa. Dĩ nhiên những nạn nhân VN khốn khổ chẳng còn gì để chúng
cướp bóc nữa. Để bù trừ chúng luân phiên nhau hãm hiếp phụ nữ tại chỗ giữa ban
ngày. Bọn hải tặc Thái chẳng cần tìm chỗ nào kín đáo để diễn trò thú vật... Năm
bé gái: KH, 15 tuổi, BT 17 tuổi, AH 12 tuổi, NỴ 11 tuổi và MT 15 tuổi bị chúng
cưỡng hiếp tập thể ngay trước mắt mọi người.
Thảm kịch trên
đảo Kra may thay được chấm dứt vào ngày 6 Tháng 1 năm 1980, khi nhóm người
tuyệt vọng được phát hiện bởi trực thăng của Cao Ủy LHQ bay qua đảo. Vị cứu
tinh là Ông Scheitzer, Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc đã đến đảo Kra trên một
chiếc tàu cảnh sát Thái, đưa thuyền đón người tỵ nạn vào quận Pakphanang thuộc
tỉnh Nakorn Sri Thamaraj. Ở đây 18 ngày làm thủ tục với cảnh sát Thái, thì nhóm
người tỵ nạn được đưa về trại Songkhla ngày 23 tháng 1, 1980.
Ngày 10 tháng 4
năm 1980, nhân ngày giỗ thứ 100, ngày người vợ và các con cùng những đồng bào
chết thảm trên Biển Đông để đi tìm Tự Do. Tại trại tỵ nạn Songkhla, Cha Tuyên
Úy Joe Devlin đã dâng Thánh Lễ cầu nguyện cho gia đình ông và những người bị
chết oan khốc tại nhà thờ trại. Người Việt Nam khổ nạn điển hình Vũ Văn Thái
dâng lời cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin Chúa hãy xót thương cho những linh hồn đã
chết đớn đau trong thảm họa hung của cả Dân Tộc Việt Nam. Xin Chúa hãy cứu vớt
linh hồn vợ con, các con của con để đưa tất cả về nơi an nghỉ bình an hạnh phúc
đời đời nơi nước Chúa. Xin Chúa hãy giúp con đầy đủ can đảm để đứng vững sau cơn
gió bão khủng khiếp của đời người, để cho con còn đầy đủ minh mẫn, đủ sức khỏe
để lo lắng cho đứa con trai duy nhất của con còn đang sống ở Đài Loan. Con đã
chịu đau thương quá nhiều. Con cầu nguyện Ơn Chúa ban xuống cho tất cả thân
nhân còn lại của con, các đồng bào của con, những người sẽ vượt biển ra đi đều
tới bến bờ bình an”.
Thảm kịch của
gia đình ông Vũ Văn Thái hoàn toàn là không đơn lẻ, cùng thời điểm của thập
niên 80, trên biển Đông, vùng Vịnh Thái Lan đã là một địa ngục có thật đối với
khối Người Việt khổ nạn vì họa cộng sản phải phá thân ra khỏi nước... Những
thảm cảnh như sau tiếp diễn hiện khắp nơi với những nhân chứng, nạn nhân thuộc
nhiều quốc gia, nhiều giới người, nhiều lứa tuổi...
Ông Ted
Schweitzer là người Mỹ đầu tiên đã cập bến vào một đảo sào huyệt hải tặc và mục
kích chuyện 238 thuyền nhân Việt Nam bị đắm ghe, dạt vào đấy. Có 80 người bị
giết, tất cả các phụ nữ đều bị hãm hiếp và buộc khiêu vũ khỏa thân cho chúng
xem. Ông Schweitzer can thiệp yêu cầu họ chấm dứt tấn tuồng vô nhân đạo này thì
bị bọn cướp xúm lại đánh đập đến như gần chết. Thật may mắn mà ông còn sống sót
để thuật lại. Khi tỉnh lại, ông thấy trước mắt những cánh tay, đùi chân còn rải
rác đây đó. Đấy cũng là bằng chứng có vụ ăn thịt người.
Cô Nguyễn Phan
Thúy cùng với mẹ, dì và người em gái đã bỏ tiền ra mua chổ trên tàu để vượt
trốn. Sau mười ngày lênh đênh trên biển cả, tàu bị mắc cạn, hết nước, hết thức
ăn. Hải tặc đến bắn chết người dì. Một ông già có răng vàng bị chúng lấy kìm
vặn khỏi miệng. Một người đàn bà đang có bầu bị chúng ném xuống biển. Các người
sống sót bị chúng lột hết quần áo, xua cả lên bờ, và tàu bị nhận chìm. Chúng
bắt các phụ nữ xếp hàng. Cô Thúy cùng một cô gái khác tên Liên bị chúng lựa ra
rồi đưa sang chiếc thuyền đánh cá của chúng. Suốt ba tuần lễ sau đó, hai cô
liên tiếp bị hãm hiếp. Cô Liên chịu không nổi, bị chúng chán rồi vứt cô xuống
biển; còn cô Thúy chúng đem bán cho một động mãi dâm trong làng mang tên là
“Phòng đấm bóp nơi thiên đường”. Ở đây cô mang thai và bị bọn người man rợ
người ta lấy một que tre trục bào thai ra. Cuối cùng cô thóat được và được cơ
quan Cứu Trợ Liên Hiệp Quốc tiếp nhận.
Năm 1989, một
chiếc ghe chở 84 thuyền nhân bị hải tặc đến cướp. Tất cả đàn bà và trẻ con bị
chuyển qua thuyền hải tặc và từ đó không còn nghe một tin gì về số phận họ nữa.
Những người đàn ông thì bị nhốt dưới khoang tàu rồi, từng người một, chúng lôi
lên đập cho đến chết. Sau cùng, những người còn lại liều mình sấn vào bọn cướp
thì tàu hải tặc nhào đến đâm vào tàu thuyền nhận xuống cho chìm đi. Một số
người cố thóat liền bị chúng dùng cây sào nhận chìm xuống nước. Còn lại 13
người thóat chết nhờ bơi ra xa và được bóng đêm che phủ.
Vào tháng 4 năm
1989, có bảy tên hải tặc trang bị súng ống, đao búa đến tấn công một chiếc tàu
nhỏ chở 129 thuyền nhân. Tất cả đàn bà đều bị hãm hiếp, đàn ông bị sát hại, trừ
một thiếu niên tên là Phạm Ngọc Nam Hưng. Anh này sống sót nhờ bám được vào một
chiếc bè kết thành bởi ba xác chết.
Cuối cùng chính
phủ Thái bị Cơ quan Cứu Trợ Quốc Tế cưỡng bách tìm biện pháp đối phó. Các tàu
đánh cá phải ghi tên bằng chữ lớn ngay mũi tàu. Các tàu đều phải được chụp hình
lúc ra khơi và lúc về cảng. Biện pháp này đã khiến nhiều hải tặc lo sợ, nhưng
những bọn còn lại bèn trở nên tàn nhẫn, hung dữ hơn trước! Chúng thủ tiêu hết
mọi nhân chứng để không còn một ai nhận diện được chúng nữa. Vào cuối thập niên
tám mươi các vụ hải tặc dần dần chấm dứt do con số người tỵ nạn giảm đi.
3. Đoạn Kết của
Bi Kịch Thuyền Nhân Người Việt
Cuối cùng, làn
sóng người tị nạn Việt Nam bằng đường biển đã viết lên thiên bi sử của thuyền
nhân, và những câu chuyện hãi hùng của các cuộc vượt biển của người tị nạn Việt
Nam đã đánh động được lương tâm thế giới. Vào tháng Ba 1979, chương trình Ra Đi
Có Trật Tự (ODP) ra đời để cố gắng ngăn chặn những làn sóng vượt biển. Ngoài
ra, cũng vào thời gian này, các chương trình cứu người vượt biển đã được một số
tổ chức thiện nguyện quốc tế phát động hai chiếc tàu cứu vớt thuyền nhân ngoài
biển là Anamur do một tổ chức từ thiện Đức Quốc vận động vào năm 1979 L’Ile de
Lumiere của tổ chức từ thiện Pháp Medecins du Monde điều hành vào năm 1980 đã
cứu mạng được nhiều thuyền nhân Việt Nam lênh đênh ngoài biển cả trong khoảng
thời gian từ 1979 cho đến 1990.
Đoạn kết thúc
nhân đạo được khởi từ những sự kiện sau đây: Tin tức thời sự loan báo ba thuyền
tỵ nạn với 443 người mới đến Hồng Kông bị cảnh sát Macao kéo ra biển khơi gặp
trận bão Hope chết không còn người nào. Nhưng người Việt vẫn tiếp tục ra đi.
Riêng tháng 5 và 6, năm 1979 đã có 110 ngàn người vượt biển. Bão tố, hải tặc và
các tàu viễn dương không cứu vớt đã làm cho số người đến các trại vào tháng 7
chỉ còn 22 ngàn người. Không những các tàu buôn dân sự làm ngơ mà ngay cả tàu
chiến của Mỹ trên Thái Bình Dương cũng không cứu thuyền nhân. Xót đau vì cùng
máu đỏ, da vàng, người Việt ở Mỹ và khắp nơi kéo về Hoa Thịnh Ðốn thắp nến cầu
nguyện trước Bạch Cung.
Nước mưa hòa
trong nước mắt nhỏ giọt xuống những ngọn nến lung linh. Những linh mục và những
thượng tọa đi lại đọc kinh suốt đêm. Từ cửa sổ trên lầu của Bạch Cung, Tổng
Thống Jimmy Carter đã nhìn thấy tất cả thảm kịch biển Ðông. Lòng người từ nhân
thúc dục - Lệnh từ Phủ Tổng Thống Hoa Kỳ được ban hành. Bộ An Sinh và Xã Hội sẽ
nhận cấp khoản Tỵ Nạn Việt Nam vào Mỹ từ 7 ngàn nay tăng lên 14 ngàn một tháng.
Bộ Quốc Phòng ra lệnh cho Ðệ Thất Hạm Đội dành riêng năm tuần dương hạm để cứu
vớt thuyền tỵ nạn. Tất cả các chiến hạm đều phải cứu thuyền nhân hoặc tiếp tế
rồi báo tin cho các con tàu trách nhiệm khác.
Bức hình gây
chấn động báo giới Hoa Kỳ với tựa đề “Lên tàu” do một thủy thủ chụp được trên
chiến hạm USS White Plan Tháng 7 năm 1979. Đấy là hình ảnh một người đàn ông
Việt Nam được vớt đang leo lên thang dây bên mạn tàu với tất cả hành trang của
gia đình trong túi vải cắn chặt trong miệng. Cuối năm 1979 tin tức về tàu Mỹ
vớt người tỵ nạn bay về Việt Nam, cả Sài Gòn lên cơn sốt. Nhà nhà vượt biển,
người người vượt biển. Ðó cũng là năm cuối cùng của thập niên 70 với người phụ
nữ có bầu cũng ra đi, sanh trên tàu Mỹ, đặt tên con theo tên tàu có khai sanh
công dân Hoa Kỳ do thuyền trưởng ký.
Tổng Thống Jimmy
Carter, còn đi xa hơn một bước nữa. Nhân dịp hội họp với Thủ Tướng Do Thái
Bergin, vị nguyên thủ Mỹ đã đưa ra vấn đề thuyền nhân Việt Nam. Thủ Tướng
Bergin nồng nhiệt đáp ứng: “Nước Do Thái đã có những kinh nghiệm riêng về vụ
việc này. Năm 1939, trước khi thế chiến đệ nhị bùng nổ, con tàu The St. Louis
chở 900 dân Do Thái trốn khỏi Ðức Quốc đã bị xua đuổi trên khắp mọi hải cảng.
Không một nước nào nhận. Ngày nay tuy chúng tôi là một nước nhỏ, mới lập quốc
nhưng sẵn sàng chào đón thuyền nhân Việt Nam”. Tháng 10 năm 1979, một tàu Do
Thái trên đường đi Nhật đã cứu được 60 thuyền nhân. Thuyền trưởng nói rằng các
bạn phải cảm ơn Carter. Tính đến nay, dù là quốc gia sống giữa vùng Trung Ðông
khói lửa sôi động, Do Thái cũng có cả ngàn thuyền nhân Việt Nam lập nghiệp.
Năm 1981, Tổng
Thống Carter mãn nhiệm kỳ, đến năm 1988 có một thuyền trưởng chiến hạm USS
Dubuque trên đường qua Trung Ðông đã gặp con tàu vượt biên ra đi từ Bến Tre với
110 người ngày 22 tháng 5-1988. Sau nhiều giông bão, gặp nhiều tàu đại dương
nhưng không được cứu, đến ngày thứ 19 gặp tàu chiến Mỹ thì thuyền nhân hoàn
toàn kiệt quệ. Hạm trưởng không hề biết lệnh của Tổng Thống Hoa Kỳ 8 năm về
trước nên ông chỉ tiếp tế nước và thực phẩm nhưng không vớt. Con thuyền Bến Tre
trôi dạt trên đại dương trước sau tổng cộng 37 ngày, chỉ còn sống 52 người sau
khi đã ăn thịt những người khác.
Tàu đánh cá Phi
cứu vớt con thuyền Bến Tre khốn khổ đưa về đảo Bolinao. Ông Hạm trưởng chiến
hạm USS Dubuque phải ra tòa quân sự của hải quân vì không làm tròn bổn phận.
Nạn nhân còn lại của thảm kịch Bolinao phải ra tòa làm nhân chứng. Tên hòn đảo
hoang trên Thái bình Dương với 52 người còn sống. Sống bằng thân xác của gia
quyến và đồng loại. Bolinao 52 chỉ là một trong hàng ngàn thảm kịch khác đã xảy
ra mà chúng ta không bao giờ biết hết. Nếu như không có một người như Jimmy
Carter vào những ngày cuối thập niên 70 niềm đau thương của biển Ðông còn chất
ngất đến chừng nào.
Phần Hai: Sống
là chiến đấu
I. Người Việt
Trên Thế Giới
Tính đến năm
1999, đã có khoảng 3 triệu người tị nạn từ các nước Việt, Lào và Cam Bốt, trong
đó có tới 1.75 triệu người Việt Nam bỏ nước thóat nạn cộng sản bằng đường bộ và
đường biển. Nhóm tỵ nạn này đã được định cư hầu hết ở các nước Tây Phương và Úc
Châu. Riêng chương trình United States East Asian Refugee Admissions Program
(Chương Trình Tiếp Nhận Tị Nạn Đông Á Của Hoa Kỳ) đã định cư hơn 1.4 triệu
người tị nạn của ba nước Đông Dương sau khi vùng này bỏ cộng sản chiếm đóng vào
năm 1975. Trong số người định cư theo chương trình kể trên có khoảng 900,000
người từ Việt Nam. Thập niên cuối thế kỷ 20, Cao Ủy Tỵ Nạn LHQ chính thức tuyên
bố đóng cửa Trại Tị Nạn Galang vào ngày 9 tháng 9 năm 1996. Tính chung, đảo này
đã đón nhận hơn 120,000 thuyền nhân Việt và Cam Bốt kể từ những năm 1970s.
Nhóm cuối cùng
486 người Việt rớt thanh lọc đã rời Trại Galang trong tháng 9, 1996. Từ đó, nhà
cầm quyền Nam Dương biến Đảo Galang thành một khu kỹ nghệ đặc biệt. Trang sử
thuyền nhân khép lại, mở sang trang mới về lần hình thành các Cộng Đồng Người
Việt Hải Ngoại, nơi lý tưởng Tự Do, Dân Chủ-Nhân Quyền được trân trọng gìn giữ,
củng cố bởi những định chế cính trị đại nghị dân chủ của các nước sở tại mà Mỹ,
Anh, Pháp, Gia Nã Đại, Đức, các nước Tây, Bắc Âu là những quốc gia tiêu biểu.
Để từ đây hy vọng sẽ có một ngày ngọn lửa Tự Do, Dân Chủ-Nhân Quyền được chuyển
về lại quê nhà. Bóng đen cộng sản sẽ cáo chung trên quê hương nước Việt.
Người Việt tỵ
nạn/Người nhập cư gốc Việt hiện có mặt tại 103 quốc gia đều đã được các chính
phủ sở tại cho phép cư ngụ, nhập cư dưới những hình thức khác nhau. Từ đấy Cộng
Đồng Người Việt Hải Ngoại hẳn nhiên nhận lãnh một nhiệm vụ cao thượng dẫu không
mấy cá nhân, tập thể cá nhân đặt nên những định chế, phát ngôn chính thức –
Nhiệm vụ đối với quốc gia đang cư ngụ, nhập cư và với quê nhà mà chắc hẳn luôn
là những nỗi niềm canh cánh âu lo. Mối lo lắng này rất cụ thể đối với thành
phần thế hệ thứ nhất - Thành phần Người Việt gánh chịu đủ khối nặng chiến tranh
và khổ nạn Việt Nam suốt hơn nửa thế kỷ qua, trước và sau 1975. Kể cả thế hệ 1+
½ và thế hệ Thứ Hai mà ngày ra khỏi nước đang độ tuổi ấu thiếu những cũng đã
phải chịu đủ dấu ấn khốc liệt của chế độ cộng sản đè nặng trên đường vượt biên
tìm sống qua lần chết. Nhưng Sống có nghĩa Sống trong Hiện Tại hướng về Tương
Lai. Chúng ta hãy nhìn lại đoạn đường mà ba, bốn thế hệ người Việt đã kinh qua
một cách rất bình thường với tính chất cao quý của Con Người/Người Việt Nam
trong suốt 40 năm 1975-2015.
Thống kê tổng
quát về tình trạng di dân thế giới vào đầu thập niên của Thế Kỷ 21 trên báo chí
tại Pháp nêu con số gần hơn 2.5 triệu người Việt Nam hiện đang sinh sống trên
gần chín mươi quốc gia. Lượng người đông nhất là ở vùng Bắc Mỹ, kế tiếp ở
Âu-Châu, sau cùng là ở Châu Đại-Dương và quanh vùng Đông Nam Á. Số người Việt
hiện đang ở Trung-Đông và Châu-Phi cũng lên tới con số ngàn. Ngoài ra còn có
một thành phần khác thuộc Cộng Đồng Người Việt ở nước ngoài là thành phần người
Việt ở các nước Đông Âu và ở Nga. Đây là những đối tượng ra khỏi nước trước
1975 với tư cách công dân của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Hà Nội), và sau 1975
đi theo diện xuất khẩu lao động, du học sinh của nhà nước cộng sản Việt Nam.
Thành phần này không là đối tượng của bài biên khảo vốn chỉ tập trung vào tập
thể người Việt miền Nam tỵ nạn cộng sản/Công dân Việt Nam Cộng Hòa rời khỏi
nước sau 30 tháng 4, 1975.
I-1. Người Việt
tại Mỹ
Người Mỹ gốc
Việt là người có quốc tịch Mỹ với nguồn gốc khai sinh dân tộc Việt Nam. Lượng
người này chiếm hơn một nửa của tổng số người Việt hải ngoại, và là cộng đồng
lớn thứ tư của nhóm người Mỹ gốc Á Châu sau các cộng đồng người Mỹ gốc Hoa, gốc
Ấn, và người Mỹ gốc Phi Luật Tân. Theo Điều Tra Dân Số năm 2010 (Census 2010)
thì tổng số người Việt gốc Mỹ được nêu chính xác là 1,548,449 nếu tính về mặt
chủng tộc Việt thuần túy, hoặc 1,737,433 nếu bao gồm những chủng tộc người khác
đã sinh sống trên lãnh thổ việt Nam trước khi đến Mỹ.
Người Việt di cư
đến Hoa Kỳ với số lượng đông kể từ sau biến cố 30 Tháng 4, 1975 là đợt người tỵ
nạn cộng sản từ miền Nam Việt Nam được chính phủ Hoa Kỳ di tản. Tiếp theo là
những thuyền nhân trong thập niên 70, 80 như phần 1 đã trình bày được cộng đồng
quốc tế cứu vớt. Tiếp theo trong thập niên 90 là khối người Việt nhập cư vào
Hoa Kỳ qua Chương Trình Đoàn Tụ Gia Đình của kế hoạch Ra đi Có Trật Tự (ODP )
bao gồm Chương Trình HO và diện con lai. Bắt đầu từ hai bàn tay trắng, Nười Mỹ
gốc Việt với một nghị lực và khả năng sinh động mạnh mẽ đã hòa nhập vào xã hội
Hoa Kỳ để trở thành một cộng đồng dân tộc thiểu số đáng kể tại quốc gia này
trong một thời hạn ngắn nhất.
Lịch sử của
người Mỹ gốc Việt chỉ mới diễn ra gần đây trong khoảng hai ba chục năm trở lại.
Tính tới năm 2012, số người Việt nhập cư vào Mỹ chiếm 3% của tổng số người nhập
cư từ nhiều quốc gia. Số người Việt di cư vào Mỹ năm 1980 là khoảng 231,000 đã
tăng tới hơn 1.5 triệu vào năm 2012, như thế tổng số người Mỹ gốc Việt đã trở
thành số lượng dân nhập đứng hạng 6 ở Hoa Kỳ, và hạng 4 so với các sắc dân từ Á
Châu khác như trên đã nêu.
Theo nghiên cứu
năm 2008 của Học Viện Manhattan, người Mỹ gốc Việt là một trong những nhóm
người nhập cư ở Mỹ có chỉ số hội nhập cao nhất so với các sắc dân thiểu số
khác. Là một cộng đồng gồm phần lớn là những người tị nạn chính trị cộng sản
nên hầu hết đồng có quan điểm chống cộng mãnh liệt, việc trở lại Việt Nam là
một điều bất khả thi. Từ nền tảng chính trị này, quá trình tham gia vào các
sinh hoạt chính trị tại Hoa Kỳ (chống chế độ độc tài trong nước ) đã được thực
hiện với tỷ lệ rất cao. Trong một cuộc thăm dò ý kiến của báo Orange County
Register năm 2000 thì có đến 71% người trả lời là công cuộc việc đấu tranh
chống cộng sản là “ưu tiên hàng đầu” hay “rất quan trọng”; và 77% người được
hỏi đồng có ý kiến coi trọng việc thúc đẩy nhà nước cộng sản Việt Nam phải cải
thiện chính sách nhân quyền.
Từ nền tảng
chính trị này, Cộng Đồng Người Mỹ gốc Việt thường xuyên tổ chức biểu tình chống
nhà nước cộng sản Hà Nội, lên án tình trạng vi phạm nhân quyền tại Việt Nam,
đồng thời biểu hiện sự chống đối với những cá nhân hay đoàn thể có khuynh hướng
thỏa hiệp với phe cầm quyền ở trong nước. Dẫu rằng hằng có những tỵ hiềm, chia
rẻ giữa các nhóm người Việt nhưng cuối cùng tất cả đã đoàn kết quanh vấn đề
lớn: Bảo vệ Chủ Quyền Việt Nam qua sự kiện nhà nước Trung Cộng chiếm đóng Hoàng
-Trường Sa và gần nhất là vụ việc Bắc Kinh hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981
trong vùng lãnh hải Việt Nam (Tháng 5, 2014).
Điển hình của
tinh thần chống cộng quyết liệt kể trên, vào năm 1999, một cuộc biểu tình lớn
đã được tổ chức tại Thành Phố Westminster, Nam California nhằm phản đối Trần
Trường khi người này treo cờ Đỏ Sao Vàng và bức hình Hồ Chí Minh trong cửa hàng
của anh ta. Số người biểu tình lên đến hơn 30,000 người kéo dài đến 53 ngày là
một biểu hiện dẫu còn nhiều điều tranh cải, nhưng hiển nhiên đã minh chứng:
Cộng Đồng Người Việt Hải Ngoại không hề chấp nhận chế độ cộng sản Việt Nam dưới
bất cứ hình thức, biểu hiện nào cho dù bao lâu sau ngày 30 tháng 4, 1975 cho dù
bao xa đất nước.
Cần phải nhắc
lại sự kiện đáng tự hào... Đầu năm 2012, hơn 150,000 người Mỹ gốc Việt đã tham
gia một chiến dịch ký Thỉnh Nguyện Thư hiện thực cuộc vận động nhân quyền lớn
nhất từ trước đến nay của cộng đồng người Việt hải ngoại. Sự kiện đã khiến
chính phủ Hoa Kỳ đã phái Thứ Trưởng Ngoại Giao, đặc trách về Nhân Quyền là
Michael Posner mở cuộc tiếp xúc với 165 người đại diện CĐNV ở khắp nơi trong
ngày ngày 5 Tháng 3, 2012 đồng thời cam kết sẽ tiếp tục đưa vấn đề nhân quyền
trong vòng đối thoại với nhà nước cộng sản Việt Nam. Cuộc vận động này cũng bao
gồm các cộng đồng nạn nhân cộng sản khác như cộng đồng người H’mong ở Minnesota,
người Tây Tạng lưu vong...
Song song với
những sự kiện đặc thù kể trên, Cộng Đồng Người Việt ở Mỹ thuộc nhiều tiểu bang
đã vận động, xây dựng thành công nên Chiến Dịch Cờ Vàng. Công cuộc đã có kết
quả nên một số thành phố và tiểu bang đã ban hành nghị quyết xử dụng Cờ Vàng Ba
Sọc Đỏ của Việt Nam Cộng Hòa làm biểu tượng đại diện cho Cộng Đồng Người Việt
tại các địa phương. Đi đầu trong công cuộc vận động có ý nghĩa chính trị to lớn
này là trong Tháng 8/2006, chính quyền hai Tiểu Bang California và Ohio đã thông
qua Đạo Luận Công Nhận Cờ Vàng của VNCH. Dạo luật đã khiến nhà nước Hà Nội cố
tìm cách phản đối nhưng tất cả không đưa đến một kết quả nào. Chiến Dịch Cờ
Vàng hiện nay lan rộng qua nhiều thành phố và tiểu bang khác trên nước Mỹ. Hóa
ra sau gần 40 đoạt chiếm miền Nam, lá cờ Đỏ Sao Vàng chỉ được treo tại các cơ
quan nhà nước cộng sản mà thôi.
Phan Nhật Nam
No comments:
Post a Comment