Đã quá
nửa đêm về sáng. Nhìn Mai ngon giấc ngủ thần tiên như "bé Nam" ngày đầu
tới Mỹ, tôi ngồi im lặng bên bàn viết, đợi chờ sớm mai để được nhìn bình
minh bừng sáng Phương Đông, được nhìn Mai thức dậy, mỉm cười, âu yếm
nhìn chồng.
Cuộc sống an vui. Ngót 20 năm rồi, không biết khóc, đêm nay tôi nhỏ từng dòng lệ, xúc động, bùi ngùi.
Tôi đang sống và đang viết Bài Tình Ca của Một Người Tị Nạn.
Tôi đang sống và đang viết Bài Tình Ca của Một Người Tị Nạn.
Với bút hiệu tựdo ‒ chữ thường, viết liền ‒ ông Nguyễn Văn Luận là tác giả bài “Người tìm tự do và tượng thần tự do” đã được bình chọn trúng giải chính thức trong giải sơ kết 3 tháng Giải Thưởng Việt Báo Viết Về Nước Mỹ. Tác giả sinh năm 1937, hiện cư ngụ tại Worcester, Massachusetts. Sau đây là bài viết mới nhất của ông.
tự do
Ông Hòa là cựu sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa, bị Cộng sản bắt đi tù năm 1975, sang Mỹ theo diện HO. Tôi gặp ông tại một tiệc cưới, trở thành bạn, thường gặp nhau bởi cùng sở thích, nói chuyện văn chương, thời thế, dù trong quá khứ ông sống tại miền Nam, tôi ở xứ Bắc.
Một lần tới thăm, cháu Thu Lan, con ông Hòa, hỏi tôi, “Bác ở Hà Nội mà cũng đi tị nạn à...?”
Nghe hỏi tự nhiên nên tôi chỉ cười, “Cái cột đèn mà biết đi, nó cũng đi, ...nữa là bác!”
Thực ra
tôi đã không trốn thoát được từ lần đầu “vượt tuyến” vào miền Nam. Rồi
thêm nhiều lần nữa và 2 lần “vượt biển”, vẫn không thoát. Chịu đủ các
“nạn” của chế độ cộng sản trong 27 năm ở lại miền Bắc, tôi không tị nạn,
mà đi tìm Tự Do, trở thành thuyền nhân, đến nước Mỹ năm 1982.
Sinh
trưởng tại Hà Nội, những năm đầu sống ở Mỹ, tôi đã gặp nhiều câu hỏi như
cháu Thu Lan, có người vì tò mò, có người giễu cợt . Thời gian rồi cũng
hiểu nhau.
Tôi hằng
suy nghĩ và muốn viết những giòng hồi tưởng, vẽ lại bức tranh Hà Nội
xưa, tặng thế hệ trẻ, và riêng cho những người Hà Nội di cư.
Người
dân sống ở miền Nam trù phú, kể cả hàng triệu người di cư từ miền Bắc,
đã không biết được những gì xảy ra tại Hà Nội, thời người cộng sản chưa
vận com-lê, đeo cà-vạt, phụ nữ không mặc áo dài.
Hiệp định Geneva chia đôi nước Việt. Cộng sản, chưa lộ mặt là Cộng sản, tràn vào miền Bắc tháng 10 năm 1954. Người Hà Nội đã “di cư” vào miền Nam, bỏ lại Hà Nội hoang vắng, tiêu điều, với chính quyền mới là Việt Minh, đọc tắt lại thành Vẹm. Vì chưa trưởng thành, tôi đã không hiểu thế nào là ...Vẹm!
Hiệp định Geneva chia đôi nước Việt. Cộng sản, chưa lộ mặt là Cộng sản, tràn vào miền Bắc tháng 10 năm 1954. Người Hà Nội đã “di cư” vào miền Nam, bỏ lại Hà Nội hoang vắng, tiêu điều, với chính quyền mới là Việt Minh, đọc tắt lại thành Vẹm. Vì chưa trưởng thành, tôi đã không hiểu thế nào là ...Vẹm!
Khi họ tiếp quản Hà Nội, tôi đang ở Hải phòng. Dân đông nghịt thành phố, chờ tầu há mồm để di cư.
Trước Nhà Hát Lớn, vali, hòm gỗ, bao gói xếp la liệt. Lang thang chợ trời, tôi chờ cha tôi quyết định đi Nam hay ở lại. Hiệp định Geneva ghi nước Việt Nam chỉ tạm thời chia cắt, hai năm sau sẽ “Tổng tuyển cử” thống nhất. Ai ngờ cộng sản miền Bắc “tổng tấn công” miền Nam!
Trước Nhà Hát Lớn, vali, hòm gỗ, bao gói xếp la liệt. Lang thang chợ trời, tôi chờ cha tôi quyết định đi Nam hay ở lại. Hiệp định Geneva ghi nước Việt Nam chỉ tạm thời chia cắt, hai năm sau sẽ “Tổng tuyển cử” thống nhất. Ai ngờ cộng sản miền Bắc “tổng tấn công” miền Nam!
Gia đình
lớn của tôi, không ai làm cho Pháp, cũng không ai theo Việt Minh. Cha
tôi làm chủ một hãng thầu, nghĩ đơn giản là dân thường nên ở lại. Tôi
phải về Hà Nội học.
Chuyến
xe lửa Hà Nội “tăng bo” tại ga Phạm Xá, nghĩa là hai chính quyền, hai
chế độ, ngăn cách bởi một đoạn đường vài trăm mét, phải đi bộ hoặc xe
ngựa. Người xuống Hải phòng ùn ùn với hành lý để đi Nam, người đi Hà Nội
là con buôn, mang xăng về bán. Những toa tầu chật cứng người và chất
cháy, từ chai lọ đến can chứa nhà binh, leo lên nóc tầu, bíu vào thành
toa, liều lĩnh, hỗn loạn ...
Tới cầu Long Biên tức là vào Hà Nội. Tầu lắc lư, người va chạm người. Thằng bé ù chạc 15 tuổi, quắc mắt nhìn tôi, “Ðề nghị đồng chí xác định lại thái độ, lập trường tư tưởng!” Tôi
bàng hoàng vì thứ ngoại ngữ Trung quốc, phiên âm thành tiếng Việt, nghe
lần đầu không hiểu, để rồi phải “học tập” suốt 20 năm, “ngoại ngữ cộng
sản”: đấu tranh, cảnh giác, căm thù và ... tiêu diệt giai cấp! (Thứ ngôn
ngữ này ghi trong ngoặc kép).
Hà Nội
im lìm trong tiết đông lạnh giá, người Hà Nội e dè nghe ngóng từng
“chính sách” mới ban hành. “Cán bộ” và “bộ đội” chỉ khác nhau có ngôi
sao trên mũ bằng nan tre, phủ lớp vải mầu cỏ úa, gọi là “mũ bộ đội”, sau
này có tên là “nón cối”. Hà Nội “xuất hiện” đôi dép “Bình Trị Thiên”,
người Bắc gọi là “dép lốp”, ghi vào lịch sử thành “dép râu”. Chiếc áo
dài duyên dáng, thướt tha của thiếu nữ Hà Nội được coi là “biểu hiện”
của “tư sản, phong kiến”, biến mất trong mười mấy năm sau, vì “triệt để
cách mạng”. Lần đầu tiên, “toàn thể chị em phụ nữ” đều mặc giống nhau:
áo “sơ mi”, quần đen. Hãn hữu, như đám cưới mới mặc sơ mi trắng vì “cả
nước” không có xà phòng.
Chơi vơi
trong Hà Nội, tôi đi tìm thầy xưa, bạn cũ, hầu hết đã đi Nam. Tôi phải
học năm cuối cùng, Tú tài 2, cùng một số “lớp Chín hậu phương”, năm sau
sẽ sát nhập thành “hệ mười năm”. Số học sinh “lớp Chín” này vào lớp
không phải để học, mà là “tổ chức Hiệu đoàn”, nhận “chỉ thị của Thành
đoàn” rồi “phát động phong trào chống văn hóa nô dịch!” Họ truy lùng...
đốt sách! Tôi đã phải nhồi nhét đầy ba bao tải, Hiệu đoàn “kiểm tra”,
lục lọi, từ quyển vở chép thơ, nhạc, đến tiểu thuyết và sách quý, mang
“tập trung” tại Thư viện phố Tràng Thi, để đốt. Lửa cháy bập bùng mấy
ngày, trong niềm “phấn khởi”, lời hô khẩu hiệu “quyết tâm”, và “phát
biểu của bí
thư Thành đoàn”: tiểu thuyết của Tự Lực Văn Ðoàn là ... “cực kỳ phản
động!” Vào lớp học với những “phê bình, kiểm thảo...cảnh giác, lập
trường”, tôi đành bỏ học. Chiếc radio Philip, “tự nguyện “ mang ra “đồn
công an”, thế là hết, gia tài của tôi!
Mất đời
học sinh, tôi bắt đầu cuộc sống đọa đày vì “thành phần giai cấp”, “sổ hộ
khẩu”, “tem, phiếu thực phẩm”, “lao động nghĩa vụ hàng tháng”. Ðây là
chính sách dồn ép thanh niên Hà Nội đi “lao động công trường”, miền rừng
núi xa xôi. Tôi chỉ bám Hà Nội được 2 năm là bị “cắt hộ khẩu”, ...đi
tù!
Tết đầu
tiên sau “tiếp quản”, còn được gọi là “sau hòa bình lập lại”, Hà Nội mơ
hồ. Những bộ mặt vàng võ, áo quần nhầu nát, xám xịt, thái độ “ít cởi
mở”, từ “nông thôn” kéo về tiếp quản chiếm nhà người Hà Nội di cư. Người
Hà Nội ở lại bắt đầu hoang mang vì những tin dồn và “chỉ thị”: ăn Tết
“đơn giản, tiết kiệm”. Hàng hóa hiếm dần, “hàng nội” thay cho “hàng
ngoại”.
Âm thầm,
tôi dạo bước bên bờ Hồ Gươm, tối 30 Tết. Tháp Rùa, Cầu Thê Húc nhạt
nhòa, ảm đạm, đền Ngọc Sơn vắng lặng. Chỉ có Nhà Thủy Tạ, đêm nay có ca
nhạc, lần cuối cùng của nghệ sĩ Hà Nội. Ðoàn Chuẩn nhớ thương hát “Gửi
người em gái miền Nam”, để rồi bị đấu tố là phong cách tiểu tư sản, rạp
xinê Ðại Ðồng phố Hàng Cót bị “tịch thu”. Hoàng Giác ca bài “Bóng ngày
qua”, bị kết tội thành “tề ngụy”, hiệu đàn nhỏ phố Cầu Gỗ phải dẹp, vào
tổ đan mũ nan, làn mây, sống “tiêu cực” hết đời trong đói nghèo, khốn
khổ. Danh ca Minh Ðỗ, Ngọc Bảo, nhạc sĩ Tạ Tấn, sau này làm gì, sống ra
sao, “phân tán”, chẳng ai còn dám gặp nhau, sợ thành “phản động tụ
tập”.
“Chỉ thị
Ðảng và Ủy ban Thành” “phổ biến rộng rãi trong quần chúng” là diệt chó.
“Toàn dân diệt chó”, từ thành thị đến “nông thôn”. Gậy gộc, giây thừng,
đòn gánh, nện chết hoặc bắt trói, rồi đầu làng, góc phố “liên hoan tập
thể”. Lý do giết chó, nói là trừ bệnh chó dại, nhưng đó là “chủ trương”,
chuẩn bị cho đấu tố “cải tạo tư sản” và “cải cách ruộng đất”. Du kích,
công an rình mò, “theo dõi”, “nắm vững tình hình” không bị lộ bởi chó
sủa. Mọi nơi im phăng phắc ban đêm, mọi người nín thở đợi chờ thảm họa.
Hà Nội đói và rách, khoai sắn chiếm 2 phần tem gạo, 3 mét vải “cung cấp” một năm theo “từng người trong hộ”. Mẹ may thêm chiếc quần “đi lao động “ thì con nít cởi truồng. Người thành thị, làm cật lực, xây dựng cơ ngơi, có ai ngờ bị quy là “tư sản bóc lột”? nhẹ hơn là “tiểu tư sản”, vẫn là “đối tượng của cách mạng”.
Hà Nội đói và rách, khoai sắn chiếm 2 phần tem gạo, 3 mét vải “cung cấp” một năm theo “từng người trong hộ”. Mẹ may thêm chiếc quần “đi lao động “ thì con nít cởi truồng. Người thành thị, làm cật lực, xây dựng cơ ngơi, có ai ngờ bị quy là “tư sản bóc lột”? nhẹ hơn là “tiểu tư sản”, vẫn là “đối tượng của cách mạng”.
Nông dân
có dăm sào ruộng đất gia truyền vẫn bị quy là “địa chủ bóc lột, cường
hào ác bá ”! Giáo sư Trương văn Minh, hiệu trưởng trường Tây Sơn, ngày
đầu “học tập”, đã nhẩy lầu, tự tử.
“Tư sản
Hà Nội” di cư vào Nam hết , chẳng còn bao nhiêu nên “công tác cải tạo
được làm “gọn nhẹ” và “thành công vượt mức”, nghĩa là mang bắn một, hai
người “điển hình”, coi là “bọn đầu xỏ” “đầu cơ tích trữ”, còn thì “kiểm
kê”, đánh “thuế hàng hóa”, “truy thu”, rồi “tịch thu” vì “ngoan cố,
chống lại cách mạng!”
Báo, đài
hàng ngày tường thuật chuyện đấu tố, kể tội ác địa chủ, theo bài bản
của “đội cải cách” về làng, “bắt rễ” “bần cố nông”, “chuẩn bị thật tốt”,
nghĩa là bắt học thuộc lòng “từng điểm”: tội ác địa chủ thì phải có
hiếp dâm, đánh đập, bắt con ở đợ, “điển hình” thì mang thai nhi cho vào
cối giã, nấu cho lợn ăn, đánh chết tá điền, hiếp vợ sặc máu ...! Một vài
vụ, do “Ðảng lãnh đạo”, “vận động tốt”, con gái, con dâu địa chủ,
“thoát ly giai cấp”, “tích cực” “tố cáo tội ác” của cha mẹ . Cảnh tượng
này thật não nùng! Lời Bác dạy suốt mấy mươi năm: “Trung với Ðảng, hiếu
với dân ...” là vậy!
“Bần cố
nông” cắm biển nhận ruộng được chia, chưa cấy xong hai vụ thì phải “vào
hợp tác”, “làm ăn tập thể”, ruộng đất lại thu hồi về “cộng sản”.
“Toàn
miền Bắc” biết được điều “cơ bản” về Xã hội chủ nghĩa là... nói dối! Mọi
người, mọi nhà “thi đua nói dối”, nói những gì Ðảng nói. Nói dối để
sống còn, tránh bị “đàn áp”, lâu rồi thành “nếp sống”, cả một thế hệ
hoặc lặng câm, hoặc nói dối, vì được “rèn luyện” trong xã hội ngục tù,
lấy “công an” làm “nòng cốt” chế độ.
Ở Mỹ, ai
hỏi bạn: “How are you?”, bạn trả lời: “I’m fine, thank you”. Ở miền
Bắc, thời đại Hồ chí Minh, “cán bộ” hỏi: “công tác” thế nào? Dù làm nghề
bơm xe, vá lốp, người ta trả lời, “...rất phấn khởi, ra sức thi đua,
lập thành tích chào mừng... các nước anh em!”
Bị bắt
bên bờ sông Bến Hải, giới tuyến chia hai miền Nam Bắc, năm 19 tuổi, tôi
bị “bộ đội biên phòng”giong về Lệ Thủy, được “tự do” ở trong nhà chị “du
kích” hai ngày, đợi đò về Ðồng Hới. Trải 9 trại giam nữa thì về tới Hỏa
Lò Hà Nội, vào xà lim. Cảnh tù tội chẳng có gì tươi đẹp, xã hội cũng là
một nhà tù, không như báo, đài hằng ngày kêu to “Chế độ ta tươi đẹp”.
Cơ hàn
thiết thân, bất cố liêm sỉ, người tù “biến chất”, người tứ chiến kéo về,
nhận là người Hà Nội, đói rét triền miên nên cũng “biến chất”! Ðối xử
lọc lừa, gia đình, bè bạn, họ hàng, “tiếp xúc” với nhau phải “luôn luôn
cảnh giác”. Hà Nội đã mất nền lễ giáo cổ xưa, Hà Nội suy xụp tinh thần
vì danh từ “đồng chí”!
Nằm trong xà lim, không có ngày đêm, giờ giấc, nghe tiếng động mà suy đoán “tình hình”. Ánh điện tù mù chiếu ô cửa sổ nhỏ song sắt, cao quá đầu, tôi đứng trên xà lim, dùng ngón tay vẽ chữ lên tường, “liên lạc” được với Thụy An ở xà lim phía trước.
Nằm trong xà lim, không có ngày đêm, giờ giấc, nghe tiếng động mà suy đoán “tình hình”. Ánh điện tù mù chiếu ô cửa sổ nhỏ song sắt, cao quá đầu, tôi đứng trên xà lim, dùng ngón tay vẽ chữ lên tường, “liên lạc” được với Thụy An ở xà lim phía trước.
Thụy An
là người Hà Nội ở lại, “tham gia hoạt động “Nhân Văn Giai Phẩm, đòi tự
do cho văn nghệ sĩ, sau chuyển lên rừng, không có ngày về Hà Nội. Bà
phẩn uất, đã dùng đũa tre chọc mù một mắt, nói câu khí phách truyền
tụng: “Chế độ này chỉ đáng nhìn bằng nửa con mắt!”
Người du
lịch Việt Nam, ít có ai lên vùng thượng du xứ Bắc, tỉnh Lào Cai, có
trại tù Phong Quang hà khắc, có thung lũng sâu heo hút, có tù chính trị
chặt tre vầu theo “định mức chỉ tiêu”. Rừng núi bao la, tiếng chim “bắt
cô trói cột”, nấc lên nức nở, tiếng gà gô, thức giấc, sương mù quanh
năm.
Phố Hàng
Ðào Hà Nội, vốn là “con đường tư sản”, có người trai trẻ tên Kim, học
sinh Albert Sarraut. Học trường Tây thì phải chịu sự “căm thù đế quốc”
của Ðảng, “đế quốc Pháp” trước kia và “đế quốc Mỹ” sau này. Tù chính trị
nhốt lẫn với lưu manh, chưa đủ một năm, Kim Hàng Ðào “bất mãn” trở
thành Kim Cụt, bị chặt đứt cánh tay đến vai, không thuốc, không “nhà
thương” mà vẫn không chết.
Phố
Nguyễn công Trứ gần Nhà Rượu, phía Nam Hà Nội, người thanh niên đẹp
trai, có biệt danh Phan Sữa, giỏi đàn guitar, mê nhạc Ðoàn Chuẩn, đi tù
Phong Quang vì “lãng mạn tiểu tư sản”. Không hành lý nhưng vẫn ôm theo
cây đàn guitar. Chỉ vì “tiểu tư sản”, không “tiến bộ”, không có ngày
về...! Ba tháng “kỷ luật”, Phan Sữa hấp hối, khiêng ra khỏi Cổng Trời
cao vút, gió núi mây ngàn, thì tiêu tan giấc mơ Tình nghệ sĩ!
Người
già Hà Nội chết dần, thế hệ thứ hai, “xung phong”, “tình nguyện” hoặc bị
“tập trung” xa rời Hà Nội. Bộ công an “quyết tâm quét sạch tàn dư đế
quốc, phản động”, nên chỉ còn người Hà Nội từ “kháng chiến” về, “nhất
trí tán thành” những gì Ðảng ... nói dối!
Tôi may
mắn sống sót, dù mang lý lịch “bôi đen chế độ”, “âm mưu lật đổ chính
quyền”, trở thành người “Hà Nội di cư”, 10 năm về Hà Nội đôi lần, khó
khăn vì “trình báo hộ khẩu”, “tạm trú tạm vắng”. “Kinh nghiệm bản thân”,
“phấn đấu vượt qua bao khó khăn, gian khổ”, số lần tù đã quên trong trí
nhớ, tôi sống tại Hải phòng, vùng biển.
Hải
phòng là cơ hội “ngàn năm một thuở” cho người Hà Nội “vượt biên” khi
chính quyền Hà Nội chống Tầu, xua đuổi “người Hoa” ra biển, khi nước Mỹ
và thế giới đón nhận “thuyền nhân” tị nạn.
Năm
1980, tôi vào Sài Gòn, thành phố đã mất tên sau “ngày giải phóng miền
Nam”. Vào Nam, tuy phải lén lút mà đi, nhưng vẫn còn dễ hơn “di chuyển”
trong các tỉnh miền Bắc trước đây. Tôi bước trên đường Tự Do, hưởng chút
dư hương của Sài gòn cũ, cảnh tượng rồi cũng đổi thay như Hà Nội đã đổi
thay sau 1954 vì “cán ngố” cai trị.
Dân
chúng miền Nam “vượt biển” ào ạt, nghe nói dễ hơn nên tôi vào Sài Gòn,
tìm manh mối. Gặp cha mẹ ca sĩ Thanh Lan tại nhà, đường Hồ Xuân Hương,
gặp cựu sĩ quan Cộng Hòa, anh Minh, anh Ngọc, đường Trần Quốc Toản, tù
từ miền Bắc trở về. Ðường ra biển tính theo “cây”, bảy, tám cây mà dễ bị
lừa. Chị Thanh Chi (mẹ Thanh Lan) nhìn “nón cối” “ngụy trang” của tôi,
mỉm cười: “Trông anh như cán ngố, mà chẳng ngố chút nào!”
“Hà Nội, trí thức thời Tây, chứ bộ...!. Cả nước Việt Nam, ai cũng sẽ trở thành diễn viên, kịch sĩ giỏi!”
Về lại Hải Phòng với “giấy giới thiệu” của “Sở giao thông” do “móc ngoặc” với “cán bộ miền Nam” ở Saigòn, tôi đã tìm ra “biện pháp tốt nhất” là những dân chài miền Bắc vùng ven biển. Ðã đến lúc câu truyền tụng “Nếu cái cột điện mà biết đi....”, dân Bắc “thấm nhuần” nên “nỗ lực” vượt biên.
Về lại Hải Phòng với “giấy giới thiệu” của “Sở giao thông” do “móc ngoặc” với “cán bộ miền Nam” ở Saigòn, tôi đã tìm ra “biện pháp tốt nhất” là những dân chài miền Bắc vùng ven biển. Ðã đến lúc câu truyền tụng “Nếu cái cột điện mà biết đi....”, dân Bắc “thấm nhuần” nên “nỗ lực” vượt biên.
Năm bốn
mươi tư tuổi, tôi tìm được Tự Do, định cư tại Mỹ, học tiếng Anh ngày
càng khá, nhưng nói tiếng Việt với đồng hương, vẫn còn pha chút “ngoại
ngữ Việt cộng” năm xưa.
Cuộc
sống của tôi ở Việt Nam đã đến “mức độ” khốn cùng, nên tan nát, thương
đau. Khi đã lang thang “đầu đường xó chợ” thì mới đủ “tiêu chuẩn” “xuống
thành phần”, lý lịch có thể ghi là “dân nghèo thành thị”, nhưng vẫn
không bao giờ được vào “công nhân biên chế nhà nước”. Tôi mang nhẫn
nhục, “kiên trì” sang Mỹ, làm lại cuộc đời nên “đạt kết quả vô cùng tốt
đẹp”, “đạt được nguyện vọng” hằng ước mơ!
Có người “kêu ca” về “chế độ tư bản” Mỹ tạo nên cuộc sống lo âu, tất bật hàng ngày, thì xin “thông cảm” với tôi, ngợi ca nước Mỹ đã cho tôi nhân quyền, dân chủ, trở thành công dân Hoa kỳ gốc Việt, hưởng đầy đủ “phúc lợi xã hội”, còn đẹp hơn tả trong sách Mác Lê về giấc mơ Cộng sản.
Có người “kêu ca” về “chế độ tư bản” Mỹ tạo nên cuộc sống lo âu, tất bật hàng ngày, thì xin “thông cảm” với tôi, ngợi ca nước Mỹ đã cho tôi nhân quyền, dân chủ, trở thành công dân Hoa kỳ gốc Việt, hưởng đầy đủ “phúc lợi xã hội”, còn đẹp hơn tả trong sách Mác Lê về giấc mơ Cộng sản.
Chủ
nghĩa cộng sản sụp đổ rồi. Cộng sản Việt Nam bây giờ “đổi mới”. Tiếng
“đổi” và “đổ” chỉ khác một chữ “i”. Người Việt Nam sẽ cắt đứt chữ “i”,
dù phải từ từ, bằng “diễn biến hòa bình”. Chế độ Việt cộng “nhất định
phải đổ”, đó là “quy luật tất yếu của lịch sử nhân loại”.
Ôi! “đỉnh cao trí tuệ”, một mớ danh từ ...!
------------------------------------------------------Người Tìm Tự Do và Tượng Thần Tự Do
Tôi đến New York năm 1986, vào dịp kỷ niệm 100 năm tượng thần Tự Do uy nghi, kiêu hãnh trên hòn đảo Tự Do (Liberty Island) của nước Mỹ.
Khu
Mahattan với những tòa nhà chọc trời, ngước mắt trông lên, cảm thấy mình
nhỏ bé. Khách du lịch ngỡ ngàng nhìn ngó khắp nơi, thán phục nước Mỹ
tự do có tượng thần Tự Do.
Theo
dòng người, tôi bắt đầu từ Battery Park, quẹo vào Castle Clinton, xưa là
pháo đài chống quân Anh, nay là nơi bán vé ferry (phà).
Qua cửa
Castle là ra bờ biển đợi phà. Xa xa, nhìn thấy tượng thần giơ cao ngọn
đuốc Tự Do trên làn sóng nhấp nhô của Đại Tây Dương bát ngát.
Tượng
thần Tự Do là thần tượng của di dân tứ xứ, người mất tự do trên trái đất
này tìm tới nước Mỹ tị nạn. Ai cũng biết tượng thần Tự Do với tên
Statue of Liberty, dễ nhớ, không dài như tên nguyên thủy là Liberty
Enlighting the World.
Thời
gian chờ đợi xuống phà, đây đó vài người thầm lặng suy tư. Đó là những
người mới tới Mỹ. Ngồi bên gốc cây, gió hiu hiu, xào xạc lá, tôi nhìn
ra đại dương bao la nhớ lại mảnh đời dĩ vãng.
*
Tôi lớn lên tại Hànội, được ăn học đầy đủ trước khi khôn lớn. Năm 14 tuổi, tôi học trường Văn Hóa, ngôi trường định mệnh, sát Hỏa Lò, góc phố Hàng Bông Thợ Nhuộm. Thầy dạy Anh văn, ông Nguyễn Khang, có dáng tài tử xi nê hơn là thầy giáo, ngoài dạy học còn làm ở phòng Thông tin Mỹ, phố Tràng Tiền.
Năm 1953, phó tổng thống Mỹ Richard Nixon sang thăm Hànội, đã đến thăm trường tôi do thầy Khang mời.
Ngồi bàn
đầu và là học sinh giỏi, thầy bảo tôi đại diện lớp. Sau khi bắt tay
trả lời ông Nixon "I am fine, thank you", thầy vui, ông Nixon hài lòng,
tôi được nhận quà tặng là một post card tượng thần Tự Do. Sau này vì
tấm post card, tôi bị vào xà lim số 8 Hỏa Lò Hànội, dù chẳng ai biết ông
Nixon đã tặng tôi.
Tôi đã tìm được tự do sau 28 năm đọa đày từ khi đất nước chia đôi, khi bức màn tre che kín miền Bắc, tăm tối âm u.
Tôi đã tìm được tự do sau 28 năm đọa đày từ khi đất nước chia đôi, khi bức màn tre che kín miền Bắc, tăm tối âm u.
Cha tôi
làm chủ một hãng thầu tại Hải phòng trong khi gia đình vẫn ở Hà Nội. Khi
người lính quốc gia cuối cùng rút sang bên kia bờ Bến Hải, cha tôi và
gia đình kẹt lại do không hiểu gì về cộng sản và tài sản, cơ ngơi còn
đó.
Đỗ Mười
về tiếp thu Hải phòng nói rằng các nhà tư sản vẫn được làm ăn bình
thường. Một tháng sau, cha tôi bị tịch thu tài sản. Trở về Hànội,
trắng tay, cả nhà sống trong túp lều ở ngoại ô, cha tôi đi đánh giậm,
vớt tôm tép trong các ao hồ, rau cháo nuôi vợ con.
Đấu tố,
cải tạo, chửi rủa, cha tôi ngày một tiều tụy hơn những người tiều tụy bị
qui là tư sản còn lại trong thành phố. Lời trăn trối khi cha tôi khi
nằm xuống là "Cha đã bị lừa, con hãy tìm đường vào miền Nam tự do".
17 tuổi
tôi đi tìm tự do, bị bắt. Chiếc thuyền vượt tuyến giạt vào bờ bắc vĩ
tuyến 17. Trải qua 11 trại giam, tôi bị giong về Hỏa Lò Hà Nội, trong
xà lim số 8, mỗi xà lim giam một người. Văn nghệ sĩ Nhân Văn-Giai Phẩm
chật cứng 4 dãy xà lim.
Biệt giam, tra hỏi, ép cung, làm sao tôi trả lời được những câu hỏi về chính trị lúc tôi còn nhỏ!
Từ trường học sang Hoả Lò, tôi chỉ còn nung nấu trong đầu hai tiếng Tự Do. Tôi sẽ đi tìm Tự Do suốt cuộc đời này! Từ đó tôi mang cái "mác": Trốn vào Nam theo địch, rồi dần dần thêm từng dòng "Âm mưu lật đổ chính quyền, phản động, làm tay sai CIA".
Từ trường học sang Hoả Lò, tôi chỉ còn nung nấu trong đầu hai tiếng Tự Do. Tôi sẽ đi tìm Tự Do suốt cuộc đời này! Từ đó tôi mang cái "mác": Trốn vào Nam theo địch, rồi dần dần thêm từng dòng "Âm mưu lật đổ chính quyền, phản động, làm tay sai CIA".
Lý lịch
như vậy, sống trong thời điểm khốc liệt nhất của cộng sản Việt Nam, đời
tôi còn quãng dài oan nghiệt. Tôi đã lên rừng, xuống biển, sang biên
giới Việt Lào, vào miền trung để vượt tuyến vào Nam. Những tháng năm
tù tội làm tôi hiểu cặn kẽ về cộng sản. Điều cha tôi đau khổ nói trước
khi chết "Cha đã bị lừa..." nay tôi mới hiểu hết.
Năm
1981, tôi vượt biển lần thứ hai, bằng thuyền buồm đánh cá của một gia
đình nghề chài, đi từ Hải phòng tới HongKong sau 26 ngày sóng gió. Định
cư tại Mỹ năm 1982, tôi đã tìm thấy Tự Do .
Mãi suy
tư nên lỡ chuyến ferry, phải đợi thêm nửa giờ, chuyến tới. Tôi không bận
tâm vì chờ đợi, tôi đã đợi chờ gần nửa đời người, ba mươi phút chỉ là
khoảnh khắc .
Sầu tủi
đã trôi đi, chỉ còn vui tươi, hạnh phúc. Tôi còn có thể đợi chờ ngày
vui tươi, hạnh phúc trên quê hương không còn cộng sản.
*
Xuống ferry (phà), mũi tầu chiếu thẳng Liberty Island, mươi phút, nhìn phía sau, khu Manhattan lô nhô nhà chọc trời mờ dần trong nắng chiều New York, trời xanh lơ không một bóng mây mù. Xa xa, những con tầu lướt sóng, những cánh buồm nhiều mầu sắc đu đưa khiến tôi, trong giây phút, liên tưởng đến hàng trăm tầu thuyền tới cảng, một ngày tị nạn của người Việt Nam.
Trên
ferry người người, tay bắt tay, chào hỏi nhau, mặt rạng rỡ niềm tin, nụ
cười chia xẻ. Người ta nói với nhau bằng nhiều thứ tiếng, hiểu nhau
bằng chỉ trỏ.
Những con hải âu bay lượn quanh phà, mấy em bé ngây thơ tung mẩu bánh mì cho chim sà xuống, đôi cánh trắng vẫy chào.
Phà vào
bến, tôi bước lên bờ, thêm kích thích vì cảnh tượng trên đảo. Trước hết
là tượng thần Tự Do cao lừng lững trên một building tức là phần bệ đá.
Người xếp hàng thành hai cánh cung bao bọc cột cờ, dựng trên sân gạch
hình tròn.
Theo mũi
tên và đường dây căng, mất thêm ba phút mới vào được tới bệ, rồi vào
khu bảo tàng, giới thiệu công trình trùng tu năm 1980, kiến trúc và lịch
sử tượng thần Tự Do. Cô gái Á đông xinh đẹp, tươi cười chào mọi người
và kể chuyện. Tôi dừng lại đây lâu hơn một chút, không hiểu hết những
gì cô nói, nhưng nhìn sơ đồ, thống kê tài liệu, biết được nhiều điều về
pho tượng hình phụ nữ mặc áo choàng này.
Tượng thần Tự Do hoàn thành năm 1876, do nhà điêu khắc Frederic Auguste Bartholdi tạo hình, cùng kỹ sư Alexandre Gustave Eiffel thiết kế, xây dựng, là món quà của người Pháp tặng nước Mỹ.
Tượng thần Tự Do hoàn thành năm 1876, do nhà điêu khắc Frederic Auguste Bartholdi tạo hình, cùng kỹ sư Alexandre Gustave Eiffel thiết kế, xây dựng, là món quà của người Pháp tặng nước Mỹ.
Tính từ
mặt đất, tượng cao 305 feet (92,99 m), riêng thân tượng cao 151feet
(46,50 m) . Bên trong có hai lối lên đỉnh tượng: cầu thang máy lên hết
phần bệ đá, cho người già hoặc ai không thích leo từng bậc thang (192
bậc). Còn leo từ đầu, cả thảy 354 bậc thang xoắn ốc. Đầu tượng đội
chiếc nón có 7 cánh nhọn xòe ra, tượng trưng cho biển và lục địa ( thời
đó chưa biết 5 châu, bốn biển, mới có 7). Vành nón có 25 cửa sổ, đại
diện cho 25 viên kim cương quí tìm được trên trái đất. Tay mặt thần giơ
cao ngọn đuốc, đêm đêm rực sáng, tay trái giữ tấm bảng trông như quyển
sách ghi chữ số La Mã: "July 4th, 1776", ngày thành lập Hiệp Chủng Quốc
Hoa Kỳ, ta quen gọi là
Mỹ.
Rất ít
người dùng thang máy, đa số leo thang bậc lên tới vành nón, chặng cuối
của hành trình. Tôi thận trọng bước lên bậc thang thứ nhất, lòng hân
hoan khó tả. Mỗi bước leo lên vòng thang xoắn ốc, tới khoảng giữa thân
tượng, cảm thấy như vào động tiên.
Ánh đèn
mờ ảo phản chiếu bộ khung sắt chằng chịt, đủ sáng cho ta leo lên, càng
cao, phần tượng nhỏ dần vì sắp tới đầu. Bậc thang chỉ vừa một người nên
không chen lấn. Trên tôi là cô gái gốc Poland (Balan), tóc vàng óng
ánh, người sau tôi là đàn bà Phi châu, trang sức, váy chùng sặc sỡ.
Chỉ có tiếng rì rầm vọng từ vách tượng như tiếng kinh cầu bí ẩn. Dòng
người lên, xuống như đàn kiến vòng vèo, êm ả trong không khí dịu mát của
máy điều hòa nhiệt độ.
Từ cửa
sổ vành nón tượng thần, tôi nhìn ra cánh tay thần Tự Do giơ cao ngọn
đuốc soi sáng tinh thần Tự Do cho nhân loại, và rồi nhìn ra Đại tây
Dương, nghìn trùng xa cách, nửa vòng trái đất là nước Việt Nam của tôi
chưa có Tự Do.
Chuyến
phà về, trở lại Manhattan, trời chiều lắng dịu. Trên phà cũng lắng dịu
tiếng người như để tận hưởng một ngày ý nghĩa trong đời là đến tượng
thần Tự Do, ghi lại bằng nhiều tấm hình kỷ niệm.
Người trèo lên đỉnh núi Himalaya hoặc theo khí cầu bay vòng quanh thế giới để lập một kỷ lục, tôi leo lên đỉnh tượng thần Tự Do để trọn vẹn một ước mơ từ nhỏ.
Người trèo lên đỉnh núi Himalaya hoặc theo khí cầu bay vòng quanh thế giới để lập một kỷ lục, tôi leo lên đỉnh tượng thần Tự Do để trọn vẹn một ước mơ từ nhỏ.
Hòa nhập
vào dòng người New York, tôi đi nốt quãng đời yên vui còn lại của một
người đi tìm Tự Do, tìm được Tự Do trên đất Mỹ.
------------------------------------------------------Bản Tình Ca Của Một Người Tị Nạn
tự truyện tìm Tự Do của tác giả Nguyễn Văn Luận
*
Hai năm sau ngày đất nước chia đôi, từ miền Bắc hoang tàn, tôi lặn lội tới vùng giới tuyến mong vượt thoát vào miền Nam tự do.
Lần tới
gần sông Bến Hải, đêm tối âm u bờ Bắc, tôi đã nhìn thấy cầu Hiền Lương
vì bờ Nam rực sáng ánh đèn. Trên cột cờ cao vút, bóng cờ vàng sọc đỏ
lung linh. Giọng ca ngọt ngào từ loa treo vọng về miền Bắc:
"...sông Bến Hải là nơi chia cắt đôi đường...
hỡi ai... lạc lối... mau quay... về đây ...!"
hỡi ai... lạc lối... mau quay... về đây ...!"
Tôi đứng
đó chơi vơi định hướng, đăm đăm nhìn cờ vàng bên kia bờ sông lịch sử,
uống từng lời ca trong cơn đói khát, rồi bừng tỉnh, lao lên phía trước.
Từ đâu đó, mấy cái nón cối xông ra. Tôi bị trói hai tay bằng sợi thừng
oan nghiệt, theo nón cối về lại địa ngục trần gian.
Mười
chín tuổi, lao tù đầy đọa, tôi đã mất mẹ, mất cha, bị qui là tư sản, xa
vắng họ hàng vì chia rẽ giai cấp. Tôi mất Hà nội là nơi tôi sinh ra làm
người Việt Nam. Không có tang cha khi cha gục xuống, không có tang mẹ
khi mẹ xuôi tay, không hy vọng có đám cưới đời mình.
Bạo
quyền cộng sản Việt Nam bắn giết hàng trăm ngàn người, bị qui là địa
chủ. Nhiều trăm ngàn người bị tập trung lên rừng, để lại vợ con không
nhà không đất. Thời gian làm ngưng nước mắt, oán than cũng vô ích, chỉ
còn tiếng kêu vang vọng khắp miền: "Chúng tôi muốn sống!"
Hai mươi
lăm năm sau (1981) tôi vượt biển, thoát tới Hong Kong. Bốn mươi tư năm
từ lúc chào đời, tôi thành người tị nạn cộng sản.
Ngày
tiếp kiến phái đoàn Mỹ xin đi định cư, một ông Mỹ dáng nghiêm trang,
nghe tôi trả lời, đột nhiên hỏi "Anh có biết nói tiếng Pháp?". Tôi nhìn
ông, giọng run run: "L'exilé partout est seul!" (Kẻ lưu đày nơi đâu cũng
cô độc).
Ông gật đầu hiểu cả tiếng Tây, hiểu lòng tôi đau xót. Xưa tôi học trường Albert Sarraut, Hà Nội.
*
Đứng bên rào kẽm gai, sau dãy nhà tôn của trại tị nạn Hong Kong, một mình, suy tư thân phận. Tôi sẽ đến nơi xứ lạ là nước Mỹ xa xôi, tìm quê hương mới, chỉ trở về khi đất nước Việt Nam tự do, không còn cộng sản.
Đứa bé
chừng 5, 6 tuổi, tung trái banh, toan bắt thì trượt chân trên sân trại.
Tôi đã kịp giang tay đỡ cháu khỏi ngã thì người đàn bà chạy tới, đứng
im, lặng lẽ nhìn tôi.
Tiếng
trẻ thơ kêu "Má", tôi nhìn nàng... Sự thầm lặng và ánh mắt trao nhau là
chân tình của người tị nạn Việt Nam nhẫn nhục, khổ đau, nói được nhiều
hơn lời nói. Rồi những ngày sau đó, tâm sự, nỗi niềm, tôi đã cùng Mai
kết thành bạn đường và bạn đời, đi Mỹ định cư.
Chồng
Mai là người lính Cộng Hòa hiên ngang dưới lá cờ vàng ba sọc đỏ, quyết
bảo vệ quê hương. Anh tử trận, mang thân đền nợ nước, để lại con thơ.
Mai trở thành góa phụ, miền quê Đà Nẵng, cuốc đất trồng khoai, nuôi mẹ
già con dại. Sau năm 1975, mất nước. Mẹ già khuất núi, con chậm lớn vì
cháo loãng, bo bo thay cho sữa mẹ và cơm.
Một đêm
mưa bão, Mai bị tên Việt cộng trưởng công an xã cưỡng hiếp, du kích xã
canh gác quanh nhà. Mai phải sống vì con mới lên ba, mất cha còn mẹ.
Người dân Đà Nẵng ra đi, đã mang theo vợ con người lính chiến tới Hong
Kong năm 1981. Đứa con lên sáu không biết tiếng gọi "Ba"!
Tôi mang
nặng tủi nhục, đọa đày triền miên từ đất Bắc đi tìm tự do. Mai gánh
những thương đau, mất mát, cơ cực của miền Nam, bồng con đi tị nạn. Lấy
dĩ vãng chia xẻ cùng nhau, chúng tôi sắp xếp lại hành trang cho bớt
gánh đoạn trường, đi Mỹ.
Con đã
có Má, có Ba. Má bồng con, Ba xách túi. Con có đồ chơi, cầm chiếc máy
bay vẫy chào các chú, hai người lính chiến Quảng Nam đưa tiễn. Tôi nhìn
con tự nhủ: "Ba sẽ dạy con tiếng "Cha", chỉ cho con hình người lính Cộng
Hòa, ở bất cứ nơi đâu đều là Cha con đó!".
Mai đã
nhất định không đi kinh tế mới. Tôi đã trốn công trường, vào tù chịu
đựng, bây giờ dù bỏ lại quê hương nhưng còn Tổ quốc Việt Nam. Bốn ngàn
năm lịch sử, thăng trầm, người dân nước Việt sẽ không trở thành Cộng
sản.
Quê
hương mới của chúng tôi là vùng đông bắc nước Mỹ. Căn apartment hai
phòng, hai chiếc giường nệm, một chiếc bàn con, đã cho tôi ấn tượng đẹp
những ngày đầu tới Mỹ.
Lúc tôi
khôn lớn, không có chiếc giường làm nơi cư trú, vì đã thành vô sản. Rồi
tôi hiểu, vô sản cũng vẫn còn giai cấp. Phải lên rừng, một miếng nylon
bọc vài manh vải gọi là quần áo, thì mới thành "người vô sản chân
chính"!
Nhìn con
ngon giấc ngủ thần tiên, vợ chồng tôi thao thức, không phải lo âu mà
thì thầm những dự định tương lai. 18 tháng welfare trợ cấp, đủ thời gian
cho mình đi học tiếng Anh. Đọc dòng thư hội M&RS nhắc trả nửa tiền
nợ vé máy bay sang Mỹ "Xin bạn trả dần 12 tháng, giúp cho người sau bạn
định cư", theo ý Mai, ý nghĩ nhân hậu của người đàn bà làm mẹ, "mình trả
ngay từ tháng thứ hai".
Việc đơn
giản là tại sao người ta không khấu trừ vào trợ cấp, lại đòi riêng.
Mai chỉ nhẹ nhàng "nợ thì mình trả, ở hiền sẽ gặp lành", nhưng tôi lại
suy nghĩ mung lung. Đây là bước đầu thử thách, cái thước đo lòng người
tị nạn. 72 đô tiền nợ một tháng, có thể không trả và quên đi. Một lần để
lòng vẩn đục sẽ trở thành bất lương. Cha mẹ bất lương con cái sẽ
chẳng nên người .
Một sáng
mùa Xuân, "bé Nam" gọi Má, gọi Ba, chỉ bông hoa mầu vàng mầu đỏ đung
đưa bên vườn hàng xóm, kêu lên "hoa tu-líp". Bà già người Mỹ đứng trên
thềm, giơ tay vẫy vẫy. Mai đã nói "Thank you", ngọt ngào, mạnh dạn, tay
chỉ trỏ, diễn tả được những gì muốn nói.
Bà Jenny
hiểu chút ít về "chiến tranh Việt Nam" qua tivi, sách báo hồi bà còn
dạy học. Bà đã thấy "Boat people", những thuyền nhân tị nạn, nhưng lần
đầu bà thấy một gia đình người Việt đến vùng này, lại là hàng xóm nên bà
có cảm tình. Đây là ứng nghiệm "Ở hiền gặp lành" hay là sự may mắn cho
gia đình tôi? Nói thế nào thì cũng đúng vì vài nơi trên đất Mỹ vẫn còn
kỳ thị chủng tộc.
Thời
gian trôi đi nhưng hai tiếng "lần đầu" lặp lại: lần đầu ra nhà Bank, lần
đầu tới Post Office. Có những lần đầu chưa biết, nhưng có hai lần đầu
quan trọng: "bé Nam" đi học, chúng tôi xin được việc làm. Bà Jenny cùng
chúng tôi đưa "cháu" tới trường, bà cho chiếc mũ baseball và đôi giầy
sneaker trắng muốt, khen "Cháu cute." Vợ chồng nhìn nhau, không hiểu,
lát nữa về tra tự điển.
"Từ nay
chúng mình có Má, bé Nam có Bà...!" Mai thốt lên khi chúng tôi đồng lòng
nhận "Má Nuôi". Bà Jenny thành "Má Jen". Chuyện xảy ra vào ngày Lễ Tạ
Ơn (Thanksgiving), 17 năm về trước.
Sống một mình trong căn nhà rộng rãi, bà Jenny vốn là cô giáo nên rất yêu trẻ. Bà mời "cả nhà" sang ăn turkey.
Bé Nam
lên bảy, đi học, hiểu nhiều về Thanksgiving hơn Má và Ba. Ăn uống vui
vẻ, vợ chồng tôi nói chuyện với bà, có lúc ngồi im lặng hơi lâu vì vốn
tiếng Anh ít ỏi. Bỗng bé Nam kêu "Má...!", bà Jenny toan đứng dậy thì
Mai buột miệng nói: "Má... let me do it!".
Nghe tiếng "Má" lỡ lời của Mai, tiếng Việt, vừa lạ, vừa thích, bà bâng khuâng giây lát.
Mai kể chuyện xưa, miền Đà Nẵng cuốc đất trồng khoai, nuôi mẹ già con dại... Tôi góp phần thông dịch, bớt thêm: Người Việt Nam coi việc chăm sóc cha mẹ già là bổn phận, dù chịu nhiều cơ cực cũng cố gắng đền ơn sinh thành, dưỡng dục.
Mai kể chuyện xưa, miền Đà Nẵng cuốc đất trồng khoai, nuôi mẹ già con dại... Tôi góp phần thông dịch, bớt thêm: Người Việt Nam coi việc chăm sóc cha mẹ già là bổn phận, dù chịu nhiều cơ cực cũng cố gắng đền ơn sinh thành, dưỡng dục.
Bà suy nghĩ mấy ngày, bỏ dự định chuyển về Florida, tỏ ý muốn nhận gia đình tôi làm Con, làm Cháu.
Chúng tôi dọn nhà sang ở chung với "Má Jen", điều này ít thấy trong các gia đình người Mỹ có con trưởng thành. Các con nhờ Má, nói được tiếng Anh. Cháu quấn quít bên Bà, xem chú chuột Mickey. Mùa đông buốt giá nhưng trong nhà nồng ấm tình người. Má vui tươi hơn trước, thích ăn bánh xèo và phở Việt Nam.
Chúng tôi dọn nhà sang ở chung với "Má Jen", điều này ít thấy trong các gia đình người Mỹ có con trưởng thành. Các con nhờ Má, nói được tiếng Anh. Cháu quấn quít bên Bà, xem chú chuột Mickey. Mùa đông buốt giá nhưng trong nhà nồng ấm tình người. Má vui tươi hơn trước, thích ăn bánh xèo và phở Việt Nam.
Mai vẫn
cặm cụi hàng ngày, làm những chiếc ví tay của phụ nữ. Mấy người bạn Việt
Nam đặt cho Mai biệt danh "Bà đầm hãng bóp" vì "giỏi việc, lại biết
tiếng Anh," nhiệt tình giúp đỡ bà con.
Cũng như
Má Jen, Mai không thích sa hoa, theo Má vào tiệm sách trong Mall nhiều
hơn vào tiệm bán phấn son, make up. Việc từ thiện đã thành sở thích,
Mai gửi 200 đôla, mỗi lần, giúp đồng bào bão lụt miền Trung, miền Bắc,
vì lương tâm, đạo lý. Kẻ cầm quyền ăn chặn của dân, như đám cướp, có bao
giờ được mãn kiếp yên thân. Đức Phật từ bi dạy Mai lòng độ lượng.
Tôi làm
technician, ngành điện tử. Nhớ xưa, học sửa radio bị nghi làm gián
điệp. Bộ công an Hà nội lấy công nông lãnh đạo, coi "điện tử" là CIA.
Mười bẩy năm trong ngành điện tử, nay chắc tôi thành CIA ngoại hạng!
Bây giờ,
ngồi trước máy computer, nối vào mạng Net, đọc Website tiếng Anh, tiếng
Việt, thông tin thế giới bằng email, việc hãng, việc nhà, công tư hòa
vào nhau từng ngày làm việc, tôi đã có cuộc sống an hòa, hạnh phúc, một
gia đình thật sự yêu thương.
"Ngày mai, chúng mình đi New York thăm con".
Mai nắm tay tôi, hân hoan về ngày mai.
Mai nắm tay tôi, hân hoan về ngày mai.
Ngày mai
là tương lai của bé Nam ngày trước, giờ là một thanh niên cao 6 feet,
đầy nghị lực bước vào đời. Xong đại học, Nam Nguyen trở thành chuyên
viên tài chánh, làm việc trong văn phòng, tầng thứ 32 của một nhà "chọc
trời" New York.
Ngày con
ra trường là ngày vui trọn vẹn, ngày con nhận việc mới là niềm sung
sướng của Má, của Ba, của Gia Đình tị nạn, mong ước từng ngày cho Con
thành Người.*
Lâu lắm
rồi, tôi mới có một đêm không ngủ để nhìn lại đời mình. Tháng chín, trời
sang Thu se lạnh vùng đông bắc nước Mỹ. Tôi đã sống nơi đây 18 năm tị
nạn, không thất vọng mà tin tưởng vào tương lai.
Người
cộng sản muốn làm hung thần cai quản địa cầu, dựng lên Địa Ngục. Dựng
được vài phần thì sụp đổ, sót lại từng mảnh vỡ điêu tàn. Hung thần đã
chết.
Thoát
kiếp lưu đày làm người tự do, tôi kính cẩn tri ân người phá ngục: người
lính Cộng Hòa, giương cao lá cờ vàng ba sọc đỏ, chính nghĩa Quốc Gia .
Việt Nam, từ tinh thần đến lãnh thổ.
Người
lính chiến Cộng Hòa hiên ngang đi làm Lịch Sử. Không có Anh, tôi đã
không có niềm tin để sống sót, đã thành nấm mộ hoang trên rừng xơ xác.
21 năm kiên cường giữ vững miền Nam, Anh đối mặt hung thần, cứu sống
thêm hàng triệu người vô tội.
Người
lính của miền Nam tự do tử trận. Anh để lại người Vợ hiền, cuốc đất
trồng khoai, chúng vẫn không tha, chà đạp nhân phẩm. Tôi lê bước chân vô
định, gặp Mai làm Bạn Đường, nhìn mắt con thơ thấy hình người lính
chiến.
Anh đã
để lại Con Thơ cho tôi được làm "Ba" mang tròn trách nhiệm. Con đã
trưởng thành, mai này sẽ góp phần xây dựng lại Quê Hương. Tôi muốn níu
lại thời gian để được thương vợ, thương con nhiều hơn nữa.
Đã quá
nửa đêm về sáng. Nhìn Mai ngon giấc ngủ thần tiên như "bé Nam" ngày đầu
tới Mỹ, tôi ngồi im lặng bên bàn viết, đợi chờ sớm mai để được nhìn bình
minh bừng sáng Phương Đông, được nhìn Mai thức dậy, mỉm cười, âu yếm
nhìn chồng.
Cuộc sống an vui. Ngót 20 năm rồi, không biết khóc, đêm nay tôi nhỏ từng dòng lệ, xúc động, bùi ngùi.
Tôi đang sống và đang viết Bài Tình Ca của Một Người Tị Nạn.
Tôi đang sống và đang viết Bài Tình Ca của Một Người Tị Nạn.
tudo NGUYỄN VĂN LUẬN
Xin phép quý vị cho tôi đăng lại bài này ở: https://nuocnha.blogspot.com
ReplyDeleteCảm ơn trước