Saturday, November 27, 2021

TÙ MỸ, TÙ VIỆT Nguyễn Văn Tới

Tôi có một ông anh bà con xa, đang làm việc cho Pima County Sheriff Department với công việc là cảnh sát gác tù (Correctional Officer), mà tôi vẫn đùa gọi anh là Tù trưởng, còn tù nhân kêu anh là Xi-Ô (C.O).

Công việc, theo anh nói, so với việc làm trước đây, thì không cực nhọc tuy đôi khi căng thẳng vì tù nhân hay làm reo, nhưng lương lậu thì không tệ (bắt đầu khoảng $44,400/1 năm), hưu bổng, và quyền lợi thì không chê vào đâu được. Thêm nữa, việc này không cần có bằng cấp hay kinh nghiệm, họ sẽ huấn luyện mình.

Làm việc cho chính phủ tiểu bang thì rất bền, nhưng công việc gác tù này không phải ai cũng làm được vì cần đức tính kiên nhẫn và chăm chỉ. Cái này thì anh có thừa trong nghề gõ đầu trẻ trước đây. Chỉ mình đuổi việc chủ, chứ chủ chẳng bao giờ đuổi mình, anh tâm sự như thế.

Được gia đình bên vợ bảo lãnh qua Mỹ lúc tuổi xuân vừa tròn 4 bó. Qua xứ lạ, anh không còn được gọi là ông, mà thằng cũng chẳng ra thằng. Ngày còn trong nước, anh đi dạy, giờ bị “mất dạy”, thêm phần “bất lương” (không có lương) nên chẳng làm được trò trống gì. Sau mấy năm làm assembler trong một hãng kiếng ở địa phương, mỗi ngày dập mấy trăm cái khung sắt, xương cốt rã rời, về nhà, vợ thương quá, tối nào cũng cứ dầu nóng bóp cổ, bóp vai mãi mà “long thể” vẫn bất an, “long sàng” vẫn cứ có rệp.

Đêm nào cũng đấm bóp và an ủi nhau nên thằng út Ráng ra đời trong hoàn cảnh ấy. Anh kể: Ngày thằng cu chào đời, chẳng thấy vầng hào quang chói lọi, chẳng có một ngôi sao sáng nào xẹt vào nhà (như Kim Jong Un), chẳng hoa hồng ngát hương hay tiếng nhã nhạc du dương báo tin lành gì hết, mà chỉ thấy hai vợ chồng nổ đom đóm mắt vì tuổi già việc nặng mà lại thêm con nhỏ khóc đêm.

Thấy tương lai chắc sẽ tối như đêm 30 vì công việc bầm dập mà sức khỏe ngày một yếu đi, anh quyết định “ôm cầm sang thuyền khác” bằng cách ghi danh thi tuyển làm cảnh sát gác tù vì nghe nói nghề này nhàn nhã mà phúc lợi (benefits) cao, bảo hiểm sức khỏe tốt, không sợ bị đuổi việc, dù kinh tế lên hay xuống, cũng vẫn có đủ… tù để coi, thêm nữa, sẽ được vào ngạch chính thức là viên chức chính phủ tiểu bang (State government) chứ không phải thứ “dóp” loại cờ lờ mờ vờ ma dê in VN.

Anh khoe trước ngày đi Mỹ, một ông thày bói phán rằng hậu vận anh sẽ vô cùng sáng lạn vì anh sẽ cai quản cả mấy chục người dưới quyền của mình. Ôi, lời thày phán ứng nghiệm như thần!

Tôi và anh thân nhau, dù trẻ hơn tôi cả 10 tuổi và lớn lên trong thời “cắt mạng”, chúng tôi hay kể nhau nghe vui buồn nghề nghiệp trong những buổi trà dư tửu hậu: anh uống rượu, ít ăn mồi, còn tôi chuyên ăn mồi mà không uống rượu. Tuy khác nhau một trời một vực, nhưng vẫn là cặp tri kỷ vì rượu anh, anh uống, mồi tôi, tôi cứ ăn, người này không đụng chạm “quyền lợi” người kia nên tình anh em luôn bền vững như “môi hở răng lạnh”. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý ấy sẽ… từ từ thay đổi. Bên đây sứt môi, họ vá được, mất hết hàng tiền đạo, họ vẫn làm cho một hàm răng mới, mỗi lúc cười lên là sáng cả một bầu trời. Tôi vẫn thường đùa với anh là ông nội anh với ông nội tôi là …hai ông nội, nên anh em mình họ hàng cũng còn gần lắm.

Sau khi trải qua 6 tuần quân trường thụ huấn về thể lực, bao gồm các lớp học về luật pháp cần thiết cho công việc, vài thế võ nghệ căn bản như Jiujitsu để đối phó với các tình huống hiểm nguy khi tù nhân nổi loạn, gian khổ gần như lính, anh tốt nghiệp được gắn huy hiệu ngôi sao tiểu bang. Anh than thở rằng sợ nhất là ngày phải đấu võ đài, có qua khỏi mới đủ điểm đậu làm cảnh sát gác tù. Họ bắt chúng tôi phải đánh nhau thật với huấn luyện viên.

Chú nghĩ coi thân tôi nhỏ bé thế này mà phải đối đầu với 1 thằng Mỹ to gấp đôi. Khỏi nói thì chú cũng biết kết quả ra sao rồi. Tôi bị một trận bầm dập nhưng cũng rồi cũng qua. Sau đó chúng tôi phải bắn súng điện lẫn nhau coi sức chịu đựng ra sao trong trường hợp giả định bị tù nhân nổi loạn, lỡ bắn nhầm vào nhau. Mà đâu phải 1 lần. Họ bắt chúng tôi, 4 người quàng vai nhau thành hàng ngang, một học viên khác bắn súng taser (1) với 20,000 volts, làm cả 4 chúng tôi hét lên, cứng đơ cả người, rồi tất cả ngã vật xuống, có sẵn hai học viên khác đỡ trước khi chúng tôi té nằm ngay cán đơ cán cuốc trên sàn nệm. Mất vài chục giây sau, chúng tôi mới có thể lồm cồm bò dậy, rồi nhăn răng ra cười hềnh hệch, và đập tay (high-five) lẫn nhau.

Trận cuối cùng mới đáng sợ và không bao giờ quên: Chúng tôi cứ 2 người bắt cặp, người kia cầm hộp xịt hơi cay chĩa thẳng vào mặt tôi, trong khi tôi đứng thẳng, không nhúc nhích, mắt phải mở to, không được chớp mắt, để đối thủ xịt chất lỏng cay vào mắt. Sau tiếng kêu “fight” (đánh), cả hai phải lao vào nhau, dùng hết các thế võ đã học, để hạ địch thủ. Đây là cảnh giả dụ nếu chúng tôi lỡ tay xịt hơi cay vào mặt nhau trong lúc đánh nhau, khống chế tù nhân, thì chúng tôi phải chiến đấu tới cùng cho đến khi được cứu.

Trong lúc chúng tôi đánh thì họ quay phim. Sau này coi lại, tôi mắc cỡ quá chú ơi, vì người bạn kia, lao vào quật tôi ngã xuống sàn. Tôi lồm cồm bò dậy, nắm một chân anh ta, mà nước mũi, nước dãi của tôi chảy lòng thòng, nhiểu nhảo tùm lum, hơi thở hào hễn, tôi vẫn không chịu buông, dù mắt cay xè không mở ra được. Họ phải tách chúng tôi ra và hét “fight again”.

Qua làn nước mắt cay xè, tôi lờ mờ thấy địch thủ, tôi lại lao vào quần thảo với anh ta cho đến khi tiếng kêu “stop”, người ta kéo chúng tôi ra và một người dẫn tôi ra vòi nước xả lên đầu tôi cho đỡ nóng và đỡ cay. Sau bữa đó, về nhà, hai ngày weekend, mắt tôi sưng húp và cái nóng cay vẫn còn đó cho đến hết ngày hôm sau. Tôi thề rằng thà bị taser còn hơn bị pepper spray.

Chưa hết, đoạn đường “chiến binh” cuối cùng mà học viên nào cũng phải vượt qua trước khi được gắn lon. Tất cả mặc đồng phục cảnh sát, giầy, và mọi trang bị cần thiết, bắt đầu chạy bộ 15 dặm lên núi để được làm lễ gắn ngôi sao trên đó. Trong khi chạy, có vài học viên ngã gục, ói mửa tùm lum, họ cấp cứu, rồi bắt đứng dậy, đi tiếp, không cần chạy, cho tới khi chinh phục được đỉnh núi. Riêng tôi, tuy không khỏe nhưng dẻo dai, tôi cũng lết được lên đỉnh núi và tới đích. Bài học họ muốn chúng tôi nhớ nằm lòng là phải kiên nhẫn, bền bỉ, không bỏ cuộc, thì sẽ thành công. Từ đây, tôi chính thức được gọi là C.O., cảnh sát cải huấn, trực thuộc bộ cải huấn tiểu bang: DOC, Department Of Corrections.

Anh hay tò mò hỏi tôi về những tháng năm tôi nằm bắt rệp trong hô teo Chí Hòa ra sao để anh rút tỉa kinh nghiệm mà đối đãi với tù Tây.

Anh bắt đầu kể về công việc anh làm hằng ngày nơi trại giam. Sau đây là lời kể của anh và của tôi, xen kẽ nhau, để bạn đọc có thể hình dung ra được “sự ác độc, bất nhân” của chế độ tư bản đế quốc Mỹ đối đãi với tù nhân của họ ra sao khi so sánh với “sự khoan hồng, nhân đạo” của đảng và nhà nước với chính đồng bào của mình.

Chuyện nhà tù Mỹ

Đi làm mỗi ngày, tôi phải ăn mặc chỉnh tề như một cảnh sát thực thụ, chỉ khác là tất cả chúng tôi không được mang súng. Áo quần khaki vàng được ủi thẳng nếp, không một vết nhăn, áo bỏ trong quần với tên họ bên túi trái, giày bốt đen đánh xi-ra láng cóng, đầu đội nón baseball-cap với huy hiệu cảnh sát. Dây lưng quần được trang bị một cặp còng tay, một lọ Pepper-spray xịt chất lỏng cay, một súng điện Taser, và một máy radio liên lạc được nối qua cầu vai trái lên tới hai lỗ tai bằng một cặp tai nghe (ear-plugs) để khi liên lạc và hành động thì còn rảnh hai tay mà làm việc. Tác phong nghiêm chỉnh như trong quân đội.

Mỗi sáng đến nơi làm việc, phải điểm danh, chào cờ, và kiểm tra quân phục. Nếu ông xếp (captain) không hài lòng vì đường ủi không thẳng nếp, hay áo trong quần lệch một bên, giây giày thắt không đều thì bị bắt hít đất (Push-up). Xong xuôi, tan hàng, quẹt thẻ vào cửa trại, và một ngày làm việc bắt đầu bằng cuộc họp ngắn ngủi (brief) về tình hình chung của trại giam. Nếu không có gì mới cần chú ý thì ai về chỗ làm của người nấy.

Bắt tay người đồng nghiệp của ca làm việc trước, anh cho tôi biết vắn tắt về tình hình trong phòng giam. Tôi bước vào trong phòng làm việc của mình được bao quanh bằng kính dày để có thể quan sát tất cả mọi phòng (pods) của tù nhân được thiết kế như hình rẽ quạt gồm hai tầng. Sau khi đóng cánh cửa sắt sau lưng lại, tôi coi danh sách tù nhân có tổng cộng bao nhiêu người, phòng nào ở đâu, tên gì, và phòng nào chỉ có 1 người.

REPORT THIS ADPRIVACY

Lại dùng thẻ của mình mở cửa phòng từ bên trong, đi ra ngoài để tuần tra các phòng giam tù nhân để chính mắt mình điểm danh, và quan sát được tình hình, thái độ, sinh hoạt của họ. Phòng giam rộng 3 mét, dài 5 mét, gồm 2 tầng, mỗi tầng 15 phòng, Tất cả được xây bằng gạch, trang bị hệ thống điều hòa không khí, và cửa sắt có 2 tấm kiếng dầy theo chiều dọc để cảnh sát có thể nhìn vào bên trong. Một giường đôi hai tầng (bunk-bed) bên tay trái, gồm nệm, tấm trải giường, gối, và một cái mền và hai cái bàn nhỏ bằng sắt không rỉ (stainless steel) dùng làm bàn viết. Cuối phòng là bàn cầu giật nước cũng bằng sắt không rỉ, một kệ nhỏ rất sạnh sẽ, với đầy đủ dụng cụ vệ sinh cá nhân như kem và bàn chải đánh răng, khăn mặt. Một cái bồn rửa mặt (lavatory) và phòng tắm (shower) với vòi nước, tất cả đều sạch sẽ, cũng bằng sắt không rỉ. Tất cả tù nhân (inmates) đều mặc đồng phục màu cam.

Chuyện Nhà tù Việt

:Khám Chí Hòa: Mỗi buổi sáng tôi đều bị dựng dậy bởi tiếng loa phát thanh the thé của mụ xướng ngôn viên đọc tin tức. Toàn tin tốt đẹp về xây dựng xã hội chủ nghĩa, về độc lập, tự do, no ấm, và hạnh phúc. Tôi tin rằng ở đâu thiếu cái gì, người ta hay nói về cái đó ra rả cả ngày. Một lúc sau, tiếng chìa khóa lẻng kẻng vang lên, một người tù trật tự mở cánh cửa sắt nặng nề kêu ken két, theo sau là tên công an quân phục màu xanh cứt ngựa, cuốn sổ trên tay, chân mang dép lốp xe lẹp xẹp đi đến từng phòng điểm danh. Khi hắn đọc tên ai, người đó phải hô to “báo cáo cán bộ, có tôi”.

Khám Chí Hòa là một trại giam rất lớn chia làm 4 khu theo hình bát giác (8 dãy nhà). Được xây dựng từ thời Nhật chiếm Việt Nam, đang dang dở thì người Pháp trở lại và tiếp tục hoàn thành. Trung tâm nối liền 8 góc là một tháp nước (Château d’eau/water tower) hình dáng một thanh gươm tròn cắm xuống đất. Muốn đi từ khu này qua khu kia, phải đi ngang qua dưới tháp nước đó.

REPORT THIS ADPRIVACY

Khu ED chính trị và kinh tế là khu tôi bị nhốt, gồm 4 tầng lầu, mỗi tầng có 4 phòng. Mỗi phòng rộng khoảng 10 thước, dài 25 thước, nhốt 60-70 tù nhân mà chỉ có duy nhất một bàn cầu khô ở góc phòng, loại ngồi chồm hổm, không có vách ngăn. Tù nhân cần “trút bầu tâm sự” đành phải phơi bày mọi sự cho thế gian coi khơi khơi. Kế bên là một thùng phuy nước vừa để dội cầu và phát tiêu chuẩn cho tù nhân xài. Mỗi ngày, người tù được lãnh 1 lít nước để vừa uống, rửa mặt, đánh răng, vừa rửa cái “bàn tọa” sau khi nỗi buồn đã được “giải phóng”. Vâng, đúng 1 lít nước không hơn không kém. Mỗi tuần được xuống sân của khu, nơi có 1 bồn nước xi măng để tắm, giặt trong 5 phút. Có người mới xát xà bông, chưa kịp xả nước thì hết giờ, phải trở lại phòng mà vẫn còn bong bóng đầy đầu. Đây là cơ hội duy nhất cho ai có can đựng nước riêng nhà gởi vô, lo lấy thêm nước mà xài.

Ngày được thăm nuôi thì đúng là ngày khổ nhất và ngày dài nhất cho những người tù mới bị “nhập kho”. Là ma mới nên chỗ nằm ngủ ưu tiên sẽ là kế bên “cầu biên giới”. Kinh tế cộng sản, xã hội chủ nghĩa, luôn nói có đầu vô thì cần phải có đầu ra, quả không sai: Có ăn vô thời phải có đi ra. Ở trong tù, ngày thăm nuôi là ngày cái bàn cầu trở nên bận rộn nhất, người ra vô tấp nập, phải xếp hàng. Khổ nỗi, “sự cố” này luôn kèm theo âm thanh réo rắt lẫn mùi hương lan tỏa rất xa, mà những người khốn khổ cũng lại là những tên ma mới đang nằm kế bên, đành phải ca bài “lãnh trọn đêm mưa”.

Ai có nhu cầu “xả nước cứu thân” (không phải xả thân cứu nước) thì không đến nỗi nào, còn thực hành cái đệ Tứ khoái, thì tất cả mọi người trong phòng đều ngậm ngùi nín thở. Đã vậy, mỗi một trái “bom rơi” đều kèm theo một tiếng động âm vang ngân dài trong phòng vì hơi dội ngược lên, nghe cái đoong.

Giường là sàn xi măng. Khi quá đông tù nhân, mỗi người chỉ có 30 -50 cm bề ngang để nằm. Hè nóng, Đông thì lạnh buốt xương. Tôi vốn con bà phước nên vô sản chuyên chính: tối ngủ, xin được hai giỏ bện bằng cói rách te tua, một cái trùm đầu, một cái trùm hai chân cho ấm và bớt bị muỗi cắn, nằm co như con tôm trên nền xi măng lạnh tê tái. Còn rệp thì khỏi nói, xin cứ “vô tư” (nói theo kiểu người trong nước), ngửi được hơi người, chúng bò ra đông như quân Nguyên, chỉ nhìn thôi cũng đủ nổi da gà, rợn tóc gáy, mùi hôi đến lợm giọng.

REPORT THIS ADPRIVACY

Chuyện Nhà tù Mỹ

Nhà tù county, bên trong trại giam.

Sau khi điểm danh, tôi đi qua lại quan sát và đánh giá tình hình an ninh, sạch sẽ từng phòng, và hỏi tù nhân có ai có hẹn với bác sỹ không. Một lúc sau, nhân viên nhà bếp đẩy xe thực phẩm đến giao tôi ký nhận, xong anh/chị ta rời đi. Tôi thông báo cho tù nhân chuẩn bị ra ăn sáng rồi măng găng cao su vào tay để phân phát đồ ăn. Họ ra khỏi phòng ngồi vào những ghế, bàn ăn bằng sắt gắn dính xuống nền xi măng và bước đến nhận phần ăn của họ. Mỗi phần gồm một sandwich kẹp thịt và phó mát, một hộp sữa bằng giấy, và một trái chuối. Sau 30 phút, tôi mời họ vào phòng và đóng cửa lại. Thực phẩm buổi trưa và chiều thì phong phú và nhiều hơn, và thay đổi mỗi ngày. Nói chung, một người không cần thăm nuôi, vẫn có đầy đủ dinh dưỡng hằng ngày.

Nhiệm vụ của tôi là phải quan sát tù nhân không ngừng, đề phòng tù nhân vì buồn hoàn cảnh gia đình có thể tự tử hay dấu diếm tuồn hàng hút hay chích vào trong phòng. Những người tù ở đây đa số là vừa bị bắt vô và đang chờ đợi ra hầu tòa; số khác đã lãnh án và đang thi hành án trong đây. Nhiều tù nhân tâm sự rất thành thật rằng họ đáng bị ở tù vì “do the crime, do the time”, phạm tội thì phải trả. Mỗi lần gia đình gặp mặt, tôi phải mang gang tay cao su để khám trên người họ để ngăn những vật cấm vào trong phòng. Họ có thể coi phim hoặc tin tức thời sự trong phòng chung qua hệ thống Cable TV (còn sang hơn nhà tôi không có Cable TV), với một màn ảnh thật lớn. Ai không thích thì đọc sách. Ai muốn đi học, đi gặp bác sỹ, tôi dẫn đi và giao cho người chịu trách nhiệm, rồi ký nhận lại khi xong.

REPORT THIS ADPRIVACY

Chuyện Nhà tù Việt

Thực phẩm của chúng tôi do gia đình thăm nuôi để dành ăn dần. Sang thì có thịt ba chỉ xào mắm ruốc, vài cục đường tán; nghèo thì muối mè, muối xả, bịch cá khô, và vài củ khoai luộc. Nếu không có gia đình thăm thì thuộc diện con bà phước, tức là treo mỏ, không có gì ăn. Trong lúc mọi người ăn sáng, tôi cố giả bộ ngồi thiền, mắt nhắm lại, tự nhủ lòng rằng trong thinh lặng tuyệt đối, ta mới có thể nghe thấy tiếng Chúa/Phật thì thầm với ta; khổ một điều dù tập trung cách mấy, tôi chẳng nghe gì ngoài tiếng nhai nhóp nhép của người kế bên. Trái cấm của tôi liên tục chạy lên chạy xuống vì thèm. Nước miếng ứa tràn qua kẽ răng. Thật là một cực hình dã man hơn thời Trung Cổ.

Bữa trưa và tối, “nhờ ơn đảng”, chúng tôi được mỗi người 1 chén cơm nhỏ, không thịt, cá, chỉ một chút canh “đại dương” vì nước nhiều hơn rau, một loại rau muống cả rễ, nước canh màu đục nhờ nhờ như nước cống Bà Xếp. Giờ chia cơm thật là giờ hạnh phúc nhất của mấy tên “con bà sơ”. Ông trật tự phòng chia thật hay và thật đều như máy mà không rơi ra ngoài một hột trong khi mọi con mắt đều đổ dồn về hai cánh tay như đang làm ảo thuật của ông. Mỗi năm người tù được ăn thịt heo một lần vào ngày Tết. Miếng thịt heo mỏng đến độ tôi có thể thổi phù một cái bay mất tiêu.

Đợi khi công an đã về nhà, chúng tôi bắt đầu giải trí bằng cách “chiếu phim” kiếm hiệp gồm nhiều tập như Cô gái Đồ Long, Anh hùng xạ điêu…. do nhà văn Hoàng Hải Thủy kể. Ông có lối kể truyện rất hấp dẫn, lôi cuốn còn hay hơn coi phim trong rạp. Giọng ông sang sảng vang to, các phòng kế bên đều được nghe ké. Tôi ngồi kế bên “máy quay phim” vấn thuốc rê để ông có thêm hơi mà kể.

Nhạc thính phòng là cái chậu nhựa úp xuống nền xi măng, phủ lên tấm mền làm trống, các ca sỹ được lựa chọn, thay nhau hát nhạc vàng ru ta vào mộng dưới hoa, đôi khi thành “họa dưới mông” nếu tụi cán cuốc rình bắt được. Có lần, từ phòng 11, ca sỹ Khuất Duy Trác cao hứng hát bài Cô láng giềng, mọi người ngừng tay thưởng thức không dám ho. Vì không gian kín nên giọng ca của anh càng trầm ấm du dương. Tù xã hội chủ nghĩa như vậy, còn đòi gì hơn?

REPORT THIS ADPRIVACY

Chuyện Nhà tù Mỹ

Mỗi ngày có nhân viên đẩy những xe đầy những sách, tiểu thuyết, tạp chí đủ loại cho tù nhân mượn đọc. Ai muốn đi học thì ghi danh, tôi sẽ chuyển giao tên tuổi cho người có trách nhiệm lo về giáo dục. Tôi biết rất nhiều tù nhân lấy được bằng trung học, vài người có bằng cử nhân trong khi đang thụ án tù. Ngoài nhiệm vụ trông coi an ninh và giữ trật tự, tôi còn có nhiệm vụ đối thoại và giảng hòa khi họ có xích mích với nhau. Đôi khi phải đổi phòng cho họ vì bất hòa không thể sống chung một phòng với nhau. Tất cả tù nhân đều thưa gởi rất lễ phép, họ gọi tôi C.O. Ngai-Yen (Nguyen), sir, và nói điều họ muốn nói. Tôi đáp trả lại cũng gọi họ là Mr. John Doe. Nói chung, dù họ bị nhốt trong trại giam, họ mất tự do chứ không mất nhân phẩm. Nếu nghi ngờ tù nhân có dấu dao hoặc vật sắc nhọn hay vật cấm (contrabands) vi phạm nội quy trại, tôi phối hợp với các C.O khác, bất ngờ khám phòng để tịch thu hầu tránh việc họ đâm chém lẫn nhau.

Chuyện Nhà tù Việt

Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại. Một ngày trong tù bằng ngàn ngày bên ngoài. Câu này ai cũng biết nhưng phải ở trong tù thì mới thấm thía thời gian trong tù dài lê thê đến là dường nào. Để ngày tháng qua nhanh, chúng tôi bày ra việc tự học thêm. Người thày giúp chúng tôi Anh ngữ là thày Thích Trí Siêu, tục danh Lê Mạnh Thát. Trước đây thày dạy một đại học bên Mỹ, về nước, bị chính quyền cộng sản tuyên án tử hình cùng vụ thày Tuệ Sỹ và Ni Sư Trí Hải, trong vụ bắt bớ ở chùa Già Lam, từng đưa tới việc Hòa Thượng Trí Thủ bị bức tử.

Sau khi án tử giảm còn 20 năm, khi nằm tù, thày dạy chúng tôi tiếng Anh. Sách vở học tiếng Anh là cuốn nguyệt san Sputnik do Nga Sô ấn hành, bắt chước y chang hình dáng và kích cỡ theo nguyệt san Reader’s Digest của Mỹ, cũng được viết bằng Anh ngữ bởi người Nga nên văn chương lủng củng và kỳ cục. Nhưng có còn hơn không.

REPORT THIS ADPRIVACY

Luật trại giam cộng sản cấm không cho đọc báo chí dù đó là của nước cộng sản anh em. Giấy, viết càng bị cấm ngặt nghèo vì chúng sợ tù nhân thông cung với nhau. Kẻ cả giấy quấn thuốc rê cũng bị cấm. Chúng tôi đút lót mấy anh trật tự, họ tuồn vô cho một cuốn Sputnik.

Xé cuốn tạp chí ra thành nhiều phần, mỗi người giữ một phần rồi đổi với nhau mà học. Khi bị khám phòng thì máng nó lên giây phơi khăn mặt, rồi phủ khăn lên trên. Nhờ vậy chúng tôi có thể giữ tài liệu một thời gian khá lâu để học hành với nhau mà không bị phát giác.

Nghĩ mà giận, dưới thời thực dân cách đây cả thế kỷ, ông Minh Hồ bị tù, họ vẫn cho có giấy bút để ông viết Ngục trung nhật ký, làm thơ, dù sau này biết thơ trong đó là thơ ăn cắp. Vậy mà chúng vẫn ra rả khoe là tự do gấp vạn lần tư bản.

Chuyện Nhà tù Mỹ

Một hôm, tù nhân đang coi phim, và một vài người khác đi gọi phone về gia đình, tôi nhận được tin qua máy liên lạc “Red code”, hệ thống báo động vang lên, tôi vội hét to “lock down” và ra lệnh cho tất cả trở về phòng, khóa lại. Hai tù nhân đánh nhau ở khu kế bên, một người dấu được một miếng nhựa cứng làm khí giới và và đả thương người cùng phòng. Tôi vội vàng khóa cửa phòng trực và chạy qua khu kế bên để tiếp ứng bạn mình.

Tất cả chúng tôi được trang bị khiên giáp, pepper spray, và súng điện taser trên tay sẵn sàng xông vào phòng, kể cả xử dụng vũ lực nếu cần, để còng tay và mang anh ta đi cách ly. Hai C.O. mang khiên đứng đầu, theo sau là hai C.O. khác với hơi cay và súng điện. Cửa được mở khóa và sau vài lời thuyết phục, anh ta thấy lực lượng hùng hậu quá nên đồng ý bỏ vũ khí xuống và chịu còng tay đem đi biệt giam.

Dù bị kỷ luật, người tù vẫn được đối đãi tử tế, phần ăn vẫn đầy đủ, và các tiêu chuẩn khác vẫn bình thường.

Chuyện Nhà tù Việt

REPORT THIS ADPRIVACY

Ngày còn bị tạm giam ở phòng 5 khu AH, khám Chí Hòa, chờ chuyển hồ sơ lên sở công an thành phố, tôi chứng kiến một vụ thanh toán nhau rất ghê rợn: Hôm đó, sau bữa cơm trưa, mọi người đang nằm ngủ, riêng tôi khó ngủ, nên ngồi dậy nẹc lửa châm điếu thuốc rê. Chưa đủ đô, tôi tính làm 1 điếu thuốc thuốc lào thì Hùng Chùa bước đến xin lửa, nói hắn đang đổ khuôn hỏa tốc (2) làm cờ tướng. Sau khi “bắn” 1 bi thuốc lào, phê quá, tôi dựa lưng vào tường, nhắm mắt lim dim thả hồn theo nàng Phù Dung tiên nữ.

Tôi giật bắn người vì một tiếng hét đau đớn kinh hoàng như xé ruột gan. Mở mắt ra, tôi thấy thằng Cu Đen đang ôm mặt chạy quanh phòng la hét, chân nó dẵm đạp lên vài người khác khiến quang cảnh trong phòng ồn ào, náo loạn. Vốn to lớn và đen trùi trũi nên dân giang hồ gọi nó là Cu Đen, lúc này nó vừa khóc vừa la “nóng quá, má ơi, chắc con chết!”. Lúc này, Hùng Chùa đã rút lui vào góc cánh cửa sắt của phòng quay lưng lại với hành lang bên ngoài, hai cái dùi nhọn được bọc vải trên hai tay, sẵn sàng đâm bất cứ kẻ nào đụng vào nó. Một người nào đó hét to qua song sắt “Báo cáo cán bộ, phòng 5 khu AH có người bị tạt hỏa tốc”. Sau đó là tiếng loảng xoảng mở khóa và hàng chục tên công an lẫn trật tự xuất hiện trước của phòng với súng ống chĩa qua song sắt mà chưa dám vô. Thì ra, Hùng Chùa vì thù ghét cá nhân, đã đốt bao nylon chảy thành chất nhựa lỏng, đổ vào một lon cá hộp, xong nó dùng miếng giẻ rách để cầm nguyên cái lon chất lỏng đang sôi đó, ụp lên mặt Cu Đen khi nó đang ngủ say.

Vài người trong phòng dìu Cu Đen ngồi xuống, tôi vội chạy đến với tuýp kem đánh răng và xoa lên mặt nó mong làm dịu phần nào sự bỏng rát. Cả khuôn mặt nó bị lột da trắng lẫn đen nhìn rất kinh khiếp, một bên cánh mũi bị lẹm đi. Nó nói không còn nhìn thấy gì hết. Trong khi đó, vài người khác đang thuyết phục Hùng Chùa bỏ dùi xuống. Nó nhất định không. Công an hứa hẹn sẽ không đánh đập chỉ đem đi biệt giam, nó cũng nhất định không. Gần 1 tiếng đồng hồ, vừa hứa hẹn vừa dọa dẫm, cuối cùng nó gật đầu và bỏ khí giới xuống.

Ngay lập tức cửa phòng bật mở, tất cả ùa vào lôi sền sệt Hùng Chùa ra hành lang ngoài phòng. Một cơn mưa đòn trút lên cái thân hình ốm đói của nó. Nó chỉ còn biết co người lại và nằm chịu đòn. Một lúc sau, nhìn lại chỉ còn là một thân thể bê bết máu đang oằn oại trên nền xi măng. Công an còng tay nó và dẫn đi, một nhóm khác dìu Cu Đen xuống bệnh xa'.

REPORT THIS ADPRIVACY

Ba tuần sau, Cu Đen trở về phòng với khuôn mặt dị dạng, lồi lõm, thẹo thành vệt chi chít, chỗ đen, chỗ trắng, chỗ hồng vì đang ăn da non; lông mày, lông mi cháy rụi, cánh mũi trái không còn nữa, một bên môi còn hơi sưng và mắt thấy mờ mờ. Nó xin một điếu thuốc lào, cầm miếng giấy mồi lửa làm đóm hút thuốc, cứ đưa giấy lên tính châm vào nõ, lửa bị tắt. Nó làm đi làm lại nhiều lần mà vẫn không thể nào hút được điếu thuốc lào. Nó khóc và than não nề “Trời ơi, hút thuốc lào cũng không được!”. Cánh mũi trái bị mất nên làn hơi không thể nào điều chỉnh được như ý giống một người bình thường. Còn Hùng Chùa, sau khi ra khỏi biệt giam, bị đưa qua phòng khác. Nghe đồn, dân giang hồ bên đó “xử đẹp” nó, nên lại bị chuyển phòng nhiều lần nữa.

Tù Việt Nam cộng sản, khi vi phạm nội quy, sẽ bị biệt giam ăn cháo 7 hột, nghĩa là ăn cháo lỏng như nước. Biệt giam là một phòng rất nhỏ hẹp, không cửa gió, với một lối đi khoảng 30 cm, một bục xi măng vừa một người nằm. Phía chân là 1 dây xích gắn dính xuống sàn xi măng, dài khoảng 50 cm, một cái lon rỉ sét đựng phân và nước tiểu. Người tù biệt giam bị xiềng chân chỉ đi lại trong bán kính nửa mét, mỗi lần di chuyển xiềng xích kêu leng keng. Mùi hôi thối, ẩm mốc tràn ngập căn phòng. Phải mất một thời gian mới quen dần. Chỉ cần 10 ngày, trở lại phòng giam chung, tù nhân chỉ còn là bộ xương biết đi.

Một ngày giao thừa cuối năm, ai nấy đều buồn và nhớ gia đình da diết, chúng tôi tổ chức đêm 30 Tết trong phòng. Bác Hai, một ông già hom hem, móm mém, lớn tuổi nhất, khoảng trên 70, trong bầu không khí trang nghiêm, bác chia xẻ với anh em một câu chuyện ngẫu hứng ôn lại những kỷ niệm với gia đình, những ngày tháng năm xưa khi còn là một miền Nam tự do hạnh phúc. Bác yêu cầu chúng tôi hát bài Ly rượu mừng, đến khúc “kìa nơi xa xa, có bà mẹ già, ngày đêm mong con, mắt vương lệ nhòa…”. Tất cả chúng tôi nghẹn lời, hát không nổi, đây đó vài tiếng sụt sùi. Bài hát chấm dứt ngang trong im lặng. Ai nấy về chỗ mình ngồi, gục đầu, buồn hiu, cái kim rơi xuống nền nhà cũng có thể nghe được.

Ngày hôm sau, mồng 1 Tết, vào giữa trưa, tên công an trực khu đứng trước của phòng hét lớn:

– Ai tổ chức hát hò, mít tinh đêm qua?

Không có tiếng trả lời. Hắn lừ mắt nhìn từng người, ngón tay chỉ vào bác Hai:

– Thằng kia. Ai tổ chức? Nói mau. Không tao cho mày đi biệt giam.

Bác Hai bình tĩnh tiến về phía song sắt cửa:

– Xin cán bộ nói năng lịch sự đàng hoàng. Cán bộ chỉ đáng tuổi cháu tôi thôi mà dám gọi tôi bằng “thằng” hả?

Hắn đỏ mặt, lầm bầm, lúng búng cái gì trong cổ họng, rồi giận dữ bỏ đi. Từ đó về sau, không tên công an nào dám gọi người tù chúng tôi một cách xách mé, mất dạy như vậy nữa. Buồn là vẫn có những tù nhân cam tâm làm ăng ten, chỉ điểm, và báo cáo việc làm của bạn tù cho công an để đổi lại một chút ân huệ. Bọn này ở đâu cũng có.

Chuyện Nhà tù Mỹ

Làm việc trong trại giam county, vui buồn lẫn lộn, có khi rất bực bội vì tù nhân đòi hỏi quá đáng hay gây gỗ với nhau. Họ luôn đòi hỏi C.O. phải giải quyết mâu thuẫn với bạn cùng phòng. Cũng có tù nhân tìm cách báo cho tôi hay về thái độ đáng ngờ của tù nhân khác, mong được đối xử đặc biệt hơn. Có ngày, về nhà rồi mà lòng vẫn còn vướng mắc, băn khoăn.

Đôi khi tôi cũng bị căng thẳng vì cả ngày mình phải ở trong một không gian khép kín, không thấy ai khác ngoài những tù nhân mà tính khí họ thay đổi bất thường. Con người khi bị mất tự do, bị nhốt trong phòng kín thời gian dài, ai cũng dễ nổi điên. Những ai bị căn bệnh “claustrophobia”(3), sẽ không thích hợp với nghề coi tù này.

Theo một thông số mới nhất, mỗi tiểu bang phải chi ra trung bình khoảng $31,000 cho một người tù một năm (4).

– Mỗi năm, tất cả các nhà tù liên bang, tiểu bang, và địa phương toàn nước Mỹ tiêu tốn $80 billions (80 tỷ) để trả lương nhân viên, nuôi, chăm sóc sức khỏe, mọi nhu cầu cần thiết của tù nhân, và bảo trì nhà tù. Tù nhân khi đi bác sỹ, không tốn tiền mà vẫn được chăm sóc tận tình, còn hơn một công dân cần cù chăm chỉ đi cày ở bên ngoài.

  Mỗi người dân Mỹ, khi đóng thuế, phải trả khoảng $260/1 năm cho việc này. Trung cộng và Nga là hai nước có nhiều nhà tù nhất thế giới.

Thỉnh thoảng ông anh coi tù Mỹ lại phàn nàn:

-Có những ngày tôi cũng muốn nổi điên với bọn tù vì chúng nó được đằng chân thì lân lên đằng đầu. Người mình vốn hiền lành, cả nể nên thường dễ dãi với tụi nó, tụi nó lờn mặt.

Nói xong, anh uống cạn ly, rồi khè một tiếng:

– Bực thì nói vậy, chứ đối với người tỵ nạn Việt mình, thì nghề này cũng là một nghề quá tốt và lương thiện để nuôi gia đình. “Hy sinh đời bố, củng cố đời con,” phải không chú? Thôi làm một ly đi, ý quên, nhẩm một ly trà đi. Tui làm hết chai này rồi đi ngủ.

Tôi đùa:

– Còn đấm bóp hông dzậy, cha nội?

Anh cười hềnh hệch và dốc ngược đáy chai.

REFERENCES:

(1).Taser: Súng điện có thể bắn xa 20 feet, với giòng điện mạnh từ 20,000 volts lên đến tối đa 50,000 volts, làm tê liệt nhất thời người bị bắn.
https://en.wikipedia.org/wiki/Pain_compliance

(2).Hỏa tốc : chất lỏng nhựa được đun chảy từ bao nylon gói quà thăm nuôi. Người tù dùng nắp lọ dầu cù là làm khuôn và đổ chất lỏng nhựa đang sôi vào, khi nguội, gõ lấy ra, khắc chữ Tàu làm quân cờ tướng. Cũng dùng để hâm đồ ăn bị thiu bằng cách xé vải vụn trộn với hỏa tốc đang cháy trong 1 cái lon để nấu.

(3). Claustrophobia: Bệnh sợ những không gian kín, nhỏ, ngột ngạt.
https://www.merriam-webster.com/dictionary/claustrophobia

(4).Thông số về chi tiêu của nước Mỹ cho nhà tù.
https://www.google.com/

Nguyễn văn Tới

Friday, November 26, 2021

Thư của Ông Nam Lộc về báo Viễn Đông với tựa đề “Hội không được ông Nam Lộc trao $200 ngàn bao giờ”

Kính gởi chị Nguyễn Thanh Thủy, hội trưởng Hội HO Cứu Trợ Thương Phế Binh và Quả Phụ VNCH,
Đồng kính gởi anh Thanh Phong, ký giả nhật báo Viễn Đông.

Trong bài tường trình trên nhật báo Viễn Đông ngày Chủ Nhật 21 tháng 11, 2021, về cuộc họp báo để công bố kết quả của buổi Đại Nhạc Hội Cám Ơn Anh Kỳ 14, quý vị có nhắc đến tên tôi và viết: “Hội không được ông Nam Lộc trao $200 ngàn bao giờ”. Tựa đề nói trên đã vô tình tạo ra sự hiểu lầm. Vì lẽ đó tôi xin trả lời chị Thanh Thuỷ và anh Thanh Phong, đồng thời mong nhật báo Viễn Đông đăng tải lời giải thích của tôi để rộng đường dư luận.

1. Tôi không hề nhận bất cứ một đồng tiền nào để giúp đỡ Thương Phế Binh, hoặc để gây quỹ cho Hội HO Cứu Trợ Thương Phế Binh và Quả Phụ VNCH. Việc làm duy nhất mà tôi thực hiện trong thời gian qua, là sau khi nhận được sự yêu cầu của nhiều TPB, cùng các thiện nguyện viên từ VN gởi qua, cho biết là, vì đại dịch Covid-19, cho nên nhiều vị TPB/VNCH đã không nhận được sự trợ giúp tại hải ngoại như trước kia. Đồng thời họ cũng không thể đi bán vé số hoặc ra đường để kiếm ăn vì lệnh cách ly.

2. Bởi lý do trên, cho nên tôi đã quyết định, một mặt đi vận động các nhà hảo tâm, một mặt tái phát động chương trình “Mỗi Gia Đình, Một Thương Phế Binh” (mà tôi là người đã thực hiện từ khi bà cố hội trưởng Nguyễn Thị Hạnh Nhơn còn sinh tiền).

3. Kết quả là tôi đã được ông bà Nguyễn Võ Long ở Virginia, đồng ý giúp đỡ cho 2117 TPB/VNCH, mỗi người $100 US dollars. Số tiền đó đã lên đến hơn $200 ngàn dollars. Ông bà Nguyễn Võ Long đã đích thân nhờ các cơ sở chuyển ngân về VN để trao trực tiếp đến tay quý vị TPB tại quê nhà.

4. Ngoài ông bà Nguyễn Võ Long, tôi còn nhận được sự tiếp tay của hơn 400 gia đình người Việt ở khắp nơi trên thế giới, nhận lời bảo trợ từ 1 TPB hoặc nhiều hơn. Và như chủ trương cố hữu của chương trình “Mỗi Gia Đình, Một Thương Phế Binh”, quý vị ân nhân bảo trợ sẽ phải tự nguyện gởi tiền trực tiếp về quê nhà cho các TPB/VNCH. Chúng tôi KHÔNG NHẬN TIỀN CỦA BẤT CỨ AI, cho nên không có trách nhiệm hay tài chánh để trao lại cho cá nhân hay hội đoàn nào cả.

Kính mời quý vị xem lại lời kêu gọi cứu trợ TPB của tôi trong mùa đại dịch, đã được phổ biến trên tờ Người Việt cùng nhiều cơ quan truyền thông khác để tránh mọi sự hiểu lầm:Thành thật cám ơn, kính chúc quý vị một mùa Lễ Tạ Ơn an lành và hạnh phúc.

Nam Lộc

Báo Viễn Đông Daily

Tường trình kết quả Đại Nhạc Hội Cám Ơn Anh kỳ 14. ‘Hội không được ông Nam Lộc trao $200,000 bao giờ’


Bà Nguyễn Thị Thanh Thủy, Hội Trưởng Hội H.O. Cứu Trợ TPB/QP/VNCH phát biểu khai mạc. (Thanh Phong/ Viễn Đông) 

 Bài THANH PHONG

GARDEN GROVE - Vào lúc 10 giờ sáng thứ Bảy, ngày 20 tháng 11, 2021, Hội H.O. Cứu Trợ Thương Phế Binh, Quả Phụ VNCH đã tổ chức cuộc họp báo tại Thư Viện Việt Nam ở Garden Grove để tường trình kết quả tài chánh trong Đại Nhạc Hội “Cám Ơn Anh Kỳ thứ 14” tổ chức vào ngày 29 tháng 8 vừa qua tại Westminster Mall.

Chiến hữu HQ Đinh Quang Truật điều hợp chương trình. Sau nghi thức chào cờ, ông xin mọi người dành phút mặc niệm để tưởng nhớ Quốc Tổ Hùng Vương, các chiến sĩ QL/VNCH và đồng minh đã hy sinh để bảo vệ tự do cho miền Nam Việt Nam và trên toàn thế giới. Đặc biệt tưởng nhớ người chị cả Nguyễn Thị Hạnh Nhơn và cố Đại Tá Nguyễn Hồng Tuyền, người đã tổ chức Đại Nhạc Hội Cám Ơn Anh tại miền Bắc tiểu bang California.

Sau phút mặc niệm, ông Đinh Quang Truật giới thiệu và mời lên bàn chủ tọa: Ông Nguyễn Dinh (Phó Nội Vụ), Bà Nguyễn Thị Thanh Thủy (Hội Trưởng), ông Trần Xuân Tiên (Phó Ngoại Vụ) và ông Bùi Đẹp (Tổng Thư Ký), bà Nghiêm Thanh Hà (Thủ Quỹ) và niên trưởng Nguyễn Văn Ức (Cố Vấn Hội H.O).

Về phía tham dự có một số cơ quan truyền thông, niên trưởng Lê Quang Dật và Bùi Trọng Nghĩa (Hội Đồng Quản Trị Đền Đức Thánh Trần), các chiến hữu Shu A Cầu (Võ Bị), Võ Thanh Hải (mũ đỏ), niên trưởng Nhan Hữu Hậu, ông Phạm Gia Đại cùng một số chiến hữu, đồng hương không ghi danh nên ban tổ chức không thể giới thiệu.

 
Niên trưởng Nguyễn Dinh (Phó Nội Vụ) tường trình kết quả tài chánh Đại Nhạc Hội Cám Ơn Anh kỳ 14. (Thanh Phong/ Viễn Đông) 

Bà Nguyễn Thanh Thủy ngỏ lời tri ân tất cả quý vị đã sốt sắng hợp tác và giúp đỡ Hội tạo bầu không khí vui tươi, hào hùng đưa đến sự thành công tốt đẹp của Đại Hội. Bà Hội Trưởng nói, “Nhân lúc cơn đại dịch Covid -19 có vẻ giảm bớt, Hội đã nhanh chóng nghĩ đến việc gây quỹ giúp thương phế binh và quả phụ VNCH dưới hình thức Đại Nhạc Hội Cám Ơn Anh như các năm trước.

“Dù biết còn nhiều khó khăn, trở ngại, nhưng Hội đã may mắn được sự tiếp tay của các quân binh chủng của QL/VNCH, các tập thể chiến sĩ, các hội đoàn, các em hậu duệ, Tổng Hội Sinh Viên, học sinh thuộc thành phố Garden Grove, cùng sự đóng góp của các ca sĩ, MC, các chuyên viên kỹ thuật và đài truyền hình THVN 24 của Giám Đốc Phạm Hợp và quý cơ quan truyền thông báo chí.

“Vì luôn quan tâm đến hoàn cảnh khó khăn của anh em TPB và QP/ VNCH ở quê nhà, Hội H.O. Cứu Trợ TPB/QP/VNCH vẫn liên tục sinh hoạt đều đặn qua hai lần họp hàng tháng vào đầu tháng và giữa tháng. Cụ thể là vào giữa tháng 3/2020, dù đại dịch Covid bắt đầu lan tỏa, Hội vẫn gửi tiền về giúp anh chị em TPB/QP bằng tiền gây quỹ của các Đại Nhạc Hội Cám Ơn Anh kỳ 12, và các Đại Nhạc Hội ở Dallas, Texas, Đại Nhạc Hội Xuân tại Bắc Cali. Hội luôn dự phòng tiền để đáp ứng những trường hợp cấp bách của anh em TPB và quả phụ như nằm bệnh viện, tang chế hay hoàn cảnh bị phong tỏa không kiếm sống được.”

Sau đó bà nêu những sự cố gắng của Hội để làm sao có ngân khoản gửi cho các TPB/QP/VNCH. May thay năm 2020 có một ân nhân gửi tặng Hội 6 ngàn khẩu trang, Hội bèn in thêm logo của Hội và gửi biếu các gia đình ân nhân. Qua năm 2021 Hội phát hành Đặc San Xuân Tân Sửu và cũng gửi tặng các ân nhân, sau đó nhờ lòng hảo tâm của quý ân nhân Hội đã có một số ngân khoản gửi về giúp anh em TPB/QP/VNCH trong lúc gặp cảnh ngặt nghèo vì dịch bệnh Covid -19.

Để có kết quả tường trình đồng hương hôm nay, Hội đã cố gắng làm việc liên tục 3 tháng qua trong lúc vẫn gửi tiền về cho anh em TPB và QP/VNCH nhất là tại Saigon và các vùng bị bão lụt. Thay mặt Ban Điều Hành, bà Thanh Thủy trân trọng cảm tạ một số ân nhân tiêu biểu, trong đó có Tổng Hội Võ Bị Quốc Gia Việt Nam tặng $34,000, Nghị Viên Kimberly Hồ và gia đình thân mẫu nghị viên tặng $20,000; Bác sĩ Michael Đào tặng $16,500; bác sĩ Nguyễn Thanh Mỹ cùng nhóm hậu duệ ở Tampa Florida tặng $10,000. Ngoài ra, nghị viên Phát Bùi, Chủ Tịch Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Nam Cali cũng vận động quyên góp được khoảng $20,000.

Cuối cùng, bà Hội Trưởng thay mặt anh em TPB,QP/VNCH và Hội H.O xin trân trọng cảm tạ quý đồng hương, quý chiến hữu, quý ân nhân, quý cơ quan truyền thông báo chí đã thể hiện tình nghĩa sâu đậm với các thương phế binh và quả phụ VNCH. Xin kính chúc quý vị và gia đình luôn hạnh phúc và may mắn”.

 
Ông Trần Xuân Tiên (Phó Ngoại Vụ) tường trình cách thức phân phối tiền và gửi tiền cho TPB/QP/VNCH. (Thanh Phong/ Viễn Đông)

 Sau lời phát biểu của bà Hội Trưởng Nguyễn Thanh Thủy, ông Nguyễn Dinh, Phó Nội Vụ tường trình chi tiết các khoản thu chi trong đại nhạc Hội Cám Ơn Anh kỳ 14, chúng tôi xin tóm gọn như sau:

Tiền bán vé : $19,618.00

Tiền ân nhân đóng góp trong ngày ĐNH: $101,944.89

Tiền ân nhân gửi đến Hội: $257,853.12

Tiền ân nhân cho qua Credit Card: $12,965.00

Tổng cộng thu: $392,381.01

Tổng số Chi (Có bảng chi tiết): $153,756.12

TỔNG SỐ TIỀN CÒN ĐỂ GỬI CHO TPB.QP là: $238,624.89.

Sau đó, ông Phó Ngoại Vụ Trần Xuân Tin tường trình chi tiết về cách thức phân phối tiền và cách gửi tiền về cho anh em TPB.QP/VNCH để chắc chắn tiền đến tận tay anh em TPB và các chị quả phụ. Một thiện nguyện viên là ông Phạm Anh Vũ lên phát biểu về chương trình “Mỗi gia đình một TPB” do ông đề xướng trước đây và được Hội chấp nhận.

Theo ông, mỗi gia đình người Việt tại hải ngoại có thể bảo trợ một gia đình TPB hay QP/VNCH. Ông và Hội sẽ cung cấp danh sách TPB/QP để gia đình chọn, và khi đã nhận, gia đình đó có thể gửi tiền giúp đỡ trực tiếp cho TPB hay QP/VNCH mà không cần phải qua Hội. Ông cho biết đã có một số gia đình tại hải ngoại hưởng ứng và ông đã chiếu lên màn ảnh cho thấy tên họ TPB, tình trạng của họ và tên gia đình người Việt bảo trợ. Nếu quý gia đình nào muốn bảo trợ, xin liên lạc với ông Anh Vũ (714)858-7450 hay bà Thanh Thủy (714) 837-5998.

Phần còn lại dành cho mọi người đặt câu hỏi để chủ tọa đoàn giải đáp. Chỉ một câu hỏi duy nhất của ông Đặng Kim Thu (Khóa 19 trường Võ Bị Quốc Gia Đalat) hỏi, “ Sau ngày ĐNH Cám Ơn Anh kỳ 14 vài ngày tôi đọc trong tờ báo Người Việt thấy ông Nam Lộc đăng lên là tự ông Nam Lộc đã vận động được hơn 200 ngàn cho Hội Cứu Trợ TPB. Nãy giờ tôi theo dõi báo cáo tài chánh, tôi không biết trong đó có phần của ông Nam Lộc hay không? Nhờ chủ tọa đoàn giải thích giùm. Xin cám ơn quý vị.”

 
Niên trưởng Đặng Kim Thu đặt câu hỏi với chủ tọa đoàn. (Thanh Phong/ Viễn Đông)

 Bà Thanh Thủy trả lời, “Từ khi báo Người Việt đăng số tiền 200 ngàn do ông Nam Lộc vận động thì nhiều người đã thắc mắc lắm, hỏi coi Hội mình có nhận được tiền đó không? Thì tôi chỉ trả lời, việc đó Hội không biết gì hết. Bây giờ tôi muốn nói đây để trả lời chung cho tất cả quý vị ở các nơi muốn tìm hiểu, kể từ ngày mùng 9 tháng 8 năm 2018 ông Nam Lộc trước là Cố Vấn Tổng Quát của Hội đã xin từ nhiệm với hai lý do: Một là vì vấn đề sức khỏe, hai là bận chuyện gia đình, vì các cháu đã ra trường và mở văn phòng nên ông cần giúp đỡ. Còn 200 ngàn đó chỉ nghe nói trên báo chí thôi chớ từ ngày ông Nam Lộc rời khỏi Hội cũng như đến bây giờ, sau cái vụ $200,000 chưa bao giờ tôi là Hội Trưởng có được nói chuyện với ông Nam Lộc, hoàn toàn không có. Ông Nam Lộc không còn dính dáng đến Hội mà Hội cũng không được ông trao $200,000 bao giờ. Vậy tôi thưa trước báo chí để mọi người biết.” Và buổi họp báo kết thúc

Quý đồng hương muốn bảo trợ TPB/QP/VNCH xin gửi chi phiếu về P.O.Box 25554 Santa Ana. CA 92799 hoặc liên lạc với Hội qua số điện thoại: (714) 837-5998 hoặc (714) 371-7967./.

 
Một số người ở lại chụp hình với chủ tọa đoàn. (Thanh Phong/ Viễn Đông)

Diễn hành Tết 2022

 

Cuộc diễn hành Tết trên đường Bolsa sáng thứ Bảy, 13 tháng 2, 2016. (Thanh Phong/ Viễn Đông)

WESTMINSTER - Vào đầu tuần này Ban Tổ Chức Diễn Hành Tết Little Saigon đã phổ biến một thư mời họp báo, và qua thư mời, người ta được biết năm nay khu phố Little Saigon trải rộng qua hai thành phố Westminster và Garden Grove sẽ có một cuộc diễn hành Tết duy nhất, thay vì hai cuộc diễn hành như đã diễn ra vào đầu năm 2020 trước khi xảy ra đại dịch toàn cầu. Năm 2021 đã không có diễn hành Tết vì đại dịch.

Thư mời họp báo cho biết Diễn Hành Tết Nhâm Dần 2022 sẽ được tổ chức vào ngày 5 tháng Hai, 2022, từ 9 giờ sáng đến 12 giờ trưa, trên đường Bolsa Avenue, Westminster. Đại lộ này là nơi đã được tổ chức Diễn Hành Tết vào mỗi đầu năm âm lịch trong hơn một thập niên qua.

Tuy nhiên, vào đầu năm 2020, Diễn Hành Tết Xuân Canh Tý đã có hai cuộc diễn hành được tổ chức trong cùng một cuối tuần. Buổi diễn hành đầu tiên do Thành Phố Westminster tổ chức diễn ra trên đường Bolsa Avenue vào thứ Bảy, ngày 25 tháng Giêng, tức ngày Mồng Một Tết Canh Tý. Qua ngày hôm sau, Chủ Nhật, 26 tháng Giêng, là cuộc diễn hành Tết do Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Nam California tổ chức trên đường Westminster Avenue thuộc Thành Phố Garden Grove.


Thư mời họp báo về Little Saigon Tet Parade

Năm nay hình như không có sự cạnh tranh nào đáng nói giữa các phe nhóm, và có lẽ vì vậy nên Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Nam California đã đứng ra thực hiện cuộc diễn hành Tết trên đường Bolsa Avenue như Cộng Đồng đã từng làm trong suốt tám năm, trước khi phải nhường địa điểm vào đầu năm 2020.

Ông Bùi Phát, Trưởng Ban Tổ Chức Diễn Hành Tết Little Saigon và cũng là Nghị Viên Thành Phố Garden Grove, nói trong thư mời họp báo đề ngày 22 tháng 11, “Năm nay, Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Nam California cùng với Liên Hội Cựu Chiến Sĩ, Trung Tâm Tây Nam Tập Thể Chiến Sĩ, và một số cộng đồng và hội đoàn sẽ cùng chung sức tổ chức Diễn Hành Tết Nhâm Dần, 2022.

“Đây là năm thứ 9, chúng tôi tổ chức Diễn Hành Tết và năm nay chúng tôi trở lại tổ chức Diễn Hành Tết tại Thành Phố Westminster trên đại lộ Bolsa, từ đường Magnolia đến đường Bushard.”

Thư mời cho biết Ban Tổ Chức sẽ cung cấp thêm chi tiết trong buổi họp báo vào lúc 2 giờ trưa thứ Sáu, ngày 26 tháng 11, tại QT Golden Market Place, 9772 Garden Grove Boulevard.

Thursday, November 25, 2021

Nghịch cảnh ở ai? - TTNH -

Tôi có một người cháu tên Nhi gọi tôi bằng dì. Liên hệ bà con xa, gần thế nào tôi không rõ lắm, chỉ biết là lần đầu gặp Nhi từ miền Trung vô Sài Gòn, Nhi đã hai mươi hai tuổi, và hy hữu là ở cùng cư xá Chu Mạnh Trinh, Phú Nhuận với nhà tôi. Nhi ở dãy A, nhà tôi dãy E đi bộ qua lại chừng hai phút.

Nhi theo chồng vào đây và đi học. Đã hai mươi hai tuổi và đã lập gia đình nhưng trông Nhi rất trẻ con, có lẽ nhờ nét mặt mộc mạc ngây thơ, ánh mắt thật thà thánh thiện, đặc biệt có hai răng khểnh rất duyên, mỗi khi cười làm tăng nét hồn nhiên chân thành vốn sẵn có trên khuôn mặt bầu bĩnh hiền lành phúc hậu của Nhi. Tôi hơn Nhi năm tuổi, còn độc thân. Do gần nhà nên Nhi hay chạy sang chơi. Ngay lần đầu mới gặp, Nhi đã chinh phục mọi cảm tình của cả nhà từ cha mẹ, anh chị em và đương nhiên cả tôi nữa.

Hằng ngày tôi và Nhi đều bận rộn. Tôi đi làm, nhân viên của một ngân hàng. Còn Nhi bận học và bận làm dâu. Thỉnh thoảng cuối tuần, dì cháu mới gặp nhau hủ hỉ tâm tình, shopping chợ Bến Thành, lả lướt trên vỉa hè đường Lê Lợi, hoặc rủ nhau khèo mận nhà hàng xóm, trái sum suê trĩu cành, sát bên hông ban công nhà tôi, trông cứ nhởn nhơ, khiêu khích, chỉ đưa tay qua khe hở của thành tường là hái được. Rồi hai dì cháu hỉ hả nói cười chấm muối ớt ăn với nhau, bị bố tôi bắt gặp, la cho một trận “con nhà tử tế, không nên hái trộm như thế”, chúng tôi mới thôi.


Nhi lúc 22 tuổi (ảnh tác giả gửi)

Dù ở gần nhau, nhưng đa phần thì Nhi hay sang tôi. Ngoài vui chơi với tôi, Nhi còn nhờ các ông anh bác sĩ của tôi chữa căn bịnh hiếm muộn mà Nhi đang mắc phải, chứ tôi vì ngại cụ bố chồng của Nhi khó tính khó nết, có cặp mắt sắc, nhìn ai như soi thấu tim gan người đối diện. Mới gặp cụ, ai cũng rụt rè ngan ngán trước vẻ nghiêm trang đến nghiêm khắc của cụ. Cụ là một nhà nho cỡ… nho chùm. Vóc dáng cao, gầy, quắc thước thanh tao. Chòm râu bạc gần đến bụng với bộ bà ba trắng lúc ở nhà trông cụ như một tiên ông. Còn khi ra đường, cụ đĩnh đạc với chiếc áo dài the đen, khăn đóng.


Cụ bố chồng của Nhi (ảnh tác giả gửi)

Tôi chỉ ghé qua khi nhờ cụ chấm và đoán lá số tử vi thôi, hoặc những bịnh phụ nữ cần thuốc Bắc xin toa cụ. Cụ rất giỏi tử vi và Đông y. Đặc biệt cụ làm để giúp đời, không nhận thù lao bất cứ ai. Nhiều khi, tôi thầm phục cô cháu gái, một thiếu nữ thuộc tuýp thời đại mà giỏi chịu đựng, trong nếp sống cực kỳ khuôn khổ, khuôn phép do cụ đề ra. Phụ nữ thì phải thế này thế kia, công – dung – ngôn – hạnh, đi đứng nằm ngồi, ăn nói phải nhẹ nhàng, thanh tao, lễ phép, thậm chí mở miệng hát nhỏ cũng không được. Theo cụ, xướng ca là vô loài! Chỉ khi qua nhà tôi, tôi mới thấy Nhi sống… thực với bản chất của mình, nhanh nhẩu, vui vẻ, hoạt bát, hồn nhiên, nói cười rổn rảng…

Nhi vô Sài Gòn sinh sống được hơn năm thì biến cố 30 Tháng Tư 1975 xảy đến. Tôi bị mất việc vì toàn bộ ngân hàng đóng cửa. Còn Nhi nghỉ học, “thất học”, do là “vợ ngụy” lý lịch đen thui, không thích hợp với chủ trương chính sách bài trừ “ngụy quân, ngụy quyền” của chế độ mới. Và ngay sau Tháng Tư, chồng Nhi cũng “giải nghệ” đời quân nhân, mất luôn sổ lương.

Trước nguy cơ kinh tế đe dọa, ai ai cũng lo chuyện áo cơm, Nhi xoay sở thế nào mà biết được có chỗ sản xuất đan máy áo len, loại áo len màu xanh dương (màu công nhân) mà hầu hết cán bộ, bộ đội và dân miền Bắc vào Nam ai cũng mua mang về. Nhi rủ tôi, hai dì cháu nhận hàng của xưởng đan, mỗi người một túi lớn áo, chất trước rổ xe đạp, đạp ra chợ Bến Thành đứng ngay đầu đường Lê Thánh Tôn chào hàng.

Từng là những tiểu thư con nhà danh giá, nay ra đứng đường, hai dì cháu ngó nhau cứ thộn mặt ra. May sao, dì cháu chúng tôi đứng không lâu, có một thiếu phụ từ đâu đến hỏi:

– Hàng này các cô bán hay mua về?

Nhi mừng quýnh, nhanh nhẩu đáp:

– Dạ bán ạ.

– Thế thì hai cô theo tôi, tôi mua tất.

Chúng tôi mừng rơn, vui vẻ dắt xe theo người thiếu phụ. Cửa hàng của bà ngay trên đường Lê Thánh Tôn gần đó, cũng tiện cho chúng tôi. Vào nhà đếm áo mặc cả giá cả và trả tiền xong, bà nói:

– Ngày mai, các cô tiếp tục giao hàng cho tôi. Bao nhiêu cái cũng được.

Đạp xe ra về, hai dì cháu vui mừng khôn xiết. Gặp mối ngon béo bở, lòng hớn hở còn hơn trúng số độc đắc. Về nhà khoe ầm lên, ai cũng vui. Rồi như bà chủ dặn dò, ngày hôm sau chúng tôi tiếp tục giao hàng. Thế nhưng, lần thứ ba đến bà, chưa kịp vào nhà, bà chủ mắng xối xả:

– Tôi không lấy hàng của các cô nữa. Mặt mày các cô trông sáng sủa con nhà mà đi lừa gạt!

Trời! Tôi và Nhi ngớ người ra, trố mắt ngạc nhiên, không hiểu chuyện gì xảy ra. Bà ngoắc tay bảo chúng tôi vào nhà, bà đem từng chiếc áo len trước và sau ra cân.

– Các cô xem. Cái áo đầu tiên các cô bán, tôi cân được 500 gram. Áo hôm qua chỉ còn 400 gram. Và hôm nay coi nè chỉ còn 350 gram là sao?!

Chúng tôi hiểu ra, từ tốn phân bua:

– Bà ạ, những áo len này chúng tôi cũng chỉ nhận từ chỗ người khác đan, không phải nhà làm. Chúng tôi chỉ biết nhận áo, tính theo cái, chứ đâu biết phải cân thế này. Thôi, để chúng tôi về thưa với họ.

Nhìn vẻ ngơ ngác thật thà của chúng tôi, bà dịu giọng:

– Thôi được, tôi vẫn nhận số áo hôm nay. Ngày mai, nếu áo cân đúng 500 gram thì đem tới.

Về chỗ xưởng đan, chúng tôi trình bày sự việc, họ không hiểu cho, còn nạt cho một mẻ:

– Áo chỉ có vậy, không nhận thì thôi. Hàng hóa đang khan hiếm, thiếu gì người cần hàng.

Rồi họ không cung cấp cho dì cháu chúng tôi nữa. Thế là từ đó chúng tôi thất nghiệp dài hạn. Nỗi lo lắng về kinh tế không riêng gì chúng tôi mà cả miền Nam rơi vào tình trạng túng quẫn trước chính sách khắc nghiệt, ngăn sông cấm chợ của chế độ mới. Mọi người cầm cự qua ngày bằng cách bán dần đồ đạc trong nhà, hoặc mánh mung chợ trời, chợ đất.

Nhi cũng vậy, nhưng Nhi nhờ cha mẹ khá giả tại miền Trung tiếp tế, nên xem ra Nhi cũng không vất vả cho lắm. Thế nhưng, sau ngày chồng Nhi vô tù cải tạo, rồi đưa ra Bắc, tôi lại ít gặp Nhi. Phần tôi cũng lo bon chen tìm kế sinh nhai, lăn lộn ở chợ đời nên cũng không thăm Nhi. Bẵng một thời gian dài, không thấy Nhi qua chơi, tôi mon men ghé nhà Nhi hỏi thăm. Tôi sửng sốt thấy Nhi thay đổi hoàn toàn, không còn là Nhi nhí nhảnh hồn nhiên cởi mở của ngày xưa. Trên khuôn mặt khả ái thân thiện ngày nào hiện rõ nét buồn xa vắng, khép kín. Gặp lại tôi, Nhi không vồn vã vui vẻ như dạo nào, chỉ chào khẽ rồi lặng lẽ ngồi xuống mép giường buông một tiếng thở dài nhè nhẹ. Tôi ngạc nhiên hỏi:

– Cháu dạo này khỏe không, sao lâu rồi không thấy cháu sang nhà chơi?

Tôi vừa dứt câu, Nhi không trả lời, gục mặt xuống giữa hai lòng bàn tay òa khóc. Nghĩ Nhi buồn vì chồng vắng nhà, tôi xoa lưng Nhi, an ủi:

– Chồng cháu đi cải tạo rồi cũng về mà.

Nhi chỉ lắc đầu không nói. Lần khác, tôi lại qua thăm Nhi, vẫn nét mặt âu sầu áo não, ánh mắt buồn vời vợi, tôi nhìn Nhi chạnh lòng, thương đời một cô gái trẻ sống kiếp cô phụ chờ chồng không biết bao giờ tái hợp. Dù an ủi cách mấy, vẫn thấy Nhi lầm lì trầm tư. Nhiều lần ngồi bên tôi, Nhi thừ người đăm chiêu nghĩ ngợi không nói gì, mắt bâng quơ lơ đãng nhìn ra khung cửa bên ngoài như kẻ mất hồn. Tôi có hơi ngạc nhiên, tự hỏi. Chồng vắng nhà đi tù cải tạo là nạn chung của cả miền Nam, người vợ nào chẳng buồn, nhưng đâu thể buồn thái quá như Nhi hiện tại. Đã vậy lâu lâu, chỉ mới mở miệng nhắc đến chồng, Nhi lại cúi gằm ôm mặt khóc. Hỏi tại sao, Nhi chỉ lắc đầu không nói.

Rồi cứ thế, thời gian lặng lờ trôi. Thấm thoát mà đã hơn sáu năm trời với bao vật đổi sao dời, tôi vẫn ngạc nhiên về sự thay đổi quá lớn lao trong tâm hồn Nhi. Nó vẫn âm thầm lặng lẽ sống bên cụ bố chồng như một chiếc bóng với trách nhiệm của một nàng dâu gương mẫu, chờ chồng. Tôi thương cháu nhưng cũng không giúp gì được ngoài việc lâu lâu ghé nhà hỏi thăm.

Dạo này thấy Nhi cũng bận rộn nhiều với khách khứa, đa số bà con họ hàng ngoài Bắc phía cụ bố chồng vào thăm. Nhi vẫn như chiếc bóng, sống khép kín, không nói năng tâm sự gì, và cũng không có bạn bè thân thuộc, ngoài tôi. Nụ cười dường như đã tắt hẳn trên môi Nhi. Hai chiếc răng khểnh duyên dáng thu hút người nhìn đã không còn dịp hé ra nữa. Ánh mắt, nét mặt Nhi luôn phảng phất nỗi buồn xa vắng…


Minh họa: Fakurian Design/Unsplash

Một hôm, bỗng thấy Nhi sang nhà tôi. Nó hỏi tôi, tuần tới nó vượt biên, dì có đi cùng cháu không, nơi tổ chức còn hai chỗ. Vượt biên là điều lúc này ai cũng mong. Đi đâu, ở đâu, chỗ nào cũng nghe thiên hạ bàn về chuyện vượt biên. Thành công đến bến bờ cũng lắm mà làm mồi cho cá cũng nhiều. Tất cả đều đem sinh mạng đánh loto để khỏi chết dần mòn trong chế độ khắc nghiệt quái dị của cộng sản. Tôi cũng mơ đổi đời nhưng điều kiện chưa cho phép. Tôi nói:

– Nếu đi qua đó trả vàng sau thì dì đi, chứ đưa trước thì dì không có.

– Người giúp cháu họ cho cháu góp tượng trưng, dì ạ. Nhưng dì thì phải đóng đủ, chỉ vài cây thôi mà.

Tôi vẫn lắc đầu, thế là tuần sau, Nhi một mình ra đi… Khi Nhi đi rồi, tôi ghé qua nhà hỏi thăm tin tức chuyến đi của Nhi. Cụ Đặng, bố chồng Nhi tiếp tôi với nét mặt dàu dàu thương cảm, cụ nói trong nước mắt giàn giụa:

– Nghĩ thương cho em nó quá, dì ạ. Thân gái một mình dặm trường bôn ba nơi xứ lạ, tôi đâu muốn để em nó đi một mình như thế. Nhưng nó quyết nhất định phải đi, không cho đi nó đòi tự tử!

Nói xong, cụ khóc ròng, nước mắt sợi vắn, sợi dài thi nhau lăn trên đôi má nhăn nheo. Tôi ngồi lặng thinh, lòng cũng rưng rưng chùng xuống nhưng cố kìm lại để ngăn không cho lệ chảy ra. Cụ Đặng vẫn khóc:

– Nó đi như vậy vô cùng nguy hiểm, không biết sống chết như thế nào. Nếu có bề gì, tôi ân hận suốt đời. Rồi tôi ăn nói làm sao với các cụ thân sinh bên nhà em. Số em nó cũng vất vả, đâu ai muốn đẩy em vào đường cùng như thế.

Tôi không an ủi gì được, chỉ ngồi yên lắng nghe để sẻ chia nỗi niềm với cụ. Tôi cũng định nhân cơ hội hỏi thăm cụ về hiện tượng lạ lùng thay đổi của Nhi, nhưng thấy không tiện, tôi lại thôi. Mười ngày sau, tôi lại ghé qua hỏi thăm tin tức của Nhi, rất mừng là chuyến đi của Nhi đã đến bến bờ bình yên sau năm ngày lênh đênh trên biển. Cụ Đặng cũng bớt căng thẳng lo âu nhưng trên khuôn mặt cụ vẫn chất chứa nỗi buồn sâu thẳm.

An lòng về cuộc sống mới của Nhi, dù thế nào ra được nước ngoài vẫn hơn kẹt tại quê nhà với bao điều khó khăn vây bủa, tôi không quan tâm đến Nhi nữa. Thế nhưng vài tháng sau, bất ngờ tôi nhận thư Nhi gửi từ đảo Bidong, Malaysia. Thư viết thật dài kể lể mọi nỗi thống khổ mà Nhi chịu đựng bấy lâu. Bấy giờ tôi mới rõ ngọn ngành tại sao Nhi không còn là cô bé vui vẻ, nhí nhảnh, yêu đời ngày xưa, có con mắt biết nói, biết cười từng chinh phục bao niềm thương quý của cả gia đình tôi.

Đọc thư Nhi, tôi khóc ròng. Nước mắt cứ từng giọt chảy dài theo từng nỗi niềm trong bức thư. Thế mà bấy lâu khi còn ở Việt Nam, Nhi không chịu nói ra, âm thầm ấp ủ nỗi thương đau chịu đựng một mình không thổ lộ với bất cứ ai, kể cả tôi. Nhi ôm nỗi buồn lặng lẽ ra đi, hầu mong chân trời mới có thể xoa dịu và xóa nhòa vết thương lòng mà Nhi gánh chịu. Rời xa quê cha đất tổ, bỏ cả gia đình với bao người thân yêu trong đó có người chồng mà Nhi hết mực thủy chung. Nhi đau buồn thật nhiều, nhưng Nhi không còn cách nào khác để giải quyết vấn nạn cuộc đời Nhi…

Sau vài tháng của Tháng Tư đen 1975, kể từ khi chồng Nhi đi cải tạo vắng nhà, cụ Đặng liên lạc được với toàn bộ gia đình bà con họ hàng của cụ ngoài Bắc (cụ di cư vào Nam 1954 chỉ với hai bố con). Nhi mới vỡ lẽ chồng Nhi trước khi rời làng đã có một đời vợ và một đứa con trai ngoài Bắc. Cuộc hôn nhân kiểu phong kiến do gia đình sắp đặt khi chồng Nhi vừa 16 tuổi và vợ tròn đôi mươi. Biến cố tang thương đất nước chia cắt, người vợ đó kẹt tại quê nhà do vừa mới sinh con, thế mà từ bấy đến giờ, mẹ con người đó vẫn ở vậy chờ chồng với bao gian nan khốn khổ trong chế độ cộng sản áp bức thành phần “trí, phú, địa hào” và gia đình có người vào Nam. Biết được tin này, Nhi như tiếng sét đánh ngang đầu. Nhi chết lặng với cơn đau xé ruột xé gan không sao tả xiết. Đêm đêm Nhi chỉ còn biết khóc và khóc…

Rồi Nhi ra đi, đó là phương cách cuối cùng, duy nhất để giải quyết vấn đề. Nhi “trả” chồng lại cho người ta, dù gì cả hai cũng đã có mối dây liên hệ huyết thống. Đó là cậu con trai. Còn Nhi và chồng chưa ràng buộc gì ngoài tình yêu mà cả hai dành cho nhau. Ra đi, Nhi vẫn còn rất thương chồng, nhất là lúc này chồng Nhi đang sa cơ lỡ vận. Bỏ thì thấy thương, vương vào thì tội cho Nhi. Đứng trước ngã ba đường, Nhi không còn cách lựa chọn nào khác thả đời buông xuôi theo số phận, như chiếc lục bình lênh đênh trên dòng sông đời giữa bão tố, mưa sa, như cánh chim lạc đàn tả tơi trước dông bão cuộc đời.

Rồi Nhi tấp vào Âu châu thay vì đến Mỹ diện vợ sĩ quan cải tạo. Nơi chân trời mới, tôi cứ ngỡ, sẽ là cơ hội để Nhi làm lại cuộc đời. Nhi còn quá trẻ, mới 29 tuổi đầu, với dung nhan thiện cảm và một tâm hồn hiền lương trong sáng, tôi nghĩ sẽ dễ dàng cho Nhi có một cuộc sống mới hạnh phúc. Thế mà đã nhiều năm trời, mỗi lần tôi ghé qua nhà cụ Đặng hỏi thăm về Nhi, thì bây giờ chính cụ, mỗi khi nhắc đến Nhi, cụ lại khóc:

– Dì ạ, tôi nghĩ thương cho em nó quá. Bôn ba nơi xứ lạ quê người, ra đi với hai bàn tay trắng. Ngày em xuống tàu chỉ có 100 bạc Việt Nam lận lưng, em cũng gởi bà chủ tàu cầm về cho tôi. Nhận tiền mà tôi không cầm được nước mắt. Bây giờ không biết nơi xa, em nó trông mong nương tựa vào ai. Nếu em nó có bước đi bước khác, tôi và chồng em trăm lần không, vạn lần không, và triệu triệu tỉ tỉ lần không, không bao giờ trách em trong hoàn cảnh như thế. Thế mà đến giờ, nó vẫn ở vậy lăn lộn với cuộc sống tìm kế nuôi thân, còn luôn gửi tiền về phụng dưỡng tôi và giúp đỡ gia đình giữa lúc kinh tế kiệt quệ bế tắc như thế này.

Nói tới đây, cụ mủi lòng, rưng rức khóc thành tiếng. Tôi cảm nhận được tình thương chân thành sâu đậm cụ dành cho con dâu, nhưng tôi chỉ ngồi lặng thinh, lòng cũng xốn xang, không biết an ủi sao hơn. Rồi khi nước mắt làm vơi bớt nỗi niềm trong cụ, cụ lại nói tiếp:

– Từ ngày em nó bước chân về nhà chúng tôi, tôi và chồng em đã chưa bao giờ tạo cho em có một cuộc sống vật chất sung sướng. Kinh tế nhà chỉ một đầu lương cũng chật vật lắm dì ạ, nhưng em không than van oán trách gì, vậy mà giờ trong hoàn cảnh thế này, đẩy em nó gánh vác gia đình khi cái đòn gánh chúng tôi cũng không có để trao cho em.

Nói xong, cụ khóc òa, nước mắt cứ liên tục chảy dài theo từng lời tỉ tê nói về Nhi. Tôi cũng không kìm được xúc động, rưng rưng khóc theo cụ.

Nhiều năm sau, không chịu nỗi chính sách khắc nghiệt, quái dị đi ngược lòng dân của chế độ cộng sản, bằng mọi cách tôi cũng tìm đường trốn ra nước ngoài. Và tôi định cư tại Hoa Kỳ. Ngày tôi gặp lại Nhi, dễ chừng mấy chục năm sau nhân cơ hội Nhi du lịch qua Mỹ và ghé thăm tôi. Tôi đưa Nhi thăm thú nhiều nơi. Nhi đã tươi tắn lại như xưa dù bây giờ Nhi đã “nửa chừng xuân” bước vào tuổi bốn mươi. Gặp lại Nhi, dì cháu tay bắt mặt mừng tíu tít kể lại bao kỷ niệm. Đi bên cạnh Nhi còn có ông xã, chính là người chồng sau hơn mười ba năm Nhi mới gặp lại.


Bức tượng Phật Bà (ảnh tác giả gửi)

Tà tà rảo bước trên sân chùa Kim Sơn, một tu viện tọa lạc trên đỉnh núi cao thuộc thành phố San Jose, miền Bắc California, sau khi vào chánh điện đảnh lễ Phật, dì cháu loanh quanh vào cửa tiệm chùa, nơi phát hành đủ loại tôn tượng lớn, nhỏ các vị Phật và Bồ Tát. Nhi thỉnh được một tôn tượng Quán Thế Âm rất ưng ý. Tượng bằng đá màu xám nhạt, cao chừng hai gang tay, vừa vặn kích thước ban thờ Nhi mong đợi, điêu khắc rất tinh xảo, sắc nét. Trong cơn bão biển thập tử nhất sanh lúc vượt biên, Nhi đã từng khấn nguyện cầu bình an và phát nguyện qua cơn nguy khốn, Nhi sẽ thờ Ngài như một sự tri ân tưởng nhớ Ngài.

Trong khi chồng Nhi vẫn mải miết ngắm chân dung Phật trong tiệm, dì cháu tôi bước ra ngoài hít thở không khí trong lành khoáng đãng. Cảnh trí thiên nhiên hùng vĩ tú lệ. Những hàng thông ngạo nghễ cao, to. Thân đầy lỗ li ti do chim gõ kiến đục dự trữ những hạt đậu, hạt sồi làm thực phẩm. Thoảng trong gió, hòa với tiếng chim ríu rít, nhạc Phật thánh thót từ trong chùa phát ra khiến lòng người cảm thấy khoan khoái nhẹ nhàng tưởng như đang ngự trên tiên cảnh. Vừa đi, Nhi thả hồn bâng quơ đưa mắt nhìn về khoảng trời xa, nơi có vùng biển xanh xa tít chân trời thấp thoáng vài chiếc tàu buồm qua lại, Nhi lên tiếng tâm sự:

– Dì thấy đó, cả đời cháu kiếp này không làm gì nên tội, thế mà tại sao cuộc đời luôn trắc trở gian nan gặp toàn điều bất như ý. Sau ngày 30 Tháng Tư 1975, cháu chỉ còn một con số không to tướng. Mất hết tất cả, tình yêu, tương lai và niềm hy vọng. Không riêng những mộng đẹp cháu hằng ấp ủ mà ngay người chồng thân yêu cũng bấp bênh vuột ra khỏi tầm tay. Cháu buồn không nói nên lời. Lúc đó, cháu chỉ còn muốn chết.

Ngưng một lát, Nhi tiếp:

– Chồng cháu ngồi tù cải tạo ngoài Bắc hơn chín năm. Ngày trở về dù muốn “sum họp” với mẹ con người vợ đó, nhưng có lẽ duyên họ đã hết, nên run rủi thời cuộc, hoàn cảnh gia đình, xã hội, đất nước, họ lại tiếp tục xa cách nhau. Cháu không toan tính tranh giành chiếm đoạt bất cứ gì, tất cả đều tùy duyên, cái gì đến tự nhiên sẽ đến. Cái gì của mình trước sau vẫn là của mình. Do cháu và chồng cháu dường như còn “nợ” nhau nên số phận đẩy đưa anh liều… vượt biên chỉ một lần trót lọt. Ai dám đoan chắc vượt biên 100% sẽ thành công?! Qua đó, cháu mới thấy rằng, mọi sự đều có số phận định mệnh an bài. Tốt, xấu đều tùy thuộc vào cách sống của mình. Nếu sống tốt thì kết quả cuối cùng sẽ tốt.

– Vậy bây giờ mẹ con người đàn bà đó ra sao? Tôi hỏi.

– Vẫn sống ngoài Bắc như từng sống bấy lâu. Cháu nhận thấy họ dường như sức phấn đấu đã bị thui chột, tê liệt trước sự tàn bạo của cuộc đời. Họ không dám vùng vẫy đổi đời dù có cơ hội. Luôn cam chịu và chấp nhận số phận một cách đương nhiên làm như nó đã là. Với cháu, bà ta và ngay cả chồng cháu đều chỉ là nạn nhân của phong kiến và cộng sản, cháu chỉ thấy họ đáng thương thôi, dì ạ. Và trong hoàn cảnh bây giờ, làm được gì, giúp được gì để an ủi mẹ con bà ta phần nào thì làm thôi.

Sau một tiếng thở dài, Nhi tiếp:

– Âu cũng là nghiệp quả phải không dì? Cũng như cháu vậy, cháu đâu muốn rơi vào hoàn cảnh như thế. Những nghịch cảnh đau thương, ê chề với bao gian nan thử thách, buộc cháu phải đối đầu và chấp nhận. Đừng đổ lỗi “Nghịch Cảnh Ở Ai” mà nên tự biết lỗi ở mình, do mình. Không kiếp này tạo ra thì cũng gây từ bao kiếp trước. Khi hội đủ nhân duyên nghiệp sẽ trổ ra, đó là nhân quả. Nếu không vậy, tại sao, có kẻ mới sinh ra đã nghèo đói đau ốm tật nguyền và có người khi lọt lòng đã giàu sang con ông hoàng bà chúa?! Và tại sao, người hiền lương như cháu lại luôn gặp bất trắc, trong khi nhiều kẻ khác tàn ác lại có cuộc sống sung sướng hạnh phúc?! Tất cả đều do mình tạo ra. Khi kiếp này biết sống tốt, biết sám hối không tạo nữa và không vay nữa coi như đã trả xong nợ. “Nghiệp đã qua rồi lòng nhẹ nhõm. Ngàn năm mây bạc trắng thong dong.”

Tôi không ngờ cháu tôi nhờ đâu mà bây giờ ăn nói “đạo vị” và trưởng thành lắm vậy. Trải nghiệm với bao đau khổ nhọc nhằn lăn lộn trên đường đời, Nhi đã chín chắn vững vàng không còn là đứa… con nít ngây thơ hồn nhiên mà tôi đánh giá trước đây dù khi nó đã lập gia đình, và Nhi cũng không còn mày châu ủ rũ thất thần như lúc ở Việt Nam. Trông Nhi bây giờ an nhiên tự tại, thần thái xinh tươi như trái chín mùi trên cây, như đóa hoa nở đúng mức, khoe sắc dưới bầu trời quang đãng. Tôi mừng cho cháu tôi, nhưng tôi vẫn thắc mắc, hỏi:

– Dì vẫn ngạc nhiên, suốt thời gian dài ở nước ngoài, cháu còn rất trẻ là cơ hội để cháu làm lại cuộc đời, sao cháu cứ ở vậy?

– Dì ơi, làm sao cháu có thể hạnh phúc và đem lại hạnh phúc cho người chồng mới khi nơi xa chồng cháu đang đói khổ trong tù và luôn trông mong hy vọng ở cháu? Với cháu, cháu quan niệm, hôn nhân ngoài sự chấp thuận từ chính mình còn cần sự chấp nhận của gia đình và xã hội, có vậy cháu mới thực sự hạnh phúc. Những lời cầu hôn chỉ đưa cháu đứng trước ngã ba đường, cháu không quyết định gì được, đành buông xuôi thả đời trôi theo dòng sống, tùy duyên thôi, dì ạ.

Chồng Nhi đã từ trong tiệm bước ra. Anh ngơ ngác tìm chúng tôi và đến ngồi xuống bệ thành hòn non bộ trong sân chùa bên cạnh chúng tôi. Anh mở túi lấy ra tôn tượng Đức Phật Di Lặc và hoan hỉ nói với Nhi:

– Anh thỉnh thêm tượng này tặng em. Phật Di Lặc biểu tượng cho sự vui vẻ, an lạc, may mắn và hạnh phúc. Em xem, khuôn mặt Ngài tròn trĩnh, phúc hậu lúc nào cũng cười. Anh mong em luôn như thế.

Nhi nhận tôn tượng từ tay chồng. Cô săm soi ngắm nghía, nét mặt rạng rỡ, miệng nở nụ cười theo nụ cười của Phật Di Lặc. Đến lúc này tôi mới thực sự thấy lại hai chiếc răng khểnh rất duyên trên khuôn mặt khả ái của Nhi dù thời gian và tuổi tác vẫn không phai nhòa nét hồn nhiên chơn chất phảng phất của Nhi ngày nào.

Ngoài kia ánh nắng chan hòa, ngát lên một thứ ánh sáng lung linh rực rỡ. Cây cỏ xanh tươi, chim muông vẫn ríu rít hòa trong tiếng nhạc Phật thánh thót. Một ngày mới tràn trề hạnh phúc dành cho Nhi. Nhi thật sự xứng đáng nhận điều đó.

TTNH