Friday, December 31, 2021

Đêm Giao Thừa - Ngô Minh Hằng

Trường chúng tôi dạy học là một ngôi trường tiểu học không lớn, có tất cả 10 lớp buổi sáng và 10 lớp buổi chiều. Sau tháng Tư năm 1975 trường được điều hành bởi một chị Hiệu trưởng còn trẻ cỡ tuổi chúng tôi và một chị Hiệu phó lớn hơn chúng tôi chừng mười tuổi. Chị hiệu phó này rất độc ác và là hung thần của chúng tôi nên chúng tôi thường nói riêng với nhau, gọi lén chị ta là “bà phù thủy.” Ngay từ tuần lễ đầu chị về trường, chúng tôi nhiều người đã không thích chị. Chị là người miền Nam. Tôi thường nghe người ta nói rằng người miền Nam hiền lành, thật thà và nhân hậu. Nhưng chị hiệu phó này thì ngược lại. Chị cao, thân hình lép và lỏng chỏng. 

Chị có gương mặt dài, hơi gẫy, xương xẩu và một màu da thâm xám. Mắt chị sâu hoắm và nhanh như mắt diều hâu. Chị ghê gớm, hiểm ác như con sói. Chị theo dõi chúng tôi từng giờ, từng phút. Những lúc học trò ra chơi, chị luôn luôn đi dạo ở hành lang, dòm vào từng lớp xem cô nào đến lớp nào và ai hay nói chuyện với ai. Nhất là những cô giáo có chồng tù cải tạo thì chị ghét ngay ra mặt và luôn tìm lúc bất ngờ, làm cho luống cuống, khó xử trước mặt mọi người. Chị kiểm soát giáo án gắt gao, thấy chữ nào bẻ được là chị bẻ ra làm nhiều mảnh vụn theo sự suy diễn một chiều của chị để làm chúng tôi lo sợ. Chị dự giờ liên tục và hay bới móc để hỏi những câu hóc búa về tư tưởng chính trị thật bất ngờ.

Chúng tôi, phần lớn là giáo viên lưu dụng từ chế độ cũ nên ai cũng ngán và sợ chị bởi chị rất có uy quyền. Đôi khi chúng tôi có cảm tưởng uy quyền của chị đã lấn át cả chị Hiệu trưởng từ ngoài Bắc được bổ nhiệm vào. Chị có chồng nằm vùng chức huyện ủy. Mười mấy năm trong nghề giáo, chị đã cùng chồng nằm vùng. Chữ “Nằm Vùng” được chúng tôi hiểu theo nhiều kiểu. Theo kiểu xã hội chủ nghĩa mà chúng tôi được cán bộ vừa tốt nghiệp bình dân học vụ giảng giải trong những buổi học tập chính trị thì những gia đình như gia đình chị là một mẫu gia đình có công lớn với cách mạng vì chị đã hy sinh nhiều công sức và tiền của trong thời gian “đánh Mỹ cứu nước.” Nhưng theo kiểu Ngụy của chúng tôi thì chị là người phản bội lại cái chế độ đã cho chị no cơm, ấm áo, cái chế độ đã cho chị được sống bình yên, có cơ hội ăn học để chị thành hiệu phó của cái xã hội chủ nghĩa hôm nay. Để có được cho chị và chồng chị những ngày yên lành vui sống đó, tài sản của chị được nguyên vẹn và giàu có hơn lên đó thì ở những phần đất nào trên quê hương, máu những người chiến sĩ đã đổ, những mảnh đời còn xanh đã bị bom đạn cướp đi mà chị không hề biết ơn và đau xót. Nghĩa là, chị đã ăn cơm quốc gia, thờ ma cộng sản. Chị đã phản bội lại nguồn ơn đó bằng việc nuôi dưỡng, giấu giếm, cung cấp tin tức của miền Nam và tiếp tế tiền bạc, thuốc men cho những người theo Việt Cộng ở bưng.
Chị giàu. Rất giàu nên chị không bao giờ biết được những khó khăn về vật chất mà người dân của chế độ cũ như chúng tôi đang nhận chịu sau khi miền Nam được chị và các đồng chí của chị giúp công “giải phóng”.Chị là giai cấp thống trị nên chị không hiểu được những nỗi đau tinh thần của người bị trị. Chị đứng vào hàng ngũ của kẻ “chiến thắng” nên chị không biết thế nào là nỗi đau khổ của người bị bức bách đầu hàng. Chị vui mừng trước tai họa của đất nước nên chị không có tâm trạng đau thương của hận quốc vong. Chị không biết thế nào là giọt nước mắt tủi nhục xót xa của người vợ đi thăm chồng tù cải tạo.

Chị lại không có con, vì thế, chị không bao giờ biết thông cảm và tội nghiệp cho chúng tôi, những người mẹ trẻ có con nhỏ, nuôi con một mình và còn nuôi chồng tù cải tạo trong một tình huống rất cô đơn và cực kỳ khó khăn của cả hai mặt tinh thần và vật chất. Bởi vậy, cô nào có con đau, xin nghỉ để săn sóc con là khốn khổ với chị. Chị bảo là tắc trách, không làm tròn và không coi trọng chức năng của người “kỹ sư tâm hồn”. Chị tìm mọi cách từ chối và ngầm hăm dọa để chúng tôi hiểu là sự việc có thể sẽ được báo cáo lên Phòng Giáo Dục và như vậy có nghĩa là chúng tôi sẽ có thể không được vào biên chế. Lúc đó, hai chữ “BIÊN CHẾ ” như liều thần dược, như lá bùa hộ mạng mà những người vợ Ngụy như chúng tôi cần hai chữ đó như cái phao của kẻ bị đắm tàu. Không được vào biên chế đồng nghĩa với có thể bị cho nghỉ việc và tương lai là đi kinh tế mới. Bọn giáo viên chúng tôi, phần lớn có con nhỏ và không biết làm ruộng nên ai nấy nghe thấy ba chữ Kinh Tế Mới đều kinh hoàng sợ hãi. Vì thế, ngoài việc phải gặp chị có chuyện cần, các giáo viên đều tránh chị. Tôi cũng ở trong trường hợp đó. Có lần giáo viên đi học tập chính trị, con tôi đau, không có ai coi sóc, tôi phải ẵm thằng con đang sốt nóng đi theo. Chị nhìn tôi cười cười đắc ý khi thấy gương mặt thiểu não, hốc hác của tôi bồng đứa con đang đau, đặt nằm trên một bàn học trống trong phòng rồi vội vã ngồi vào bàn hội thảo. Cuối cùng, chị và chúng tôi tuy cùng giới phụ nữ nhưng ở hai thế giới mà không bao giờ có thể gần gũi và thông cảm được nhau.

Chung đụng và gặp gỡ nhau dưới một mái trường hằng ngày, chúng tôi vẫn phải gượng gạo chào hỏi chị nhưng nếu vô tình phải gặp chị trong những buổi sinh hoạt khác như đám cưới đám hỏi của đồng nghiệp hay tất niên chẳng hạn, chúng tôi thường ngồi túm lại với nhau và chị thường ngồi hoặc với vài người mới về trường hay với vài người quen xu nịnh. Thấy thế, chị càng căm chúng tôi.

Một lần tất niên, nếu tôi nhớ không lầm thì vào năm 1978, ban giám hiệu bảo chúng tôi góp tiền chung nấu một nồi bún măng giò heo để làm tiệc. Nhà trường dưới chế độ XHCN thật là ưu việt và sáng tạo, vì thế, khi có tiệc, giáo viên chúng tôi mỗi người phải tự đem một cái tô, một đôi đũa, một cái muỗng theo mà…ăn tiệc! Kim, một cô giáo mới về trường, chiều hôm ấy cô đến nhà tôi chơi để sau đó cùng đi dự “tiệc” cho vui. Cô còn trẻ lắm, bố chết, mẹ bị tê liệt, nhà đông em nên cuộc sống lại càng thêm eo hẹp. Sau khi tôi khóa cửa lại, dặn dò bầy con xong, cô vừa đi bên cạnh tôi vừa giơ cái túi vải trong tầm mắt, nhìn tôi cười như mếu:

- Chị ạ, em phải đem theo cái tô lớn để ăn được nhiều!

Tôi nghe, cảm thấy buồn tê tái. Thương cô và cũng thương chính tôi ghê lắm nhưng tôi không hỏi cái tô lớn cỡ nào. Đến khi nhập tiệc, mỗi người cầm tô của mình ra chỗ nồi bún, múc một tô, bỏ thêm chút ớt, chút tiêu, chút hành ngò rồi tìm chỗ ngồi vừa ăn vừa trò chuyện cho đúng nghĩa một buổi tiệc của XHCN. Cô bưng tô bún đến ngồi bên tôi, mới cho vào miệng được gắp bún thứ hai thì giọng nói của chị hiệu phó reo lên như bắt được vàng phía sau lưng:

- Ô, coi kìa, cái tô của cô Kim gì mà bự dữ thần không. Ăn gì mà khoẻ quá trời quá đất!

Chúng tôi không ai bảo ai, như một phản xạ, đều nhìn về phía Kim. Kim ngưng ăn, đôi đũa trên tay bất động. Mặt Kim đỏ gay rồi chuyển sang màu tái. Kim nhìn xuống tô bún, ánh mắt lóe lên một nỗi đau thương. Tôi quay nghiêng người lại, ngước nhìn vào gương mặt người vừa thốt ra lời đó. Nhìn cặp môi mỏng của chị cười cười và nét mặt hân hoan tự mãn tôi có cảm nghĩ rằng chị phải vui lắm vì vừa nói được một câu mà chị cho là đầy tính “đạo đức cách mạng”. Bỗng nhiên, tôi thấy thật là tội nghiệp cho bề ngoài sang trọng của chị: mái tóc vừa được cắt uốn gọn ghẽ, bộ quần áo may bằng vải đắt tiền và đôi bông hột xoàn to như hai hạt bắp lấp lánh trên tai. Tôi vốn chậm chạp ứng phó, không biết phải nói gì cho Kim bớt ngượng thì may quá, thầy Tùng lên tiếng:

- Đáng lẽ tất cả mọi người phải đem theo một cái tô to như thế để ăn mới đúng. Tôi sẽ ăn hai tô. Bún nấu ngon quá các cô các thầy ơi…

Tuy có câu nói đỡ đòn của thầy Tùng nhưng không khí buổi tiệc tất niên của nhà trường XHCN hôm ấy vẫn không thể “siêu việt ” được thêm. Chúng tôi yên lặng ăn cho xong và cùng đi về sớm hơn dự định.

Qua tết, chúng tôi lại đến trường tiếp tục công việc “trồng người”, cái việc trồng tỉa lạ lùng có những bài tập đọc không đúng sự thật. Nói trắng ra, chúng tôi phải làm bổn phận của “người giáo viên nhân dân trong nhà trường cách mạng”, “người kỹ sư tâm hồn” là nhồi nhét vào đầu óc trong lành của những em bé Việt Nam những huyền thoại, chuyện phong thần. Hay nói theo cách nói lén của một số nhỏ chúng tôi “những tư tưởng nhớn của bác Hồ dĩ đại.”*

Thế mà 17 năm sau tôi lại gặp chị hiệu phó của nhà trường XHCN tại Hoa Kỳ, xứ sở của đế quốc Mỹ, kẻ thù số một của bọn chị. Gặp tôi, chị còn ngờ ngợ nhưng tôi thì nhận ra ngay đôi môi mỏng, gương mặt xương, hơi gẫy và dài. Duy chỉ có cặp mắt hoắm sâu độc ác, thất thần là khác với khi xưa.Cứ mỗi cuối năm, cộng đồng Việt Nam tị nạn CS ở tiểu bang chúng tôi lại tổ chức Tết để giữ tập tục cổ truyền là lì xì cho các em thiếu nhi đồng thời tạo cơ hội cho đồng hương họp mặt. Tôi đã gặp lại chị trong ngày đó. Chị đi với một gia đình tôi quen, anh chị Khang. Khi chị Khang và tôi chào nhau thì chị hiệu phó của XHCN giương đôi mắt đờ đẫn, thất thần nhìn tôi ngờ ngợ, e dè:

- Có phải…. cô là…cô Phương không? … cô Phương xưa dạy ở trường TB phải không?

Tôi nhìn chị mỉm cười:

- Thưa đúng. Chào chị hiệu phó. Không ngờ lại gặp chị ở đây.

Chị Khang ngạc nhiên:

- Ủa, thế ra hai bà quen nhau à?

Tôi lại cười:

- Không dám. Nói quen thì phạm “đạo đức cách mạng” của nhà nước ta mất thôi. Khi xưa, tôi làm việc dưới quyền chị hiệu phó đấy. Ngày ấy, có nhiều kỷ niệm lắm. Kỷ niệm nào cũng rất khó quên.

Hiểu ý, chị hiệu phó thở dài, nhìn xuống như lẩn tránh ánh mắt của tôi, giọng chị thật buồn:

- Tất cả đã hết rồi. Tha lỗi cho tôi, cô Phương.

Nghe chị nói, dù không hiểu rõ câu “tất cả đã hết rồi” ý nghĩa ra sao nhưng tôi cảm được sự ân hận trong giọng nói như nghẹn ngào của chị và tôi không hỏi gì thêm.Hôm sau chị Khang điện thoại cho tôi và hỏi:

- Ngày xưa, bà làm việc với bà Thanh hả ?

- Vâng.

- Gia đình cách mạng đấy. Giàu và ghê gớm bất nhân lắm. Nhưng nay thì sáng mắt ra rồi.

Rồi không đợi tôi hỏi, chị Khang nói luôn một mạch:

- Tên Tư Công, chồng bà ấy, giàu có lắm nhưng lại rất bạc ác tham lam. Hắn ta được bọn đàn anh XHCN của hắn phong cho chức giám đốc một cơ sở tơ sợi gì đó nhưng mục đích là để cho hắn có điều kiện thụt két, tham nhũng, ăn cắp tài sản nhà nước chia nhau. Nhưng hắn xử không đẹp với đồng bọn sao đó nên bị bọn đàn em nó tố. Khi hắn ta bị tù và sắp đến ngày ra tòa lấy cung thì lại bị bọn đàn anh chơi đểu. Bọn này sợ hắn ta khai thật thì chết cả lũ nên vội đưa hắn ra tế thần bằng một phiên tòa đặc biệt, kết quả là hắn bị án tử hình. Bà thấy bọn Việt Cộng ghê không. Khi không còn dùng hắn được nữa, bọn nó giết hắn bịt miệng bà ạ.

- Bởi vậy bọn mình mới phải rời bỏ quê hương mà đi chứ. Nhưng làm sao bà Thanh sang đây được, chị ?

- Thì sau khi chồng bị tử hình, tài sản từ bao lâu bị bọn Cộng Sản tịch thu sạch hết, bà ta hết yêu XHCN nữa mà lại thù đến xương đến tủy. Bà ta làm đơn tính tố bọn đàn anh kia thì đơn viết vừa xong, chưa kịp gởi đi, không biết ai báo cáo lập công, bả bị bắt bỏ tù. Trong tù, uất ức quá, bà ta bị điên. Thấy bả điên, bọn nó thả ra. Gia đình bả lo thuốc men chạy chữa mãi mới tỉnh. Tỉnh xong, bả vượt biên.

- Vâng. Thế bà Thanh quen hay bà con với chị ?

- Bả là bạn học cũ của bà chị mình. Tết, thấy bả một mình tội nghiệp quá, bà chị mình đón về ăn tết.

Tôi chúc gia đình chị Khang có một năm mới bình an và gác máy điện thoại. Lòng không vui không buồn, tôi nghĩ đến Kim và những tháng năm kinh hoàng khốn khổ mà chúng tôi đã trải qua trong ngôi trường XHCN của chị Thanh. Tôi nghĩ đến buổi tiệc tất niên và tô bún của Kim. Tôi thương Kim quá. Cũng như mẹ con tôi, Kim đi tìm tự do nhưng bến bờ lại xa tầm tay với. Mộng ước của Kim đã bị hải tặc Thái Lan vùi sâu trong lòng biển.Tết năm ấy cúng giao thừa, sau khi lễ tổ tiên, tôi đã thắp thêm một nén hương và thủ thỉ với Kim:- Kim ơi, em có linh thiêng thì chắc em đã biết chuyện bà Thanh phù thủy rồi chứ. Bà ấy đã và đang trả giá một cách đau đớn cho sự nghiệp cách mạng của bà ta.

Mong em tha thứ cho bà. Cầu xin linh hồn em được bình an và siêu thoát.

Ngô Minh Hằng

Tuesday, December 28, 2021

Những Mảnh Đời Rách Nát Chương 3 - Nguyễn Văn Huy & Phan Minh Hiển - Chương 3: Chúng tôi phải sống (Viết lại theo lời kể của Song Nguyên)

Những năm sau ngày 30-4-1975, các khu vực quanh chợ và bến xe tại Sài Gòn đều bị giải tỏa. Nhà nước cộng sản cho xây dựng lại những khu chợ mới để bộ mặt thành phố đẹp đẽ hơn. Trước khi có chiến dịch bố ráp, bắt bớ quy mô, rầm rộ, những người cùng khổ bị xua đuổi đi nơi khác. Chúng tôi phải tìm nơi cư trú mới nhưng ở cũng không yên, nay lay lất chỗ này vài đêm mai lang thang chỗ nọ vài tuần, rồi lại dời đi nơi khác không có gì ổn định. 
Cuộc sống của những người cùng khổ cũng như loài chim cộng mạng kia. 
"Chuyện xưa kể rằng ở xứ Thiên Trúc xa xôi có một loài chim mang tên cộng mạng chi điểu. Suốt đêm ngày chúng nối cánh có nhau, nhưng vì chúng có ba cái đầu nên mang ba ý muốn khác nhau. Trong khi cái đầu này đang ngủ, cái đầu nọ muốn ăn và cái đầu kia lại muốn cất cánh bay cao. Những cái đầu nhìn nhau xa lạ và còn thù ghét nhau. Chúng tự cắn mổ lẫn nhau. Nhưng rồi mùa săn đến, những người thợ săn làm ra những cái bẫy để bắt chúng. Chúng sa vào bẫy, vùng vẫy, gào thét trong tuyệt vọng, rồi nhìn lại nhau và chợt hiểu rằng mặc dù chúng có ba cái đầu nhưng chúng chỉ có một thân mình, một quả tim và một nỗi đau khi bị thương tật. Từ đó chúng nguyện rằng khi thoát được cái bẫy ác độc này, chúng sẽ không còn nhìn nhau xa lạ nữa và sẽ mãi nối cánh cùng nhau bay hết cuộc đời còn lại". 
Những người cùng khổ tại Việt Nam cũng vậy, họ đã theo đuổi những mục tiêu, những khát vọng, đã khoác lên vai những lý tưởng khác nhau và đã nhìn nhau như thù địch. Tập đoàn lãnh đạo cộng sản hiểu ra điều ấy, đã khôn khéo làm ra những cái bẫy để bẫy dân, và dân chúng hai miền Nam Bắc đã chỉ hiểu ra điều ấy khi đã kiệt lực và đau khổ. Cũng giống như loài chim cộng mạng chi điểu, khi cái đầu này hiểu rằng nỗi đau của cái đầu kia là nỗi đau chung, thì cái bẫy ác độc của chế độ đã giữ chặt đôi chân của chúng mất rồi, chúng ta đã không còn biết xoay sở làm sao để thoát khỏi bàn tay của nhóm thợ săn khôn khéo ấy. Chúng ta phải cầu nguyện ngày nào thoát khỏi ách cộng sản vây trùm, chúng ta sẽ thương yêu nhau, đùm bọc lẫn nhau như người ruột thịt, vì chúng ta có chung một thân phận Việt Nam, thân phận những người cùng khổ trong một nước nghèo khó. Chúng ta đã cấu xé lẫn nhau để cho tập đoàn cộng sản rảnh tay ly tán, chia rẽ để rồi tất cả đều bị triệt hạ. 
Anh Ba Mỵ đã từ miền Bắc vào Nam tìm kiếm người thân, nhưng không gặp. Anh nhìn đứa con trai nằm co quắp ngủ dưới mái che của ngôi mả cổ mà lòng buồn rười rượi. Năm 1954, chủ nghĩa cộng sản đã nhuộm đỏ miền Bắc. Vì gia đình anh ở tận làng quê xa, Lỗ Xá, huyện Kinh Môn, nên đã không chạy thoát ra được Hải Phòng để được chuyến tàu di cư cuối cùng chở những dân tị nạn cộng sản rời Vịnh Hạ Long vào Nam hưởng cuộc sống tự do. Anh đã ở lại để nghe lòng tan nát, ở lại để chứng kiến những cuộc đấu tố kinh hoàng. 
Chế độ cộng sản miền Bắc đã làm áp lực buộc người làm công đấu tố chủ đất, học trò chống lại thầy dạy, bạn bè rình rập nhau như người xa lạ, người có học thức và giàu có bị coi là kẻ thù của "giai cấp". Có nhiều người vợ đầu hôm tay ấp bỗng quay ra tố cáo người chồng. Tệ hại hơn nữa, chính con cái đứng ra tố cáo cả cha mẹ. Họ làm vậy để tỏ ra trung thành với Đảng, nhưng để được cái gì ngoài số phận được làm tôi đòi. Anh Ba Mỵ ngơ ngác nhìn những người thân quen xưa hò hét khản cổ, đi theo đám biểu tình hoan hô những lãnh tụ cộng sản. Tới lượt cha anh bị kết tội là Việt gian hạng nặng vì nói được tiếng Tây, gia đình anh bị tịch thu hết ruộng đất, mà ruộng đất có rộng là bao, vỏn vẹn chỉ ba sào. Thật là buồn, người ta đã không từ bỏ một thủ đoạn nào để triệt tiêu những gia đình bị coi là địa chủ. 
Chủ nghĩa cộng sản không muốn dừng lại trên miền đất Bắc, tập đoàn lãnh đạo cộng sản phát động cuộc xâm chiếm miền Nam. Đã có những năm tháng, quân đội Hoa Kỳ, đồng minh cũ của miền Nam, cho máy bay ra oanh tạc miền Bắc. Tuy không dám nói ra, trong lòng anh mơ hồ nhen nhúm nỗi vui mừng và thỏa mãn. "Máy bay ơi, bỏ bom cho khéo nhé kẻo trúng phải nhà dân. Hãy bỏ cho trúng ổ bọn chọc gậy xuống ao không biết rét". Ấy, lại gặp bọn quỷ quyệt. Chúng núp sau lưng dân, đưa dân ra chịu đựng. Chúng tìm cách kích động nhân dân căm thù "giặc lái" (phi công) để rêu rao trước dư luận quốc tế bị Mỹ ném bom. "Ma Ma, Phật Phật", làm sao dân chúng phân biệt được, ai "giải phóng" ai. Nhưng khổ nỗi, trời đất đã không chiều theo lòng người, kẻ ác lại thắng. Miền Nam chẳng những đã không cứu được miền Bắc ra khỏi cảnh đời lầm than mà lại còn bị miền Bắc choàng lên đầu màn trời đen tối. "Thôi rồi, hỏng cả rồi", anh Ba Mỵ than. Anh cùng Cả Yến, một người bạn chí cốt, rủ nhau vào Nam, trước để tìm người thân đã di cư hồi 1954, sau là tìm cách định cư luôn. 
Nhưng nhà nước cộng sản không muốn người dân nghèo miền Bắc hiểu được đời sống thật sự của dân chúng miền Nam. Họ đã lập ra những chốt gác để ngăn chặn dân ở cầu Bến Hải, vĩ tuyến thứ 17. Dân không qua được cầu thì họ lội sông, nhưng như thế là phạm luật. Mặc kệ, anh Ba Mỵ và anh Cả Yến cùng với đứa bé chờ đêm xuống, tìm khúc sông vắng lội qua bên kia bờ… Việt Nam tươi sáng. 
Vào đến Sài Gòn, hai anh không tìm thấy người thân. Hỏi nhiều chỗ, hai anh mới biết là người thân của hai anh đã vượt biển sang những nước tự do tị nạn cộng sản. Bơ vơ giữa dòng đời, hai anh đứng giữa chợ trời Sài Gòn, góc đường Hàm Nghi, không biết phải làm gì nhưng cả hai không còn tha thiết với quê hương miền Bắc nữa. Hai anh tự hỏi về để làm gì nữa, về để một người làm việc bằng hai, bằng ba mà ăn thì chỉ bằng một nửa. Những món đồ tùy thân cuối cùng của hai anh được đem ra bán. Hai anh tìm đường đi về xóm nghĩa địa. 
Đã từ lâu, nhà cầm quyền cộng sản muốn lập lại trật tự trên đường phố vì những người sống vật vờ đầu đường xó chợ làm "xấu" chế độ xã hội chủ nghĩa nhiều quá. Từ lâu nhà nước muốn làm mạnh tay, loại trừ những thành phần lang thang ngoài đường phố, nhưng họ sợ mang tiếng với dư luận. Nay đất nước mở cửa ra với thế giới bên ngoài, những người không nhà không cửa, sống lang thang gây rối trật tự an ninh, nhà nước càng có thêm lý do chỉnh đốn lại thành phố. Vì vậy việc mua bán, sự đi lại cũng như chỗ ngủ qua đêm của anh em phế binh và người cùng khốn bị để ý, tất cả đều bị xua đuổi và bắt bớ giam cầm với những lý do không rõ rệt. Vào thời ấy chỉ còn một chỗ ở qua đêm ít ai để ý, đó là những nghĩa địa bỏ hoang, nơi bị "đời" bỏ quên. Chính vì đời bỏ quên nên những người bị đời bỏ quên cũng đã tìm về đây sum họp. Không ở yên với người sống thì tạm ở chung với người chết, thế là "cộng đồng nghĩa địa" được thành hình. Nó quy tụ tất cả những người mất nhà mất cửa không nơi cư ngụ, những người từ vùng kinh tế mới trở về, những anh em phế binh, cô nhi, quả phụ, những người sống dở chết dở và những người nghèo khó miền Bắc trốn vào Nam. 
Vào trong nghĩa địa rồi, hai anh mới biết là họ không phải là những người đầu tiên. Nơi đây đã có sẵn một binh đoàn người nghèo khó từ miền Bắc vào Nam trước họ tìm cơ hội sống. Giữa những người cùng khổ, sự chia sẻ dễ dàng hơn vì tất cả đều là nạn nhân của chế độ. Họ sinh con đẻ cái tại chỗ, không có giấy khai sinh. Ai bệnh đau thì chỉ biết nằm rên hừ hự, chẳng may bị chết thì được chôn tại chỗ, bên cạnh một mộ phần nào đó, kể cũng tiện. Bà con rửa ráy, nấu cơm, ăn ngủ và tiểu tiện ngay trên các phần mộ bỏ hoang. Có điều lạ là tỷ lệ sinh sản tại đây hơi cao, bà mẹ nào cũng bồng trên tay một trẻ sơ sinh, có lẽ vì không biết làm gì giữa đêm khuya nên "thú vui" vợ chồng là chuyện gối chăn. Tại đây, anh Ba Mỵ cho "cộng đồng nghĩa địa" biết là anh và đứa con trai quyết định "định cư" tại nghĩa địa này, chờ Cả Yến về Bắc bán nhà xong mang cả gia đình vào Nam tị nạn. Anh nói: 
– Dẫu sao thì đối với miền Nam này nhà nước còn có sự giữ kẽ về chính trị, chưa có thể siết chặt hơn miền Bắc đâu. Hãy còn kẽ hở để lách vào mà sống. 
Anh bày cho anh em xóm nghĩa địa những cách "làm ăn" qua mặt bọn "nó". Anh đồng ý với cộng đồng đau khổ này là "tất cả chỉ là sự lừa dối kéo dài, không nên nghe theo những gì chính sách nói, phải làm ngược lại". 
– Nếu như thế thì còn gì nữa! – một người đàn bà buồn bã thở dài. 
Mọi người đã ngủ cả rồi, những gì anh Ba Mỵ nói ám ảnh chị mãi. Chồng chị là anh Mạc, phế binh bộ binh Sư Đoàn 25 cụt một chân và bị lao phổi nặng, đi bán nhang chẳng may băng qua đường lúc trời mưa thì bị trượt té, một chiếc xe hàng chạy ngang thắng không kịp, đầu anh bị cán nát, lòi cả óc ra ngoài. Anh Mạc mới chết cách đây vài tháng. Đứa con gái, 5 tuổi, nằm ngủ vô tư quá. Chị ngước mắt nhìn lên vầng trăng giữa bầu trời đen tối, ánh trăng dẫu sáng cho mấy cũng không át được mây che lấp các vì sao. Biển đêm mênh mông quá, những ánh sao nhấp nháy đưa chị về vùng kỷ niệm của những ngày tuổi thơ. Những đêm trăng rằm Trung Thu, chị và những nhỏ bạn rước đèn. Ờ nhỉ, ngày ấy, đèn lồng của mình hình ngôi sao đẹp quá. Còn ngày nay cũng là ngôi sao nhưng sao nó vàng chóe thế này, lại còn như thỏa mãn "cười" nham nhở giữa mảnh vải màu máu đỏ lòm. Những lá cờ màu đỏ giăng kín các phố phường như chiếm hết không gian của chị và đứa con nhỏ. Chị ho khậm khịt, không hiểu sao chị quá sợ màu đỏ quá. Nó giống như màu máu hòa trong nước miếng mà chồng chị nhổ ra sau mỗi cơn ho. Một buổi chiều kia, chị Liên ghé qua khu nghĩa địa rủ chị Mạc đi mua củi. Chị Liên nói: 
– Đi buôn như thế lời nhiều lắm, đi xe lửa chui không tốn tiền vé, cứ hễ gần đến ga xe lửa chạy chầm chậm lại thì mình tuôn củi xuống rồi nhảy theo. Công an bảo vệ ga không sao bắt được vì nhiều người cùng làm vậy, nhất là các trẻ em nhanh nhẹn hơn. Dạo này chợ trời Hàm Nghi bị bố ráp dữ quá, nhà nước đang có chiến dịch làm đẹp thành phố, chính tôi đã nhìn thấy một bà già tóc bạc bị "bọn nó" túm lấy bao quần áo quẳng lên xe chở về trụ sở. Bà già hoảng hốt, quẩn cả trí, vội quỳ xuống chắp tay lạy "bọn nó", nhưng "bọn nó" lại hung hăng nhìn bà già bảo là "mỉa mai hả". Bắt giữ, tịch thu đồ đạc có lợi hơn là nhận những lời van xin của mấy bà già, vì hàng hóa sau đó được đem về trụ sở để chúng lục tìm những món gì thích đem về làm của riêng hoặc kêu "tà lọt" mang ra chợ bán lại chia nhau tiền. Bọn chúng cứ lạnh lùng truy bắt tiếp những người mua bán, lấn chiếm lòng lề đường, mình không còn đường nào khác là phải đi buôn. 
Uống xong ngụm nước lạnh, chị Liên nói tiếp: 
– Nhưng buôn than theo đường xe đò không còn an toàn nữa. Chị Loan và chị Mai vừa bị bắt ở trạm kiểm soát Sông Bé, hai chị tiếc số hàng nên ở lại năn nỉ. Đêm đến, hai chị nằm ngủ, đám dân quân chỉ đáng tuổi em các chị đã mò vào hạnh họe nọ kia, rồi tên "xếp" mặt non choẹt gọi chị Mai bằng "em" và đề nghị "biết điều" thì nó sẽ tha. Hai chị vừa sợ vừa bối rối vì số hàng ở trong tay chúng nên… "chiều" nó. Thỏa mãn xong, nó vừa lui ra thì gần một chục thằng khác nhào vô thay phiên "làm thịt" hai chị. Chúng ra vào quần quật, đùa giỡn thể xác hai chị suốt đêm. Đến tờ mờ sáng, bọn chúng làm bộ tịch thu "lấy lệ" một nửa số hàng rồi cho hai chị đi về không quên gởi kèm theo những lời trêu ghẹo tục tỉu. 
Chị Liên cười cười kể tiếp: 
– Về đến Sài Gòn, chị Mai hồng hộc thở ra: "Tụi nó… tồi quá!". Chị Loan an ủi: "Kệ nó, cái gì kia còn mất nhằm nhò gì ba cái lẻ tẻ", rồi hai chị ra sông Bạch Đằng tắm rửa mình mẫy. Chị Loan nói với bạn: "Tụi nó làm dữ quá, coi nè "của" tui sưng phồng lên đỏ hỏn, rát quá!". 
Kể xong, chị Liên kết luận: 
– Phải làm mau đi thôi, từ từ rồi "chúng nó" sẽ kiểm soát tới đường xe lửa, lúc ấy có muốn đi buôn cũng không được nữa đâu. 
Rồi chị nói nhỏ: 
– Ở ga xe lửa Sài Gòn đó, cứ mỗi chiều tối có mấy thằng cha mua hai ổ bánh mì kẹp thịt và hai bọc trà đá ở nách, kẹp tấm nệm đan bằng cói. Họ nháy nhó, rủ rê mấy người đàn bà không còn làm ăn gì được nữa ngủ qua đêm với họ. 
Nhưng chị dặn thêm: 
– Muốn làm gì thì làm nhưng đừng có ra chỗ đó nghen. Tụi mình phải nương tựa lẫn nhau mà sống. Đi buôn thì cần có bạn, đi bán cần có bè, nhưng nếu không có ai đi chung thì tôi sẽ đi một mình với thằng con trai. Tôi không để cho nó chui xuống cống kiếm cá nữa đâu, hồi hộp lắm! 
Thế là chị Mạc quyết định theo chị Liên và chị Nguyệt lên Long Khánh buôn củi lậu. Mỗi chuyến đi kéo dài ba ngày khiến chị đuối sức, đứa con gái nhỏ 5 tuổi không phụ giúp được gì lại còn vướng bận những lúc nhảy tàu làm chị Nguyệt bực mình. May nhờ đứa con trai của chị Liên phụ giúp nên cũng đỡ được phần nào. Có lần chị Nguyệt bàn với chị Liên đi mua bán riêng, chị sẵn sàng bỏ vốn cho chị Liên đi chung: 
– Liên à, con Mạc hình như nó bị ho lao, vợ chồng thì dễ lây lang. Mày có thấy đôi vai của nó bị co rút lên không? 
– Dạ thấy. Tội nghiệp, nó cũng ráng lắm mà. 
– Mày lo cho mày đi. Thời buổi này nhân đạo là tự sát đó. Với lại mày thấy đó, tao đâu có vốn gì nhiều, nếu chậm chạp lỡ bị bảo vệ bắt một cái là hết vốn luôn. 
Chị Liên ngẫm nghĩ: bà Nguyệt này thật ra đâu có tử tế gì, chẳng qua là bả nhờ có thằng Đức (con trai chị Liên) lanh lẹ nên mới chịu bỏ vốn ra đấy chứ, như vậy bà ấy lời thêm một "công". Hình như đoán hiểu suy nghĩ của chị Liên nên bà Nguyệt tỏ vẻ "thương" thằng bé. Bà thường rủ thằng nhỏ: "Đi ăn bún, con!". Đi thêm vài chuyến nữa thì chị Liên và bà Nguyệt buộc chị Mạc phải đi riêng. Chị Liên vỗ về bạn: 
– Có gì thì chị cũng biết cách rồi đó, nếu không vốn nhiều thì buôn ít một chút cũng tạm đủ cho hai mẹ con sinh sống. Ráng lên! 
Thấy mặt chị Mạc lộ vẻ lo lắng, chị Liên trấn an: 
– Bà Nguyệt không chịu đi chung, thì chị cứ mua bán riêng cùng với tôi. Nếu như có chận bắt đột xuất cần phải tuôn củi và nhảy tàu thì thằng Đức con tôi dắt con Hoa giùm nhảy cho, đừng có lo. 
Hai người quả phụ hẹn nhau là như thế, nhưng khi có cuộc chận bắt xảy ra thì ở trên các toa xe hỗn loạn lắm. Chị Mạc vừa quăng được hai bó củi xuống đám cỏ thì những bạn hàng khác cũng nhốn nháo cả lên, họ xô đẩy và chen lấn, tranh nhau tuôn củi xuống. Đứa con gái chị bị những bó củi quăng trúng chân khóc ré lên. Chị Mạc lúng túng, vừa sợ mất củi vừa sợ mất con, chị quay lại nhìn những bó củi, rồi quay lại nhìn con. Sao thế nhỉ, cái gì trong lòng chị thế này, ánh mắt con chị như sao trời nhấp nháy, tuổi thơ của chị đây mà. Chị chết điếng trong lòng rồi đưa tay ôm đứa con, nước mắt chị chảy ra, không biết là vì tiếc củi hay vì thương con, có lẽ cả hai. Bà Nguyệt và chị Liên đã nhảy xuống đường rày, nhìn chị Mạc la lên ơi ới: 
– Ném củi xuống mau, bảo vệ tới kìa! 
Đứa con trai chị Liên muốn đu người lên đoàn tàu để phụ chị Mạc ném củi xuống nhưng không kịp nữa, đoàn tàu từ từ đi vào sân ga, đám bảo vệ ùa ra, những con buôn ôm vội mớ hàng hóa bỏ chạy. Chị Mạc ôm con vào lòng nhìn người ta ôm những bó củi của chị chạy đi. Thế là mất hết. Chị bước xuống thềm sân ga, trước mặt là bóng tối. 
Những ngày sau đó, người đàn bà gầy guộc ra đi. Đôi mắt chị Mạc thụt sâu vào hốc mắt, chị không biết làm gì nữa. Chút vốn liếng dành dụm được để đi buôn bay theo mây khói. Những cái quần, cái áo bán dần đi để cầm cự giữa chợ đời không còn nữa. 
Chị Liên và đứa con trai đi theo chị Nguyệt vài chuyến nữa rồi rủ nhau đi Phan Thiết mua cá biển về bán ở Sài Gòn. Mùa cá đến rồi, nếu trời thương thì… cuộc đời đỡ khổ. Nhưng có một dạo bảo vệ xe lửa truy đuổi gắt gao, nhiều bạn hàng bị tịch thu hết cả hàng hóa. Chị Liên và chị Nguyệt nhờ có thằng Đức nhanh nhẹn nên thoát được nhiều chuyến hàng. Một hôm, trời mưa tầm tả, bảo vệ chia nhau ngăn chặn các toa xe. Để cứu lấy món hàng, thằng Đức và lũ nhỏ leo chuyền ra ngoài cửa sổ những toa xe. Một đứa tuột tay bị cuốn vào những bánh xe lửa, thân thể bị nghiền nát trên đường ray. Xe lửa về đến ga Thủ Đức rồi mà chị Liên vẫn chưa thấy đứa con trai đâu. Chị hỏi thăm lũ nhỏ, có đứa thấy thằng Đức leo lên mui xe lửa trốn thoát được bảo vệ. Nhưng đến ngày hôm sau chị Liên mới biết rằng khi xe lửa qua cầu Biên Hòa, con chị đã bị thanh sắt đánh vỡ đầu rớt xuống đường ray, thân xác bây giờ không biết được chôn cất nơi đâu. Chị Liên thơ thẩn, chị Nguyệt mất cả vốn không còn dám đi buôn nữa. Chị Mạc rời khu nghĩa địa ra ngồi ở bùng binh Chợ Sài Gòn đưa mắt nhìn qua bên kia đường. 
Bên kia đường là sân ga. Trời đã tối, cửa hàng ăn uống quốc doanh đã đóng cửa, những sinh hoạt về đêm bắt đầu. Đủ mọi hạng người tụ tập về đây để ngủ qua đêm. Những người tài xế nằm dài trên tấm nệm cói trải trên nền xi măng để cho những người đàn bà tới đấm bóp, giác hơi xoa nắn, thư giãn gân cốt. Tại một góc của nhà ga là chỗ để khách lỡ đường ngủ đêm chờ tàu. Ở đó, có một số phụ nữ vì hoàn cảnh sống khổ sở đến ngồi chờ khách. Họ không biết làm gì vì không có đồng vốn nào cả, nhờ có chút nhan sắc nên khi đêm về họ lấy "thân" làm vốn. Nhưng vào thời buổi khó khăn, những người đàn ông cũng không rộng rãi cho lắm, họ trở nên thô bạo và không còn sòng phẳng như trước. Cái giá để trả cho một cuộc tình qua đêm là một khúc bánh mì, khoảng hơn gang tay, kẹp những lát thịt xắt mỏng (giá 500 đồng, bằng 1/4 dĩa cơm), một bọc ny lông trà đá và một tấm nệm cói để hai người đắp chung. Chỉ người phụ nữ nào may mắn lắm mới được trả bằng tiền mặt, nhưng cũng không là bao. 
Vào mỗi buổi chiều, những người đàn ông ngồi trên băng ghế đá ở công viên, bùng binh, bến xe buýt để lựa chọn bạn… tình qua đêm. Bên cạnh họ để sẵn hai ổ bánh mì, hai bọc trà đá và tấm nệm cói để cho các "bạn tình" biết mà tìm đến. Khi đến với nhau, tuy không nói ra nhưng họ ngầm hiểu là chỉ có họ với nhau mà thôi, nhưng vào khoảng nửa đêm có khi có thêm dăm ba người đàn ông khác sà vào "ăn ké", dĩ nhiên là miễn phí. Người đàn bà khốn khổ kia chỉ biết im lặng chịu đựng vì có kêu cứu cũng không ai đến can thiệp. 
Có những đêm anh em phế binh chúng tôi nằm ngủ ở một góc nhà ga chờ sáng theo tàu lửa đi bán nhang xa, nhìn những tấm nệm phập phồng dưới ánh đèn vàng vọt, tiếng thở hồng hộc và tiếng cựa quậy lục đục của người đàn ông kèm theo tiếng rên rỉ của người đàn bà, rồi tiếng chửi mắng tục tằn của người đàn ông không thỏa mãn, chúng tôi hiểu rằng trong bước đường cùng những người sống không lý tưởng vùi dập lẫn nhau như những con vật. 
Nhưng cũng có những người đàn bà đem bán "thân xác" mà không có người mua. Đó là những người đánh lỡ mất tuổi thanh xuân, những bà quả phụ cô đơn. Cuộc sống khắc nghiệt ở hè phố làm mất đi chất tươi trẻ trên nét mặt, nụ cười, họ già đi mau chóng, thân hình khô héo quắt queo như trái táo tàu. Dù có xoa lên mặt chút hương phấn nhưng họ cũng không còn hấp dẫn ai. Chị Nguyệt cũng vậy, hết vốn đi buôn chị ra ngồi ở bùng binh cùng với chị Loan. Có những người đàn ông mua bán ở chợ trời, tuổi chỉ đáng con chị, biết chị cần có miếng ăn để sống cũng gọi chị bằng "em". Chị không lấy đó làm giận mà còn "mừng". Mừng là vì chị vẫn còn "giá trị". Đã hai đêm rồi, mặc dầu chị đã xin của chị Loan một chút phấn để xoa lên mặt và cũng đã đi lại mời mọc một số người đàn ông nhưng không ai chịu chia sẻ với chị ổ bánh mì kia. 
Tối nay trời mưa lạnh lẽo, hình như có bão hay sao ấy. Chị Mạc cảm giác như có kim châm ở trong bao tử, sự co thắt của các cơ thịt làm chị run rẩy, xương có vẻ như dòn ra, cử động kêu lụp cà lụp cụp. Cơn đau bao tử làm chị khó chịu, nước lạnh uống vào cứ sôi óc ách. Tay chân chị xê dịch khó khăn. Chị buồn ngủ và ảo giác càng đến với chị nhiều hơn, chị cố xua đuổi mà không được. Chị biết mình sắp mê đi nhưng bản năng sinh tồn thúc chị bước sang bên kia. Bên kia đường là vùng đất cấm, ai sa chân vào rồi thì khó bước ra. 
Cũng ở bên kia đường, xéo góc với nhà ga xe lửa là cửa hàng ăn uống quốc doanh, con gái chị đang chờ chực khách ăn xong, nó chạy vào ăn húp những gì còn sót lại. Chị Mạc mơ màng nghĩ đến những tô hủ tiếu. "Không biết thực khách bên ấy có ăn thêm bánh mì không nhỉ?", chị tự hỏi. Nếu có ăn thêm bánh mì thì nước lèo sẽ chẳng còn lại bao nhiêu, con chị lấy gì mà húp. Phần lớn khách vào cửa hàng ăn uống quốc doanh là giới bình dân, lao động, họ thường chấm bánh mì vào nước hủ tiếu để cho thêm no. 
Nghĩ tới bánh mì, cơn đói thúc hối chị Mạc nhìn vào sân ga. Ở đây có những người đàn ông cặp nách hai ổ bánh mì, tay cầm hai bọc ny lông trà đá và tay kia cầm tấm nệm cói. Tấm nệm cói khiến chị Mạc liên tưởng đến trời đêm, những cơn mưa dai dẳng và mùi vị của khúc bánh mì kẹp những lát thịt ba rọi mới thơm ngon làm sao. Chị không còn quan tâm đến đứa con gái ở bên kia cửa hàng ăn uống nữa, chị nghĩ về mình. Cảm giác xấu hổ chỉ thoáng qua, chị nhớ lại câu nói của chị Loan: "Kệ nó, cái gì kia còn mất, nhằm nhò gì ba cái lẻ tẻ". Người ta như thế nào kia mà còn nghĩ đến quyền lợi riêng, phản bội cả quê hương, mình chỉ là một phụ nữ nghèo hèn còn gì nữa đâu để mà gìn giữ. Chị Mạc muốn được sống như những phụ nữ kia, được cho ăn và được cho tình. 
Chị Hạnh cũng vậy, chị đã im lặng. Chị không làm được như chị Loan, mặc dù chị thừa nhận chị Loan nói đúng. "Những người đàn ông thua trận cả rồi", chồng chị là một cựu lính Dù chết trong trại cải tạo. Chị Hạnh không còn vốn liếng để đi buôn than nữa nhưng vẫn không sao bước nổi "sang bên kia đường". Chị vẫn thường hồi tưởng đến anh, những lần về phép trên chiếc jeep, bộ quần áo kaki rằn ri, những đôi giày bốt đờ sô bóng loáng. Cuộc sống của anh thật quá hào hùng. Không, chị không thể bước "sang bên kia đường". Những kỷ niệm xưa giữ chân chị lại bên này đường. Chị Hạnh nói với chị Mạc bên kia đường là những mùi mồ hôi, mùi rượu đế và những lời bỡn cợt sổ sàng của những người quá tầm thường so với chồng chị. Nói xong chị Hạnh buồn bã nhìn xuống lề đường, rồi quay người bước đi. 
"Những kỷ niệm đó là của chị Hạnh, còn mình có còn gì nữa để mà hồi tưởng?", chị Mạc tự biện hộ thầm. Ngoài những mất mát chất chồng, những thiếu thốn thường nhật, những tai họa chờ chực, chị cố nhớ về những buổi chiều anh Mạc đi bán nhang về mang một chút gạo mốc, những khúc mì vụn, những gốc rau muống, một chút bột ngọt, tất cả làm chung thành một món ăn ngon lành. Nhờ vậy mà chị cầm cự cùng với chồng con. Nhưng lúc ấy còn anh kia, còn những lời hứa hẹn tuy tuyệt vọng nhưng đầm ấm ngọt ngào: "Ngày nào đó có chút vốn, mình sẽ về quê". Còn bây giờ thì "còn gì nữa đâu", mắt chị mờ đi, tai mơ hồ nghe thoang thoảng tiếng xe cộ. 
– Má! – tiếng gọi của con gái làm chị Mạc thức giấc. Hóa ra là chị vừa chợp mắt thiếp đi trên băng ghế đá. Đứa con gái nhìn chị, miệng nó nhai nhóp nhép nửa củ khoai luộc. Chị Liên gặp nó ở cửa hàng ăn uống và dắt nó qua với chị. Chị Liên đưa cho chị nửa củ khoai, nói: 
– Hồi này mưa quá nên khoai củ ở mấy vựa bị sùng thối, hư hao nhiều lắm. Mình chịu khó đi vòng vòng ở Chợ Cầu Ông Lãnh là kiếm cả rổ. 
Chị Liên nhìn bạn nhai nuốt cả vỏ khoai, nói tiếp: 
– Mấy chủ vựa sợ những củ khoai sùng lây qua những số khoai còn lại nên đổ bỏ rất nhiều. Mình chịu khó lượm về lựa lại rồi gọt bỏ những chỗ hư đem về luộc, sáng mang ra chợ bán cũng có được cái ăn qua ngày. 
Chị Liên nhìn sang bên kia đường phê bình: 
– Tội gì mà đem thân xác ra để cho chúng dày vò. 
Chị Mạc im lặng, mãi miết ăn ngấu nghiến những củ khoai luộc. Đứa bé gái vô tư ngồi gõ cái lon sữa bò theo điệu nhạc mới: "Đêm qua em mơ gặp bác Hồ, râu bác dài tóc bác bạc phơ…".

Chị Liên ngồi suy nghĩ vẩn vơ, chị Liên thở dài, đối với chị, không yêu thì… không làm được "chuyện ấy", chị sẽ không bao giờ bước sang bên kia đường. Chị chỉ còn một mình, nhẹ lo hơn chị Mạc. Thằng Đức, kỷ vật cuối cùng, dấu ấn của tình yêu đối với chồng chị, anh Nguyễn Văn Hơn, đã mất. Chị không còn gì nữa ngày hôm nay, nhưng những kỷ niệm thời học trò nhẹ nhàng băng ngang dòng tâm tư của chị. Bảy năm yêu thương, bảy năm hạnh phúc. Những lần chồng về phép, chị rất thích nghe những bản nhạc "Buồn trong kỷ niệm", "Tấm ảnh ngày xưa" với tiếng ca não nùng thấm thía của bà chị Thanh Thúy. Ờ, rồi lại còn "Tàu đêm năm cũ" nữa. "Đem về trả cho tôi người xưa"… chồng chị cười nói: "Cũng là con tàu thôi, khi đem người đi thì buồn, lúc đem người về lại em cảm thấy gì?". Chị nhìn anh lo sợ. "Có khi nào…", chị không dám nói hết ý. 
"Có khi nào con tàu đem người thân đi mãi" hay không? Ngoài đời chị vẫn nhìn thấy những chiếc GMC chở quan tài phủ cờ vàng chảy ba dòng máu đỏ, máu của người chiến binh đã đổ ra cho đất nước, và những chiếc khăn tang chan hòa nước mắt buộc chặt trên đầu các thiếu phụ và những trẻ thơ. Chiến cuộc ngày càng khốc liệt hơn, những lần về phép của anh cũng thưa dần. Chị Liên còn nhớ rõ ánh mắt buồn bã của chồng trong lần chia tay cuối cùng, anh đã đi biền biệt không về. Một ngày kia, người ta báo tin anh tử trận. Chị Liên gia nhập vào đội quân tóc dài mặc áo đen, đầu chít khăn tang khóc chồng, ôi thật buồn bã. 
Mãi miên man suy nghĩ, tưởng nhớ vu vơ, chị Liên giật mình liếc mắt tìm bạn. Chị Mạc không còn ở bên này bùng binh nữa. Vừa ăn xong củ khoai luộc, chị Mạc vội bước sang bên kia đường, biến mình trong khu nhà ga với ánh đèn vàng, những tấm nệm cói phập phồng và những tiếng thở hồng hộc. 
– Trong những tấm nệm cói ấy vang lên tiếng thở, họ thở ấy ra sao nhỉ? – chị Liên nhắm mắt liên tưởng. 
Tưởng tượng những tấm nệm cói phập phồng, chị Liên rùng mình ớn lạnh. Chị cảm thấy cô đơn, chị ao ước: "Phải chi được nghe tiếng thở của anh Hơn trong tấm nệm ấy thì… sung sướng biết bao". Chị mơ tưởng những giây phút êm đềm, ấm áp của ngày xưa. Chị có cảm tưởng như nhìn thấy đôi mắt của anh, đôi mắt sao giống đứa con trai của chị quá. Chị mỉm cười vu vơ. Trong giấc mơ, chị thấy anh trở về trên xe bước xuống cùng những người bạn lính, có cả lá cờ vàng nữa… Nhưng rồi chị hốt hoảng. Người đứng trước mặt không phải là chồng chị, mà là người báo tin anh tử trận. Người ấy nói nhiều lắm, chị ù cả tai không nghe gì cả. 
– Làm gì mà ngồi đây có một mình hả em? 
Chị Liên giật mình mở mắt, trước mặt là một gã đàn ông, tay cầm ổ bánh mì và bọc trà đá. 
– Ăn đi em, anh đã ăn rồi. Đêm nay sao buồn quá. 
– Không, cảm ơn. 
Chị Liên đứng dậy bỏ đi ra bờ sông Bạch Đằng. Gió đêm làm chị cảm thấy lạnh hơn. Dòng sông đen lấp loáng ánh đèn. Chị nhớ đến cái chết của chị Trúc, xác chị nằm ngữa trương phình lên. "Không, mình không được phép tự tử, mình là người Công giáo. Lạy Chúa, xin nâng đỡ con, dẫu cho có thế nào con vẫn tin Chúa, Chúa ơi!", chị Liên khấn thầm mặt hướng lên trời. Mỗi khi nghe tin có vài anh em phế binh thân quen chết đi, chị vẫn thường cầu nguyện. Chị vẫn mong là ngày mai rồi sẽ khác đi. 
Mùa mưa cũng vừa sắp hết, Chị Liên sửa soạn rời khỏi khu vực nhà ga xe lửa Sài Gòn. Chị nói với các chị bạn là cần đi xa để quên những chuyện buồn. Chị muốn về quê nhưng quê hương đâu còn nữa. Chị đi bộ về phía Chợ Lớn, lạc vào giáo xứ Quận 8. Buổi trưa chị ngồi nghỉ chân bên cổng nhà thờ Bình An Thượng. Chị nhìn lên tượng Chúa Giêsu chịu khổ nạn cầu nguyện. Ông cha xứ già, tóc bạc phơ, dáng người mệt mỏi từ trong nhà thờ đi ra nhìn thấy chị. Chị nhìn cha. Hình ảnh ông cha xứ già sao giống đấng Thánh Phêrô quá. Cha hỏi, chị lễ phép trình bày hoàn cảnh của mình. Chị không mong cầu điều gì khi trình bày hoàn cảnh của chị, chị có cảm tưởng như đang xưng tội trước vị cha xứ, lòng chị trở nên nhẹ nhõm hơn. Thế thôi. 
Nghe xong cha xứ bước vào lại giáo đường. Một lúc sau nghe tiếng cha gọi, chị Liên đi vào. Cha mở ngăn kéo, trong có số tiền lùớn nhưng là toàn là tiền giấy nhỏ, chị hiểu đó là tiền ủng hộ của giáo dân dâng hiến trong những ngày lễ. Cha xứ đã cất giữ những món tiền đó trong nhà thờ. Chị ứa nước mắt nhìn cha. Ông cha xứ già cẩn thận gói số tiền ấy vào tờ giấy báo và run run cầm đưa tận tay chị. Nước mắt chị trào ra, ướt cả khuôn mặt. Cha gọi người làm vườn nhờ đưa chị đến bến đò qua bên kia sông để tránh không bị công an làm khó dễ. Chị quay lại nhìn cha chào từ giã. Cha dặn chị: "Con nên rời bỏ cuộc sống vỉa hè ấy đi" và chúc lành: "Chúa nâng đỡ bước chân con. Hãy cầu nguyện thường xuyên". 
Chị Liên quay lại nhà ga xe lửa Sài Gòn, tay chị cầm theo ba ổ bánh mì kẹp thịt ba rọi trông thật ngon lành. Nhưng chị không gặp được chị Mạc và con Hoa. Ở đấy vừa có chiến dịch thu gom những người sống "bụi đời" vô gia cư, vô nghề nghiệp, ăn ngủ ngoài hè phố. Nhà nước cộng sản Việt Nam không bằng lòng để những người trước kia tuân theo lệnh đi xây dựng vùng kinh tế mới nay trở về sống ở hè phố, "bêu xấu chế độ". Lần này tất cả bị đưa đi những nông trường xa xôi khác. Chị Liên mò vào những xóm nghĩa địa hỏi thăm, nhưng không ai biết mẹ con chị Mạc ở đâu. Mãi về sau gặp lại chị Nguyệt "già", chị Liên mới biết là chị Mạc bị đưa đi cải tạo lao động ở "nhà nuôi" Ba Thôn, huyện Hóc Môn. 
– Còn đứa con gái? – chị Liên hỏi. 
Chị Nguyệt nhún vai: 
– Thì họ tách hai mẹ con ra chớ sao, nghe đâu con nhỏ được đưa về cô nhi viện gì đó ở Gò Vấp. 
Chị Liên ngồi thơ thẩn ở bùng binh nhìn qua sân ga, sau đợt truy quét sinh hoạt vẫn y như cũ. Bên kia nhà ga là kiếp người lầm than tủi nhục, những người sống vật vờ đi đi lại lại, họ không còn cách nào để sống khác hơn. Vẫn là những ổ bánh mì, những trả giá, kỳ kèo cho mỗi cuộc tình. Chị nghĩ về chị Mạc và đứa con gái, họ đã sống như những con chó ghẻ, bị rẻ rúng, đuổi xô. Chị nghe phong phanh tình hình có nhiều biến chuyển. Khối cộng sản ở Đông Âu đang bị tan rã, Liên Xô đã có tổng thống. Cộng sản Việt Nam đã bắt chước đưa ra "những việc cần làm ngay" của đảng và nhà nước. Chị đã nhìn thấy những cái quẹt ga thay cho cái quẹt dầu hôi. Đất nước đang đổi mới. Những bộ quần áo từ nước ngoài gởi về đã thấy bày bán ở các chợ trời, nhiều người đã liên lạc được những người thân ở hải ngoại. Đường phố cũng đã khác xưa, những ngôi nhà cao tầng và nhiều khách sạn đang được xây dựng lên. Đêm tối đã thấy những ánh đèn màu xanh đỏ chớp loáng trên những bảng hiệu. Nhà nước đang "mở cửa" đây mà. Sự thay đổi này đâu phải là … vì dân. Họ thay đổi để tồn tại, để khỏi bị dân chán ngán như Đông Âu, để nuốt trôi miền Nam. 
À, thì ra nhà nước cộng sản đang dùng sự hào nhoáng xa hoa để che đậy những đen tối của sự thật. Họ biết là dư luận các nước bên ngoài đang hướng về Việt Nam, họ đã trả tự do cho những sĩ quan đi học tập cải tạo. Còn ông cha Thủ ở nhà thờ Đồng Công, xã Tam Hà, huyện Thủ Đức thì sao nhỉ? Họ đã thả cha ra hay chưa? Tội nghiệp, cha đã ngoài tám mươi mà không thoát khỏi lao tù. Hòa thượng Thích Trí Thủ nghe nói rằng đã "ức quá" mà chết. Còn hai ông Phạm văn Thương (Tuệ Sỹ) và Lê Mạnh Thát (Trí Siêu) đã bị họ tử hình chưa? Liệu những dư luận của các nước có giúp gì được cho họ hay không? 
Những người bất hạnh sống trên hè phố đang bị bắt nhốt, xua đuổi ra khỏi thành phố, đang âm thầm gục chết ở vỉa hè, góc chợ, công viên có được ai chú ý tới không? Liệu sự "mở cửa" này có làm cho các nước bên ngoài công nhận màu cờ đỏ như máu kia không, có quên đi màu cờ vàng hiền hòa như tấm áo khoác của những nhà sư tu hành theo hạnh khất sĩ hay không? 
Tự nhiên chị Liên cảm thấy quá mệt mỏi. Bộ ngực chị lép xẹp, đôi vai khô gầy, đôi chân chị nặng nề, không còn đủ sức để đi tiếp đoạn đường nữa. Chị nhìn thấy những người đàn bà và trẻ em mời mọc khách qua đường những điếu thuốc lá ngoại. Chị nghe nói ở Củ Chi, những nơi gần cửa khẩu, có những người đi buôn lậu thuốc lá ngoại, sống được lắm. Chị nhìn xuống gói giấy báo bọc số tiền của vị cha xứ già của giáo xứ Bình An Thượng. "Tình thương" của giáo dân đây mà. "Nghị lực" của Thiên Chúa đang tiếp sức cho chị. Ờ, tại sao chị lại không đi về Củ Chi một chuyến xem sao. Ở đấy còn có nhỏ bạn học ngày xưa, ở giáo xứ Bắc Hà, gần căn cứ Đồng Dù có cây phượng vĩ. Năm học cuối của mùa hè xưa, hai đứa đã từ giã nhau, nó đi lấy chồng, còn chị gặp anh Hơn. Hai đứa đã tặng nhau cuốn lưu niệm, trong đó có ghi những dòng lưu bút và ép vào đó những cánh hoa phượng. Cánh phượng ấy bây giờ có lẽ đã khô theo thời gian nhưng những cảm xúc ngày xưa vẫn tươi mãi trong lòng chị. Ngày xưa chị đi xây dựng kinh tế mới theo chủ trương của nhà nước cộng sản, con Hoa ngăn cản: 
– Hãy ở lại thành phố, Liên ơi. Mình không biết nói sao về cái lòng tốt có vẻ như lo cho dân kia. Nó có vẻ tuyên truyền, xảo trá làm sao ầy. Chúa đã dạy "hãy xem trái thì sẽ biết kẻ trồng cây", hãy nhìn xem những gì họ đã làm… Đừng để bị xí gạt. 
Nhưng tiếc thay ngày ấy chị đã không còn cách nào khác, chị bị liệt kê vào thành phần gia đình "ngụy", có chồng chết trận nên phải đi vùng kinh tế mới để rồi bây giờ… chị ngồi đây, tứ cố vô thân. Chị Liên đứng dậy dời bùng binh chợ Sài Gòn, bỏ nhà ga xe lửa, tìm đường về Củ Chi trên chuyến xe cuối ngày. Xe lăn bánh, chị nhìn lại hè phố Sài Gòn lần nữa và nói với chính mình: "Chúng sẽ không giết chết được anh đâu. Bởi vì anh đang sống trong em và thở bằng hơi thở của em". Chị nguyện sẽ sống xứng đáng với sự hy sinh của anh, người chiến binh Việt Nam Cộng Hòa của chị. Chị Liên đã ở lại bên này đường vì chị còn giữ vững niềm tin, chị sẽ nối tiếp bước đi của chồng. Bỗng nhiên chị Liên ứa nước mắt: "Nếu như Chúa chưa tuyệt con đường sống của con thì giúp con thức tỉnh các thế hệ mai sau cảnh giác, không để vi khuẩn vô nhân xâm chiếm tâm hồn". 
Tới nơi chị đi bộ về hướng giáo xứ Bắc Hà, về nhà người bạn gái thuở học trò xưa. Trong xóm đạo này có rất nhiều người Bắc di cư năm 1954, không cộng sản. Họ là những người ghê sợ cộng sản như một cơn dịch bệnh. 
* * * 
Anh em phế binh, cô nhi, quả phụ và những người lính rã ngũ trong nước không nghe thấy chính phủ Hoa Kỳ và đồng minh nhắc nhở gì đến chúng tôi cả. Không lẽ họ đã quên và không còn trách nhiệm đối với những người bạn chiến đấu năm xưa nữa hay sao? Những con người cùng khốn, đang sống bên lề cuộc sống, nạn nhân của chế độ cộng sản đang trông chờ các bạn. Anh em phế binh luôn hướng về chính phủ Mỹ và các đồng minh cũ bởi vì họ thấy các quốc gia Tây phương đã giúp đỡ người vượt biên, những người sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa vào đất nước họ. Còn số phận chúng tôi thì sao? 
Nhưng đã là chiến binh không nên tuyệt vọng. Chúng tôi chỉ cảm thấy cô đơn vì không hòa nhập được vào với xã hội cộng sản. Ý chí ngoan cường, quật khởi sẵn sàng hưởng ứng các cuộc tranh đấu cho tự do, nhân quyền trên quê hương không mất trong lòng chúng tôi. Chúng tôi nhận thấy rõ âm mưu thâm độc của nhà nước cộng sản khi đày đọa chúng tôi, họ muốn chúng tôi chết lần chết mòn… trong quên lãng và nghèo đói. Nhà nước cộng sản muốn xóa đi một trang sử u buồn, những người như chúng tôi không có quyền sống trong nhân phẩm. Để khỏi mang tiếng với các nước bên ngoài, nhà cầm quyền cộng sản không trực tiếp giết chúng tôi bằng vũ khí, súng đạn, mà lùa chúng tôi vào những chốn rừng thiêng nước độc để cho thiên nhiên, dịch bệnh và đói ăn tiêu diệt chúng tôi. Nhưng chúng tôi đã không chết. Chúng tôi đã sống. Sống để làm nhân chứng cho một thời đại đen tối của đất nước: người cộng sản Việt Nam đang dày vò những người khốn khổ, muốn tiêu diệt những người không còn có lợi ích cho xã hội. Những người vô sản hôm qua đang muốn tiêu diệt những người vô sản hôm nay. 
Anh em chúng tôi đồng tâm nguyện với nhau: "Đừng chết! Không được chết! Ngày xưa chúng ta là những chiến binh tử thủ trước chủ nghĩa cộng sản, ngày nay chúng ta tiếp tục tử thủ trước cái chết đang chờ chực chúng ta, từng ngày, từng bữa. Nếu chúng ta không cố gắng kéo dài cuộc sống thì những lớp người kế tiếp, trong đó có con em chúng ta, sẽ bị nhà cầm quyền cộng sản mặc tình nhồi nhét, tuyên truyền những điều sai sự thật về cuộc chiến đã qua và như thế sự thật sẽ mãi mãi bị chôn vùi. Không còn ai biết chính họ đã xâm chiếm miền Nam, đày đọa và bóc lột nhân dân miền Nam. Như vậy rồi con cháu chúng ta sẽ tiếp tục mãi mãi trở thành nô dịch cho chế độ cộng sản. Chúng ta phải sống để làm nhân chứng, nhân chứng của thời đại Việt Nam, nhân chứng của lương tâm nhân loại!". 
Từ đó, những người cùng khổ như anh em chúng tôi đã cố gắng sống. Là người ai cũng muốn sống, nhưng sống trong chế độ độc tài cộng sản này không phải dễ. Chỉ những ai không có xương sống, đầu óc ù lì không dám bênh vực lẽ phải mới thoi thóp sống được, những người khác không có chỗ đứng. Biết bao nhiêu bạn bè, thân hữu chúng tôi đã nằm xuống vì dám chống lại những người cầm quyền, nhiều người như chúng tôi, ê chề hơn, ngã gục trước bệnh tật, đói ăn và thiếu áo. Nhiều người đang chết dần chết mòn trong nghèo khổ, nhân phẩm bị chà đạp, nhiều người khác đã tự tử để trút gánh đời. Nhưng chúng tôi phải sống, sống để mọi người thấy sự tàn ác của chế độ này, một chế độ không có chỗ đứng cho những người thua cuộc. 
Những khẩu hiệu "xã hội chủ nghĩa đẹp gấp trăm, gấp ngàn lần xã hội tư bản chủ nghĩa" là những ngôn từ rỗng tuếch, tất cả chỉ là sự thay ngôi đổi vị của những thành phần giàu có. Trên đất nước ngày nay, người ta chỉ thấy cán bộ cộng sản sống ung dung, phè phỡn trên sự nghèo khổ của đồng bào. Chúng tôi phải sống, sống để làm nhân chứng. Nếu chúng tôi bị chết hết đi thì sự tàn ác vô nhân của chế độ cộng sản sẽ còn tiếp tục. 
Thành phố đang theo đà "mở cửa" của đất nước. Vào những dịp lễ lớn, sinh hoạt mua bán trở nên nhộn nhịp, tấp nập hơn. Lẽ ra thì những người đi xin cũng có nhiều cơ may hơn, anh em phế binh bán nhang được nhiều hơn, nhưng vì "mở cửa" nên trên đường phố có nhiều khách nước ngoài "du lịch" vào Việt Nam, chính quyền cộng sản muốn "triệt tiêu" nghề ăn xin. Những người ăn xin đang ngồi ủ rũ trong những công viên kia buồn lắm. Những anh em phế binh đi bán nhang cũng không vui sướng gì vì cũng đang bị chiến dịch "làm đẹp thành phố" truy lùng. 
Sống làm sao đây? Đó là một câu hỏi lớn. Mua bán cần có vốn liếng, đi xin thì bị bắt, họ chỉ còn một cách là kéo dài cuộc sống với chính bản thân kiệt quệ của mình. Những phụ nữ còn chút nhan sắc và trẻ trung thì bán thân thể, còn những người cùng khốn chỉ có thể đi bán… máu của mình mà thôi. Bán máu để nuôi bản thân và nuôi gia đình. Anh em phế binh chúng tôi cũng đi bán máu, bán cho những trung tâm tiếp huyết để có chút tiền làm vốn mua nhang. 
Bỗng nhiên bán máu trở thành một phong trào, bán máu là một nguồn lợi. Từ tờ mờ sáng, trước các trung tâm tiếp huyết hàng trăm, hàng ngàn người "tình nguyện" chen chút nhau đứng chờ được lấy máu. Có người đã ngủ đêm tại chỗ để chắc chắn sáng hôm có một chỗ đứng trong hàng để chờ được người ta lấy máu. Khoảng 3 giờ sáng, đoàn người đã đông. Ai đến trễ thì phải chờ ngày hôm sau và gia đình người "tình nguyện" sẽ… đói. Do đó phải có một chỗ đứng. 
Trở về trường hợp của tôi. Một lần nữa, đã lâu rồi, cha tôi nằm phòng cấp cứu bệnh viện lao Hồng Bàng, bây giờ mang tên Phạm Ngọc Thạch. Được đưa vào từ chiều tối hôm trước nhưng ông đã nằm chờ mãi trong một ghế bố kê ở hàng hiên, không thấy ai đến hỏi thăm, chẩn bệnh và cấp thuốc men gì. Đến sáng người vào khám bệnh đông thêm, cái ghế bố của cha tôi được đưa ra gần cổng "nhà vĩnh biệt" (nhà xác). Tôi thấy những người nghèo khốn khác bị thương nặng cũng được đưa ra nằm gần đấy, thân nhân của họ phải chườm nước đá trên những vết thương để cầm không cho máu rỉ ra. Nhưng tuyệt nhiên không thấy vị y sĩ nào đến chẩn bệnh. 
Ngược lại tôi thấy nhiều bệnh nhân thuộc hạng gia đình khá giả được đưa vào trễ hơn thì được cấp tốc đưa lên phòng dưỡng bệnh. Tại đây họ được chăm sóc kỹ lưỡng, được cấp thuốc men thăm hỏi và được ăn uống no đủ. Có người đã nằm ở đó suốt ba tháng trời, có người sau khi xuất viện đã đến tái khám nhiều lần và mỗi lần được cấp phát thuốc men cho đến khi hết hẳn bệnh. Tôi sốt ruột hỏi thăm "người ta", thân nhân của bệnh nhân, thì họ nói nhỏ: 
– Phải biết… sống !. 
– Với ai? – tôi hỏi. 
"Người ta" làm thinh. Gần trưa hôm sau, một nữ cán bộ tên Hồng đến gần hỏi cha tôi: 
– Thân nhân đâu? 
Tôi vội vàng trình bày bệnh tình và hoàn cảnh gia đình tôi, bà Hồng hỏi nhỏ: 
– Có hai chỉ vàng không? Nếu có thì được đưa lên phòng điều trị, trên đó có đủ thuốc và được chữa trong vòng sáu tháng. "Thủ tục" để tôi hỏi cho. 
Tôi ú ớ trong họng. Bà Hồng chợt hiểu, liền thay đổi nét mặt và nhìn tôi dằn mạnh từng chữ: 
– Còn nếu không thì về địa phương, mang hộ khẩu ra các trạm y tế xin khám bệnh, tại đó người ta cấp thuốc miễn phí cho. 
Tôi dạ dạ vâng vâng, rồi bỏ đi ra ngoài. Sáng sớm hôm sau tôi đi tới thẳng trung tâm tiếp huyết và… chen vào sắp hàng với những người "tình nguyện" hiến máu khác. Tại đây tôi mới biết có những người cũng nghèo khổ như chúng tôi làm nghề "xếp hàng mướn". Họ đã ngủ lại đêm để giữ chỗ cho những người "tình nguyện" đến bán máu "mướn" lại. Giá một chỗ đứng bằng 1/10 sồ tiền người bán máu lãnh được. Những người này thường "quảng cáo" là họ có quen biết lớn trong trung tâm. Những ai không đủ tiêu chuẩn để "hiến" máu thì họ sẽ "nói" với cán bộ "lấy máu giùm" cho, giá của sự "nói giùm" này bằng 2/3 số tiền mà người bán máu sẽ nhận được. Sau khi "hiến" máu mỗi người được "bồi dưỡng" một ổ bánh mì nhỏ, một ly sữa cacao, một miếng thịt bò bí tết bằng ba lóng tay và một cái hột gà ốp la. Những người bán máu "không đủ tiêu chuẩn" thì phải biết điều nhường phần này cho người làm "mai mối" và "nhà bếp". Không đủ tiêu chuẩn là những người quá ốm yếu, bị tình nghi ho lao hoặc bệnh lây lang, hoặc cho quá nhiều lần, máu không đủ hồng huyết cầu. 
Tôi lanh lẹ chen lấn nên cũng có một chỗ đứng trong hàng chờ vì những người "tình nguyện" ai cũng sợ, họ không biết tôi là ai, thuộc "phe" nào của trung tâm tiếp huyết. Đúng 8 giờ sáng, các "trật tự" của trung tâm đi nhìn mặt từng người xếp hàng và phân loại, tôi bị vào loại không đủ tiêu chuẩn vì thân thể quá ốm yếu, suy dinh dưỡng. Bực mình trước cảnh bóc lột người cùng khổ, tôi lớn tiếng chửi bới: 
– Tại sao những người khác cũng ốm yếu như tôi được cho xếp hàng còn tôi bị loại? Bộ ăn hối lộ hả? Coi chừng nghe, tôi vào trung tâm báo cáo các người ăn tiền hối lộ cho coi… 
Chưa kịp nói hết câu thì "uých" một cái, tôi bị cùi chỏ của một tên mặt rô giả bộ đứng trong hàng tống mạnh vào ngực. Đang bàng hoàng định la lên kêu cứu thì tôi bị nhiều tên khác xúm lại lôi cổ ra khỏi hàng. Nhiều người khác chỉ chỏ mắng thêm. Một người đứng xếp hàng chỉ mặt tôi chửi: 
– Định phá đám hả mậy? Đ… mẹ xác thân như mày có gì mà cho. Đã không biết thân biết phận còn dám hỗn láo. Đáng kiếp! Đồ phế binh ăn hại. 

Thế là tôi bị hất văng ra ngoài hàng, người đứng trước đứng sau làm ngơ như không có chuyện gì xảy ra, chen mất chỗ đứng của tôi. Bực mình và buồn bã, tôi về lại nhà thương thăm cha tôi, bệnh của ông càng lúc càng nặng mà tôi thì không có tiền chữa chạy. Lần này tôi quyết định phải "biết điều" hơn. Sáng hôm sau tôi ra sớm hơn để xếp hàng và hứa cho một tên mặt rô đứng giữ trật tự số tiền nó muốn để được bán… máu. 
Từ đó tôi có thêm nghề mới, nghề bán máu. Lân la với chốn này, tôi cũng làm quen được nhiều người khác, vui nhất là được gặp lại những anh em phế binh và các quả phụ đã từng một thời quen biết. Phế binh Cận (cụt một tay) ngồi ở công viên với phế binh Độ (mù một mắt và cụt một chân) và Thành (méo miệng và cụt một tay) chờ chị Loan và bà Nguyệt già tới giới thiệu với người "sắp chỗ" cho đứng xếp hàng. 
Bà Nguyệt hồi này tìm được "việc làm" mới ở chợ bán máu nên không phải ra bùng binh chờ… khúc bánh mì nữa. Thật ra thì chẳng có ai mời bà Nguyệt ăn bánh mì cả vì bả quá già, thấy mà ghê. Bả còn có thêm nghề mới là "dẫn mối", nếu "giới thiệu" được nhiều người đến bán máu thì được nhiều ổ bánh mì với hột gà ốp la, ăn không hết thì bán lại nhà bếp. Chị Loan nhờ bà Nguyệt "giới thiệu" nên đã bán được ba lần máu, mà không cần phải đợi từ 3 đến 6 tháng. 
Anh Cận dự tính nếu mà mọi chuyện êm xuôi thì anh và anh Độ, có con đang đau nặng nằm ở bệnh viện Nhi Đồng I, sẽ đi đến Thủ Dầu Một bán máu tiếp. Tại đây thủ tục bán máu dễ hơn nhưng không được bồi dưỡng bằng ở Sài Gòn, và họ sẽ tìm đến những nơi bán máu khác để tiếp tục "hiến" máu lấy tiền. Tại những nơi này không ai có thể biết họ vừa mới bán máu xong vì thiếu phương tiện đo lường hồng huyết cầu. Nhờ bán máu nhiều lần, anh Độ chạy đủ tiền lo thuốc cho con, anh còn dự định nó lành bệnh xong anh sẽ đưa hai đứa con nhỏ ra Nha Trang sống một thời gian, không cho chúng đi mót rau nữa. 
Anh Thành ngồi buồn buồn nhìn Cận và Độ xếp tiền vào túi áo ở ngực. Anh bị lao nhìn thấy rõ quá và thân thể ghẻ lở tùm lum nên bị từ chối "nhận" máu. Anh Cận rủ anh Độ qua bên kia đường làm một tô hủ tiếu "rửa ruột" cho đã. Nhưng chị Ngọc Trai, vợ anh Độ, từ đâu chạy đến hớt hãi báo tin là con họ đã chết, người ta đưa vào nhà xác rồi. Anh Độ nghe tin ngồi thẫn thờ, không nói được gì cả, chỉ biết văng tục một tiếng "Đ… mẹ nó, cuộc đời này thật là chó đẻ", rồi rủ rục xuống mặt bàn. Tô hủ tiếu anh Độ vừa kêu ra ăn không nổi, anh Thành chạy vô ăn thay nhưng không còn thấy ngon, chỉ thấy mùi vị đăng đắng. Chị Ngọc Trai nức nỡ nói tiếp: 
– Người ta nói phải đóng tiền cho bệnh viện mới được đem xác con về. Họ nói là tiền giữ xác trong nhà lạnh, để lâu càng trả thêm tiền. Tiền xương máu của anh vừa bán cho nhà nước xong, không tội gì phải nộp lại cho nhà nước. Đời bây giờ chết là hết. Vô thần mà, không còn tâm linh gì nữa. Thôi để con mình cho người ta đem đi hỏa thiêu, coi như vô thừa nhận. 
Anh Độ cầm số tiền vừa lãnh xong, sau khi đã chia cho người "xếp chỗ" và đưa cho vợ, chống gậy đứng lên, đi qua bên kia đường ngồi xuống ghế đá. Miệng anh đắng nghét, môi khô lại, mắt hoa lên rồi nấc lên: "Con ơi!". 
Chị Loan dạo này cũng hết đi sang bên kia đường kiếm ổ bánh mì thịt, chị gia nhập lực lượng "tình nguyện" hiến máu. Chị có ý định gom số tiền bán máu được khá nhiều rồi sẽ đi buôn lại như xưa vì nghe nói là bây giờ cộng sản không còn ngăn sông cấm chợ nữa. Hôm nọ, gặp lại chị Mai, hai người mừng quá. Chị Mai cho biết là nhờ cặp bồ với một tài xế xe tải, chị thoát được vài chuyến hàng nên có lại mái nhà. Chị Loan nghĩ nếu mình có vốn sẽ nhờ chị Mai chỉ đường, nhưng trong hoàn cảnh này muốn có vốn chỉ còn cách đi bán… máu. Chị Loan đã đi đến các trung tâm tiếp huyết tại Thủ Dầu Một, Bình Dương, lên tuốt tận Lộc Ninh rồi vòng qua Biên Hòa "bán máu". Nhờ "biết điều" và ăn nói giã lã, chị bán được nhiều lần. Nhưng vì muốn mau thoát kiếp sống hè phố, chị Loan đã quên chính mình. Thân xác của chị ngày càng kiệt quệ, mặt chị ngày càng xanh xao, chân đi không vững, chị cứ bị xây xẩm luôn. Một đêm chị nằm ngủ luôn trên ghế đá một công viên tại Chợ Lớn, xác cứng đơ. Sáng sớm hôm sau người ta đến chở xác chị đi, số tiền chị để dành cũng không cánh mà bay… vào túi những người công an đến khám xét. 
Những người sống vất vưởng trên hè phố, có đó rồi mất đó. Họ sống như những bóng ma, vật vờ bên ngoài cuộc sống, không ai màng đến sự hiện diện của họ. Họ còn sống hay chết đi không thay đổi những sinh hoạt thường ngày. "Không có mợ, chợ vẫn đông".
Thành phố trong những tháng ngày cận Tết, mọi người vật vã đi tìm miếng sống. Nhà nước công sản tiếp tục bận rộn với những kế hoạch 5 năm, 10 năm, những công trình thế kỷ năm 2000, năm 2020… Họ bận tâm xây dựng những tượng đài kỷ niệm nọ kia, làm những báo cáo vượt chỉ tiêu, soạn diễn văn chúc mừng… Các loa đài phát thanh ra rả những bài ca ngợi thành tích, hứa hẹn thiên đàng, hạnh phúc ấm no, những âm thanh chát chúa vang vọng vào đầu người dân. Nhưng người dân Việt Nam đã điếc, họ chỉ thấy trước mắt là địa ngục trần gian. Người dân sợ hãi mỗi khi nhìn thấy lá cờ có hình ngôi sao vàng chìm ngập trong màu máu đỏ. 
Không! Không thể kéo dài mãi kiếp sống trâu ngựa này mãi trong chế độ này. Những người nghèo khổ đang bơi trong biển tuyệt vọng. Chế độ cộng sản đang hủy hoại con người, kể cả những người bần cùng nhất trong xã hội. Họ đã xúc phạm đến các thần thánh, đã đày đọa quê hương trong đói khổ và duy trì bất công. Họ không ngần ngại sử dụng những thủ đoạn tàn ác để triệt tiêu những người làm vướng chân họ. Họ sẵn sàng đi ngược đạo lý, sống trái tình người miễn sao được tiếp tục đè đầu người khác. Họ không phải là những con người bình thường, họ là loài thú dữ, những con "chó sói", không biết đạo lý, không biết tình người. Họ quay mặt luôn với những người đã từng ủng hộ họ ngày hôm qua, những "bà mẹ chiến sĩ" bây giờ chỉ biết ngồi than thân trách phận vì đã dại khờ bị cộng sản lường gạt, không những lường gạt cảm tình mà còn lường gạt luôn cả mạng sống con mình và tài sản. Chế độ cộng sản chỉ biết lo củng cố chỗ đứng của họ và chỉ bảo vệ quyền lợi của họ. Không còn gì để nói chuyện "phải trái" với những loại người này nữa. 
* * * 
Bờ sông Bạch Đằng là chỗ anh em phế binh và những người sống ở hè phố thường ra đó tắm rửa, giặt giũ và nghỉ ngơi. Ngâm mình dưới làn nước mát, chúng tôi tươi tỉnh trở lại, bụi bặm và nỗi nhọc nhằn tan biến hẳn đi. Chúng tôi ngước nhìn tượng Đức Trần Hưng Đạo, tay chỉ xuống dòng sông, mơ tưởng một trận Bạch Đằng Giang. Nhìn dòng nước chảy, chúng tôi mong xảy ra những cơn lốc xoáy cuốn phăng những bất công trong xã hội. Ngước nhìn trời cao, chúng tôi hy vọng có một Thánh Trần ra tay tế nhân độ thế, sớm mang lại cho quê hương tình người. Chúng tôi mong những bàn tay nối dài từ hải ngoại kéo anh em phế binh chúng tôi ra khỏi vùng bóng tối, giúp chúng tôi tạo lại cuộc sống bình thường, tìm lại nhân phẩm đã mất.

(còn tiếp)

Monday, December 27, 2021

Loại cá người Việt vẫn hay ăn mà không biết rằng WHO khuyến cáo gây ung thư!

 Bài dài, nhắc đi nhắc lại hoài. Nói chung quy là đừng bao giờ ăn cá muối hay là cá phơi khô là tốt nhất.

 Loại cá người Việt vẫn hay ăn mà không biết rằng WHO khuyến cáo gây ung thư!

 

Ăn cá là thói quen của nhiều gia đình Việt, cá ăn rất tốt cho sức khỏe. Tuy nhiên nếu ăn cá muối, hay còn gọi là cá khô thì lại chưa chắc. Hãy nên ăn cá tươi nếu có thể.
Nhiều người thích ăn cá vì cá không những bổ lại lành, chứa omega tốt cho mắt và trí não. Tuy nhiên có những loại cá rất độc, có thể gây ung thư (UT), thậm chí mức độ độc của nó còn được so sánh với thuốc lá, cụ thể: Ăn 1kg cá này thì ngang với hút trăm điều thuốc đó mọi người.
Tuy nhiên điều đáng nói ở đây là nhiều người không biết nên vẫn lựa chọn loại cá này ăn mỗi ngày. Đó mới thật sự là điều nguy hiểm.
Theo thông tin mình tham khảo được trên báo thì họ có nói rất chi tiết về loại cá này cũng như vì sao nó lại độc tới như vậy. Mình sẽ chia sẻ lại bên dưới để mọi người biết còn tránh những loại cá này ra nha.
Loại cá chứa chất gây Ung Thư .
Trước hết chúng ta không thể phủ nhận cá mang lại nhiều lợi ích dinh dưỡng, các loại cá luôn được giới chuyên gia khuyến cáo nên tăng cường tiêu thụ để phòng chống UT. Theo khuyến nghị của Viện Dinh dưỡng Quốc gia, mỗi người nên ăn ít nhất 3 bữa cá/tuần.
Nhưng không phải món cá nào cũng tốt cho cơ thể. Và theo cơ quan Nghiên cứu UT Quốc tế (IARC) của WHO, cá muối (hay còn gọi là cá khô) là loại thực phẩm gây UT cấp độ 1 nha.
Mỗi năm, có biết bao trường hợp bị ngộ độc, nhiễm khuẩn do ăn cá sống, cá lạ, các loại cá độc… Vậy nên chúng ta phải có nhận thức đúng đắn và hiểu biết về các loại thực phẩm, các loại cá vì không phải loại cá nào cũng tốt.
Theo phân loại các chất gây UT của Cơ quan được chia thành 4 cấp độ, trong đó chất gây UT loại I dùng để chỉ những chất có tác dụng gây UT rõ ràng trên cơ thể con người.
Vậy lý do gì mà cá muối lại trở thành chất gây UT loại 1?
Lúc đầu nó là loại cá tươi, sau đó được ướp với rất nhiều muối rồi để khô, mục đích nhằm bảo quản lâu dài. Phương pháp bảo quản này đã có từ rất lâu, chi phi thấp và tiện lợi nữa.
Khi ướp cá muối, người ta sử dụng nồng độ muối ăn cao nhằm mục đích khử nước của cá. Quá trình này dễ dẫn đến cá muối, cá mắm chứa cực nhiều nitrit. Nitrit sẽ chuyển hóa thành nitrosamine (nitrosodimethylamine) sau khi vào cơ thể.
Sau đó, dưới môi trường axit của dạ dày, nitrosamine cực dễ gây UT. Hơn nữa, ngoài nguy cơ gây UT do nitrit, cá muối có thể sinh ra vi khuẩn trong quá trình phơi nắng, để khô, thậm chí là sản sinh ra aflatoxin… và aflatoxin cũng là một loại chất gây UT cực mạnh nha mọi người.
Có nhiều nghiên cứu đã chỉ ra, ăn cá muối có mối tương quan nhất định với các bệnh UT, tỷ lệ không qua khỏi cao như UT vòm họng, UT thực quản, UT dạ dày.
Ảnh được phân tích trực quan
Ăn một kg cá muối mặn tương đương với việc hút 250 điếu thuốc lá. Ảnh minh họa, nguồn: Internet
Số lượng lớn các nghiên cứu khoa học chỉ ra: Trẻ em thường ăn cá muối trước 10 tuổi có nguy cơ mắc bệnh UT vòm họng ở tuổi trưởng thành cao hơn so với người bình thường.
Một số chuyên gia người Trung Quốc còn cho rằng chỉ cần ăn một kg cá muối mặn tương đương với việc hút 250 điếu thuốc lá.
 

Có nên tiếp tục ăn cá muối?

Dù cá muối là loại chất gây UT nhưng không đồng nghĩa với việc chúng ta phải bỏ hoàn toàn cá muối. Bởi vì nguy cơ gây bệnh như thế nào còn phụ thuộc vào liều lượng, khẩu phần mỗi người tiêu thụ nữa nha mọi người.
Lấy nitrosamine có trong cá muối làm ví dụ. Một lượng nhỏ nitrosamine không đủ để gây đột biến tế bào. Vậy nên chỉ khi chúng ta ăn một lượng lớn nitrosamine, trong thời gian dài thì mới đủ để nitrosamine tích tụ trong cơ thể và gây hại cho hệ tiêu hóa, cuối cùng sẽ phát triển thành UT.
Vì vậy mọi người vẫn có thể ăn nhưng nhất định phải hạn chế vì dù sao cá muối cũng chứa nhiều natri, tốt nhất nên lựa chọn các loại cá tươi.
Chia sẻ thêm cho để mọi người biết về một số mẹo ăn cá muối không gây UT.
– An toàn nhất vẫn là không nên ăn, còn nếu thèm quá hoặc điều kiện bắt buộc phải ăn thì tháng chỉ nên ăn 2-3 lần, mỗi lần cũng chỉ ăn lượng nhỏ thôi.
Cá muối không nên chiên rán. 
– Không nên chiên rán cá muối vì trong quá trình chiên, cá muối sẽ giải phóng các amin, các amin thứ cấp sẽ kết hợp với nitrit để tạo thành các hợp chất nitroso hoặc nitrosamine dễ dàng hơn.
– Trước khi chế biến, mọi người có thể ngâm cá muối trong nước rồi hấp chín theo ý muốn. Việc này sẽ làm giảm đáng kể lượng nitrit và muối trong cá.
– Đồng thời kết hợp ăn nhiều trái cây và rau quả giàu vitamin C trong khi ăn cá muối. Vì các nghiên cứu đã chỉ ra rằng vitamin C có thể ức chế sự hình thành nitrosamine.
Những thông tin trên mình tham khảo được trên báo thấy hay nên chia sẻ lại để mọi người cùng biết. Cá muối thực ra là món yêu thích của nhiều người, tuy nhiên dù vậy mọi người cũng nên ăn có liều lượng để đảm bảo sức khỏe lâu dài nha.

Sunday, December 26, 2021

Những Mảnh Đời Rách Nát - Nguyễn Văn Huy & Phan Minh Hiển - Chương 2: Những bóng ma trên hè phố

Quê hương, hai tiếng thân thương ai trong chúng ta cũng đã một lần gọi đến. Bình thường hai tiếng gọi thân thương ấy không gợi lên trong ta một cảm xúc nào vì đang sống với nó. Giống như không khí, con người hít thở nó để sống mà không cảm nhận sự hiện hữu của nó trong từng mạch sống. Chỉ đến khi thiếu dưỡng khí chúng ta mới cảm thấy nó là cần thiết. Cũng như thế, chỉ đến khi nào tôn miếu, xã tắc Việt Nam Cộng Hòa bị người cộng sản tiêu hủy, ngôi từ đường thờ kính tổ tiên bị bỏ phế, mồ mả cha mẹ, ông bà bị xúc phạm, khi ấy chúng ta mới cảm thấy thực sự mất mát, hụt hẫng vì quê hương không còn nữa. Chắc không ít ai trong chúng ta đã hơn một lần nhỏ lệ khóc cho quê hương điêu linh, tang tóc này. Vậy thì, các bạn hỡi, từ nỗi đau thương mất nước này hãy cùng chúng tôi lắng nghe tiếng nấc nghẹn ngào của những mảnh đời rách nát. 
Theo những biến đổi của thời cuộc, Hoa Kỳ và đồng minh rút quân ra khỏi chiến trường miền Nam từ sau 1973, Việt Nam Cộng Hòa chao đảo theo từng đợt tấn công ào ạt của cộng quân. Nhà cầm quyền cộng sản miền Bắc nuôi dưỡng âm mưu thôn tính miền Nam từ lâu, họ cho người nằm vùng trong những cơ quan, bộ phận trọng yếu của chính quyền và quân đội Việt Nam Cộng Hòa để quấy phá. Bị nội công ngoại kích, miền Nam sụp đổ mau chóng trước đợt tiến công quyết liệt từ đầu tháng 4-1975 của quân đội miền Bắc. 
Kể từ sau ngày 30-4-1975 thủ đô Sài Gòn không còn nữa. Lăng mộ, tôn miếu, sơn hà, xã tắc của Việt Nam Cộng Hòa bị chà đạp. Mồ mả, nghĩa trang của những chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa, những người đứng ra bảo vệ tổ quốc và đã hy sinh vì chủ nghĩa tự do ở miền Nam, bị đào bới, san bằng trong khi xác của Hồ Chí Minh được long trọng ướp trong hòm kiếng đặt ở quảng trường Ba Đình để được chiêm bái. Có người còn đến đó để khóc thương trong khi những nơi tôn nghiêm, thờ phượng ở miền Nam thì bị biến thành những khu "văn hóa" vui chơi tập thể. Ai khóc thương cho những chiến sĩ vô danh này, ai đoái hoài những người bị thương tật vì chiến tranh như chúng tôi chờ ngày tàn của cuộc sống? Bất công này biết bao giờ được gột rửa? Xin mọi người hãy chia sẻ và cố gắng xoa dịu nỗi đau của dân tộc nói chung và của chúng tôi nói riêng. 
Chủ nghĩa cộng sản loang nhanh như vết máu trên mảnh vải trắng tự do. Chủ thuyết vô sản tràn lấp những giá trị xưa, rồi lấn chiếm mọi ngõ ngách tâm hồn, đe dọa mọi suy tư của người dân trong thành phố bị đổi tên, ai phê bình hay chỉ trích chế độ mới đều bị trừng trị. Các lãnh tụ cộng sản Các Mác, Lênin, Mao Trạch Đông được ngợi ca, xác ướp Hồ Chí Minh được tôn thờ. Một phó sản mới được nhào nặn ra, "thành phần 30 tháng 4" ngoan ngoãn vâng lời chủ mới, hống hách với bà con, họ hàng và còn ác độc hơn cả quân "giải phóng". 
Chế độ cộng sản không cần đến tôn giáo đã đành, họ còn phỉ báng thần linh, ngăn cấm nghi thức thờ cúng ông bà, vong hồn người quá cố; tất cả đều là "mê tín dị đoan". Cảm xúc thiêng liêng và tình cảm riêng tư của con người đối với người cộng sản không là gì cả. Không những thế họ còn xúc phạm đến các tôn giáo, Chúa hay Phật, hoặc bất cứ đấng thiêng liêng nào cũng đều bị đem ra "đầu tố", nếu không bị mắng chửi bởi những người cuồng tín thì cũng bị bôi tro trát trấu. Những người lãnh đạo tôn giáo nếu không phải là thành phần "quốc doanh" thì bị liệt vào hàng "phản động", nếu không bị bắt giam thì cũng bị theo dõi, kiểm tra ráo riết. Họ còn cho người len lỏi vào các giáo phái, chia rẽ tín đồ, khai thác ngộ nhận, bẻ cong giáo lý, gài bẫy bắt giam giáo dân, hạn chế nghi thức thờ phượng. Chế độ cộng sản còn hủy diệt tín ngưỡng cổ truyền của dân tộc Việt Nam, các đình làng đều biến thành khu vui chơi, giải trí. 
Để đạt mục tiêu mong muốn, nghĩa là "xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội" trên khắp cả nước, tập đoàn lãnh đạo cộng sản không ngần ngại chà đạp nhân phẩm con người nhưng khôn khéo che đậy bằng những mỹ từ nhân đạo, nào là thông cảm nỗi khổ của nhân dân, nào là xóa đói giảm nghèo, khiến dư luận quốc tế và cộng đồng người Việt hải ngoại tin lầm. Khi đạt mục tiêu mong muốn, tất cả những thành phần dại dột tin theo đều bị bỏ rơi như những giẻ rách, kể cả những gia đình "liệt sĩ, cách mạng và mẹ chiến sĩ". Người đời có câu: "Mấy đời bánh đúc có xương, mấy đời cộng sản biết thương đồng bào" thật là xác đáng. 
Trong xã hội mới này, đạo đức bị coi thường, khôn sống dại chết, con người tranh nhau từng miếng ăn và nhìn người quen như… kẻ xa lạ. Liên đới xã hội mất dần chỗ đứng, có tiền thì có tất cả, không tiền thì không có gì hết. Quan hệ giữa người với người lần hồi mục rữa, kể cả những người sống ở nấc thang thấp cùng nhất xã hội. Chính quyền nhìn dân như kẻ thù địch và sẵn sàng dùng bạo lực trấn áp những ai tranh đấu đòi quyền sống danh dự. Chủ nghĩa xã hội không phải là chế độ của người nghèo. Quê hương này thật là bất hạnh, không có một tên êm đẹp nào đặt cho lá cờ sặc tanh mùi máu và cũng không tìm một tên nhân từ nào gọi tên những người cộng sản. Màu đỏ không phải là màu của tươi vui trong ngày lễ hội, nó là màu của tang thương và đọa đày bao phủ quê hương. Chủ nghĩa cộng sản gắn liền với sự độc ác. 

* * * 
Hạnh phúc không bao giờ có thật trong chế độ này, một chế độ lấy sự ác độc làm phương châm và lường gạt làm kim chỉ nam hành động. Như một kiếp luân hồi không được siêu thoát, các chế độ cộng sản phải là độc ác. 
Sau khi áp đặt bạo lực của kẻ chiến thắng trên người bại trận,các ủy ban quân quản buộc công chức và sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa ra trình diện rồi đưa họ vào những nhà tù tập thể, dưới tên gọi mỹ miều "trường học tập cải tạo". Tiếp theo sau là chính sách quản lý "hộ khẩu" khắc nghiệt, nó là sợi dây thòng lọng thắt cổ nhân dân, chế độ không ưa ai thì người đó phải chết. Để cướp trọn bộ số tiền nằm trong túi dân chúng miền Nam, nhà cầm quyền cộng sản ra lệnh "đổi tiền", 500 đồng cũ ăn một đồng mới, như thế cứ mỗi 500 đồng Việt Nam Cộng Hòa mới bằng một đồng xã hội chủ nghĩa, thêm vào đó họ còn quy định mỗi hộ khẩu chỉ được đổi 200 đồng mới mà thôi, số tiền còn dư do nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lý. Sau hai lần "đổi tiền" như thế, toàn bộ tài sản của dân chúng miền Nam đã lọt vào tay nhà cầm quyền cộng sản. Đúng là quân cướp ngày. 
Xã hội cũng thay ngôi đổi chủ. Những người trước kia thuộc thành phần ăn trên ngồi trước nay bị lọt sổ thành ăn dưới ngồi sau. Cán bộ cộng sản có chức có quyền thì "vinh thân phì gia" trong khi đất nước đã nghèo lại càng nghèo thêm. Nhà nước còn chiếm tất cả các cơ sở sản xuất lớn, "đánh" tư sản mại bản, quản lý tất cả các mặt hàng "nhu yếu" để làm chủ thật sự miền Nam. Bà con nghèo khó buôn bán trên lề đường đều bị xếp vào hàng "bóc lột". Cán bộ hạ tầng và "thành phần 30" hàng ngày săn lùng, bắt bớ, tịch thu hàng hóa của những thành phần "bóc lột", người buôn gánh bán bưng, trên các hè phố để… bán lại cho những thành phần "bóc lột" khác. Chính vì vậy mà không ít cán bộ nhà nước núp dưới danh nghĩa "cách mạng" hà hiếp dân chúng, vơ vét của công cho vào… túi riêng. 
Dân chúng quá sợ hãi đã trở thành ngu dốt và yếu hèn. Người ta không biết phải sống làm sao với hệ thống luật pháp ma quái, nay thế này mai thế khác, của nhà cầm quyền cộng sản. Bị ép vào đường cùng, dân chúng chỉ biết im lặng làm theo. Nhà nước cộng sản hứa cho dân một cuộc sống ấm no trong vùng kinh tế mới, nơi đây người ta chỉ thấy địa ngục trần gian. Không một cây lương thực nào có thể mọc lên ở những vùng đất khổ, biết bao gia đình tan nát và biết bao người âm thầm bỏ nắm xương tàn nơi chốn rừng sâu nước độc. Người dân đói quá phải đào những cây khoai mì mới trồng chưa kịp lớn, củ chỉ bằng ngón tay em bé, để ăn. Ăn càng non thì càng đói nặng. Ai kiên nhẫn chờ đợi những củ khoai mì lớn lên trong lòng đất thì ăn bất cứ vật gì có thể ăn được để cầm cơn đói, từ cóc nhái, ễnh ương, "bù toọt", rắn mối, dế cơm, bò rầy, trứng kiến, chuột rừng, rắn mối con còn đỏ hỏn đến măng non, củ dại, nấm rừng. Tại nhiều nơi, dân kinh tế mới ăn nhằm nấm độc chết hết cả nhà. 
Thiếu ăn, da thịt người kinh tế mới biến sắc, áo quần rách nát, chân tay phù thủng, bệnh sốt rét rừng, dịch tả, kiết lị cướp đi rất nhiều mạng sống, số trẻ em sinh ra trên kinh tế mới không đủ bù lắp số người bị chết vì đói và bệnh tật. Đi hay ở, đó những câu hỏi được lặp đi lặp lại trong lòng mỗi người. Bỏ về thành phố thì không biết sẽ ở nơi đâu, nhà cửa, vốn liếng đã lỡ dồn cả cho chuyến đi "lập nghiệp" trên vùng kinh tế mới rồi. Ở lại thì thần chết sống kề bên hông, luôn luôn đòi mạng. Người dân trên vùng kinh tế mới tự đặt câu hỏi rồi tự tìm câu trả lời. Thói thường vẫn vậy, khi quá cùng khổ người ta thường "đứng núi này trông núi kia". Do nhận thức yếu kém, họ chỉ mơ ước được đi… những vùng kinh tế mới khác với hy vọng sẽ có một cuộc sống khá hơn nơi đang sống. 
Những tin đồn mà dân chúng thành thị nghe được, do những người trốn từ các vùng kinh tế về thành phố kể lại, rất là hãi hùng. 
Trên một vùng kinh tế xa xôi nọ ở tỉnh Sông Bé, có một gia đình gồm có hai vợ chồng và ba đứa con nhỏ. Đứa con gái đầu lòng mới 11 tuổi phải theo cha mẹ vào rừng đào nương phát rẫy trồng khoai mì. Có lúc thiếu ăn cả nhà hái rau cỏ rừng về ăn lót dạ, chính vì thế mà hai đứa em nhỏ (đứa em gái 7 tuổi và đứa em trai 4 tuổi) chỉ lớn hơn con mèo. Người chồng trước kia là cựu quân nhân biệt phái về dạy ở một trường tiểu học nên không thích nghi kịp với nghề tay chân. Người vợ thay chồng làm việc quần quật nhưng cũng không đủ ăn, một hôm bà mắc bệnh kiết lị rồi qua đời vì thiếu thuốc men. Gia đình còn lại trở nên túng thiếu, nhiều bữa không có đủ khoai cho bốn miệng ăn, người cha và đứa con gái lớn phải nhường phần của họ cho hai đứa nhỏ, còn họ thì ăn… lá khoai mì luộc, uống nước lá mì luộc nên bị say nôn. Đêm nằm có nhiều ảo giác ngất ngây, cứ như bị ai đó nắm chân dốc ngược lên trời, oẹ mửa thốc tháo ra tới mật xanh mật vàng, trông thật khủng khiếp. 
Một đêm nọ vì quá đói, hai cha con lén vào rẫy nhà hàng xóm bới trộm khoai mì. Đang lúc hì hục đào trộm thì cả bị nhóm "dân quân tự quản" đi tuần bắt quả tang. Thế là trong đêm tối, những ánh đuốc trong thôn thắp dọi lên theo tiếng gõ dồn dập của thùng thiếc, dân chúng vây quanh cha con kẻ trộm. Người cha đứng cúi gằm mặt im lặng bên cạnh đứa con gái mặt mày tái xanh, tay còn ôm rỗ khoai mì. Một cán bộ xã, người miền Bắc, dáng vạm vỡ bước xộc đến, vẻ mặt nghiêm nghị chỉ tay vào mặt người cha hống hách nói: 
– Không "nao" động hả, ông thầy? Bắt quả tang đang ăn trộm rồi nhá. 
Rồi quay sang đám dân quân, người cán bộ này ra lệnh: 
– Đưa về huyện nhốt, cho chúng nó bỏ thói "nười"! 
Đang khi ông thầy còn lúng túng thì người cán bộ hùng hổ tiến tới túm lấy đôi vai gầy guộc của ông thầy, kéo xuống rồi lên gối một cái "huỵch" vào ngực. Đứa con gái thấy cha bị đánh liền thét lên: "Cha!", rồi quăng rổ khoai chạy tới nhưng bị hai người đàn ông khác nắm áo đẩy qua một bên té xuống đất. Mặt ông thầy tái lại, mắt mở to, sụm đầu gối, hai tay định ôm lấy ngực thì "bịch", một cú đấm móc từ dưới lên tống vào mặt ông thầy làm ông chúi nhủi. Người đàn bà chủ rẫy thấy vậy thét lên: "Ngưng tay, tôi không thưa kiện gì hết". Bao nhiêu căm ghét kẻ trộm nơi bà bay biến đâu mất, bà nói: "Để hai cha con ông thầy mang rổ khoai về nhà". Mặc dù khoai củ ở vùng kinh tế mới trong mùa khô này rất quí, bà còn biếu cha con ông thầy 40 đồng tiền mới (bằng một phần năm số tiền nhà nước quy định đổi cho mỗi gia đình). Hai cha con ông thầy cúi đầu tạ ơn bà hàng xóm rồi lầm lũi đi về. 
Nhưng người cha trở nên quẫn trí, thay vì dùng số tiền đó để mua khoai cho con ăn, ông ra chợ mua hai kí gạo và một con gà mang về nhà nấu một nồi cháo thật to cho con ăn. Đang lúc nấu, đứa con gái thấy cha nó vừa khóc vừa bỏ một thứ bột gì đó vào nồi bốc lên mùi nồng nặc khó ngửi nên nó bỏ chạy ra ngoài không chịu ăn. Nó vừa chạy vừa khóc trong đêm tối, ba cha con ông thầy tiếp tục ngồi ăn ngon lành. Sáng hôm sau người ta thấy xác ba cha con ông thầy nằm chết bên cạnh nồi cháo. Chính quyền địa phương không cho dân chúng chôn ba cái xác ấy ngay, họ được đắp chiếu để trước cửa 24 tiếng đồng hồ, bên cạnh là bản án có ghi hàng chữ "Tự tử là có tội". Vì chiếc chiếu không đủ che ba cái xác nên đôi chân cứng đờ và tái xanh của ông thầy lòi ra trông rất rùng rợn. Sang ngày hôm sau bà con lối xóm mới được phép chôn cất ba cha con ông thầy, đứa con gái 11 tuổi ấy theo đoàn người bỏ về thành phố rồi mất tích luôn. 
Các vùng kinh tế mới đúng là địa ngục trần gian, con người bị cái đói và bệnh tật dằn vặt hàng ngày, dân chúng trốn về thành phố rất nhiều. Chính quyền địa phương dựng lên nhiều chốt ngăn chặn luồn người trốn về thành phố và tung chiến dịch tuyên truyền hứa "cứu đói". Nhưng không ai nói láo bằng "vẹm", chẳng ai đến cứu đói và dân cứ tiếp tục trốn về. Trong đêm tối, từng đoàn người lũ lượt gánh đồ, vác bị trốn về thành phố. "Về đi thôi, nếu có chết thì chết ở thành phố sướng hơn chết trên rừng", mọi người rỉ tai nhau. 
Về được thành phố, họ ngủ trên các vỉa hè, bến xe, sạp chợ, kể cả trong các nghĩa địa. Họ lấy nền xi măng làm giường, bao ny lông làm chiếu, mùng màn thì không cần vì da thịt họ quá cằn cỗi, ruồi muỗi có viếng thì cũng bỏ đi thôi. Nhiều người còn cảm thấy vui thích được ngủ dưới trăng sao của thành phố; họ nói trăng Sài Gòn đẹp hơn trăng vùng kinh tế mới: "trăng gì mà trắng bệch như… mặt người chết đói, thấy mà ghê". Mọi người sung sướng chia nhau cảm giác về lại quê xưa, dẫu cho thân thể có tồi tàn rách nát trở về sống tại quê nhà vẫn thích thú hơn. 
Họ làm bài thơ sau đây hiến tặng độc giả: 

Về đi thôi 

Nhà nước nhà nôi thôi đừng nói nữa! 
Nói đi nói lại cũng chừng đó thôi. 
Nơi đây khốn khổ muôn người thiếu ăn, 
Chỉ mong có gạo có khoai qua ngày. 
Cuốc ngày cuốc tối, cuốc cả trời mưa, 
Bụng thì cứ đói, ruột thì cứ than. 
Tay chân bủn rủn, toàn thân bàng hoàng, 
Đêm về chỉ thấy bầy con khóc rần. 
Ở thì không được chỉ nước về thôi, 
Về thì du kích hung hăng hầm hừ. 
Trốn chui trốn nhủi mới về tới nơi, 
Chẳng may bị bắt, tiêu tan cuộc đời. 
Về lại thành phố có phiền ai đâu, 
Không nhà không cửa, chúng tôi ngủ đường. 
Ngày ngày sớm tối lang thang ngoài đời, 

Đói thì đứng chợ ăn xin của người… 

"Về đi thôi", tôi nghe thấy tiếng lòng thôi thúc. Mỗi đêm nhìn bà con lối xóm bỏ về, tôi cũng nôn nao. Được những người quen cho biết tin cha tôi lâm bệnh, tôi càng xót xa. Trước kia ông đi lập nghiệp ở khu kinh tế mới Tây Ninh, cạnh Núi Bà Đen cùng với mẹ và các em tôi. Mẹ tôi chẳng may mắc bệnh sốt rét rừng đã qua đời cách đây sáu tháng, cha tôi cùng các em đã trở về thành phố cách đây bốn tháng. Hiện cha tôi sống bằng nghề xin ăn, mỗi bữa ông đứng chực ở mấy cửa hàng ăn uống quốc doanh, chờ khi thực khách ăn xong, còn sót lại những thức ăn trên tô dĩa, ông vội vàng trút hết vào lon guigoz đem về nhà hâm lại cho các em tôi ăn. Xưa kia ông có lần dạy kèm Pháp văn cho trẻ nhỏ nên hiếm khi ông dám ngước nhìn thực khách hoặc chìa lon xin tiền vì sợ người quen nhận diện, ông chỉ nói lí nhí trong miệng. Tôi cứ lo âu hình dung cha tôi với mái tóc bạc trắng đứng bơ vơ bên đường, lỡ gặp cán bộ vạm vỡ nào đó túm áo mà xô đẩy thì sao. Miên man nghĩ đến cha, rồi nhớ lại câu chuyện ba cha con ông thầy, tôi càng nôn nóng trở về hơn. Càng suy nghĩ, tôi càng thấy nóng mặt, máu dồn lên óc. Cuối cùng thì gia đình tôi cũng chuẩn bị khăn gói lên đường. Thế là chúng tôi bỏ nhà bỏ cửa, bỏ cả mảnh đất đang làm dở dang trên vùng kinh tế mới, theo chân những người đi trước trốn về thành phố. 
Sau gần một tuần lễ luồn lách, trốn tránh các nút chặn trên các con đường rừng, chúng tôi về tới thành phố cũ với tên gọi mới. Sài Gòn vẫn còn đó nhưng đời sống đã khác xưa. Khu nhà tôi còn đây, nhưng căn nhà cũ không còn. Những người dân đi xây dựng vùng kinh tế như gia đình chúng tôi về lại phố cũ đều đau lòng nhìn các gia đình cán bộ tập kết miền Bắc đến xây nhà trên những nền nhà cũ của chúng tôi, họ ăn sung mặc sướng, đời sống sung túc, no đủ trong những căn nhà đẹp đẽ. Tôi mới chợt hiểu "cách mạng" không có nghĩa là xóa bỏ cái cũ để nâng cao mức sống người dân, mà là "loại bỏ" những người chủ cũ, những người thất trận và người dân nghèo như chúng tôi, ra khỏi thành phố, lùa họ vào những vùng đất chết để cho thiên nhiên, bệnh tật và đói khổ tiêu diệt. Còn tại thành phố, họ nâng cao mức sống cho những công bộc, dành những khu phố đẹp cho cán bộ cao cấp và gia đình họ ở. Trong những khu lao động, người nghèo khổ bị xua đuổi để lấy đất xây thêm những khu nhà mới, gọn đẹp hơn cho những cư dân mới, những người đến từ miền Bắc xa xôi, những gia đình "có công với cách mạng" (nằm vùng cũ) hay thành phần người giàu có mới. 
Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa như vậy chỉ là sự thay ngôi đổi chỗ giữa những thành phần giàu có mới và giàu có cũ. Những người nghèo khổ như chúng tôi không có chỗ đứng trong xã hội này, nếu có chăng thì ở chốn rừng sâu, nước độc. Nhiều người không biết cứ ngỡ rằng chế độ mới đã làm nhiều cố gắng cải thiện đời sống "nhân dân", nhưng nhân dân ở đây là "nhân dân cán bộ", thành phần ăn trên ngồi trước. Những hào nhoáng bên ngoài có mục đích phô trương, khoe mẽ với các quốc gia khác, với Liên Hiệp Quốc rằng nhà cầm quyền cộng sản đang "thay da đổi thịt", lo lắng cho lớp người cùng khổ của xã hội miền Nam xưa kia, nhưng thật ra là gạt chúng tôi ra ngoài rìa xã hội, để phải sống lay lắt trên các vỉa hè, nghĩa địa và hành nghề ăn xin. Chúng tôi mới chính là người vô sản, nhưng vì là thành phần vô sản miền Nam nên chỉ hưởng đày đọa và hà hiếp. Chúng tôi không còn gì cả ngoài những thân hình ốm yếu, tật nguyền cùng với đàn con rách rưới, sống không có ngày mai và chết không ai thừa nhận. Chúng tôi không buồn vì bệnh tật ốm đau không được chữa trị, đói không được cho ăn, nhưng buồn vì quê hương thiếu vắng tình người. Những người "vô sản" ngày hôm qua đang đày đọa những người "vô sản" hôm nay. 
Không riêng gì dân chúng miền Nam, cả những người vô sản miền Bắc cũng là nạn nhân của nhà cầm quyền cộng sản. Họ được hứa hẹn đủ điều để rồi chỉ toàn bánh vẽ, nhà cầm quyền cộng sản luôn luôn hứa hẹn thực hiện cho cái "sẽ là", và cái "sẽ là" không bao giờ tới. Con cái họ tiếp tục vào Nam làm bia đỡ đạn, lúc chết xác thân không biết chôn vùi ở đâu, hòa bình trở lại họ trở về kiếp sống nông dân, bị bạc đãi và khốn khổ như chúng tôi. Trẻ em cũng bị lợi dụng, các khẩu hiệu ra vẻ yêu thương chăm sóc trẻ em chỉ là bánh vẽ, các em bé miền Bắc cũng như miền Nam ở thôn quê đều suy dinh dưỡng, bụng ỏng da chì trong khi con cái những cán bộ có chức có quyền ăn sung mặc sướng và được đi học. Những đứa trẻ con ông cháu cha này tiếp tục sẽ đè đầu đè cổ con cháu chúng tôi. Cuối cùng sau bao nhiêu năm sống dưới sự ách cai trị của cộng sản, dân chúng miền Bắc rủ nhau từng đoàn vào Nam… ăn xin như những người trốn từ vùng kinh tế mới về vậy. 

* * * 
Từ vùng kinh tế mới trở về, tôi thấy gì kể đó. 
Vào thời điểm mà ly cà phê đen trộn bắp giá 150 đồng (năm 1981) thì trên các vỉa hè, góc phố bán đầy rẫy những quán hàng bán phở ruột bò 50 đồng một bát. Cứ mỗi buổi sáng, tại chợ Cầu Ông Lãnh những người lao động nghèo sống bằng đủ thứ nghề vặt vãnh, từ những anh em thương phế binh mua bán nhang đèn rong dạo, những quả phụ mua bán áo quần cũ ở những chợ trời, đến những em cô nhi, những người ăn xin và những người làm nghề khuân vác, đạp xe ba bánh, xích lô cùng những phu phụ hồ, v.v… thường xúm quanh những hàng quán phở ấy. Họ xì xụp ăn húp ngon lành những bát phở ruột bò, có người ăn hai ba bát mà vẫn còn thèm. Cơ khổ mới rõ điềm trời, nhiều người vừa mới ăn xong thì ngay lát sau bụng đã kêu đói lại rồi. 
Anh em phế binh chúng tôi chú ý đến các em cô nhi, vì trong lúc mà chúng tôi ăn bát phở giá 50 đồng, có vài lát ruột bò xắt mỏng như giấy, thì các em cô nhi hoặc nhịn đói, hoặc kêu ăn những bát phở giá 30 đồng chỉ có nước lèo mùi ruột bò và bánh phở. Ăn xong, anh em phế binh ngồi trên ghế cóc phì phèo điếu "Hoa Mai" hay "Đà Lạt", thứ thuốc lá đen phế phẩm loại 3, bên ly cà phê đen trộn bắp, định hướng chia nhau khu vực bán nhang. Các em nhỏ cũng ngồi bệt dưới đất chia khu đi… lượm bọc ny lông, ve chai ở các thùng rác chợ và giấy vệ sinh ở những nhà cầu công cộng trên những "ao cá Bác Hồ". 
Thời ấy người ta có phong trào lấy tên vị lãnh tụ "vĩ đại" đặt tên cho các công trình công cộng, những ao cá cũng vậy. Vì lúc ấy cái gì cũng có thể bán được cả, từ những bao ny lông tái sinh đen thủi đen thui đến những loại giấy vệ sinh tái sinh đi tái sinh lại đều có thể cân ký lô bán cho vựa ve chai nên các cán bộ có nhiệm vụ quản lý ao cá cũng tranh thủ làm… kinh tế. Vì thấy nguồn giấy "chùi" đáng kể ở các nhà cầu công cộng nên các em thường ngồi chầu chực đợi người ta vừa "vệ sinh" liền tranh nhau vào nhặt. Giấy vệ sinh vừa "dùng" xong liền đem ra sông giặt sạch, phơi khô, cân ký bán lấy tiền ăn cơm trưa. Nhưng nguồn giấy đó cũng là "tài sản của nhà nước", cán bộ giữ ao dọa nạt ngăn cấm các em không được vào nhặt. Một hôm cán bộ giữ ao túm được một em gái đang vào trộm "tài sản nhà nước xã hội chủ nghĩa" quăng xuống ao, trút sạch bao giấy của em vào giỏ đựng của nhà cầu công cộng "của" ông ta. Lúc bò lên bờ, chân nó bị mẻ chai cắt đứt nhiều chỗ, máu chảy đầm đìa. Người đi "vệ sinh" thường quăng mẻ chai xuống chỗ đi cầu dưới ao vì sợ cá tra tranh nhau ăn cứt, quậy nước dơ bắn lên người, do đó dưới ao toàn là mẻ chai. 
Chiều hôm ấy các em có vẻ buồn buồn, chúng nó lo âu vì không biết làm sao để có tiền ăn cơm. Nếu đi xin thì dễ bị công an bắt và đưa đi "nuôi" ở mấy "trường cải tạo" giáo dục thiếu nhi, huấn luyện cho chúng biết "lao động là vinh quang". Người ta thường bảo "cái khó nó bó cái khôn" nhưng đối với các em trai thì không vậy, "cái khó nó ló cái khôn". Chúng bàn nhau chung sức để dành tiền rồi góp lại mua sắm những bình điện ắc quy loại 6 vôn. Chúng lượm những cái căm xe đạp rồi mài cho thật nhọn, gắn vào những khúc tre, từng cặp một chúng chờ đêm tối xuống cùng nhau mở những nắp cống thoát nước dọc các vệ đường quanh chợ Bến Thành, Cầu Ông Lãnh, An Đông, Hòa Bình và Bình Tây chui xuống rọi đèn đâm chĩa cá. 
Có một thời dân chúng thành phố đổ tội cho những em này ăn cắp những nắp cống bằng gang đem bán. Thật sự thì cũng có chuyện đó, nhưng không phải mấy em này ăn cắp mà là người khác. Vì nắp cống quá nặng các em không khiêng nổi nên chỉ đủ sức nạy lên rồi đẩy qua một bên. Những "bạn hiền" đạp xích lô sáng sớm đi ngang thấy tiện "bợ nhẹ" đi luôn mà không cần biết hậu quả xảy ra cho người đi sau vô ý lọt xuống. Sau khi xảy ra nhiều tai nạn sụp lỗ cống, công an và dân quân canh gác ngày đêm những miệng ống cống, các em buộc phải mở những nắp cống ở xa để tránh dòm ngó, có khi phải khui những miệng cống từ các đường Hai Bà Trưng, Điện Biên Phủ (Phan Thanh Giảng cũ), Hùng Vương, An Bình, Nguyễn Tri Phương, Nguyễn Trãi… Mỗi lần chui xuống, các em cẩn thận đậy nắp miệng cống lại để tránh gây tai nạn. Vào lúc giữa khuya hay tờ mờ sáng, khi muốn lên các em cũng mở he hé miệng cống nhìn dáo dác chung quanh rồi mới vội vàng nhảy lên. 
Đường cống dài, luồn lách quanh co và tối om, nhưng nhờ những cái bóng đèn nhỏ gắn ở trên đầu, ở trước trán, chúng lùng sục, săn tìm được cá. Nguồn cá khá nhiều nên các em nhỏ không những có ăn mà còn dư đem ra chợ bán nên chúng có vẻ rủng rỉnh tiền bạc. Kể từ đó, vào mỗi buổi sáng chúng cũng gọi những bát phở loại 50 đồng ăn đàng hoàng, cũng "bắt chước" những nhà "trí thức" phế binh (chúng gọi chúng tôi như vậy, vì hay hóng nghe những chuyện anh em phế binh kể về cuộc đời lính tráng) ngồi uống cà phê và hút thuốc lá cho đỡ lạnh. Nhờ đồng tiền kiếm được, chị và em gái của chúng cũng sắm thêm vài manh áo mới mua ở các chợ trời bán quần áo cũ, mặt mũi trông sạch sẽ hơn. 
Thằng Nô (12 tuổi) và Phát (14 tuổi) thì không thấy mua sắm gì, các bạn gọi chúng nó là "trùm sô". Cả hai quê ở Long An, là con của tử sĩ Nguyễn Văn Thuận, cùng mẹ đi vùng kinh tế mới ở Cao Lãnh, Đồng Tháp Mười, nhưng đời sống quá cực nhọc và không đủ ăn, bà dẫn hai con về Sài Gòn sống lang thang. Một hôm hay tin mẹ mất, bà gởi hai đứa nhỏ cho một gia đình phế binh rồi về quê luôn, bà sống bằng nghề đi mót lúa và ở tạm nhà người bà con. Nô và Phát thường khoe với chúng tôi rằng cha chúng đi lính mặc áo "hoa rừng" (nhảy dù) chết vào mùa mưa năm 1972. Mẹ chúng đã khóc như mưa lúc nhận xác cha nên mỗi khi thành phố vào mùa mưa, chúng cảm thấy buồn buồn. Gần đến ngày giỗ cha rồi chúng cố "làm ăn" cho có nhiều tiền để về Long An thăm mẹ. Trong khi các bạn đồng lứa bắt đủ cá xong trở lên mặt đường ngủ đêm thì chúng tiếp tục lặn lội dưới các ống cống để tìm thêm cá. Có những buổi sáng chúng tôi thấy hai anh em rét run vì ngâm người dưới nước quá lâu. 
Vào một đêm nọ, chúng tôi sắp đi ngủ thì thấy hai anh em thằng Phát lặng lẽ mở nắp cống chui xuống. Khoảng vài ba giờ sau thì sấm chớp ầm ầm, chúng tôi choàng thức dậy tìm chỗ trú mưa. Một trận mưa như vũ bão đổ ào xuống thành phố và kéo dài đến sáng sớm. Các ống cống rút nước không kịp làm nước mưa tràn lên các đường phố, ngập gần đến gối những bạn hàng dọn chợ đêm. "Bình thường hai anh em thằng Phát ở lâu hơn bạn bè cùng lứa dưới cống để đâm thêm cá, nhưng giờ này trời đã gần sáng mà sao lạ chúng vẫn chưa lên?", tôi lo âu tự hỏi. Thôi rồi, tôi hốt hoảng chợt hiểu ra mọi sự. Anh em chúng tôi báo động với nhau, kẻ đi tìm người đi hỏi những đám nhỏ còn ngủ gà ngủ gật cạnh những đống rác "giữ chỗ" trước cho buổi sáng hôm sau, nhưng không ai thấy hai anh em thằng Phát đâu cả. Chúng tôi buồn bã bàn tán với nhau, hình dung cảnh tượng nguồn nước mưa tuôn ồng ọc vào các cống rãnh, hai đứa nhỏ mải mê bắt cá không biết bên ngoài trời mưa lớn, đến khi thấy nước dâng lên quá nhanh thì đã quá muộn, dòng nước đã bít các lối chui lên và cuốn trôi hai xác thân nhỏ bé. Ôi, cuộc đời thật quá mong manh. 
Cho đến một hôm, 33 ngày sau, một em bé trai khác đang lội bì bõm dưới các ống cống gần chợ Cầu Ông Lãnh tìm cá, bất ngờ đụng phải cái gì giống như "trái dừa", nó nhặt lên soi nhìn trước ánh đèn thì liền hét lên bỏ chạy, nó chui đại lên miệng cống ngay gần chợ trước sự kinh ngạc của những bạn hàng, mặt mày tái xanh. Nó vừa lượm một cái đầu lâu. Cả chợ hay tin đó liền kêu đội dân quân gác chợ và ban quản lý cho người mở nắp cống rọi đèn tìm kiếm xác hai đứa nhỏ, nhưng chỉ nhặt được một khúc đùi đã thối rữa và một nửa thân người còn lại. Người ta biết là thân xác còn lại của hai đứa trẻ bất hạnh và bọn trẻ nhận ra cái quần đùi màu đỏ của thằng Phát, bên trong còn ít tiền gài kim băng cẩn thận. Tiền đó thằng Phát để dành về quê giúp mẹ làm đám giỗ cha. 
Kể từ đó bọn trẻ ở các chợ Cầu Ông Lãnh, Bến Thành, An Đông, Hòa Bình, Bình Tây và các chợ nhỏ khác không dám chui xuống những đường cống thoát nước của thành phố để kiếm cá nữa, chúng sợ ma. Từ đó biết bao nhiêu chuyện đồn đại về những xác người bị giết và bí mật quăng xuống cống để phi tang. Không còn em nào dám mạo hiểm xuống các cống nước để kiếm cá dù có đói. Thế là bọn trẻ tiếp tục chia nhau đi lượm bọc ny lông, giấy vệ sinh và xin ăn trên hè phố. Không có ánh sáng ở cuối đường hầm cho những cô nhi. 
* * * 
Trong cuộc sống đầy gian khổ, tạm trú ở đầu đường xó chợ hay trên vỉa hè, những anh em phế binh còn độc thân hiếm khi có ý nghĩ tìm người bạn đường. Phế binh Phan Tiến Dũng, thủy quân lục chiến cụt một chân, cũng vậy. Mặc dù còn trẻ, hiền hậu và đẹp trai nhưng từ sáng đến tối anh vẫn lầm lũi đi đi về về một mình với những bao nhang đèn. Có lẽ vì chọn nơi tạm trú ồn ào bên cạnh chợ An Đông, Tiến Dũng ít khi rảnh rỗi nhìn lên trời cao để biết rằng có một vì sao chiếu mạng. Thật buồn cười, có nhiều người ước ao sống trong hạnh phúc nhưng không bao giờ bắt gặp, nhiều người khác không ao ước gì thì luôn gặp may. 
Trong chợ An Đông, có một phụ nữ người Việt gốc Hoa thích nghe chuyện lính. Cô tên Vòng A Muội, nhưng không hiểu tại sao ở chợ người ta thường gọi là "A Chế", còn anh em chúng tôi thì gọi là "A Phụng". A Muội, A Chế hay A Phụng là một thiếu nữ còn trẻ, duyên dáng và thật thà, cô thường hay giúp Tiến Dũng sửa soạn nhang đèn, thích nghe kể chuyện lính tráng, đánh giặc, bị bắt làm tù binh, v.v… Có lẽ A Chế có cha đi lính đánh giặc và chết trận nên mến Tiến Dũng chăng? Mặc kệ, đó là chuyện đã qua, còn bây giờ A Chế đang hiện diện trong tập thể "gia đình" anh em phế binh chợ An Đông. Nhiều lúc tôi thấy A Chế nhìn Tiến Dũng với ánh mắt đăm chiêu, không nói gì. Anh em chúng tôi thường đùa giỡn, mối mai, khuyến khích Tiến Dũng rủ A Chế đi ăn chè. Cô không những không từ chối mà còn giành trả tiền ăn mì, ăn cháo ban đêm rồi bao Tiến Dũng đi coi cải lương và xem xi nê. Tình cảm của hai người từ đó ngày thêm gắn bó, anh em chúng tôi rất mừng. 
Tuy vậy cuộc sống trên hè phố chợt thoáng rồi tan. Mới hôm qua còn gặp nhau đó ngày mai thì chia tay vĩnh viễn. Có những cuộc gặp gỡ chỉ được một lần rồi không bao giờ xảy ra nữa. Hiểu được những điều ấy, những người sống lang thang trên vỉa hè như chúng tôi lúc nào cũng sẵn sàng chấp nhận mất mát, rủi ro và bất hạnh. Nhưng chính trong cuộc sống vội vã này nảy sinh biết bao tình cảm chân thật, rụt rè khiến cho anh em xúc động và càng muốn vun đắp cho nhau. Huống chi Tiến Dũng là một người bạn tốt, nghèo nhưng sống có tình có nghĩa, anh thường hay giúp đỡ anh em mỗi khi hoạn nạn nên rất được lòng người. 
Anh em để ý thấy Tiến Dũng chăm chỉ đi bán nhanh, lại biết dành dụm tiền bạc. Những buổi trưa, Tiến Dũng chịu khó lê cái chân giả (anh cụt chân trái, xương còn mọc nên hay bị đau, đi lại khó khăn) ra ga xe lửa Sài Gòn. Ơ? đấy, bên góc đường Hàm Nghi – Phạm Ngũ Lão có những người đàn bà gánh cơm bán dạo, những dĩa cơm ấy rẻ vì có độn bobo (lúa mì thô dành cho súc vật), thức ăn là những con cá lòng tong kho mặn hay những con tép, giá 500 đồng một dĩa, trong khi ở cửa hàng quốc doanh một dĩa cơm bình dân giá rẻ nhất cũng phải từ 2.500 đồng đến 3.000 đồng. Tiến Dũng đã ăn những bữa cơm như thế, anh muốn để dành tiền mua tặng A Chế một cái quần tây màu cà phê sữa, kiểu điếu thuốc xì gà, bởi vì qua những mẫu chuyện trao đổi, Tiến Dũng khám phá ước mơ thầm kín của người bạn gái. 
Có lần A Chế kể cho Tiến Dũng nghe: "Nhà em ở xóm Gò Vấp gần khu quân sự, những ngày cuối cùng của tháng 4 quân cộng sản pháo kích lung tung, đạn lạc vào nhà dân. Hôm đó, em cùng hai em nhỏ đang ngồi ăn cơm với mẹ thì nghe một tiếng ầm khủng khiếp. Cả xóm kinh hoàng, lao nhao la lên: "Pháo kích, pháo kích, chạy đi bà con ơi!". Em vội thu xếp đồ đạc cùng mẹ dẫn hai em chạy ra ngoài đường theo những người hàng xóm. Chạy ngang nhà con nhỏ bạn định rủ nó cùng chạy giặc như em, nhưng… ôi thật khủng khiếp. Nhà của nó tan hoang, đồ đạc gãy nát, máu thịt văng tứ tung. Đạn pháo kích rớt trúng nhà nó, giết chết cả nhà. Con Hoa nằm ngửa, thân hình phủ đầy bụi đen xì, tóc tai rũ rượi phủ trên gương mặt trắng bệch, trên ngực nó máu me đầm đìa, cơ thịt cánh tay phải của nó còn giựt giựt nhưng bàn tay bay đâu mất rồi. Em nhìn nhỏ bạn nằm im không cục cựa, lòng se thắt lại nhưng cái quần tây màu cà phê sữa của nó vẫn còn "mô đen" quá. Em nghĩ nhỏ Hoa khi chết mà còn mặc cái quần tây như thế chắc cũng được thỏa lòng". 
Thạch Chia, phế binh Biệt Động Quân cụt chân phải, mặt đen như cột nhà cháy, nghe Tiến Dũng thuật lại liền nhe hàm răng ngựa cười khà khà: 
– Còn chú rể nữa chi, hổng lẽ ngày lễ tuyên bố lại bận xà rong khoe cái giò bằng cây sao? 
Bà Hồng già, ho lao gần chết, phê bình A Chế: 
– Đi lượm bọc ny lông mà bày đặt mặc áo bà ba – rồi bà lại hứa hẹn. Ê, đám cưới tụi bay tao đi nguyên con "dịt" cổ lùn Sa Đéc đó nghe! 
Thạch Chia trề cặp môi dầy thâm xì: 
– Ờ, con "dịt" của bà bằng mủ nhựa hả, ở Chợ Lớn bán thiếu gì. Nếu bà đi con "dịt" thì tui đi con heo Lái Thiêu! 
Anh em cười hể hả. Thạch Chia bình thường ít nói, tính tình cộc cằn, nóng nảy, hôm nay hỗng hiểu sao như con nhồng lột lưỡi. Niềm vui nhẹ nhàng lan tỏa trong anh em như áng mây bay làm dịu ánh nắng gay gắt ban trưa, nó như làn sinh khí thoáng lên bộ mặt xám ngoẹt của người hấp hối trước đi từ trần. Đang lúc những người khốn khổ đang quay quần đóng góp mỗi người một câu cho vui câu chuyện, cho đám cưới "tưởng tượng" ấy, chị Liên (quả phụ) bỗng nhiên lạc "tông", không hiểu sao lại tru tréo lên: 
– Ôi giời ơi, nếu cộng sản đừng đánh vào miền Nam thì con tôi vẫn còn có cha. 
Anh em chúng tôi biết là chị đang nghĩ tới đứa con trai duy nhất 8 tuổi của chị, thằng Đức, đang theo lũ trẻ cùng trang lứa moi móc, lặn lội trong những ống cống ngầm để tìm cá. Bà Hồng nhìn chị: 
– Tháng này cũng bớt mưa rồi, không sao đâu mà! – rồi bỗng dưng bà ấy thở dài nhìn các anh em phế binh nói tiếp. Giá mà tôi được sống lại giờ phút lịch sử ấy nhỉ. Tôi sẽ đến cùng anh em chiến sĩ, được chạm tay vào cò súng một lần thôi rồi lỡ có chết cũng cam lòng. Cứ đánh một trận cho tan tành té bẹ đi, ai xui thì chết, ai may thì sống, biết đâu sẽ hưởng được tự do. 
Thạch Chia cười: 
– Bà già cầm nổi cây M16 không? Nếu nổi thì tui cõng bà nha, nhưng nhớ lỡ quýnh quá đừng có "xả" ướt lưng tui đó nha bà. 
Bà Hồng già giả bộ không nghe trầm tư kể tiếp: 
– Một hôm tui đang đi ăn xin, gặp trúng ngay nhà cán bộ, cha này người miền Nam tập kết ra Bắc hồi còn nhỏ, năm 1954. Tui lỡ bộ tính nói vài câu rồi rút êm, nhưng "ổng" nhìn tui có vẻ thông cảm. Cha này có vẻ "trí thức" chứ không phải bặm trợn dốt đặc cán mai như mấy thằng "cách mạng ăn theo" (còn gọi là bọn "30", hay "30-4"). Ổng kể: "Khi ấy tôi còn ở Tòa Thánh Cao Đài, chiếm được Tây Ninh và thấy cảnh sinh hoạt của dân chúng tại dưới chế độ mới, tôi hiểu là giải phóng rồi đồng bào miền Nam sẽ khổ như đồng bào miền Bắc nên chúng tôi đâu có muốn giải phóng thành phố Sài Gòn làm chi. Không hiểu sao lính miền Nam lại bỏ chạy, đầu hàng. Chỉ cần giữ vững tinh thần, cầm cự hơn tháng nữa thôi thì tụi nó sẽ kiệt quệ thôi, xe tăng hết nhiên liệu, đạn dược không được tiếp tế, tinh thần xuống thấp và nhất là đói". Rồi ổng kêu "bả" (vợ ổng người miền Bắc, còn trẻ) vô lấy cho tui một ký gạo, dặn tôi nhớ né tránh mấy chỗ gác dân quân. Ổng nói: "Tụi nó còn hăng lắm, tập làm cách mạng, muốn lập công với đảng, chúng không ưa mấy người ăn xin bêu xấu chế độ đâu". Còn bả thì ân cần hỏi thăm tui bịnh lâu chưa, trời mưa có lạnh không, bả cho tui bộ quần áo rồi tâm sự: "Khi miền Nam giải phóng xong, tôi bỏ miền Bắc theo ông ấy vào trong này. Vì sau bao năm chịu đựng với nhà nước này, tôi hiểu ra một điều là đừng chờ đợi pháp luật hoàn tất, bởi vì pháp luật của nhà nước lập ra không phải vì nhân dân (mặc dù họ mượn danh nghĩa nhân dân, mà vì quyền lợi của nhà nước). Khi pháp luật chưa hoàn tất thì những người dân (ở trong Nam) hãy còn "kẽ hở" để mà sống, khi đã hoàn tất (như ngoài Bắc) thì chỉ có chết đói mà thôi". Bả còn nói thêm: "Miền Nam vẫn còn sung sướng hơn miền Bắc đấy chị ạ, cố mà sống và đừng nghe chính sách gì cả nhé bởi vì sẽ cứ thế mãi thôi. Họ lừa hết lớp người này xong lại tiếp tục lừa lớp người kế tiếp, ai cũng sợ hãi nên đành im lặng để mà sống". Nghe xong tui nhìn bả ngỡ ngàng, tuyệt vọng. Một cặp vợ chồng được chế độ này ưu đãi đủ thứ mà còn nói như vậy thì kể gì đời sống của tui. Bả tiễn tui ra về: "Thôi, chị đi đi nhé, nói chuyện nhiều không ích lợi gì". Tui bật ra cơn ho rũ rượi, bả nhìn tui thương hại, bả biết là tui sắp "đi" rồi nên dặn nhỏ: "Xin đừng gọi chúng tôi là cách mạng". 
Huệ và Đồng, hai người lính cũ, cùng nói: 
– Té ra là người dân miền Bắc đâu có sướng gì. Họ cũng chỉ là nạn nhân của vụ lừa thế kỷ như miền Nam mà thôi. Trong khi chúng ta lấy ngày 30-4 (1975) là ngày quốc tang thì miền Bắc có ngày 10-10 (1954) làm ngày giỗ quê hương của họ. 
Thạch Chia, vốn là con sâu rượu đế (anh còn có biệt danh "đại ca tiếu ngạo" vì hay cười cợt đời khi có rượu vô), thêm vào: 
– Dzậy là đúng như bà Bình hay nói ở hiệp định Paris: "Bình mới rượu cũ", chẳng có cải cách gì ráo trọi. Ôi, nói ba cái chuyện đó chi nghe bắt mệt. Ê, Lê A, mày tính đi đám cưới tụi nó cái gì đây? 
Lê A, phế binh Dù bị cụt cả hai chân phải gắn chân gỗ bước đi trên cặp nạng lều nghều như con cua, đáp: 
– Tui chỉ cần đi một vòng chợ Hòa Bình, Nguyễn Tri Phương là đem về một bọc ny lông đầy đầu gà, cánh vịt, phao câu, "pê đan" giò dĩa, lòng mề đủ thứ cho anh "nhậm chẩu" mệt nghỉ. 
Lê A triết lý thêm: 
– Cái khổ của chúng ta là biết những cái mà chúng ta không giải quyết được. Khi mà mọi sự đã trở thành vô nghĩa, khi mà chúng ta bị hất ra bên lề đời sống và đã trở thành những bóng ma vật vờ trên những đường phố thì chúng ta hãy sống như những bóng ma, sống như kẻ vắng mặt trong cuộc sống hào nhoáng này, cứ để ngày tháng qua đi rồi cái gì phải tới sẽ tới. Thôi đừng mất thì giờ tìm ánh mặt trời vào giữa đêm khuya, không bao giờ có đâu. Đừng có được voi đòi tiên nữa, anh em hãy nhớ lại lúc ở kinh tế mới chúng ta mơ ước gì, chúng ta có khác gì con vật nay đang hưởng ân huệ của cuộc sống đây nè: được uống nước phông ten, được ăn đầu gà cánh vịt, được ăn "pê đan" giò dĩa, được "nhậm chẩu" còn gì sướng hơn. Hãy vui với những gì đang có. 
Chị Liên thở dài u uất, tiếp tục lạc "tông": 
– Lạy Chúa của con ơi, ngài có nghe không? Người kiên trinh chung thủy sao lại bị bỏ rơi, kẻ man trá phản bội lại cứ được đền bù. Lũ Giuđa thời đại đang đè đầu cổ nhân dân đây này, lạy Chúa của con ơi. 
Chị Liên nghĩ về chồng chị. Lần về phép sau cùng, anh biết cuộc chiến sẽ còn khốc liệt hơn nữa nhưng vẫn quyết chí ra đi bảo vệ đất nước. Giờ đây chung quanh chị bao nhiêu kẻ chạy theo cuộc sống mới, có ai cần gì đến lý tưởng. Kìa nhiều người còn chỉ lối, dẫn đường cho chế độ cộng sản khống chế cuộc sống nhân dân miền Nam, họ được đền bù bằng sự no đủ, ăn sung mặc sướng trong khi con chị, "giời ạ, giờ này đang chui đầu dưới ống cống". Chị nhìn bầu trời một hồi rồi mặc cả: 
– Lạy giời, xin đừng mưa nữa, nhưng không mưa thì làm sao có cá. Thôi xin mưa nho nhỏ thôi, cho con tôi có được miếng ăn. 
Trong lúc những anh em phế binh khốn khổ như Tưởng lù đù, Tài râu, Hùng cụt tay, Long què giò, Bin khờ… cứ chết dần chết mòn vì bệnh hoạn, bị bắt vào "nhà nuôi", thì trên đường phố xuất hiện nhiều gia đình miền Bắc đi ăn xin ở các hàng quán. Họ vào cả cơ quan nhà nước xin tiền tàu, vé xe để về lại quê. Họ không sợ gì cả. Họ đi từng làng, từng xã vào Nam. Họ có lý do để đi vì mất mùa, lũ lụt… Họ là những ngươi đã một thời tuân hành nghiêm chỉnh những chủ trương chính sách nọ kia của nhà nước cộng sản. Bây giờ nhà nước không còn quan tâm đến họ nữa, tất cả chạy theo chỉ tiêu "tưởng tượng", các báo chí, đài cứ lải nhải nói nọ nói kia, ngợi ca những con số, phóng đại những kế hoạch 5 năm, 10 năm, thậm chỉ lập kế hoạch cho nhiều thế hệ đến năm 2020. Nhân dân khốn khổ miền Bắc bị bỏ rơi cho nên bây giờ họ đi xin công khai đấy, nhà nước có giỏi thì cứ bắt đi, họ không đi lẻ tẻ, họ đi từng đoàn, ai mà đụng đến họ thì họ kéo cả bầy tới bao vây làm áp lực. Những cán bộ miền Nam sợ những đám bần này vì hễ gây khó khăn gì thì họ làm đơn khiếu tố, khiếu nại lên các cấp lãnh đạo gốc miền Bắc tại Sài Gòn. Họ dùng luật pháp nhà nước miền Bắc đặt ra để đòi hỏi, yêu sách ngược trở lại nhà nước miền Nam. 
Thạch Chia tức lắm, trong khi anh là người "gương mẫu" tình nguyện đi xây dựng vùng kinh tế mới, thất bại trở về không nhà không cửa, vợ anh bị sốt rét rừng nằm rên ư ử như con chó, con anh 8 tuổi không biết chữ phải đi lượm rác (đi xin sợ bị bắt vào trường "giáo dục thiếu nhi bụi đời"). Anh đã nhìn thấy người ta giựt đứa con nhỏ ra khỏi tay người mẹ đang ngồi xin ăn rồi đưa đi cải tạo lao động, đứa bé 4 tuổi được đưa vào "nhà nuôi", một thời gian sau thì chết vì phổi có nước. Khi cải tạo về, người mẹ đến nhận con mới hay hung tin, từ đó bà trở thành người điên, ăn nói ngớ ngẩn, vô duyên. Biết thưa kiện ai trong xã hội này? Chưa phải hết, Thạch Chia còn buồn phiền cảnh đời thay đổi trắng đen. Có những anh em tàn phế như mình, trong cơn túng quẫn đến van xin anh giúp đỡ, hứa hẹn lung tung, khi được giúp rồi thì ôm tiền trốn luôn. Thật là phiền vì Thạch Chia dẫn những anh em đó đến giới thiệu với "anh Cả", một cựu sĩ quan cụt một chân, để đến chùa lãnh nhang về bán. Bán hết nhang những anh em này lo trả nợ nần riêng rồi đi luôn, ăn luôn cả vốn của mấy ông thầy, rồi ăn luôn cái chân cụt của người giúp đỡ mình. Thạch Chia xấu hổ với người "anh Cả", gầm lên: "Ta là một kẻ cương trường, một lần thất hứa còn gì thanh danh. Thôi lần này ra đi quyết không trở lại". Thế là Thạch Chia bỏ đất Sài Gòn, dẫn đứa con trai 8 tuổi vào Chợ Lớn… ăn xin. 
Bà quản lý Chợ Lớn Mới (chợ An Đông) là một phụ nữ mập ú, thân hình tròn như cái lu, trên khuôn mặt bánh bèo lủng lẳng một cặp má heo, nung núc những thịt và mỡ. Bà ngồi chễm chệ giữa chợ, giương cặp mắt cú vọ quan sát khắp nơi qua cặp kiếng trắng gọng vàng. Cặp mắt kiếng không làm tăng thêm vẻ "trí thức" sỏi đời mà chỉ tạo cho bà nét nghiêm khắc, soi mói lỗi lầm của người khác. Một ngày kia nhìn thấy hai cha con Thạch Chia đang ăn xin ở dãy hàng thịt, bà dẫn hai dân quân cầm AK47 tiến đến, bắt quả tang thằng nhỏ đang chìa nón xin tiền một khách hàng. Thế là… "chách" một cái, bà vả vào mặt thằng nhỏ thật mạnh làm nó khóc rống lên. Nghe tiếng con khóc, Thạch Chia đang khất thực bên dãy kia vội vàng chống nạng lò cò (anh không mang chân giả khi đi xin) nhảy đến cạnh bà quản lý chợ, rồi bất thần khom người xuống… "huỵch" một cái, anh thúc cùi chỏ vào mặt bà quản lý làm bà ngã bệt xuống vũng nước hôi hám ở hàng thịt, áo quần bê bết sình đen, cặp mắt kiếng cũng văng sang một bên. Hai dân quân ngơ ngác, người đi chợ đứng nhìn. Vừa lồm cồm ngồi dậy vừa quơ tay tìm cặp mắt kiếng, bà hầm hầm chỉ tay vào mặt Thạch Chia hét lên: 
– Bớ người ta! Quân ăn cướp! Trời ơi quân ăn cướp đánh người! Ngụy quân, bà con ơi. Ngụy quân làm loạn. Ăn cướp, ăn cướp, bắt nó lại, bớ người ta! 
Thạch Chia quơ nạng trước mặt bà hăm dọa: 
– Đ… mẹ, ăn hiếp con nít hả mậy! Đồ heo nái… 
Chưa nói kịp hết câu thì… "bộp" một cái, báng súng của một dân quân thúc vào miệng của anh, máu tuôn xối xả. Hàm răng đang còn ê ẩm, chưa kịp phản ứng gì thì "bịch" một cái nữa, lưng anh bị dân quân kia nện cho một cây gậy. Sau đó là những tiếng "thình thịch" vang lên, hai dân quân đấm đá loạn xạ vào người anh như đánh trống cúng đình trong ngày giỗ hội. Thạch Chia chỉ biết khom người ngồi xuống, hai tay che mặt, che đầu. Dân chúng hai bên bất mãn đứng nhìn, một ông già la lên: 
– Tụi bây muốn giết người hả? Bộ không thấy nó què giò hay sao mà đánh đập dã man như vậy? 
Thạch Chia nằm lăn lộn giữa vũng sình hôi hám, người ngợm đen sì, hai tay ôm đầu tránh né đòn thù. Đánh đá một hồi, bà quản lý giả bộ đứng ra can và phân trần với bà con: 
– Thằng này là ngụy quân, nó định giết tôi. Coi nè (bà chỉ vào má bên trái vừa bị Thạch Chia thúc cho một cùi chỏ còn tím bầm), nó tính ám sát tôi đó thấy không. 
Bà con trong chợ nhìn bà quản lý một cách khinh bỉ, nhiều chị phụ nữ còn che miệng cười khúc khích. Một dân quân túm áo lôi cổ anh dậy, dân quân kia trói quặt hai tay anh ra phía sau. Thạch Chia gào lên giữa hai hàm răng loan đầy máu đỏ: 
– Các người biết sống thì cũng để cho người khác sống với chớ. Tui cũng là con người, tôi cũng muốn sống như mọi người chớ có giựt đồ ai đâu? 
Bà quản lý sửa lại cái kính, giả bộ hỏi: 
– Nó nói vậy là sao? 
Một dân quân nét mặt hầm hầm hô lên: 
– Đưa nó về trụ sở, để nó ở đây mất "quan điểm" với nhân dân. 
Thằng con anh may mắn trốn thoát chạy về báo động, ai cũng khuyên nó ngồi yên nghe ngóng. Về tới trụ sở, Thạch Chia chửi bới một hồi thì bị một dân quân khác tát vào mặt mấy cái rồi đá một cú giò lái vào bụng, anh ngã quỵ xuống nằm im bất động. Chiều hôm đó, người ta lôi anh ra xích vào một cây cột giữa trời trong nghĩa địa Triều Châu, nay là Khu Du Lịch Đầm Sen. Cũng may là cây cột bị mục. Trời mát dần, Thạch Chia hồi tỉnh lại, anh đứng một chân chịu đựng từ buổi chiều đến tối. Vào lúc giữa khuya, bọn dân quân ngủ gà ngủ gật, anh lấy tay lay cho cây cột mục ngả xuống rồi từ từ rút tay bị xiềng ra khỏi thân cột. Anh vác sợi dây xích nặng 12 kí lô lên vai, nhảy lo cò ra ngoài lộ đón xe xích lô về gặp lại anh em. Vợ anh sụt sùi khóc và xoa muối ở các chỗ đau bị bầm tím trên thân mình anh. Chưa hả giận, Thạch Chia nói với vợ: 
– Mài cho tui cái rựa, tui không sợ thằng nào hết, phải ăn thua đủ với tụi nó thôi. Ai cũng một lần chết, tui phải chết anh hùng, không chịu nhục được nữa. Tui có trời độ mà đừng lo. 
Mọi người khuyên can mãi Thạch Chia mới nguôi. Rồi những khó khăn thường nhật trong cảnh sống bần cùng cứ bẻ gãy dần ý chí "đứng thẳng người" của anh em phế binh. Làm sao đứng thẳng được khi chỉ còn một chân, một tay chống nạng tay kia phải chìa ra xin tiền bố thí. Làm sao đứng thẳng khi đàn con nheo nhóc kêu khóc vì thiếu ăn, thiếu mặc và thiếu học. Thạch Chia nhìn thẳng vào cuộc đời trước mắt, chịu đựng và nhịn nhục. Ai sống thì cứ sống, ai chết thì cứ chết. Thạch Chia bất lực và tuyệt vọng. 
Bà Hồng già chết rồi. Bà chết khi đang đi xin ở chợ Nguyễn Tri Phương. Bà được một bạn hàng cho một trứng hột vịt lộn, khi đang ăn thì máu từ miệng ộc ra, bà mắc nghẹn ngộp thở chết. Những anh em khác khôn ngoan hơn tìm đường ăn xin ở những vùng xa. Vào những dịp lễ lớn như Tết Nguyên Đán, họ xin ăn ở Thánh Thất Cao Đài Tây Ninh. Công an và cán bộ có trách nhiệm thu gom không bắt họ ngay mà chờ cho họ xin năm ba ngày, khoảng mùng 6 hay 7 gì đó rồi mới ào tới bắt và tiền xin được bị tịch thu sung vào "công quỹ" riêng. Anh em nào có kinh nghiệm, chỉ xin ăn một hai ngày rồi chuồn đi thì thoát nạn, hoặc là ra mấy tiệm vàng ở chợ Long Hoa mua vài ba phân vàng cất vào túi, lỡ khi bị bắt trong các chiến dịch thu gom thì dúi cho nhân viên thi hành số vàng đó để họ ngó lơ rồi trà trộn vào nhà dân tẩu thoát. Nhưng cũng phải cẩn thận vì nhiều khi "tiền mất tật mang", cán bộ thu gom ác ôn vừa lấy tiền vừa bắt giam người. 
Những loại tin như vậy càng làm anh em mệt mỏi và nản lòng vì khi ấy chưa có các hội đoàn nhân đạo và ân nhân tại hải ngoại biết đến hoàn cảnh của anh em phế binh trong nước để mà giúp đỡ. Cuộc sống của người nghèo khổ rất là khắc nghiệt, mọi người cảm thấy như nghẹt thở trong nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa này. Những khẩu hiệu, bích chương, biểu ngữ loại "đánh cho Mỹ cút, đánh Ngụy nhào", không còn gây chú ý cho bất cứ ai trong thành phố. Riêng anh em phế binh, cô nhi, quả phụ chúng tôi thì thấm thía câu "đình đám người, mẹ con ta" vào những ngày lễ mừng "quốc khánh" như ngày 2-9 này. Trong lòng chúng tôi tuy không dám nói ra vì sợ trả thù, khủng bố, tù đày nhưng lúc nào cũng ngầm ngầm "nỗi hờn vong quốc" và những cảm xúc giận hờn không biết phải trút vào đâu. 
* * * 
Trở lại cuộc tình giữa Tiến Dũng và A Chế. Thấm thoát đã ba năm hai người hiểu nhau khá lâu và cảm thấy cần phải có nhau trong đời. Anh em cũng mừng vì cuộc đời phế binh vẫn còn có người thương mến và cũng nhân dịp gặp lại nhau, thăm hỏi, vui chơi và ăn uống cho bõ những ngày cực khổ lang thang đó đây. Vả lại, những dịp lễ "quan trọng" của người cộng sản như thế này, kinh nghiệm cho anh em biết là không nên đi đứng ngoài đường lêu têu dễ bị chiến dịch "làm sạch đẹp thành phố" thu gom lắm. Thế là anh em quyết định chọn một chỗ gần chợ An Đông, nơi "cư ngụ" của Tiến Dũng và A Chế làm lễ cưới. 
Hôm ấy mỗi người một chút tùy theo khả năng mà đóng góp. Chú rể và cô dâu "chịu" năm kí gạo ngon và một kí cá biển, mắm muối, bột ngọt, v.v… Anh em khoảng chừng mười mấy người, toàn là phế binh què cụt, vài bà quả phụ cũng đến chung vui, mỗi người góp thêm vài bó rau sống và những nhúm mì vụn mà các em cô nhi đi xin được. Lê A giữ lời hứa "danh dự" đi bán nhang một vòng đường Nguyễn Tri Phương, vừa mua vừa đổi nhang mang về một bọc gần ba kí đầu gà, cánh vịt, lòng mề, ruột heo và những cái chân vịt quay. Thành và Bé Ba thì đi một vòng chợ ca bài "Qua Cơn Mê" nên cũng đem về đóng góp vài trăm gờ ram chả cá. Chị Mạc vì chồng mới chết nên anh em cảm thông không để chị đóng góp, nhưng chị cũng xà vào phụ với cô dâu và mấy bà quả phụ khác nấu nướng. 
Người vui nhất có lẽ là Thạch Chia, không biết bằng cách nào anh đã mang đến một can mười lít rượu đế, gọi là để "mừng đôi trẻ" nên duyên chồng vợ. Chú rể Tiến Dũng mặc cái áo sơ mi trắng dài tay, cái quần xanh nước biển càng khiến anh ra vẻ học trò. Cô dâu A Phụng thì mặc cái quần tây màu nâu kiểu điếu thuốc xì gà và chiếc áo bà ba cùng màu, theo cách nói của Thạch Chia, ra vẻ "tân cổ giao duyên" nhưng mà "kệ bà nó". Thạch Chia mở đầu buổi lễ: 
– Hôm nay chúng ta đều có mặt đầy đủ, chỉ thiếu bà già Hồng, thôi kệ bả, mình cúng bả một ly khai màn là được rồi. 
Vừa nói anh vừa đổ một chút rượu xuống đất, rồi anh đưa lên môi uống một cái ực chỗ còn lại. Anh thì thầm: "Kính lão đắc thọ". Anh gắp cái mề gà, đôi cẳng vịt quay bỏ vào cái dĩa mời bà Hồng già "về" ăn. Tiếp đó anh em nâng ly chúc cô dâu A Chế và chú rể Tiến Dũng được nhiều may mắn trong cuộc sống, sớm thoát ly cuộc đời nghèo khó, có đàn con đông v.v… 
Thức ăn gồm ba món để trong nồi, ai ăn nấy múc, tô dĩa của khách để dưới nền gạch. Đầu tiên mỗi người làm một tô cơm với cá kho cho chắc bụng, sau đó là cuộc nhậu gồm một món canh hầm bà lằng đủ thứ nấu với xương heo, phổi, huyết, bao tử cùng những thứ rau cải, giá, hẹ, mì vụn… và những con cá nục chiên sốt cà chua. Món đầu gà, cánh vịt của Lê A được chiếu cố kỹ lưỡng vì mùi vị thơm thơm của nó gợi cho anh em cảm giác về những món ăn mà trước kia anh em đã từng được thưởng thức. 
Câu chuyện trở nên rôm rả hơn khi có thêm mấy người anh em từ Thủ Đức cùng đến chung vui. Họ đem theo mười mấy ổ bánh mì, vài bịch huyết luộc và một kí lô ruột bò. Vài người làm nghề bốc vác quanh chợ cũng nhào vô nhập cuộc, đóng góp mười lít bia hơi cùng hai kí phá lấu vụn. Mãi vui, trời đã về chiều, chợ đã dẹp xong, anh em mỗi người góp vui một bài ca nào đó. Thạch Chia lúc này mặt mày đỏ như con tôm luộc, gõ đũa vào dĩa nước chấm, ca bài "Xuân này con không về". Lê A ngâm nga bài "Mẹ ơi, hoa cúc hoa mai nở rồi". Huệ khen cô dâu: "Đẹp ghê nơi đó à nha". Nãy giờ chú rể không uống rượu, bấy giờ "hội đồng" bắt phạt hai người phải hát bản nhạc Tàu "Lương Sơn Bá – Chúc Anh Đài". Đồng hứng quá hát bài "Này công dân ơi, đứng lên đáp lời sông núi…". Riết rồi mỗi người chêm vào một câu, mạnh ai nấy nói. Tự nhiên giữa lúc mọi người đang chan hòa niềm vui, chị Liên lại lạc "tông": 
– Giời ạ, nước mất nhà tan, gia đình ly tán thế này mà còn vui nỗi gì! 
– Trời đất, đám cưới mà thế này thì xui quá – Thạch Chia sắp sửa rầy chị thì ở góc đường xuất hiện hai dân quân, tay đeo băng đỏ và cầm gậy đi tuần. 
Anh em im bặt vì nhận ra họ là những người có trách nhiệm giữ an ninh ở khu chợ này. Họ bước đến gần, người to lớn vạm vỡ hất mặt hỏi: 
– Này, mấy người làm cái gì ở đây mà ồn ào thế hả? Âm mưu gì đó? Định tụ tập gây rối trị an, làm xáo trộn đời sống của nhân dân hả? 
Vừa hỏi xong, người to lớn thò đầu vào bàn nhậu quan sát. Tiến Dũng còn tỉnh táo, vội phân trần: 
– Dạ, tụi em đâu có làm gì đâu, đồng chí. 
– Câm mồm! – người to lớn nạt nộ. Ai đồng chí với lũ Mỹ Ngụy chúng mày. 
Tiến Dũng vội nói: 
– Dà, anh Hai tha lỗi, bữa nay đám giỗ ông bà, tụi em lỡ vui quá. 
– Im ngay, không thì tao cho một cái tát vào mặt bây giờ. Ăn với nhậu – người to lớn lừ con mắt nghiêm nghị. Ngày xưa tụi tao ở trong rừng, ăn củ năng ấy mà còn đánh giặc, có đâu ăn nhậu lười biếng như chúng mày, không đóng góp gì cho nhân dân, cho cách mạng cả. 
– Còn mày? – người trẻ tuổi dựa hơi "cách mạng" hất hàm hỏi Lê A, lúc đó đang mặc chiếc áo lính màu hoa rừng còn tươm tất. Ngày xưa giết được bao nhiêu Việt Cộng rồi, cấp bậc gì, sĩ quan hả? 
Thạch Chia mặt đỏ gay, ngước mắt nhìn người dân quân trẻ, trả lời thay: 
– Nó ở kinh tế mới về, bị sốt rét rừng, đi bán nhang thấy… mẹ luôn. Vì ít bữa nữa cũng tới lễ quốc khánh 2-9 rồi, nó ghé đây ăn mừng mà. Sĩ quan gì cha nội. 
Người to con bước sấn tới, hất đổ ly rượu trước mặt Thạch Chia: 
– Ai hỏi mày mà thay lay. 
Quá mức chịu đựng rồi, giọt nước đã làm tràn ly. Thạch Chia bật đứng dậy và… trời ơi anh có võ Tàu. Hai ngón tay của Thạch Chia chĩa tới như hai cái dùi đâm vào mắt người to con theo thế "song long sang châu" (con rồng cướp trái châu). Nhưng người to con cũng không phải tay vừa, hắn ngửa mặt ra phía sau né đòn rồi nghiêng người quét ngang chân phải vào cái chân còn lại của Thạch Chia (anh quên mang chân giả vào). Thạch Chia mất thăng bằng té ngồi xuống đất, người to con xông tới, hai người vật nhau lăn lộn dưới đất. Người to con đè đầu Thạch Chia xuống, thét bảo người trẻ tuổi phụ trói Thạch Chia đưa về trụ sở. Lê A nãy giờ cố gắng nhịn nhục, liền lao tới đập cái tô canh vào đầu người trẻ tuổi. Chú rể không uống rượu, bấn loạn tâm thần, cũng bước tới túm tóc người to con lôi dậy, quất cái chân giả vào mặt một cái "bộp", máu rỉ ra nhền nhệt. Say máu vì thấy người to con tay còn nắm tóc Thạch Chia, Tiến Dũng co tay quất thêm một cái nữa vào đầu khiến người to con chúi nhủi về phía trước. Huệ và Đồng nhào tới, chị Liên thét bảo con tìm cục gạch. Những tiếng thoi, đập vang lên liên hồi. Hai dân quân quên cả đau lật đật ngồi dậy, bỏ chạy. 
Chưa đầy mười phút sau, anh em phế binh cùng bạn bè chưa kịp chạy trốn thì một toán dân quân khoảng hơn chục người cầm gậy gộc và súng AK chạy tới bao vây các ngõ chợ. Trời vừa sẩm tối, mạnh ai nấy chạy. Toán dân quân hễ cứ thấy ai mặc áo lính, què cụt, bước chân dậm dệch là nhào tới đánh đập. Thạch Chia bị nện báng súng tới tấp vào mình, Huệ và Đồng bị hai dân quân khi nãy nhận diện nên bị đánh hội đồng, Huệ mềm người gục xuống, máu từ miệng ồng ộc chảy ra… Chủ rể nhờ khuôn mặt hiền hậu, đẹp trai, mặc áo sơ mi trắng, quần xanh dương, dáng học trò nên dân quân sơ ý không nhìn thấy cái chân giả, thoát nạn. Anh cùng cô dâu trốn ra khỏi chợ, ngồi co ro ở một góc đường. Những người dự tiệc bị bắt dẫn đi. Thạch Chia cũng bị lôi theo, hai tay bị trói tay quặt ra đằng sau, nhảy cà nhắc theo toán dân quân. Chú rể thấy người anh của mình bị hành hạ, định bước ra can thiệp, cô dâu A Chế nắm chặt tay Tiến Dũng, nhìn anh với vẻ van nài tha thiết: 
– Không làm được gì nữa đâu, anh! 
Thấy cô dâu chú rể đứng bên kia góc đường lẫn lộn với đám người hiếu kỳ, Thạch Chia mặc dầu bị lôi đi xềnh xệch vẫn tìm cách quay đầu lại nói với đám đông: 
– Đừng làm gì vô ích anh em ơi. Chúc cô dâu chú rể hạnh phúc. 
Tiến Dũng im lặng nhìn những bạn đồng cảnh ngộ bị giải về trụ sở dân quân, lòng đau như cắt. Anh bất lực. Cuộc đời kham khổ của những anh em phế binh trở về những tháng ngày đen tối. 
Đoàn người bị trói tay đi theo toán dân quân đằng đằng sát khí, tay cầm gậy gộc, súng ống, miệng thì chửi bới tục tằn, họ hùng hùng hổ hổ như thể sắp lôi ra pháp trường hành quyết những kẻ thù không đội trời chung. 
Chúng tôi có làm gì để trở thành kẻ thù của ai đâu, chúng tôi chỉ muốn được vui chơi như mọi người khác trong một tiệc cưới mà cũng không yên. Lê A chịu không nổi cảnh kham khổ trong trại cải tạo đã chết một năm sau đó, để lại hai đứa con gái hiện đang hành nghề bia ôm trên các vỉa hè. 

Viết lại theo lời thuật của Nhị Nguyên

(còn tiếp)