Tuesday, November 2, 2021

Lucien Conein và biến cố 1-11-63 (phần 1) Đinh Từ Thức 1.11.2010

webcache.googleusercontent.com/search?q=cache:zAObHfcuZiY...
Phần I
Tại phiên họp ở Bạch ốc ngày 25 tháng 10, 1963, xếp lớn của Conein là McCone, Giám đốc CIA, tỏ vẻ lo lắng Conein quá “hiển hiện” (overt), vì ai cũng biết anh ta là CIA. Bộ trưởng Quốc phòng McNamara than phiền, “chúng ta giống như một bọn tay mơ. Chúng ta đang mưu sự với một đại sứ quá chú trọng tới báo chí và một người Pháp không bình thường”, ý nói Conein. Bộ trường Tư pháp Robert Kennedy muốn cắt đứt mọi liên lạc giữa tòa đại sứ với các tướng lãnh mưu đảo chánh, nhưng rõ ràng là điều này không thể được. Cuối cùng, Tổng thống John Kennedy kết luận là Hoa Kỳ không còn lựa chọn nào khác, Conein là đường giây liên lạc duy nhất. Một điện tín đã được gửi từ Washington tới tòa Đại sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn, lưu ý Đại sứ Lodge theo dõi sát Conein, và đừng để đại sứ quán liên hệ quá mật thiết với cuộc đảo chánh.
Đoạn trên đây được dịch từ cuốn Why Vietnam Matters, một trong những tài liệu mới nhất về biến cố 1-11-1963 của cựu nhân viên tình báo Mỹ Rufus Phillips, xuất bản năm 2008 (1). Theo hồi ký của Phillips, Conein là người đã có vai trò quan trọng trong biến cố làm thay đổi cả cục diện lịch sử Việt Nam. Nhưng từ mấy chục năm nay, mỗi năm vào dịp kỷ niệm đầu tháng 11, Conein thường ẩn hiện trong các bài viết như ma chơi, không rõ ràng đầy đủ. Nhờ các tài liệu mới, như cuốn sách của Rufus Phillips, mà tác giả chính là người làm việc chung với Conein tại Việt Nam trong nhiều năm, cũng như dựa vào cuộc phỏng vấn Conein của hệ thống TV/Radio WGBH, người viết xin ghi lại sau đây những sự kiện mới được biết về Conein.

Cuộc đời ngang dọc
Lucien Conein là một người khá đặc biệt, đầy mâu thuẫn, và liên hệ tới nhiều chuyện thực hư khó phân biệt. Là người Pháp, từng chiến đấu cho nước Pháp, nhưng cũng phá Pháp tại Sài Gòn để bảo vệ ông Diệm. Là người từng hợp tác với Việt Minh chống Nhật, rồi lại phá Việt Minh sau Hiệp định Genève. Là người cùng với Lansdale giúp ông Diệm củng cố chế độ, rồi sau lại giúp các tướng đảo chánh lật ông Diệm. Là thành viên danh dự của “Thân hữu đảo Corse” (Corsican Brotherhood) một “xã hội đen” nổi tiếng hơn cả Mafia về những hoạt động phi pháp, nhất là buôn ma túy, nhưng được cử đứng đầu cơ quan chống ma túy của chính quyền Mỹ. Là người được thưởng nhiều huy chương cao quý, khi chết được mai táng theo đúng lễ nghi quân cách tại nghĩa trang quân đội Arlington, nhưng cũng có tin đồn đã dự phần trong mưu đồ ám sát Tổng thống Kennedy.
lucienconein
Chân dung Lucien Conein vào khoảng Đệ Nhị Thế Chiến
Ra đời tháng 11 năm 1919 tại Paris, lên 5 tuổi, Lucien mà về sau thường được gọi là Lou Conein, hay chỉ vắn tắt là “Lou”, được mẹ góa gửi sang Mỹ cho bà dì trông nuôi. Dì là chị em ruột của mẹ lấy một quân nhân Mỹ sang phục vụ tại Pháp hồi Đệ nhất Thế chiến. Conein vẫn giữ quốc tịch Pháp, sống với dì và lớn lên tại Kansas City, tiểu bang Missouri. Ngay từ nhỏ, Conein đã tỏ ra nghịch ngợm, phá phách. Thời trung học, Conein có người bạn thân nhất được bố cho dùng xe hơi, nhưng với điều kiện chỉ được đi 20 miles một tuần, căn cứ vào đồng hồ odometer. Conein thường phá lệ bằng cách lái xe giật lùi đi quanh thành phố.
Năm 1939, Đệ nhị Thế chiến bùng nổ, Conein xin gia nhập quân đội Pháp, trở về chiến đấu trên đất Pháp. Khi quân của Hitler xâm chiếm Pháp, Conein trở lại Mỹ, gia nhập quận đội Hoa Kỳ, và nhờ biết tiếng Pháp, được chuyển sang cơ quan tình báo chiến lược OSS (Office of Strategic Service). Năm 1944, Conein được huấn luyện nhảy dù, nhảy xuống mặt trận Phi châu, có căn cứ ở Algiers, giúp phe kháng chiến Pháp chống Đức. Tại Algiers, Conein có đứa con đầu tiên, và người vợ đầu tiên là một phụ nữ Pháp.
Trong thời gian giúp kháng chiến Pháp, Conein làm viêc chung với “xã hội đen” Corsican Brotherhood, và trở thành thân thiết với nhiều người gốc đảo Corse.
Khi Hitler tự tử và Đức đầu hàng vào mùa Hè năm 1945, Conein được gửi sang Đông Dương để tổ chức đánh Nhật. Thời gian này, Conein đã hợp tác với Việt Minh. Có nguồn tin nói rằng anh ta đã gặp cả Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp.
Theo Rufus Phillips, Conein nhận rằng mình là người Mỹ đầu tiên vào Hà Nội sau Đệ nhị Thế chiến, sau khi ông nhảy dù xuống chiếm giữ một phi trường trong tay người Nhật. Theo tướng Trần Văn Đôn, tác giả quyển Việt Nam Nhân Chứng, ông đã gặp Conein ở Hà Nội năm 1946: “Ông ấy nói với tôi rằng ông ta là người lái xe Jeep đầu tiên vô Hà Nội ngày 6-3-1946.”
Năm 1951, Conein được gửi sang Tây Đức, lập cơ sở tình báo ở Nuremberg để hoạt động tại các nước Đông Âu như Ba Lan, Tiệp Khắc. Công tác này không đem lại nhiều kết quả.
Phá Cộng tại miền Bắc
Năm 1954, Conein là người thứ nhì trong nhóm Lansdale được cử sang Sài Gòn giúp chính quyền Nam Việt Nam sau Hiệp định Genève. Cảm tưởng của Rufus Phillips khi gặp Conein lần đầu là ấn tượng về một người bề ngoài có vẻ nguy hiểm, lúc nào cũng như muốn nổi giận; mắt xanh, lông mày rậm, ăn nói thô lỗ, tục tằn. Bao giờ cũng mở đầu đối thoại với Lansdale bằng một câu chửi thề, tiếp theo là “Ông chẳng biết cái cứt gì đang xảy ra cả”, sau đó mới nói tới công việc.
Nhưng đôi khi, Conein cũng tỏ ra hiền lành, dễ thương. Phillips kể: Vào một buổi chiều Chủ nhật năm 1955, anh ta đã biểu lộ một khía cạnh khác, khi một nhóm người Việt được mời tới dùng bữa trưa và bơi lội tại căn nhà chúng tôi mướn có hồ bơi. Tôi ngạc nhiên thấy “Lou” dưới hồ bơi, nhấc bổng đám trẻ cho ngồi trên vai anh và ném chúng xuống nước, giữ gìn không làm chúng sợ. Anh cười đùa, nô giỡn với tụi trẻ. Tôi cảm động trước cử chỉ của anh ta đối với trẻ con và rõ ràng là anh ta vui vẻ hồn nhiên.
Trung Tá Edward Lansdale tới Sài Gòn ngày 1 tháng 6, 1954, trước khi ông Diệm được mời làm thủ tướng ngày 16, và về Sài Gòn ngày 26 tháng 6. Lansdale đứng đầu nhóm một chục người, gọi là phái bộ quân sự Mỹ tại Sài gòn (Saigon Military Mission – SMM). Lucien Conein đến Sài Gòn ngày 1 tháng 7, 1954. Trong hồi ký In the Midst of Wars, xuất bản năm 1972, Lansdale viết: “Thiếu tá bộ binh Lucien Conein đã phục vụ trong đạo quân Lê dương nước ngoài cho đến khi nước Pháp bị thất thủ năm 1940, sau đó gia nhập OSS của Mỹ để làm việc với Kháng chiến Pháp; và vào thời gần kết thúc Đệ nhị Thế chiến ông đã nhảy dù xuống Việt Nam để giúp du kích quân chống Nhật. Là một quân nhân nhảy dù ăn nói bặm trợn, ông ta đã dậy tôi nhiều điều về lịch sử Việt Nam giai đoạn 1944-1945, những bài học mà tôi đã phải thận trọng rút ra từ những câu nói đầy những lời chửi thề tục tằn tôi chưa từng bao giờ được nghe phát ra với giọng điệu mạnh dạn như vậy.” (tr. 162).
Sau Hiệp định Genève chia cắt Việt Nam, Lansdale chia phái bộ SMM thành hai nhóm, một nhóm do Lansdale trực tiếp chỉ huy, hoạt động giúp chính quyền tại miền Nam đối phó với tình hình. Nhóm kia dưới quyền chỉ huy của Conein, làm những công việc về người di cư tại miền Bắc. Lansdale không nói rõ Conein làm gì, nhưng trong cuốn Edward Lansdale, The Unquiet American xuất bản năm 1988, Cecil Currey viết: Trông nom làn sóng người di cư chỉ là một phần công việc để che dấu những việc làm của Conein và những người trong nhóm của anh ta. “Công việc thực sự của họ gồm hai phần: một là thiết lập một tổ chức bán quân sự tại chỗ ở miền Bắc để sẵn sàng hành động khi Việt Minh tiếp thu từ tay Pháp, và hai là phá hoại. Conein lập căn cứ ở Hà Nội, và chi nhánh ở Hải Phòng.” (tr. 157)
Về tổ chức bán quân sự, có hai nhóm đã được thành lập, một nhóm mang tên “Binh”, gồm 13 người, phần lớn được tuyển lựa từ thành viên các đảng phái quốc gia, được đưa ra ngoài bằng cảng Hải Phòng, gửi đi huấn luyện tại căn cứ huấn luyện của CIA tại đảo Saipan. Nhóm thứ nhì gồm 21 người, mang tên “Hao”, được tuyển lựa tại Sài Gòn, lên tầu ngày 23 tháng 11, 1954, cũng tới Saipan để được huấn luyện. Sau đó, cả hai nhóm được mang vào bố trí tại miền Bắc, trước thời hạn Việt Minh kiểm soát toàn thể phía Bác vĩ tuyến 17. Trong khi đó, nhóm của Conein cũng phụ trách việc chuyển tám tấn rưỡi đồ tiếp liệu và vũ khí vào chôn dấu cho các nhóm bán quân sự sẽ sử dụng sau này. Trong số này có 14 radios, 300 súng carbines, 90 ngàn đạn súng trường, 50 súng ngắn với 10 ngàn viên đạn, và 300 cân (pounds) chất nổ.
Cho đến khi Việt Minh tiếp thu Hải Phòng vào ngày 16 tháng 5, 1955, cả hai toán Binh và Hao đã được bố trí xong. Conein nói trong cuộc phỏng vấn dành cho Cecil Currey ngày 24 tháng 6, 1985 rằng “Tôi có trách nhiệm lo cho những cơ sở này sinh tồn. Điều này khiến tôi rất bận rộn. Họ đã được bố trí khi chúng tôi ra đi…. Nhưng họ đã không tồn tại quá hai năm trước khi bị tiêu tùng”. Sau này, theo Lansdale, vì ông ta rời VN vào năm 1956, số phận của hai nhóm bán quân sự tại miền Bắc trong tay CIA, và họ đã làm hỏng.
Về công tác phá hoại, cũng trong cuộc phỏng vấn nêu trên dành cho Currey, Conein nói rằng ông ta đã chuẩn bị nhiều mục tiêu định phá ngay trước khi quân Pháp ra đi, nhưng vì vẫn còn một phái bộ nhỏ của MAAG và lãnh sự quán Hoa Kỳ không ra đi cùng ngày với Pháp, nên kế hoạch phải hủy, để không liên lụy tới Mỹ. Vẫn theo Conein, chỉ có hai vụ “chơi bẩn” đã được thi hành, một là pha một loại acid vào dầu máy xe bus chạy trong thành phố, khiến xe không hỏng ngay, nhưng bị hư hại dần dần. Vụ thứ nhì là trộn “than nổ” với than chạy máy xe lửa, khiến đầu máy bị nổ. Conein nói vậy thì biết vậy, nhưng sự thật chưa chắc đã như vậy. Ví dụ, nếu người viết không nhớ lầm, phương tiện giao thông công cộng tại Hà Nội vào năm 1954, ngoài xích lô đạp, chỉ có tầu điện, không có xe bus, cũng không có taxi.
Phá Pháp phò Diệm
Sau công tác miền Bắc, Conein trở lại Sài Gòn, làm việc với Lansdale. Theo Rufus Phillips, có lần tin tức của Conein đã giúp ông Diệm thoát chết. Tác giả Why Vietnam Matters kể rằng, vào thời gian hưu chiến trong trận đánh giữa Bình Xuyên và quân chính phủ của Thủ tướng Diệm cuối tháng Ba 1955, “Lansdale có một cuộc họp khẩn với các viên chức làm việc trực tiếp với ông. Conein tới trễ và phát biểu sau cùng. Với thái độ bình thường mọi ngày, nói rằng qua tin tức từ những người bạn gốc Corse, ông biết có một âm mưu ám sát ông Diệm bằng chất nổ, trái bom đã được đặt trên con đường ông Diệm sẽ đi qua trong vài giờ nữa. Lansdale tái mặt. ‘Tại sao anh không cho tôi biết sớm hơn?’ Conein vẫn trả lời như thường lệ: ‘Tại vì ông có hỏi tôi đâu?’ Lansdale vội vàng chạy vào dinh báo cho ông Diệm biết.”

Time cover April 04-1955 of Ngo Dinh Diem. by manhhai

Chân dung Tổng Thống Ngô Đình Diệm trên bìa Time Magazine (5 tháng 4, 1955) với lời điểm “Thời cơ đã muộn, tình thế [lại] bấp bênh” (“The hour is late, the odds are long”)
Vào thời gian “hỗn quân hỗn quan” của Sài Gòn đầu năm 1955, trước khi vĩnh viễn từ biệt thuộc địa, quân Pháp còn quậy khá ồn ào, kể cả đàn áp tinh thần đám người Mỹ bắt đầu bước vào. Nhiều trái bom đã nổ, từ chuyện phá thư viện Mỹ đến xe người Mỹ sử dụng. Qua những nguồn tin của Conein, nhóm Lansdale biết rằng người của Đại tá Carbonel, Trưởng nhóm TRIM (Training Relations Instruction Mission – Phái bộ huấn luyện hỗn hợp Pháp Mỹ) đã liên hệ tới các vụ nổ bom chống Mỹ này. Lansdale họp nhóm, tuyên bố tình hình đã đến lúc phải chấm dứt. Phillips kể:
Chiều hôm ấy, khi ghé qua trụ sở, như tôi vẫn thường làm để liên lạc với anh em trong nhóm, thấy chẳng có ai ngoại trừ Conein đang một mình trong bếp. Trước mặt anh trên bàn bếp là những thỏi chất nổ plastic C-3, ngòi nổ mầu cam, kíp nổ, một hộp nắp đậy, và những cuốn băng ma sát. Conein lẩm bẩm chửi thề, vừa tiếng Pháp, vừa tiếng Anh – “salauds, espèces de con, bastards, goddamn son of bitches, assholes” – trong khi cắt những thỏi C-3, bọc chúng bằng ngòi nổ và băng ma sát, ấn nắp đậy vào những chỗ cắt để kíp nổ rồi gắn kíp nổ với nắp đậy vào ngòi nổ bọc chung quanh C-3. Ngạc nhiên, tôi hỏi anh ta đang làm gì vậy. “Việc đéo gì đến anh; không thấy những của quỷ này giống cái gì à?’ là câu trả lời của anh. Tôi hỏi liệu tôi có giúp gì được không. Anh đưa cho tôi con dao và bảo tôi cắt những thỏi C-3 còn lại thành những miếng dài khoảng 12 phân rồi dán những ngòi nổ vào, giống như những miếng khác. Không ai trao đổi thêm một lời. Chúng tôi làm việc trong im lặng, trừ những loạt chửi thề, cho đến khi tôi làm xong. Tôi hỏi anh có chắc là không cần tôi nữa, Conein lại xổ nho “không, đồ khốn kiếp, cút mẹ nó đi cho được việc. Coi như không hề nhìn thấy những thứ này, nghe không!” Tôi đi.
Sau nửa đêm, Conein chở vị hôn thê Elyette Brochot, không nói rõ mục đích, lái xe qua các đường phố Sài Gòn. Anh đưa cho nàng những thỏi chất nổ để trên đùi. Trước tiên, Conein đến nhà Đại tá Carbonel, rồi nhà của những đầu xỏ khác. Elyette (sau thành vợ thứ ba của Conein) đưa anh trái bom do chính anh đã làm. Anh đốt bằng đồ châm thuốc lá, rồi tung qua tường vào vườn mỗi nhà. Trái nổ cuối cùng ném vào vườn nhà đại sứ Pháp. Hôm sau, có than phiền gửi tới tòa đại sứ Mỹ, nhưng rồi phía Pháp ngậm tăm, vì cùng ngày cảnh sát VN đã bắt được một số sĩ quan cấp dưới của Pháp, trên một xe Jeep có chở chất nổ và một danh sách các mục tiêu Hoa Kỳ. Vụ nổ bom chấm dứt.
Sau khi Lansdale về Mỹ vào cuối năm 1956 do bất đồng ý kiến về vai trò của Đảng Cần Lao, có tài liệu cho biết Conein trước khi về Mỹ đã làm việc với William Colby vào cuối thập niên 50, lo huấn luyện các biệt kích người Thượng ở cao nguyên. Khoảng 1962, Lucien Conein trở lại Việt Nam, đóng vai cố vấn cho Bộ trưởng Nội vụ Bùi Văn Lương, là Tổng ủy Di cư thời 54-55 mà Conein đã quen biết. Conein và ông Lương là hai con người với hai nếp sống hoàn toàn khác nhau. Tuy không đến nỗi xung khắc, nhưng phải đi theo Bộ trưởng Lương trong những cuộc kinh lý, nghe những buổi nói chuyện dài buồn tẻ, Conein phát chán. Có lần anh đã phải viết trên một mẩu giấy nhỏ, lén đưa cho ông Lương, nhắc nhở: “Tuyên ngôn Độc lập – 500 chữ, Diễn văn tại Gettysburg – 200 chữ, nói ngắn thôi.” Nhưng Lou than với Phillips “Chẳng ăn thua mẹ gì cả.”

Liên hệ đảo chánh
Theo tác giả Việt Nam Nhân Chứng là Tướng Trần Văn Đôn: “Sau lệnh thiết quân luật 20-8-1963, ông ấy (Conein) thường đến gặp tôi nhưng tôi dè dặt không tiết lộ điều gì, chỉ cho biết quân đội không tham gia việc tấn công chùa.”
Theo cuộc phỏng vấn của WGBH (Đài TV và Radio ở Boston, thành viên của hệ thống PBS – Public Broadcasting Service) ngày 7 tháng 5, 1981, Conein đã chú ý tới ý hướng phản kháng trong giới tướng tá từ đầu tháng Bảy. Trong cuộc tiếp tân nhân dịp Quốc Khánh Mỹ 4 tháng 7 tại nhà Đại sứ Hoa Kỳ, có đông đủ tướng lãnh VN tham dự, Conein nghe nói và được mời đi với họ tới một hộp đêm ở dưới hầm khách sạn Caravelle. Qua câu truyện trong cuộc gặp gỡ này, Conein “đánh hơi” thấy khuynh hướng chống đối chế độ của các tướng.
Vụ tấn công chùa đêm 20 tháng Tám nhằm mục đích củng cố chế độ đã gây hậu quả trái ngược. Có thể nói chính kế hoạch tai hại này đã làm nảy sinh kế hoạch đảo chánh. Trên đường đến Việt Nam nhậm chức, Đại sứ Cabot Lodge định ghé thăm Tokyo, Manila, Singapore rồi mới tới Sài Gòn. Nhưng vừa tới Nhật, đang đêm ông Lodge nhận được điện tín khẩn từ Washington, yêu cầu phải tới ngay Sài Gòn để đối phó với tình hình khẩn trương vì vụ tấn công chùa.
Ông tới Sài Gòn chiều 22 tháng 8. Ngay hôm sau, hai phụ tá thân tín nhất của ông là Freddy Flott và Mike Dunn yêu cầu gặp khẩn cấp Rufus Phillips, hiện đang hoạt động trong lãnh vực bình định nông thôn. Lý do gặp gỡ là trước khi đi Việt Nam, ông Lodge được Lansdale cho biết Rufus Phillips quen nhiều người Việt, nên muốn Phillips cho biết một cách trung thực thái độ của người Việt như thế nào đối với tình hình sôi động lúc bấy giờ. Phillips hỏi đã tham khảo ý kiến CIA chưa. Rồi, nhưng CIA không phải là người Việt, ông Lodge muốn biết rõ quan điểm từ phía người Việt. Phillips hứa làm điều này, cam đoan không thêm bớt hay thiên vị.
Ngay chiều hôm ấy, Phillips gọi đến nhà ông Lê Văn Kim, nói truyện với bà Kim, hẹn gặp ông vào buổi tối.
Những “người Việt” của Phillips chỉ có ba người là các ông Nguyễn Đình Thuần, Lê Văn Kim, và Bùi Diễm. Tuy bề mặt, ba người này có thể coi như đại diện cho ba khuynh hướng khác nhau: Ông Thuần, Bộ trưởng Phủ Tổng thống kiêm Bộ trưởng phụ tá Quốc phòng, tiếng nói của những người thân tín ông Diệm, phe cầm quyền. Ông Bùi Diễm, một chính khách đối lập, đảng Đại Việt. Tướng Kim là tiếng nói quân đội. Nhưng trên thực tế, tiếng nói của ba người này là một.

Các Tướng Kim, Đính, Đôn, Vỹ và Xuân vào thời gian bị quản thúc tại gia ở Đà Lạt (14 tháng 9 năm 1964)
Ông Kim là người thân của Tướng Minh và Tướng Đôn. Theo Tướng Đôn viết trong Việt Nam Nhân Chứng: “Lê Văn Kim trước kia là bạn, về sau trở thành em rể của tôi. Ông Kim là đầu não tổ chức đảo chánh. Tôi gặp Thiếu Tướng Kim ít nhất mỗi tuần một lần. Chúng tôi là anh em nên gặp nhau ít bị nghi ngờ. Sau ngày thiết quân luật, Thiếu Tướng Kim là liên lạc giữa tôi và Trung tướng Dương Văn Minh.”
“Năm 1955, ông Kim tiếp thu Bình Định mà không phải nổ một tiếng súng. Người Mỹ sát cánh với ông Kim lúc đó là Ruph Philip (sic) (đúng ra là Rufus Phillips), phụ tá của Đại Tá CIA Lansdale. Ông Kim cũng là người thân với Bùi Diễm. Ba người này tiếp xúc với nhau lo về mặt chính trị.”
Với quan điểm của những người Việt trên đây, chẳng cần ai xuyên tạc hay thêm bớt, cũng đủ đưa anh em ông Diệm tới chỗ chết.

Best but not brightest
Trong tác phẩm Ký nổi tiếng The Best and the Brightest, nhà báo lớn David Halbertstam từng được giải Pulitzer viết:

Tướng Dương Văn Minh, khuôn mặt nhà binh được kính trọng nhất tại Nam Việt Nam, người thân cận với nhóm Lansdale từ những ngày đầu khi ông giúp đánh dẹp đám Bình Xuyên, đã tiếp xúc với người bạn cũ của ông là Lou Conein, và hỏi xem có nói chuyện được không. Conein đã ở Việt Nam 18 năm, hầu hết với CIA; ông ta đã là một trong những người Mỹ đầu tiên nhảy dù xuống vào hồi cuối Thế Chiến II. Ông ta biết giới quân sự không cộng sản rất rõ, vì theo như lời kể của ông, họ là những người chính ông đã tuyển mộ. Sắc sảo, thô lỗ, hay thêu dệt, ông ta giống một phiên bản Mỹ của lính nhẩy dù Pháp, một người mọc lên từ mầm mống mạo hiểm gay cấn. Ông ta biết đất nước và con người, và ông ta đùa giỡn với hiểm nguy, chính hiểm nguy làm cho cuộc đời hứng thú hơn. Một bàn tay thiếu hai ngón tay, và truyện bàn tán khắp Sài Gòn về tại sao những ngón tay bị mất đó, chẳng hiểu do nguyên nhân cao cả hay không; những nhà báo biết rõ Conein thích ông ta và trong sổ điện thoại luôn ghi ông ta với biệt danh “Brown Ba-ngón”, theo tên nhà thể thao bóng chầy Mordecai Brown. Vị Tư lệnh Hoa Kỳ ở Sài Gòn khinh thường ông; ông bị nghi ngại rằng đã ở đây quá lâu, quá gần gũi với địa phương; ông ta bốc đồng, không đáng tin, chơi trò nguy hiểm – thứ nguy hiểm nhất. Ông ta cũng là một trong số rất ít người Mỹ có được sự tin cậy của giới quân sự Việt Nam, người coi thường Harkins và coi Harkins như Nhu nối dài (sau này, khi việc mưu sự với các tướng Việt Nam sâu đậm hơn, Bạch ốc đánh điện cho Lodge gợi ý nếu kiếm được người nào đáng kính hơn Conein thì tốt hơn, và Lodge trả lời đồng ý, nhưng không thể tìm được ai thay thế, và Tướng Trần Văn Đôn đã “tỏ ra cực kỳ ngần ngại trong việc mưu tính với bất cứ ai khác’) (tr. 286-287).
Lời tường thuật của nhà báo hàng đầu nước Mỹ đối chọi với những dữ kiện trong quyển Why Vietnam Matters. Theo Rufus Phillips, không phải Tướng Minh kiếm Conein, mà ông Lodge nhờ Phillips giới thiệu Conein với Tướng Kim, để ông Kim giới thiệu với Tướng Minh.

Chú thích:
1. WHY VIETNAM MATTERS, An Eyewitness Account of Lessons Not Learned (Tại sao Việt Nam Có Tầm Quan Trọng, Một Hồi Ký Nhân Chứng về Những Bài Học Chưa Thông Suốt) của Rufus Phillips, do Naval Institute Press xuất bản năm 2008 (trang 202).
Nguồn gốc của đoạn này: Tape recording of White House meeting, Oct.25, 1963, JFKL, Presidential Recordings Collection, Tape 117 A53 (Cassette 3 of 3) – ghi chú của Rufus Phillips (tr. 344).

No comments:

Post a Comment