Tuesday, November 23, 2021

Ngược Dòng Thời Gian - Chiêu Hoàng

Năm tôi được ba tuổi thì mẹ đưa tôi về ông bà ngoại ở, sau khi cha từ giã mẹ trở về Pháp, quê hương của ông, còn bà thì mải mê đi theo với nhân tình mới của bà. Từ đó, tôi thường hay lủi thủi quanh quẩn một mình, có những lúc nhớ mẹ mà chẳng nói được với ai. Bà ngoại thì bận suốt, ông ngoại thì say sỉn suốt ngày. Tôi hít thở trong bầu không khí hiếm hoi tình mẫu tử từ đó…
*****
Cha gặp mẹ lần đầu trong một quán rượu dành cho dân thượng lưu. Cha, một người đàn ông Pháp, xa quê hương, xa gia đình và rất cô đơn. Cha gặp mẹ, cô chiêu đãi viên đang ngồi ở góc quán, với đôi vai gầy guộc và dáng người mảnh dẻ trông cô đơn đến lạ đã cộng hưởng với nỗi cô đơn trong ông đang lớn dần lên như một sự đồng cảm bất phân ly..
Nói đúng hơn là ông bị ấn tượng ngay với cặp mắt nàng đen lánh, mênh mang một nỗi buồn rất sâu thẳm, hớp lấy hồn ông, nên trong lòng tự dấy lên một cảm giác muốn che chở, muốn bảo bọc cho người thiếu nữ mình hạc xương mai này…
Từ đó họ quen nhau….
Mẹ đến với cha vì cha rất giàu, từ khi quen cha, mẹ không còn phải vất vả làm ở quán bar nữa, vì cha là nơi nương tựa vững chắc cho cuộc đời mẹ, vì cha đã giải quyết tất cả những khó khăn trong cuộc sống, và lo cả gia đình bên mẹ. Ngay cả lúc ông ngoại bị bệnh nặng, cha lo hết viện phí nhà thương lẫn thuốc thang cho ông. Lúc đó, cha là một nhà giáo, làm đốc học ở trường Chasseloup Laubat, rất tử tế và đạo đức.
Sau khi chữa bệnh cho ông ngoại xong, cha đưa gia đình mẹ về ở một căn nhà trong phần đất của trường học. Lúc đó mẹ còn rất trẻ, mới 18 tuổi, cái tuổi hoa bướm đầy ước vọng, đầy tò mò khi đứng trước ngưỡng cửa cuộc đời. Mẹ thua Cha 20 tuổi. Một người đàn ông đã trưởng thành, chững chạc đầy nghị lực và tử tế. Tuy tuổi tác chênh lệch nhưng cũng chẳng ai màng, vì cha rất mực thương yêu chăm sóc cho gia đình bên mẹ như con ruột thì ai mà chẳng không hài lòng?
Mẹ về sống với cha một thời gian mà chưa có con, nên đưa cha lên chùa cầu xin, sau đó tôi ra đời. Cha rất vui mừng, đặt cho tôi một cái tên rất lạ thời bấy giờ. Louis.
Sau khi có con, mẹ lại cảm thấy chán, không tìm được hạnh phúc trong tình mẫu tử. Có thể vì còn trẻ người, non dạ, lại thêm một đời sống sung túc nên mẹ tập tành học cách ăn chơi theo lối thượng lưu, suốt ngày trang điểm, phấn son và rất thích đi nghe mấy đoàn gánh hát cải lương. Tất cả việc nhà, kể cả việc chăm sóc tôi mẹ cũng để chị giúp việc làm hết.
Mẹ rất vô tư, nếu không nói là hoàn toàn chẳng muốn lo lắng cho ai, có tiền, suốt ngày chỉ muốn ăn diện và đi chơi. Đôi khi mẹ vô tâm đến độ tôi hoài nghi rằng mẹ không có trái tim để yêu thương, mẹ chỉ có trái tim để yêu mẹ, dùng nó để luân lưu máu chảy trong người và giúp mẹ vui sống với người tình bên ngoài. (Có lẽ sau này cha cũng biết nhưng ông im lặng, vì tuy thương yêu mẹ hết mực, nhưng ông đã có gia đình bên quê hương ông, nên chỉ đến với mẹ trong giai đoạn, sống với nhau không hôn thú khi ông còn hợp đồng làm việc với trường Chasseloup Laubat)
Dĩ nhiên, mẹ cũng biết điều đó và chấp nhận.
Năm tôi được ba tuổi thì mẹ đưa tôi về ông bà ngoại ở, sau khi cha từ giã mẹ trở về Pháp, còn bà thì mải mê, say đắm đi theo với nhân tình trong gánh hát cải lương. Mẹ giữ tôi ở lại với bà vì tôi là “nguồn tiền” của mẹ, vì cha sẽ bắt buộc phải chu cấp cho mẹ con tôi hàng tháng khi ông không còn ở đây nữa, và vì bà muốn có nhiều tiền để nuôi nhân tình. Từ đó, tôi thường hay lủi thủi quanh quẩn một mình, nhớ Cha, nhớ Mẹ, nhớ đến những thời gian vui vẻ hạnh phúc bên cha. Bấy giờ tuy còn mẹ nhưng cũng như không. Tôi ít khi gặp mẹ, mỗi năm chỉ được 2 lần, ngoại trừ ông ngoại cần tiền mua rượu hay có chuyện gì khẩn cấp thì nói mẹ về ký trên bức thư tôi đã viết sẵn theo ý của ông để xin thêm tiền của cha.
Mỗi lần Mẹ về đều rất vội, qua loa cho có lệ. Cả đời tôi chẳng bao giờ có được vòng tay ôm ấp thương yêu của mẹ. Mỗi lúc mẹ về, tôi chỉ đứng xa xa chờ đợi, chờ đợi mẹ gọi để tôi được sà vào lòng, hít hà mùi thơm trên da thịt mẹ, cảm nhận được sự yêu thương qua những lời cân cần mẹ dành cho tôi. Nhưng tuyệt nhiên, những hạnh phúc tôi mơ ước ấy chỉ là một loại xa sỉ phẩm mà chỉ có thể có trong mơ. Có những lúc nhớ mẹ tha thiết mà chẳng nói được với ai, chỉ biết giữ kín trong lòng cho nỗi nhớ càng dầy lên thêm. Bà ngoại thì bận suốt, ông ngoại thì say xỉn suốt ngày. Còn tôi, một đứa con lai lẫm chẫm, cố vươn lên để sống, hít thở trong bầu không khí hiếm hoi tình mẫu tử từ đó.
Một ngày kia mẹ về, tay dắt một đứa bé gái. Mẹ bảo: Đây là em của con, Tuyết Mai. Hai đứa trẻ ngơ ngác nhìn nhau. Lý do mẹ về để chụp hình gửi qua cho cha để cha yên tâm là mẹ vẫn nuôi tôi trong vòng tay yêu thương của bà, và dĩ nhiên không thiếu khoản xin thêm tiền cho tôi ăn học. Những số tiền đó ông ngoại lấy, bà ngoại dấu một phần để đưa cho mẹ. Tôi vẫn được đi học trường Tây, vì họ cần tôi để viết thư xin tiền cha.
Năm tôi lên 4 tuổi, nghe tin em gái chết sau khi chích ngừa trồng trái. Tôi còn nhớ rất rõ hôm đó trong nhà thương, em được quàng bằng một cái khăn trắng, mẹ sợ, không dám bồng em mà để cho y tá đem em vào nhà xác. Tôi đi theo em một đoạn rồi đứng ngoài chờ. Cái chết của em làm tôi buồn rất nhiều, tuy không gặp nhau thường xuyên, nhưng tôi nghĩ mất đi một người thân cũng làm cho tôi vốn dĩ đã quá nghèo nàn về sự thương yêu nay lại càng nghèo nàn hơn. Sau này, tôi mới biết em gái tôi là của ông nhân tình trong gánh hát.
Cứ thế, tôi lớn lên trong sự thiếu thốn tình thương, bơ vơ, lạc lõng giữa dòng đời. Càng nghĩ, tôi càng thấy tủi thân và mặc cảm. Nhìn con gà mái bên hàng xóm xoè cánh bảo vệ mấy chú gà con khi gặp nạn, hoặc thấy gà mẹ đi tìm từng hạt thóc, hạt gạo dành cho lũ con mà tôi lại tủi lòng. Con vật nó còn có tình thương con như thế mà tại sao mẹ lại không? Mẹ ơi… Mẹ ơi….
Thời gian cứ thế lặng lẽ trôi, sự nhung nhớ thiếu vắng mẹ trong tôi càng đầy. Mẹ vẫn biền biệt. Thỉnh thoảng trở về khi có chuyện gì đó thấp thoáng rồi lại đi…
Đến năm lên chín tuổi, ông bà ngoại bàn là đem tôi lên trường đưa cho ông Tây nhận dưới dạng trẻ mồ côi để tôi được qua Pháp, dẫu qua đó có phải ở trong viện mồ côi cũng sướng hơn ở đây. Tôi lẽo đẽo đi theo, tuy biết chuyện, nhưng tôi không còn cảm giác nữa, không cảm thấy vui, cũng không cảm thấy buồn, hoặc tủi thân gì cả. Cũng may, ông Tây từ chối vì “hết chỗ”, ông đã nhận đủ người. Sau đó ông ngoại lại gửi tôi vào chùa ở, tôi cũng chẳng biết tại sao, có thể vì ông bà ngoại mệt mỏi quá, không muốn nuôi, hay vì tài chánh trong gia đình kiệt quệ? Khoảng thời gian này là khoảng thời gian tâm thức tôi rất nhạt nhoà, rối loạn. Từng mảnh ký ức chập chờn không rõ nét như thực, như hư. Một vài lần, tôi tình cờ xem lại những bức ảnh cũ, tôi không tìm thấy được nụ cười mình trên môi, kể cả khi được chụp chung với mẹ, người mà tôi hằng ao ước được đứng gần, được nắm lấy tay mẹ, được ôm mẹ. Nhưng những ước mơ ấy chỉ dừng lại ở ranh giới trong tâm thức. Khi gặp mẹ, cả người tôi cứ thuỗn ra, trơ trơ chẳng biết phải hành xử thế nào cho đúng.
Ông ngoại càng ngày càng uống rượu nhiều hơn nên say sỉn suốt. Những lúc say, ông như bị nhập, ông đánh tôi rất tàn nhẫn. Có lần ông cầm con dao phay chém về phía tôi, may mà tôi né kịp, con dao lao thẳng vào cái lu bể nát, nhìn mà tôi sợ run cầm cập. Năm 10 tuổi, tôi mua của bạn một cục nam châm với giá $2. Tôi rất thích, đi đâu cũng đem theo. Bạn trong lớp cũng thích nên tôi cho nó mượn và phải hứa trả lại hôm sau. Khi về nhà, ông ngoại hỏi cục nam châm mày làm mất rồi hả? Tôi nói đã cho bạn mượn rồi, nhưng ông không tin, ông cho rằng tôi nói láo rồi điên tiết lên, cởi hết quần áo, cột tay tôi vào cột treo mùng, lấy hộp kẹp tóc của mẹ đầy răng cưa làm bằng nhôm nhọn kẹp vào da thịt tôi từ nách xuống mắt cá chân hai bên. Tôi đau đớn nhưng không dám khóc. Bà ngoại thương quá mà chẳng làm được gì, van xin ông thôi đừng phạt tôi nữa, nhưng ông không chịu, chỉ khi nào đem cục nam châm để trước mặt ông mới tha. Bà cuống cuồng đi tìm thằng bạn tôi cho mượn đem về cho ông. Hên là nhà bạn tôi cũng ở trong học khu của trường. Lúc đó cả thân tôi hoàn toàn tê dại không còn cảm giác nữa, bà khe khẽ gỡ từng cái kẹp tóc dính máu bởi những cái răng nhọn đâm sâu vào da thịt khỏi thân thể, từng cái gỡ ra là từng vết thương đau đớn rỉ máu. Qua đến ngày hôm sau những vết thương sưng tấy làm độc, thành ghẻ. Tôi bị sốt cả tuần mới ngồi dậy được.
Lần khác, chẳng biết vì lý do gì, ông lại lên cơn điên tiết, ông lột quần áo để tôi trần truồng rồi đuổi ra khỏi nhà, lúc đó, tuy mới 10 tuổi, nhưng tôi cảm thấy hổ thẹn vô cùng, phải lấy vải che nắng nhà hàng xóm để che thân. Có lần, ông lại bắt tôi trần truồng như nhộng, nằm xấp, hai tay duỗi thẳng và hét lên như con heo bị thọc tiết “Tao hứa đánh mày đủ 10 roi” Rồi như bị ma nhập, mắt ông trợn trắng, đánh tới tấp cả mấy chục roi trên thân thể gầy còm, yếu đuối. Đau quá, chịu không nổi, mặc dù còn trần truồng tôi cũng ráng nén xấu hổ chạy ra khỏi nhà.
Cứ thế, dù có cớ hay không có, hoặc ông say sỉn, điên cuồng, tôi cứ bị đòn liên tục như cơm bữa. Vừa đau, vừa khóc, tôi gọi mẹ, nhớ mẹ, nước mắt dàn dụa, ước mong có mẹ ở đây để che chở cho tôi, như con gà mái nhà hàng xóm che chở cho đàn gà con của nó. Ôi…, mẹ ơi.. con đau đớn lắm!!!
Trận đòn cuối cùng là năm tôi 14 tuổi, cao như thổi, cũng cái kiểu hung dữ, mắt trắng dã, đánh tới tấp dồn tôi vào chân tường. Túng quá, vừa sợ, vừa đau, tôi vớ vội cây roi gần đó, nắm tay như muốn đánh lại ông, chắc lúc đó cặp mắt tôi dữ như quỷ, toé lửa, như con thú đã bị đẩy đến đường cùng làm ông phải khựng lại, nhìn tôi một thoáng rồi bỏ đi. Từ đó về sau, ông không bao giờ còn đánh tôi nữa.
Sau này đổi tính, ông không hung dữ như xưa, ông tự ý cạo đầu như một nhà tu, nhưng vẫn còn cái tính đâm thọc chuyện mỗi ngày. Đôi lúc tôi buồn. Nghĩ ông quả thực là một người điên.
Ông chết năm 1979.
Có thể vì thiếu tình thương nên trong tôi đầy mặc cảm và nhút nhát, ít khi làm mất lòng ai. Tôi bị nhốt trong nhà như bị tù. Dần dần trong tôi nổi lên một niềm hận mẹ vô biên khi thấy mấy đứa bạn hàng xóm ra hiên đợi mẹ đi chợ về. Tụi nó reo hò lên khi thấy mẹ từ đằng xa có quà, có bánh cho chúng nó. Tôi thì vừa thèm thuồng, vừa tủi thân. Nghĩ đến mẹ mà tâm thức xôn xao buồn tủi và oán hận. Mẹ ơi, mẹ đang ở nơi nào? Có nghe lời con đang gọi mẹ không? Hay mẹ vẫn còn nồng say với tình nhân ấy?
Cuộc sống của tôi kéo dài với những cung bậc bập bềnh đầy tủi hận như thế, nó cũng trôi nổi theo từng hoàn cảnh gia đình. Có một khoảng thời gian chẳng biết vì lý do gì mà tôi cứ phải đổi hết trường này đến trường khác, lại có khi bị nghỉ học ở nhà tới hai năm trời.
Chiến tranh lan tràn. Năm Mậu Thân. Ông bà ngoại chạy ra Phú Quốc ẩn náu. Ông bà ngoại muốn mẹ đi theo.
Về phần mẹ, sau khi cướp chồng người, mẹ mê mệt, say đắm với người tình, họ có hai đứa con với nhau. Sau này hết tiền, ông ta bỏ mẹ đi với người khác như ông đã từng sẵn sàng bỏ người vợ cũ... Tưởng vậy là xong, sau này lại có thêm 2 đứa nữa với ông ta.
Thật đúng là duyên nợ!
Có một điều tôi nhận thấy sự khác biệt giữa tôi và các em cùng cha khác mẹ. Đối với tôi thì mẹ ơ hờ bao nhiêu, ngược lại, với các em, mẹ lại tận tụy yêu thương chúng bấy nhiêu, lúc đó nguồn tiền tuy là cha vẫn gửi về đều đặn, nhưng chỉ đủ nuôi một mình tôi, mà số tiền đó đã chia năm, xẻ bảy cho cả gia đình bên ngoại, dĩ nhiên không thể đủ cho các em, nên lúc đó rất đói khổ, mẹ phải buôn thúng bán bưng để nuôi con.
Năm 1973. Tôi quen Dung. Tôi quen nàng qua người bạn. Ban đầu gặp cũng chẳng có gì, nhưng lâu dần nảy sanh tình cảm lúc nào không biết. Dung ít nói, hiền lành và chung thủy. Có lần hai đứa đi chơi cùng nhóm bạn, khi nhảy qua một cái mương nhỏ, tôi nắm lấy tay Dung giúp nàng nhảy để không bị trượt té. Chỉ có cái nắm tay ấy thôi mà lòng tôi dạt dào những cảm xúc. Cảm giác ấy kéo dài đến cả mấy ngày…
Chuyện tình của Dung với tôi cũng chẳng suông xẻ chút nào. Vì lúc đó gia đình tôi nghèo, tôi lại là đứa con lai mồ côi cha, dĩ nhiên không thể xứng với Dung. Mẹ của Dung chắc vì thương con nên chấp nhận, nhưng cha và dì thì không thích, tôi hiểu khi không ưa ai thì họ có cả ngàn lý do để không ưa. Tuy vậy, chúng tôi yêu nhau, nhất quyết đến với nhau dù có nhiều sự ngăn trở.
Rồi đến ngày lành, tháng tốt, ông bà ngoại và mẹ cùng tôi đến nhà Dung xin cầu hôn. Mẹ chỉ có một chiếc áo dài cũ, nát nhầu, dự định đến nhà gái với chiếc áo cũ duy nhất ấy. Dung qua thăm, giúp mẹ ủi lại chiếc áo cho thẳng, nàng ân cần, chân tình quá làm tôi cảm động. Hôm sau chúng tôi qua nhà nàng để làm lễ chạm ngõ, nhưng không ngờ cha Dung lại trả lời khéo không muốn gả con vì “nó còn nhỏ lắm, cần phải học cho xong”. Thái độ khinh khi của ông làm mẹ cúi đầu im lặng. Chúng tôi phải đi về trong sự ê chề, hổ thẹn. Thương mẹ, đau với nỗi nhục mà mẹ phải chịu, lại càng ghét cha Dung, tôi đã tuyên bố thẳng với gia đình là tôi sẽ không lấy Dung nữa.
Mẹ ơi, tình yêu đầu đời của con sẵn sàng hy sinh chỉ vì người ta khinh thường mẹ, con chỉ cần mẹ thôi. Mẹ có biết không?
Tuy đã hủy hôn, nhưng tôi và Dung vẫn yêu nhau, chúng tôi gặp nhau mỗi cuối tuần, nhưng tương lai thì mù mịt, chẳng biết có thể nên duyên chồng vợ được không.
Vận nước càng khốc liệt và chuẩn bị chấm dứt vào giai đoạn cuối. Năm 1975, đáng lẽ tôi được đi tị nạn chính thức vì lúc đó tôi đang làm công chức quốc phòng cho Thư Viện Kỹ thuật của Hải quân. Còn gia đình nàng cũng được đi chính thức như tôi vì cha nàng là trung tá trong chế độ cũ. Nhưng lần đầu tiên tôi thấy ông ngoại khóc trong cảnh chia ly nên tôi đã quyết định ở lại. Còn Dung, nàng cũng theo tôi ở lại, vì mối chân tình nàng dành cho tôi và nàng cũng có cuộc sống không được vui vẻ hoà thuận với cha mẹ và các anh chị em trong gia đình. Gia đình nàng đành để nàng ở lại, (tôi đoán có lẽ họ cũng không tha thiết lắm với một đứa “nghịch tử “ như Dung nên sẵn sàng chấp nhận)
Sau đó chúng tôi được chính thức lấy nhau. Chuyện tưởng như thế là có được một cái kết tốt đẹp. Nhưng oái oăm thay, cái khổ đau vẫn chưa muốn buông tha chúng tôi. Từ khi Dung về làm dâu ở chung với ông bà ngoại, Dung chịu rất nhiều cực khổ và chua cay. Bà thì hiền, nhưng ông thì hành hạ Dung như một con ở. Tính khí ông từ khi còn trẻ đã hung dữ như thế, nhất là khi say rượu, ông đã từng nắm tóc đánh bà ngoại túi bụi, bà ngoại chỉ còn nước chạy trốn tới tối mới dám mò về. Dung tuy không bị đánh bao giờ nhưng lúc nào đầu óc cũng căng thẳng, đầy sợ hãi vì tính khí bất đồng khó chịu của ông.
Gia đình tôi lại rất phức tạp, ông ngoại tính khí như thế, còn mẹ thì đi phá hạnh phúc gia đình người. Người chồng bỏ rơi mẹ cũng đã bỏ rơi người vợ cũ đã có hai mặt con với nhau. Khi mẹ chen chân vào đời ông, bà say mê ông điên cuồng, đã đến tận nhà, nói thẳng vào mặt vợ người điều đình rằng “Tôi sẽ mua đứt ông ấy!” Ông ta nghe xong, lập tức tay không bỏ đi với mẹ, trên người ông ta chỉ mặc có một bộ đồ, để lại bà vợ trẻ với hai đứa con nheo nhóc, một đứa còn bồng, một đứa dắt tay. Ba mẹ con đứng ngơ ngác nhìn với nước mát chảy dài trên má người vợ trẻ
Thật là oan nghiệt!!
Sau này, khi cả hai đã già, hương sắc đã tàn phai theo vô thường biến đổi. Mẹ đã xin lỗi người đàn bà năm xưa…
Năm 1977. Diện con lai bắt đầu được đi chính thức và bán chính thức. Vì tôi nói tiếng pháp lưu loát nên được đại diện cho đám con lai vô gia cư lang thang ngủ trên những hè phố. Tôi được ra vô lãnh sự quán thường xuyên để giúp họ chuyển hồ sơ đến ông lãnh sự. Con lai lúc đó bắt đầu “có giá”, đi đâu cũng được các bà, các cô gái xin mua chuộc làm người thân để được di dân.
Năm 1980 tôi rời Việt Nam cùng mấy chục gia đình con lai mà tôi làm đại diện. Cả đời tôi chưa bao giờ hân hoan và “phục” mình đến thế, vì tôi đã giúp được rất nhiều gia đình thoát cảnh lầm than đói khổ trong lúc này.
Ôi, hạnh phúc thay khi chính mình lại là người vui nhất khi đã làm được một điều lành.
Cảm tạ trời đất đã cho tôi hoàn tất được việc làm đầy ý nghĩa này…
Qua Pháp, tôi sống tạm trú tại một cơ quan hồi hương cách Paris 20km. Đó là một dãy appartment Sarcelle cho những người “hồi hương” và những trẻ con lai tạm trú khoảng 2 tuần. Một may mắn hiếm hoi là tôi được ông giám đốc thương, cho phép tôi muốn ở đây bao lâu cũng được, vì vậy, tôi lưu lại đó hai tháng để học các tuyến đường xe hỏa, metro đến Paris để tìm cha, đó cũng là ước muốn sâu thẳm ươm mầm từ nhỏ.
Vì đã có vốn sinh ngữ sẵn, nên tôi hội nhập vào đời sống không có gì khó khăn. Tôi tìm cha với cái địa chỉ cũ mèm mà ông ngoại còn giữ lại. Vì Cha đã đổi địa chỉ nhiều lần, tôi phải lặn lội suốt ba nơi mới tìm được nhà. Đó là một khu rất sang trọng nằm trong trung tâm thành phố Paris. Đến nơi thì Cha đi vắng, tôi viết giấy để lại và hẹn gặp ông vào 8 giờ sáng mai.
Thật không thể tả nổi được niềm hân hoan của tôi trước ngày gặp mặt. Đêm đó tôi không thể ngủ được, cứ nằm trằn trọc mãi, tưởng tượng đến giây phút trùng phùng, trong tôi dấy lên hết niềm vui này đến niềm vui khác. Tôi sẽ ngồi bên cha, kể lại những biến cố cuộc đời tôi sau khi cha về nước, kể lại những những thương nhớ và những giọt nước mắt một mình cô đơn, tủi cực khi vắng ông, kể lại nhiều thật nhiều cho đến khi tôi chìm sâu vào giấc ngủ mà niềm hạnh phúc biến thành cả ngàn vì sao lung linh trên bầu trời rộng lớn mà vẫn chưa thể chứa hết được niềm hân hoan và hạnh phúc trong tôi…
Cha ơi… đợi con nhé, chỉ còn vài tiếng nữa, khi màn đêm nhường cho ánh sáng trở về. Con sẽ gặp lại cha….
Hôm sau. Đúng 8 giờ tôi có mặt. Người quản lý dẫn tôi lên thang máy và giúp tôi nhấn chuông. Tim tôi đập thình thịch trước cánh cửa gỗ. Người đàn ông mở cửa, lịch lãm, cao lớn, hình ảnh người cha mà tôi mong đợi suốt 20 năm nay trong ký ức rất nhạt nhoà..
Ông không bắt tay tôi, xoay lưng và nhường một khoảng trống cho tôi bước vào, tay kia khẽ đóng cửa rồi nói ngay
- Je ne suis pas votre pere” (tôi không phải cha cậu).
Tôi ngơ ngác. Dù câu nói rất rõ nghĩa nhưng tôi vẫn không hiểu ông muốn nói gì. Cho dù trí nhớ tôi có nhạt nhoà cách mấy, tôi vẫn nhận ra ông, duy chỉ thấy ông già hơn xưa, nhưng nét mặt và dáng dấp vẫn vậy. Tôi nghe như cả bầu trời sụp đổ, ngực như muốn nghẹn, không muốn khóc nhưng nước mắt cứ tuôn rơi…
Tiếng ông cất lên, như xa, như gần từ một khung trời xa lạ nào đó:
- Pourquoi vous pleurez? (Tại sao cậu khóc?)
Trong khoảnh khắc, tôi không thể trả lời ngay được khi sự nức nở làm tôi bị nấc nghẹn, nước mắt ràn dụa khi tâm thức khởi lên bao nhiêu điều muốn nói. Tại sao?! Tại sao thế? Con luôn mong được gặp cha. Nhưng…nhưng.., con lại không thể hiểu nổi sao cha không muốn nhận con? Cha đã rất thương yêu con và nuôi nấng con cho đến khi con lấy vợ. Hay cha giận ông bà ngoại chỉ muốn moi tiền ông? Giận mẹ, hay điều gì khác?
Trong lúc tâm trí rối bời, tôi nghe người đàn ông cất giọng:
- Tôi chỉ giúp mẹ cậu lúc đó, còn cha cậu thì tôi biết ông ấy nhưng không thể nói ông ta là ai.
Là sao? Vậy người cha thực sự của tôi là ai? Tại sao ông này chỉ là người “giúp đỡ” cho cha chứ chẳng liên quan gì đến tôi cả? Tất cả đều rối tung, mù mịt… Tôi lắp bắp:
- Vậy thưa cha.. à.. không, thưa ông. Cha con đâu?
- Ta đã nói với cậu hồi nãy, ta không thể nói cha cậu là ai rồi mà? Yên lặng một lúc, ông tằng hắng như muốn phá vỡ bầu không gian đặc quánh giữa ông và tôi, hỏi với một giọng ái ngại:
- Hiện giờ cậu có bao nhiêu tiền?
- Con chỉ có 30 fr thôi.
Trên khuôn mặt ông thoáng nét lo lắng, ông yêu cầu tôi cho ông xem ví, sau đó ông lẳng lặng mở tủ lấy thêm tờ 500 fr đưa tôi
Ông căn dặn tôi thêm vài điều, nhất là việc ông không muốn tôi liên lạc với ông nữa, nhưng tôi chỉ nhớ đã nói với ông một câu bằng tất cả trái tim chân thành:
- Con muốn gặp cha để sau này con sẽ chăm sóc cho cha.
Ông bảo
- Điều này không cần, vì tôi đã có đủ tiền hưu trí rồi. Ông tiếp. Con đã có vợ con rồi. Hãy quên hết tất cả quá khứ ấy đi. Hãy đi xa thật xa nơi này, vì Paris khó sống lắm…
Câu trả lời của ông làm tôi hiểu, ông chính là cha mình và ông đã hoàn tất trách nhiệm với tôi, ông đã nuôi tôi đến tuổi trưởng thành. Bây giờ tôi đã khôn lớn, đã có thể tự lập và đã có gia đình.
Tôi từ giã ông với tâm trạng hoang mang. Trong đáy tầng tâm thức, tôi vẫn chưa nhìn thấy được sự thực nằm chỗ nào. Sau này, tôi gặng hỏi mẹ có phải tôi thực là con của ông không. Mẹ quả quyết. Nếu không tin, cứ việc thử máu làm bằng chứng.
Vì quá buồn bã, tôi đem vợ con lên Dunkerque ở miền Bắc, sống khổ cực làm cho một hãng đóng tàu suốt hai năm. Lúc đó, tôi vẫn còn tưởng nhớ đến người cha không nhận mình. Giáng sinh năm đó, cha đã 75 tuổi. Nhớ cha, tôi gửi một tấm thiệp Noel chúc mừng tuổi thọ của ông và chờ đợi. Vài tuần sau, tôi nhận được thư hồi âm. Rất vui mừng vội vàng mở ra xem. Hoá ra, đó là tấm thiệp tôi đã nắn nót viết từng lời chúc tụng tốt đẹp nhất đã bị cha trả lại với một hàng chữ đánh máy: “Cậu đã làm phiền tôi. Từ nay hãy cắt mối liên lạc giữa tôi và cậu. Ký tên.”
Khi đọc được những hàng chữ trên, tôi cảm thấy chơi vơi, hụt hẫng như người vừa rơi xuống hố thẳm sâu không đáy, nhưng hình như trong tôi đã chấp nhận một sự thật hiển nhiên. Họ đã thực sự từ chối mối liên lạc này. Từ giờ, tôi đã thực sự mồ côi cha..
Thời gian qua đi, do sự cần cù cố gắng và chịu khó làm việc và tôi đã thành công trong cuộc sống. Gia đình nhỏ của tôi giờ đã có 3 mặt con, chúng tôi chuyển qua Mỹ sinh sống dưới dạng đoàn tụ gia đình bên vợ, cha mẹ vợ vẫn đối xử khinh khi, kiếm chuyện hoặc lời ong, tiếng ve về tôi.
Một ngày kia, khi cơn nhẫn nhục lên đến mức tối đa, tôi nổi điên đi mua một khẩu súng đến nhà cha mẹ vợ đòi ngồi xuống nói chuyện “phải quấy” (nghĩ lại cũng thấy buồn cười, thực tâm tôi cũng không muốn làm gì quá đáng, nhưng tôi thực sự đã làm cho họ một phen khiếp vía) cha vợ sợ tôi không dám ngồi. Mẹ vợ thì dịu giọng bảo hãy bỏ qua đi. Tôi cười khẩy:
- Con chỉ đến thăm cậu mợ và muốn nói rằng, những đứa trẻ mồ côi như con không hiền đâu, vì nếu hiền thì nó đã bị xã hội giết chết từ lâu rồi…
Từ đó gia đình bên vợ mới để tôi yên.
Tôi như con tằm nhả tơ, hy sinh cả cuộc đời mình lo cho vợ con đến ngày hôm nay. Các con tôi đã lớn, thành danh, thành nhân đủ cả. Chúng rất ngoan và có hiếu với cha mẹ. Tuy nhiên, trong tôi vẫn còn đầy vết sẹo của quá khứ, nên bề ngoài tôi hay có cái vẻ vui đùa để che đi những “niềm đau chôn dấu”.
Về phần mẹ. Trong quá khứ, tôi đã từng hận mẹ rất nhiều và quyết định không bao giờ về Việt Nam thăm mẹ. Nhưng những hận thù chỉ tạo thêm nhiều vết thẹo và làm cho tâm hồn tôi ngày càng chai sạn lại. Vì vậy, tôi quyết định tha thứ tất cả những gì mẹ đã làm với tôi. Thật tuyệt vời làm sao. Chính sự tha thứ đó, sau này tôi mới hiểu rằng nó đã giúp tôi mở ra được một cánh cửa khác. Cánh cửa hạnh phúc.
Từ đó, tôi bắt đầu gửi tiền về nuôi mẹ và thấy tâm mình thật bình yên không dính mắc…
Năm 2007. Tôi về tìm mẹ. Tưởng rằng mẹ gặp tôi sẽ rất mừng và nói những lời dịu dàng bằng sự ân hận với tôi. Nhưng sự thực tôi đã lầm. Trong mẹ, không dành một chút gì thương yêu cho tôi. Mẹ chỉ đóng kịch để tôi gửi tiền về hàng tháng nuôi mấy đứa con của ông gánh hát. Tôi cũng rất buồn, nỗi buồn đó mưng mủ, vỡ ra để tôi thấy rõ rằng, có thể trong một kiếp nào đó, tôi đã làm gì cho mẹ phải buồn lòng nên kiếp này quả trổ ra với tôi như thế. Cũng như mẹ phải trả nợ cho ông chồng gánh hát, lúc nào cũng ôm ấm hình bóng của ông ta, lúc nào cũng tận tụy hy sinh hết lòng hết dạ vì ông. Sau này ông ta rất nghèo khổ, phải đi bán vé số kiếm sống.
Luật nhân quả chẳng bao giờ sai.
Bổn phận của tôi đã xong. Như cha đã xong với tôi năm 18 tuổi. Ông đã để tôi tự lập như con chim có đủ lông cánh để bay vào dòng đời trôi nổi. Con cảm ơn mối chân tình và sự lo lắng của Cha. Nay con có cái nhìn tích cực hơn khi Cha không còn muốn liên lạc với con nữa, có thể Cha có những lý do riêng nào đó mà không tiện nói…
Riêng tôi nhìn theo lối nhìn của nhà Phật, cha và tôi duyên đã hết, nghiệp đã xong, chẳng có gì phải buồn đau, khổ sở...
“Cuộc đời vô thường biến đổi luôn luôn.” Hiểu sâu về những điều này sẽ làm cho chính mình không còn sợ hãi và khổ đau nữa…
Hiện tại, tôi chỉ thích đi chùa, tụng kinh, niệm Phật. Tôi cũng rất giỏi về hội họa, tôi thích làm công quả và hay giúp chùa vẽ những bức hình Phật thật to choán cả một cái tường trong Chánh điện. Những lần vẽ hình ảnh Phật, tôi cứ có cảm giác Ngài đang từ từ xuất hiện trước mặt. Từng lọn tóc, từng nét mắt, môi cười của Ngài, tôi cảm nhận đầy rẫy sự thương yêu Ngài dành cho chúng sanh. Những lúc như thế, lòng chùng lại, mềm yếu như đứa trẻ lên ba năm nào, thấy được dòng nước mắt mình chảy nhẹ trên gương mặt, trên môi lại mỉm một nụ cười yêu thương…
Giờ đây, tuổi đã cao, cũng là cái tuổi để tôi có thể lo cho chính mình ở những kiếp mai sau…
Chiêu Hoàng

No comments:

Post a Comment