Monday, April 28, 2014

Đêm Dài Nhất Của Sài Gòn


 Nhớ Lại Đêm 29-4-1975 : Đêm Dài Nhất Của Sài Gòn

THÁNG TƯ ĐEN QUỐC HẬN

‘ Sao quên được, tháng tư đen mất nước
máu nhuộm hồng cả sóng biển xanh mơn
xương trắng phơi khắp sông núi Trường Sơn
người chết thảm, nơi bến tàu sân đợi
sao quên được những phút giờ hấp hối
trong chiến hào, giữa đồn vắng không tên
lính tuyệt vọng, nhìn mấy trắng cô đơn
chờ pháo bạn, ngóng phi tuần trở lại.. ’ ’
Ôi những lời thơ nhức nhối, khiến cho người Sài Gòn và các quân, dân, cán, chính cũng như đồng bào chiến cuộc miền Trung, đã có mặt tại thủ đô trong đêm 29 rạng ngày 30-4-1975, làm sao quên được ?. Ðây là giây phút cuối cùng của cuộc chiến Ðông Dương lần thứ hai (1960-1975), những ai may mắn sống sót, sẽ không thể nào quên nổi cái đêm hôm ấy là đêm gì, trong thân phận nhược tiểu Việt Nam, mà thời gian như dài vô tận.
Ðêm đó cả Sài Gòn-Chợ Lớn và Gia Ðịnh đều bị cúp điện. Nhưng trên trời cao, trong cái khoảnh không gian bao quanh Sài Gòn, lúc đó lại được soi sáng mờ mờ ảo ảo, bằng đủ các loại đèn của máy bay trực thăng, cho tới trưa ngày 30-4-1975 mới dứt. Sau này, dân đen Sài Gòn và những người di tản ra ngoại quốc, qua báo chí cùng tài liệu mật được Mỹ công bố, mới biết được “ Ðêm 29-4-1975 : là thời gian cuối cùng của Hoa-Kỳ tại Nam VN “. Cũng trong đêm đó, nhờ sự bảo vệ của các đơn vị còn lại của QLVNCH bị bỏ rơi và bán đứng, đang tử chiến với cọng sản đệ tam quốc tế ở dưới đất, nên siêu cường Mỹ đã an toàn rời khỏi Sài Gòn, trong danh dự, bằng hằng trăm trực thăng đáp khẩn cấp, trên các mái nhà khắp đô thành, trong khuông viên cơ quan Dao và Toà Ðại Sứ.
Ðêm đó cũng là giờ thứ 25 của VNCH và chính tổng thống cuối cùng là Dương Văn Minh, đã ra lệnh cho “ quân đội miền Nam buông súng đầu hàng, cũng như ký lệnh đuổi Mỹ ra khỏi nước “. Ðây là hai đề tài dai dẳng và nhức nhối của những trang cận sử tháng tư đen. Chính nó, đã gây nên cuộc bút chiến, giữa các vị khoa bảng, trí thức xôi thịt của miền Nam, trong số này có rất nhiều người từng đâm sau lưng người lính trận. Ðây cũng là dịp ngàn vàng hiếm hoi, để họ được sống lại cái thuở tự do báo chí của năm nào nơi quê nhà. Bởi vậy trên diễn đàn và báo chí hải ngoại, người ta lại đánh nhau bằng bọt mép và chữ nghĩa. Tóm lại suốt thời gian rất dài, không ai chịu thua ai, người nào củng cố vận dụng tất cả văn phong, dao to búa lớn, qua cái danh giá dõm của những tờ ‘ đại nhật báo ‘ để muôn đời sống mãi với lập trường ‘ ba làng ấm ớ ‘ của mình. Rốt cục, nhờ ánh sáng mặt trời soi sáng gần hết những bí ẩn của cận sử, trong đó có hai vấn đề liên quan tới Dương Văn Minh. Nhờ vậy mới chấm dứt được cuộc đấu võ mồm vô duyên, đã làm phiền lòng cũng như tốn giấy bút và thời gian quý báu của người Việt tị nạn cọng sản khắp hoàn cầu.
Thì ra, cả hai hành động ra lệnh “ cho QLVNCH đầu hàng cũng như đuổi Mỹ ra khỏi Sài Gòn “, đều không phải là quyết định của tổng thống Dương Văn Minh và nội các hai ngày của ông. Theo tài liệu của Hứa Hoành trong ‘ Nam Kỳ Lục Tỉnh số IV ‘, thì ông Dương Văn Minh chỉ làm theo lệnh của cọng sản Hà Nội. Riêng việc đuổi Mỹ, thi do Ðại Sứ Martin của Hoa Kỳ nhờ phổ biến. Ðọc Phạm Bá Hoa, nơi trang 235 của tuỳ bút ‘ Ðôi dòng ghi nhớ ‘, về việc chính ông Dương Văn Minh, đã xác nhận năm 1991 tại Paris, trong bàn tiệc lúc đó có Trần Văn Ðôn và Nguyễn Linh Chiểu. Chính Ðại Tá Chiểu đã hỏi Dương Văn Minh, tại sao mới nhậm chức có một ngày, đã đuổi Mỹ ?. Tổng thống Minh đã trả lời :’Moa không đuổi họ, bản văn (đuổi Mỹ) được phổ biến trên đài phát thanh vào sáng sớm ngày 29-4-1975, do chính Martin viết và nhờ Moa phổ biến. Có vậy Mỹ mới rút khỏi Sài Gòn trong danh dự ‘.
Như vậy, hai sự kiện quan trọng nhất của cận sử VN đã được chính những người trong cuộc, xác nhận bằng văn tự chứ không phải là miệng đời, cho nên không thể nào nói là bịa chuyện hay là vì ghét người mà bôi bác. Sự thật lúc đó người Mỹ đã phải tam rời khỏi mảnh đất đau khổ VN, vì nơi này không còn một giá trị gì nữa, để mà nấn níu hòng đổi chác và lợi dụng Có điều hành động tháo chạy của Hoa Kỳ vào giờ thứ 25, thật là tàn nhẫn và lố bịch. Năm 1954, người Pháp sau khi bị quốc dân VN đánh bại tại Ðiện Biên Phủ, lúc đó dù đã kiệt sức. Nhưng Họ vẫn cố gắng giữ thể diện, bằng cách tạo hoàn cảnh để rút quân về nước trong danh dự và tự trọng. Ngoài ra vào giờ 25 trên đất Bắc, người Pháp cũng không đem con bỏ chợ, khi tận lực giúp đỡ các đơn vị của Quân Ðội Quốc Gia VN đang chiến đấu tại đó, và hơn một triệu người Việt, không muốn sống chung với cọng sản, được di cư vào tìm tự do tai miền Nam. Riêng người Mỹ sau khi đã liên kết được với Trung Cộng, hoạch định thế chiến lược mới, nên phải rút khỏi VN. Ðể có lý do biện minh với thiên hạ, Hoa Kỳ đã ngụy tạo một hiệp định ngưng bắn giả tạo mà thực chất là đã bán đứng đồng minh của mình cho kẻ thù chung năm 1973. Rồi trong giờ phút hấp hối của VNCH nhưng với nguời Mỹ lúc đó, nếu muốn có thể lật ngược thế trận một cách dễ dàng, để bắt cọng sản quốc tế phải rút về phía bên kia vỹ tuyến 17, như họ đã từng đánh đuổi cả triệu quân Trung Cộng và Bắc Hàn, trong cuộc chiến Cao Ly năm 1950.
Nhưng than ôi ! Mỹ đả cúi mặt chịu nhục nhã, trốn chạy khỏi Nam VN trong đêm tối, bằng các trực thăng đáp khẩn trên mái nhà, qua sự bảo vệ của QLVNCH trong giờ phút hấp hối dưới đất. Tàn nhẫn hơn, đám lính Thủy Quân Lục Chiến Mỹ tại Tòa Ðại Sứ, còn bắn trái khói đạn cay vào rừng người VN trước mặt, đã từng phục vụ cho họ hết lòng, lúc đó đang cần chạy khỏi nước để cứu mạng.
Hành động trên đã nói lên đầy đủ bản chất thật của người Mỹ : ‘Tiền trao cháo múc ‘, hay đúng hơn Mỹ vào VN vì quyền lợi của họ thế thội.
1 – NGƯỜI MỸ VÀO VIỆT NAM :
Người Mỹ bắt đầu dòm ngó thương trường VN từ thời Vua Gia Long Nhà Nguyễn. Thế chiến II (1939-1945) Mỹ lại vào Việt Nam để chống lại quân phiệt Nhật và cuối cùng là trực tiếp tham dự Ðông Dương thế chiến 2 (1960-1975). Từ sau năm 1991, Liên Xô và cọng sản Ðông Âu tan rã, Trung Cộng lên thay thế làm bá chủ cọng sản đệ tam quốc tế, hằng lăm le dã tâm nuốt trọn vùng Á Châu và toàn cầu. Sự biến chuyển chính trị trên , khiến người Mỹ phải xét lai hay nói đúng hơn là dịp để Mỹ thực thi kế hoạch cuối cùng ‘ Bất chiến tự nhiên thành ‘.Thế là chiến dịch ‘ tìm lính Mỹ mất tích tại VN ra đời ‘, để Bắc Bộ Phủ công khai cho phép Hoa Kỳ quay lại chiến trường cũ vào năm 1985 và hợp thức hóa từ ngày 3-2-1995, qua cái gọi là văn phòng liên lạc ‘ Việt-Mỹ ‘mở tại Hà Nội. Tóm lại, Hoa Kỳ đã tới nước ta qua các giai đoạn :
+ MỸ ÐẾN VN TÌM THƯƠNG TRƯỜNG :
– 1803 : một tàu buôn Mỹ tên Fame do thuyền trưởng Jermiar Brigo’s đến VN xin giao thương nhưng vua Gia Long không chấp thuận.
– 1819 : Hai tàu buôn Mỹ khác tên Franklin và Marmion vào cửa Cần Giờ (Vũng Tàu) và theo sông Ðồng Nai vào tới Gia Ðịnh Thành, tức Sài Gòn ngày nay nhưng vì ngôn ngữ hai nước bất đồng, nên cuối cùng hai chiếc tàu trên lại quay ra biển.
– 1833 : Một chiến hạm Mỹ tên Peacock do Hạm trưởng Edmund Robert, được Tổng Thống Mỹ Andrew Jackson , đề cử làm sứ thần đến Ðại Nam giao thiệp xin mua bán. Ngày 1-1 năm đó, hai chiếc tàu trên tới hải phận Ðà Nẳng nhưng vì gặp bảo, nên không thể vào vịnh để cặp bến. Do trên tàu phải chạy xuống núp bão tại Vũng Rô, Phú Yên và được tiếp xúc với chánh quyền địa phương bằng tiếng Latin, qua sự thông dịch của một một tu sĩ Thiên Chúa Gíáo. Theo nữ giao sư Ellen Hammer, một học giả về Ðông Phương, thì trong lần tiếp xúc đó, vua Minh Mạng đã chính thức cho phép người Mỹ vào VN buôn bán giao dịch nhưng không hiểu sao, hai chiếc tàu trên đã không tới Ðà Nẳng, sau khi rời Vũng Rô.
+ MỶ VÀO VN ÐỂ CHỐNG NHẬT TRONG THẾ CHIẾN II (1939-1945) :
Ngày 9-3-1945, Nhật tấn công và giải giới toàn bộ lực lượng quân đội viễn chinh của thực dân Pháp trên bán đảo Ðông Dương. Sau đó quân Nhật từ Hoa Nam tràn xuống chiếm đóng Việt-Miên-Lào. Bán đảo Mã Lai, lúc đó là thuộc địa của Anh Cát Lợi, cũng rơi vào tay quân phiệt Nhật. Từ đó, khắp lãnh thổ VN luôn bị quân Ðông Minh oanh tạc.
Ðể thâu lượm các tin túc tình báo cũng như tiếp xúc giải cứu các phi công Ðồng Minh bị Nhật bắn hạ bắt giữ, Anh-Mỹ đã thành lập một cơ quan tình báo đặc biệt gọi là GBT, chuyên hoạt động trên lãnh thổ VN. Nhưng cơ sở này đã bị Nhật khám phá và dẹp tan. Sau ngày 9-3-1945, khi người Nhật chính thức trở thành chủ nhân ông Ðông Dương, Ðể tiếp tục hoạt động tại mặt trận này, cơ quan tình báo Hoa Kỳ đã cử một nhóm sĩ quan OSS ( tiền thân của CIA), trong đó có Trung Úy Dan Phelan, Thiếu Uý Allison Thomas.. nhảy dù xuống các căn cứ của Việt Minh tại Việt Bắc, để phối họp chống Nhật. Chính trong giai đoạn này, để mua chuộc, người Mỹ đã cho bộ đội VM rất nhiều vũ khí cá nhân cũng như cộng cộng, đồng thời huấn luyện hướng dẫn họ cách sử dụng các loại súng cối, đại bác, ném lựu đạn, đặt mìn bẩy.. Khi Nhật tuyên bố đầu hàng Ðồng Minh vì bị thả hai trái bom nguyên tử, thì cũng chính những sĩ quan tình báo này, đã giúp cho lực lượng VM cướp được chính quyền trong tay người Việt Quốc Gia, tại Hà Nội ngày 3 tháng 9 năm 1945. Bởi vậy, nên khi toán sĩ quan OSS từ Côn Minh, do Ðại Uý Archimedes APatti cầm đầu tới Hà Nội, đã được Hồ Chí Minh và các lãnh đạo khác trong Bắc Bộ Phủ đón tiếp rất trọng thể.
Tại Nam Kỳ cũng có một nhóm OSS gồm 17 người, do Thiếu Tá A.Perter Deway cầm đầu, theo chân quân Anh-Ấn tới đây để giải giới quân Nhật, trú đóng phía bên này vĩ tuyến 16. Nhưng toán sĩ quan tình báo này đã phản đối quân Anh-Ấn, khi thấy họ đã công khai cho thực dân Pháp vào lại Sài Gòn, để tiếp tục đàn áp và bức hại người VN. Do đó, toán sĩ quan OSS này đã bị tướng Anh Gracey trục xuất khỏi Nam Kỳ. Tuy nhiên Thiếu Tá Peter và nhiều sĩ quan OSS khác trong toán, đã bị chết thảm tại Sài Gòn, do sự tấn công lầm của lực lượng VM kháng chiến tại đây.
Ngoài ra trong thời gian tù 1945-1954, Chính phủ Mỹ đả cử các viên chức thuộc Bộ Ngoại Giao Kennet London, Abbot Lowmoffat.. do James O’Sullivan làm Tổng Lãnh Sự tại Hà Nội. Nhưng rồi chỉ một thời gian ngắn, khi biết được Hồ Chí Minh hoạt động cho Ðệ Tam Cọng Sản Quốc Tế, nên người Mỹ đã cuốn cờ bỏ chạy khỏi miền Bắc.
+ MỶ THAM DỰ CUỘC CHIẾN ÐÔNG DƯƠNG 2 (1955-1975) :
Tháng 12-1949, Trung Công coi như làm chủ hoàn toàn Hoa Lục , khi Lâm Bưu bình định xong đảo Hải Nam và Lư Hán tại Vân Nam cũng xin đầu hàng. Ngày 18-1-1950, Liên Xô lẫn Tàu Công là nước đầu tiên công nhận chế độ cọng sản của VC tại Hà Nội. Ðể trả đũa, Hoa Kỳ cũng công nhận Chính Phủ Quốc Gia VN của Quốc Trưởng Bảo Ðại, đồng thời tiếp tục viện trợ quân sự cho thực dân Pháp, chống lại cọng sản VN, qua bức bình phong Mặt Trận Kháng Chiến Việt Minh.
Tháng 6-1950, Thế Chiến III bùng nổ tại bán đảo Triều Tiên, giữa phe cọng sản Trung Cộng, Bắc Cao và Lực lượng Liên Hiệp Quốc. Sau khi chiến cuộc chấm dứt, đệ tam quốc tế coi như chỉ chiếm được nửa nước Cao Ly. Ðể ngăn chận vết dầu loang của chủ nghĩa Mác-Lê-Mao, lan tràn tới các phần đất còn lại của Châu Á, nên Hội Ðồng An Ninh Quốc Gia Mỹ mới đẻ ra cái gọi là Thuyết Domino vào ngày 1-2-1950 (Theo tài liệu mật NSC 649 vừa được giải mã). Trong chiến lược này, VN được chọn làm quốc sách, như một tiền đồn ngăn chận làn sóng đỏ lúc đó.
Thật sự đây chỉ là một cái cớ, mang các danh từ hào nhoáng để che đậy công cuộc mậu dịch song phương và hoà bình, của bọn tư bản lái súng Mỹ (gốc Do Thái), đang lảng vảng sau bức bình phong của Tòa Bạch Ốc, mà bất cứ thời nào từ trước tới nay, đều không thay đổi. Tóm lại vì lợi nhuận của bọn lái buôn và nước Mỹ, nên lúc nào cũng phải kiếm cớ để có chiến tranh khắp nơi. Như vậy Mỹ mới điều hòa nền kinh tế tài chánh để cung ứng nhu cầu quốc gia không bị xáo trộn vì nạn thất nghiệp. Mở rộng chiến tranh Ðông Dương lúc đó, để bọn tài phiệt lái súng, tiêu thu cho hết số vũ khí tồn kho, từ thời thế chiến I và II, đồng thời có dịp bày bán các sản phẩm mới của cuộc chiến hiện đại.
Giống như nền kinh tế thị trường hiện tại, chúng ta xài các sản phẩm mang nhiều quốc tịch khác nhau nhưng thật sự gần hết đều là của Mỹ được làm tại ngoại quốc, vì nhân công rẻ và tránh thuế nặng. Tương tự, các sản phẩm chiến tranh thời đó, mang nhiều nhãn hiệu như Liên Xô, Trung Cộng, Do Thái, Ðông Âu.. thật sự đều là hàng Mỹ chính hiệu. Chẳng hạn chiến xa T54, xe vận tải Molotova, Zill.. cứ tưởng là do Nga-Tàu chế, thật sự là hàng của các xe Ford và Christie.. Cũng nhờ chiến tranh VN, công khai gia tăng ngân sách quốc phòng, ngoại viện và bắt dân đóng thuế thêm 10%. Song song các đại công ty Mỹ như Howard Hughes, Lockheed Aircraft, General Dinamic, General Electric.. nhờ hợp tác với Bộ Quốc Phòng, nên hốt được nhiều tỷ đô la. Bởi tất cả viên trợ cho VNCH đều miễn thuế nhập cảng và đổi hàng thành tiền, khấu trừ vào ngân khoản viện trợ hằng năm.
Tóm lại nhờ chiến tranh VN, cả nước Mỹ và các đồng minh ăn ké liên hệ như Nhật, Nam Hàn, Ðài Loan.ăn nên làm ra. Ðể thu hoạch được mối lợi to lớn trên, Tòa Bạch Ốc phải đẻ ra một cuộc chiến dai dẳng, được các nhà quân sự gọi là ‘ đánh nhau có giới hạn ‘.Cũng vì lý do trên, mà qua cuộc chiến gần 20 năm, quân đội Mỹ tham chiến tại VN, có thể nói là chưa bao giờ được trang bị đầy đủ các phương tiện, cũng như cung ứng quân số để đạt tới chiến thắng. Rồi với lý do không được chọc giận Liên Xô-Trung Cộng, nên chính phủ Mỹ cấm quân đội Hoa Kỳ và QLVNCH, không được vượt vỹ tuyến 17 để tấn công Bắc Việt. Nhờ vậy cọng sản Hà Nôi luôn vững tâm có một hậu phương lớn, an toàn, không bao giờ sợ phản tặc đâm sau lưng như tại miền Nam VN.
Nên đừng lấy làm lạ, khi thấy gần như suốt cuộc chiến Hoa Kỳ chỉ viện trợ cho VNCH những thứ quân dụng và vũ khí lỗi thời như súng trường Garant M1, đại bác không giật 57 ly, súng cối 60-81 ly, đại bác nòng dài 105-155 ly.. bởi Mỹ chỉ muốn Miền Nam sống thoi thóp mà thôi. Tóm lại chỉ vì bản chất chính trị con buôn, quyền lợi ích kỷ, nên Mỹ đã tìm đủ mọi cách để biến quốc gia của kẻ khác gần như một tiền đồn của mình, để thử nghiệm hiệu quả của các phát minh súng-đạn. Cũng từ đó, hai miền Nam-Bắc VN, đả trở thành vật tế thần, để các siêu cường của hai khối, quảng cáo vũ khí chiến lược và ý thức hệ.
Nhưng người Mỹ cũng đã tiêu phí trong cuộc chơi giỡn mặt với tử thần trên, qua số tiền 165 tỷ mỹ kim, tiền xương máu đóng góp của người dân. Về quân đội Hoa Kỳ, có 58.022 người chết, 300.000 bị thương và 2500 mất tích. Riêng VN cả hai miền Nam-Bắc chết 1,9 triệu người và 4,5 triệu người khác bị thương. Cả nước từ biên giới Hoa-Việt tới Cà Mâu-Hà Tiên, trên núi dưới biển, nông thôn cũng như thành thị, nơi nào cũng bị bom đạn của ngoại quốc, do chính người VN hai miền đem về tàn phá tận tuyệt, não nùng.
Ðể được đem quân vào VN, người Mỹ đã đồng mưu với các tướng lãnh bản địa “ giết chết một tổng thống “. Ðể có lý do chính đáng được người dân và quốc hội Hoa Kỳ tán trợ, Chính phủ Mỷ đưa ra chiến lược hào nhoáng là ‘ vào Nam VN để giúp ngăn chận sự xâm lược của cọng sản miền bắc ‘.Do đó ngày 7-3-1965, theo lệnh của tổng thống Johnson, một sư đoàn TQLC Mỹ gồm 3500 người, đầu tiên đã đến Ðà Nẳng và cứ thế tới cuối năm 1967, quân số Hoa Kỳ tham chiến tại Nam VN đã hơn nửa triệu người.
Trong suốt cuộc chiến Ðông Dương lần thứ 2 này, có một sự kiện đặc biệt nhất : “ đó là việc hiện diện đông đảo của bọn ký giả, nhà báo, cơ quan truyền thông..” những đỉnh cao của nền văn minh duy lý da trắng. Nhưng cũng chính bọn này đã táng tận lương tâm của con người, đảo lộn trắng đen, nói càng viết bậy, để hướng dẫn dư luận thế giới trong đó có Mỹ, nhất là vụ VC tổng công kích VNCH vào dịp Tết Mậu Thân 1968. Rõ ràng nhất là lúc đó, Bắc Việt gần như nướng sạch cán binh, bộ đội khắp các chiến trường, kể cả tại Huế và Toà Ðại Sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn. Thế nhưng chỉ vì những cái lưỡi tắc kè thay da đổi tiếng, nên VC tuy thua ở Nam VN nhưng lại chiến thắng trong màn ảnh truyền hình khắp các thủ đô Ba Lê, Luân Ðôn, Hoa Thịnh Ðón..
Cũng từ đó, nhân dân Mỹ đã bắt đầu phản đối chiến tranh và đòi rút quân về nước. Nhưng lý do chính cũng vẫn là nền kinh tế, tài chính Mỹ đang có dấu hiệu suy thoái. Sự kiện này đả thực sự bộc phát mạnh vào năm 1971, làm Mỹ phải hai lần phá giá đồng đô la nhưng vẫn không thể nào cứu vãn kịp. Ðây cũng là dịp để cho bọn tư bản lái súng có cớ chuyển tiền bạc công ty ra ngoại quốc đầu tư, làm cho nạn thất nghiệp càng thêm trầm trọng.
Ðây là cơ hội ngàn năm một thuở, để bọn điệp viên Liên Xô, Trung Cộng, Việt Cộng.. phối hợp với bọn tư bản Mỹ phản chiến, châm ngòi cho cuộc bạo động khắp nước Mỹ, đòi rút quân về nước. Phong trào trên lan nhanh, từ California, Massachussetts, Newyork.. tới thủ đô Hoa Thịnh Ðốn Tưới thêm xăng vào lửa, là bọn đại tài phiệt Do Thái, những siêu quyền lực cầm trịch trong guồng máy lãnh đạo Tòa Bạch ốc, cũng gây áp lực, bắt chấm dứt chiến tranh VN, để dồn hết ngân sách ngọai viện dành cho Irael tại Trung Ðông. Chính tên ngoại trưởng kiêm cố vấn an ninh quốc gia cho TT. Nixon là Henry Kissinger, người Mỹ gốc Do Thái, đã nhúng tay vào tất cả các âm mưu, trong việc ngụy tạo một hiệp ước ngưng bắn giả mạo vào năm 1973, để bán đứng VNCH cho khối cọng sản quốc tế, đổi lấy quyền lợi cho Do Thái tại Trung Ðông.
Hậu quả của phong trào phản chiến trên, khiến cho giới dân cử Mỹ vì muốn kiếm phiếu trong lần sau, nên phải mị dân bằng cách ban hành nhiều đạo luật quái gở, hầu hết đều làm lợi cho cọng sản mà điển hình nhất là “War Power Art “ ký năm 1973, gần như trói tay tống thống và hành pháp Mỹ. Vì vậy cọng sản Bắc Việt đã công khai xé bỏ bản hiệp ước vừa mới ký tại Ba Lê chưa ráo mực, xua quân cưỡng chiếm miền Nam.
Tháng 5-1975, Henry Winston, chủ tịch đảng cọng sản Mỹ đến thăm Hà Nội, đã công khai tuyên bố :’ chiến thắng của CSVN cũng là chiến thắng của đảng CS.Hoa Kỳ ‘.Còn chủ tịch bù nhìn của Mặt Trận Ma-Nguyễn Hữu Thọ tại Mạc Tư Khoa thì nói :’ chiến thắng của Bắc Việt là do công lao của Mỹ, đã viện trợ chính trị và cổ võ cho họ ‘.Nhưng mai mỉa và nhức nhối tận cùng là lời của Lê Ðức Thọ :’ Năm 1954 CSVN thắng Pháp tại Ba Lê , còn năm 1975 CSVN lại thắng VNCH tại Hoa Thịnh Ðố
2 – MỸ BỎ VIỆT NAM :
Mỹ tới VN chỉ lợi ích và chiến lược. Bởi vậy sau khi đã bắt tay được Trung Cộng vào ngày 21-2-1972, song song với việc đã chế tạo thành công tàu ngầm nguyên tử cùng hỏa tiễn liên lục địa Polaris, thì cái ý nghĩa sử dụng Nam Việt Nam, để làm tiền đồn ngăn chận làn sóng đó đả không còn tồn tại. Thêm vào đó là sự ngu xuẩn của Kissiger khi quá tin vào lời hứa cuội của Liên Xô tại hội nghị hòa hoãn Helsinki-Phần Lan, là sẽ kềm chế VC. Bởi vậy để thưởng cộng trước, Mỹ qua đề nghị của Kissinger, cho Liên Xô được hưởng ưu tiên tối huệ quốc.
Cũng vì vậy nên từ đó, lúc nào cặp Nixon-Kissiger cũng coi VNCH như là một thuộc địa của mình không hơn không kém. Ngoài việc nhiều lần làm mất mặt chính quyền miền Nam trên trường quốc tế, Mỹ cón sử dụng viện trợ như là một thứ áp lực gông cùm, bắt ép một quốc gia đang có chủ quyền, dân chúng và lãnh thổ, phải ngồi chung trong bàn hội nghị với công cụ của cọng sản Bắc Việt, qua danh xưng MTGPMN, mà Mỹ đã biết rất rõ ràng. Cuối cùng, cũng dùng viện trợ bắt buộc VNCH phải ký hiệp định ngưng bắn vào năm 1973, trong đó Mỹ công nhận MTGPMN như một chính quyền thứ hai củng như cho bộ đội Bắc Việt ở lại miền Nam, làm cho QLVNCH phải bó tay, để cho cọng sản đệ tam tiếp tục tấn công cưỡng chiếm miền Nam.
Sau ngày 30-4-1975, tướng Alexander Haig, một cựu bộ trưởng thời TT.Nixon đã viết :’ chúng tôi gạt Tổng Thống VNCH là Nguyễn Văn Thiệu, ký vào bản hiệp ước ngưng bắn năm 1973 tai Ba Lê, bằng cách gởi nhiều bức thơ viết tay của Nixon. Theo nội dung những bức thơ đó, thi Nixon nhân danh nước Mỹ, cam kết sẽ sử dụng quân đội và pháo đài bay B52 trở lại trên chiến trường, nếu Bắc Việt tiếp tục xâm lăng VNCH. Ngoài ra Nixon còn to miệng hứa là sẽ tiếp tục quân viện cho miền nam, trên nguyên tắc mà hai nước đã ký kết từ trước ‘ 1 đổi 1 ‘.Nhưng than ôi tất cả chỉ là sự lừa bịp của một siêu cường đang lãnh đạo khối tự do lúc đó, với một đồng minh từng sánh vai sống chết với mình, trong lúc đang hấp hối vì thù trong giặc ngoài. Cho nên Mỹ đã phủi tay, khi đem được tù binh về nước, giúp TT Nixon đắc cử thêm một nhiệm kỳ (1971-1975).
Bởi vậy vào ngày 21-1-1973, tại Ba Lê trong khi các nguyên thủ trên thế giới liên hệ, đang nổ rượu Champagne nói là để ăn mừng vì hòa bình tại VN. Khôi hài hơn hết, là sự việc hai tên đại bịp Kissinger và Lê Ðức Tho được cái gọi là Uỷ Ban giải Nobel Hòa Bình tại Nauy, phát giải thưởng. Thì cũng lúc đó, cọng sản Bắc Việt đã xử dụng chính bộ đội mà Mỹ cho phép ở lại tại lãnh thổ Nam VN, tấn công đồng loạt các cứ điểm VNCH tại Cửa Việt (Quảng Trị), Kon Tum, Kiến Tường.. Nhưng quan trọng hơn hết là tại Sa Huỳnh (Quảng Ngãi), Bình Thuận và Trại Biệt Ðộng Quân Biên Phòng Tống Lê Chân (Bình Long)..
Tiếp theo khi biết chắc Mỹ đã phủi tay thật sự không bao giờ can thiệp vào chiến tranh VN, nên tháng 12-1974 Bắc Việt xua đại quân tấn chiếm quận Thường Ðức (Quảng Nam), Phước Long, Ban Mê Thuột và toàn thể Miền Nam vào ngày 30-4-1975.
3- MỸ CHẠY KHỎI VN TRONG ÐÊM TỐI, TRÊN MÁI NHÀ :
Từ khi có ý định phủi tay bỏ Nam VN, nên cuối năm 1974 tòa đại sứ Mỹ tại Sài Gòn, đã bắt đầu lập bản dự thảo kế hoạch rút số viên chức còn lại, cũng như di tản những thành phần bản xứ có liên hệ với họ. Ðó là chiến dịch ‘ Talon Vice ‘, sau được đổi thành ‘ Frequent Wind ‘.Theo sử liệu bật mí mới đây, sở dĩ kế hoạch trên vào phút chót trở thành ‘ đầu gà đít vịt ‘, là do sự bất đồng ý kiến giữa đại sứ Mỹ Martin và phái bộ quân sự Hoa Kỳ (Dao). Nhưng đây cũng chỉ là cái cớ, để phần nào làm nhẹ bớt tội tắc trách của ông đại sứ. Cũng theo tài liệu, sự thất bại còn có rất nhiều lý do khác, chẳng hạn do tướng Smith trưởng cơ quan Dao, đã tiết lộ kế hoạch chạy của Mỹ, trong bữa tiệc do Tổng Cục Tiếp Vận tổ chức trong đêm giáng sinh 24-12-1974.
Tin này lập tức được loan truyền rộng rải, nên thay vì Mỹ di tản các thành phần quan trọng có nguy hai tới tánh mạng khi VC vào, lại chỉ vớt toàn bọn nhà giàu, Tàu Chợ-Lớn, me Mẽo, bọn cò mồi phá thối chính quyền VNCH. và đặc biệt là bọn tướng-tá ăn không ngồi chơi xơi nước tại các cơ quan đầu não trung ương về quân sự cũng như hành chánh. Bọn này đa số đều giàu có về tiền bạc cũng như quyền thế và phe cánh Mỹ, nên ra đi ngoài gia đình nội ngoại ba đời, còn có cả con sen thằng ở. Sau rốt là do đại sứ Martin tới giờ phút chót, vẫn còn ngu xuẩn cả tin vào sự hẹn hứa của Bắc Việt, nên nuôi ảo vọng thương thuyết, khi chấp nhận điều kiện ‘ đổi ngựa ‘ hết Nguyễn Văn Thiệu, tới Trần Văn Hương và cuối cùng là Dương Văn Minh. Nhưng kết cuộc, Mỹ đã bị VC bịp xã láng, nên đã phải bỏ chạy nhục nhã trong đêm tối 29-4-1975, khắp các mái nhà Sài Gòn, đến nỗi quên cả cuốn và vác cờ theo. Thật là một trò hề vô cùng sĩ nhục của siêu cường Hoa Kỳ, lãnh tụ của phe thế giới tự do.
Theo bản dự thảo ban đầu, chiến dịch di tản gồm có bốn giải pháp, tùy theo hoàn cảnh để thi hành như 1- Dùng hàng không dân sự để di tản người tại phi trường Tân Sơn Nhất. 2- Sử dụng các vận tải cơ C123,130 và C5 để bốc người tại Sài Gòn cũng như các tỉnh lân cận. 3- Sử dụng các loại thương thuyền có sẵn tại bến Bạch Ðằng. 4- Dùng trực thăng bốc người từ Sài Gòn, đưa ra các chiến hạm.
Sau khi quân đoàn I và II tan rã ngày 1-4-1975, cơ quan Dao đã cho thành lập một cơ quan điều hợp di tàn, gọi tắt là DCC tại Tân Sơn Nhất và giải pháp (4) dùng trực thăng bốc người được chọn, nếu phi trường Tân Sơn Nhất bất khiển dụng.
Ngày 3-4-1975, Dao lại thành lập thêm Toán Thiết Kế đặc biệt, có nhiệm vụ thanh lọc, để xác nhận tổng số người VN cần di tản và tới ngày 7-4-1975, có 70.000 người được lên danh sách. Ngay sau đó, Dao đã tổ chức một đoàn xe Bus, chuyên chở họ từ tư gia vào phi trường TSN. Vì hầu hết sân thượng tại Sài-Gòn, Chợ-Lớn và Gia-Ðịng, không đủ tiêu chuẩn để cho các loại trực thăng H46 và H53 đáp, nên Dao phải trưng dụng tất cả các trực thăng nhỏ của hãng Air American do CIA thuê mướn, bốc người khắp nơi về Dao, sau đó trực thăng lớn mới chở ho ra chiến hạm.
Ngày 9-4-1975, Bắc Việt xua đại quân tấn công Xuân Lộc. Cơn phẫn nộ của QLVNCH và dân chúng được bộc phát tại đây. Sư Ðoàn 18 BB, Lữ Ðoàn 1 Dù, Thiết đoàn 5 kỵ binh, Biệt Ðộng Quân, Ðịa Phương Quân + Nghĩa Quân Long Khánh, chẳng những đã chận đứng cộng quân tại chiến trường mà còn tiệu diệt cả vạn quân xâm lăng phương bắc, khiến cho Hà Nội lại la làng là Mỹ bội tín đem bom nguyên tử vào thả tại VN.
Do tình hình chiến trường biến động khắp nơi báo hiệu nguy cơ miền Nam sắp mất, nên Dao đã mướn nhà thầu sửa chữa các sân thượng tại đây, đồng thời yêu cầu toà đại sứ cho đốn cây cổ thụ trước sân, để làm bãi đáp khi hữu sự nhưng đã bị Martin phản đối và bác bỏ.
Ngày 16-4-1975 tướng Home Smith, chỉ huy trưởng Dao, ra lệnh đóng cửa các PX, đồng thời bắt buộc các quân nhân không cần thiết và tất cả nhân viên dân chính cùng gia đình, đều phải hồi hương.
Ngày 24-4-1975 thời tổng thống Trần văn Hương, do tình hình chiến sự bùng nổ dữ dội lhắp nơi, nên đại sứ Martin mới cho thi hành giải pháp (3) trong chiến dịch Frequeent Wind, sử dụng tất cả các thương thuyền trống, sau khi đã giở hàng để di tản. Trong lúc đó, vì tuân thủ theo lệnh của chính phủ VNCH, nên hầu hết các máy bay quân sự của Mỹ khi rời Sài Gòn đều trống không, dù có rất nhiều người đang sắp hàng ngày lại ngày, để chờ phương tiện xuất ngoại.
Ngoài việc di tản quân nhân, viên chức tòa đại sứ rời VN, ngày 4-4-1975, Dao lại cho thực hiện chiến dịch ‘ Baby Lift ‘, di tản 250 em mồ côi VN tại các cô nhi viện sang Hoa Kỳ, bằng vận tải cơ khổng lồ C5A-Galaxy. Tháp tùng trong chuyến đi này, còn có 37 nữ thơ ký và phân tách viên của Dao, với nhiệm vụ giúp đỡ và săn sóc các em trong suốt cuộc hành trình. Nhưng than ôi công tác đầy nhân đạo này, đã bị bàn tay bí mật nào đó phá vỡ ngay. Bởi vậy máy bay vừa mới cất cánh, thì đã rớt xuống ngay tại đầu phi đạo tan tành. Rốt cục chỉ còn sống sót 175 người. Tới nay sự việc trên vẫn chưa được soi sáng , nên đâu biết ai là thủ phạm đã gây nên tai nạn thương tâm cho các em bé mồ côi khốn khổ trên.
Tại Subic Bay-Phi Luật Tân ngày 17-4-1975, lực lượng đặc nhiệm 76 của Hải quân Hoa Kỳ vừa mới cặp bến để tu bổ và sửa chữa tàu bè, sau một thời gian dài đã tham dự cuộc hành quân Eagle tại Ấn Ðộ Dương, thì lại nhận được lệnh rời bến tới chờ lệnh tại Đông Hải, ngoài hải phận Nam VN.
Những ngày cuối cùng của tháng 4-1975, tình hình chiến sự tại miền Nam vô cùng sôi động. Khắp nơi, những đơn vị còn lại của QLVNCH gồm Sư đoàn Dù, Sư đoàn TQLC, các Liên Ðoàn Kỵ Binh, Pháo Binh, Lực Lượng III Xung Kích, Sư đoàn 18, 5, 25, 22, các Sinh viên sĩ quan Trường Võ Bị QG.Ðà Lạt, Chiến Tranh Chính Trị, Thủ Ðức, Học Viện Sĩ quan Cảnh sát, khóa sinh HSQ-Binh sĩ quân dịch các Trung tâm Huấn luyện Vạn Kiếp, Quang Trung, Lực lượng Ðịa Phương Quâm-Nghĩa Quân, Trung Đoàn Bình Thuận, Cảnh sát Dã chiến, Cán Bộ Xây Dựng Nông thôn cả Nhân Dân Tự vệ.. phối họp với Không quân, Hải quân và Quân đoàn IV, gần như tử chiến với mấy trăm ngàn cán binh-bộ đội cọng sản Bắc Việt, từng giây phút, suốt đêm ngày.. trong nổi đoạn trường máu lệ. Tất cả đã lấy xương thịt và thân xác, thay súng đạn ngăn chận xe tăng, đại pháo và biển giặc.. vì người Mỹ đã cúp hết quân viện từ ngày 25-4-1975.
Ðêm 28-4-1975 Nguyễn Thành Trung hay Ðinh Thành Trung, con rớt của một cán bộ tập kết ở Bến Tre, nằm vùng trong không quân VNCH. Thi hành theo lệnh của Văn Tiến Dũng, tổng tham mưu trưởng quân đội VC, lái A37 giội bom phi trường Tân Sơn Nhất. Theo Lê văn Trí, tư lệnh KQ cọng sản miền bắc, thì VC đã dùng các máy bay của QLVNCH đã bỏ lại tại các phi trường Ðà Nẳng, Phù Cát để oanh tạc Sài Gòn. Sáng 28-4-1975, sáu chiếc A37 được chuyển vào sân bay Thanh Sơn (Phan Rang) do Trung làm phi đội trưởng, hợp với các phi công Băc Việt gồm Từ Ðể, Nguyễn văn Lục, Hoàng Mai Vượng, Hàn Văn Quảng và một tên phi công phản tặc khác của VNCH là Trần văn On. Vì các máy bay trên không mở đèn, hơn nửa lực lượng phòng vệ ở dưới đất tưởng là bạn, nên chúng mới toàn mạng. Vụ oanh tạc trên đả làm hư hại 3 chiếc Hỏa Long AC119, vài chiếc C47 nhưng quan trọng nhất là đã tạo tình trạng hỗn loạn tại phi trường, đang có nhiều người đợi máy bay di tản. Ngoài ra còn có nhiều đoạn phi đạo bị bom và đạn pháo kích làm hư hỏng, không còn sử dụng được. Trước tình trạng hỗn loạn này, tướng Smith ra lệnh giới nghiêm Dao 24/24, trong khi đó tại tòa đại sứ Matin vẫn bất động.
Sau này qua các tài liệu báo chí, đọc được nhiều chuyện vui cười ra nước mắt, liên quan tới sự người Mỹ tiếp tục quân viện cho VNCH, theo tinh thần hiệp định Ba Lê 1975 và những lời hứa của Nixon, từ các tho riêng viết tay. Thật sự để có lý do hạ cánh những vận tải cơ khổng lồ C5, người Mỹ giả bộ chở tới một vài khẩu súng đại bác 105 ly thời Thế chiến 1, ít trăm bộ nón sắt cháo lòng không giống ai. Tàn nhẫn nhất trong số những thứ rác phế thải này, có nhiều thùng băng cá nhân đã xử dụng. Biết Hoa Kỳ đã tận tuyệt rồi nhưng chính phủ VNCH vẫn giả đò tương kế tựu kế, họp báo đăng tin, để phần nào giữ lại chút niềm tin cho người lính đang xả thân nơi chiến trường, trong giờ thứ 25 đối mặt với thù trong giặc ngoài. Riêng Mỹ thì mục đích đến là để chuyển tải tất cả hồ sơ mật và những vật dụng máy móc điện tử quý giá về nước.
Lạ lùng nhất là lúc 3 giờ sáng ngày 29-4-1975, tại Dao có 3 chiếc vận tải cơ C130, thường trực chuyển người ra chiếm hạm. Nhưng không biết vì lẽ gì, lại chở từ biển vào Sài Gòn ba quả bom con heo tiểu nguyên tử (Blue 82 Daisy Cutter), loại bom 15.000 Lbs, mà QLVNCH đã sử dụng tại mặt trận Xuân Lộc-Long Khánh vừa qua. Khôi hài hơn là trong lúc các chuyên viên Mỹ-Việt đang hì hục tháo gỡ đem bom vào kho, thì một phi công Hoa Kỳ lại bạch thoại trên vô tuyến, khiến cho CS Bắc Việt bắt được tần số và nã ngay hỏa tiễn 122 ly vào phi trường, làm cháy một vận tải cơ C130 đang bốc người. Thế là Dao chấm dứt kế hoạch di tản bằng máy bay lớn ra hạm, vì phi trường đã bất khiển dụng.
Trong lúc những lãnh đạo của Miền Nam “ đang trầm kha trong ảo vọng thương thuyết hòa hợp để kết thúc cuộc chiến “, thì đúng nửa đêm 29-4-1975 cũng là giờ mà cọng sản đệ tam quốc tế Hà Nội, chọn là giờ ‘ G’ ngày ‘ N’ tổng tấn công dứt điểm VNCH. Sài Gòn đã rối loạn vì hơn mấy chục sư đoàn cọng sản Bắc Việt đã áp sát thủ đô. Một số đại pháo được tập trung nã vào các khu vực đông dân cư trong nội thành. Phần khác là do đám quan quyền, ngày thường ngồi trên ăn đủ, cùng với bọn nhà giàu, me Mẽo.. tới tấp ra đi, khiến cho lòng người càng thêm tơi tả. Tuy rằng trung ương không còn đại bàng nhưng khắp bốn hướng, Quân Lực VNCH vẫn chiến đấu dũng mãnh, gần như lấy máu xương của chính mình để ngăn cản bước tiến của giặc. Lữ đoàn 4 Nhảy Dù, Sư Ðoàn TQLC, Sư đoàn 18 BB, Lực lượng III Xung Kích, Liên đoàn 4 Biệt Ðộng Quân, Sư đoàn 22 BB, Giang Ðoàn 54 Tuần Thám, Lực Lượng Ðịa Phương Quân + Nghĩa Quân.. và đặc biệt là Chiến Ðoàn 3, thuộc Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù, từ ngày 26-4-1975, đã được lệnh về bảo vệ Bộ Tổng Tham Mưu.
Nhưng giữa lúc người lính bộ đang lội trong biển máu thù, thì trên trời gần hết những phi công anh hùng của QLVNCH đã ngoảnh mặt phủi tay ra đi không trở lại, hoặc bay về đất Thái hay hướng thẳng biển đông. Khiến cho phi trường Tân Sơn Nhất thêm hiu quạnh thảm thê với xác người nằm bất động, lẫn lộn với quân trang quân dụng , cơ phận máy bay, vũ khí và những lính quèn hèn mọn, giờ phút cuối vẫn ở lại tử thủ với phi trường.
Nhưng không phải ai cũng tham sống sợ chết, chỉ muốn hưởng vinh hoa phú quý mà người Mỹ hứa hẹn. Vẫn còn vài chiếc Hoả Long AC119 K, cùng vớo hai khu trục A1 Skyraider, đã không ngừng lên xuống, nã đạn pháo, thả hỏa châu, soi sáng giúp quân bạn đang chiến đấu dưới đất. Anh hùng nhất là Trung Úy Phi Công Nguyễn Văn Thành, xuất thân từ Thiếu Sinh Quân. Ông đã lái AC119 bắn phá những vị trí pháo của VC quanh phi trường, nhờ vậy nhiều người trong số này có tướng Nguyễn Cao Kỳ, cựu tư lệnh KQ, cựu chủ tịch ủy ban hành pháp trung ương, cựu phó tổng thống VNCH.. mới bay được trực thăng riêng từ tư gia ở Tân Sơn Nhất, ra chiến hạm đi Mỹ. Thương thay người hiền không bao giờ sống lâu, nên Trung Uý Thành đã gãy cánh vào lúc 6 giờ 46 phút, rạng sáng ngày 29-4-1975, khi chíếc hỏa long của ông bị một hỏa tiễn tầm nhiệt SA7 chém đứt cánh may bay và bốc cháy trên bầu trời.
9 giờ 30 sáng ngày 29-4-1975, Sài Gòn đã hỗn loạn khắp nơi. Do trên tướng Smith yêu cầu đại sứ Martin cho thi hành giải pháp ‘ 4’ trong chiến dịch di tản nhưng đã bị từ chối. Nguyên do vì đại sứ Mỹ lúc đó vẫn còn ngây thơ tin rằng “ tổng thống VNCH Dương văn Minh có khả năng hoà hợp, hòa giải với VC “ để vãn hồi hòa bình cho VN. Cùng ngày, từ thủ đô Hoa Thịnh Ðốn, Kissinger đã gọi điện khẩn cấp sang Sài Gòn, ra lệnh cho đại sứ Martin phải di tản gấp. Từ đó, Martin mới cho lệnh đốn cây đa cổ thụ trước sân toà đại sứ vào lúc 11 giờ 01 phút, để làm bãi đáp cho trực thăng. Ðây cũng là thời gian, Martin gơi ý “ nhờ TT. Dương văn Minh giả bộ đuổi Mỹ trên đài phát thanh Sài Gòn “. Có như vậy siêu cường Hoa Kỳ mới chạy khỏi VN trong danh dự, đồng thời giúp TT Minh có chính nghĩa.
Nhờ bài bản xuất sắc, diễn viên ăn khớp, Martin đã cứu nước Mỹ phần nào bớt mất mặt trước đồng minh thuộc phe thế giới tự do, cũng như kẻ thù Liên Xô-Trung Cộng. Nhưng đồng thời Martin chính là người đã phá hỏng kế hoạch di tản, vì lúc chịu thi hành thì trời đã tối nên các tài xế xe bus đều nghĩ việc, khiến cho nhiều người có tên trong danh sách di tản không được đón. Ðể cứu vãn tình thế nguy cấp tồi tệ trên, tướng Smith đã cho các loại trực thăng nhỏ của hãng Air American đi bốc người thế xe bus.. nhưng đã quá trễ.
Ba mươi bảy năm về trước, người Sài Gòn làm sao quên được cảnh tượng hai ngày 29 và 30-4-1975, nếu có dịp đi ngang qua tòa đại sứ Hoa kỳ, kế toà đại sứ Pháp và nhà thờ Tin Lành, nằm trong chu vi các đường Hồng Thập Tự, Hai Bà Trưng và đại lộ Thống Nhất. Có thể gọi được là một biển người, đã tụ tập trước hai cánh cổng sắt vô tri của tòa đại sứ. Lúc đó người nào giơ hai tay lên cao, trong đó ngoài các giấy tờ còn có những nắm đô la dầy cộm, với những tiếng gào thét, van nài nghe thật là bi thiết não nuột, trước những cặp mắt gần như lạc thần lạnh lẽo của lính thủy quân lục chiến Mỹ. Ai cũng lăm lăm tay súng có gắn lưỡi lê, làm như đang lăm le sẵn sàng phanh thây xé xác bất cứ ai, muốn xé rào vượt cổng.
Cùng lúc quang cảnh phía bên trong khuông viên của tòa đại sứ cũng đâu có khác gì bên ngoài. Sóng người đang đùn ép, xô lấn, cấu xé với nhau để tới cho được chân tường, dẫn vào cầu thang lên sân thượng, nơi đoàn trực thăng dùng làm bãi đáp lên xuống, để bốc người ra chiến hạm. Màn đêm lúc đó như được Thượng Ðế ban thêm ân huệ, nên cứ kéo dài hơn, để cho những kẻ chờ đợi nuôi chút hy vọng mỏng manh trong cơn tuyệt vọng. Tóm lại đến giờ phút hỗn loạn đó, thì không ai còn cần chú ý làm gì tới danh sách nửa. Bốc người tại chỗ, có nghĩa là ai mạnh chen được tới trước thì đi, khiến cho hằng vạn người từng giúp Mỹ rất đắc lực như thơ ký, thông dịch viên, nhân viên tình báo, cảnh sát chìm.. cứ ngóng cổ chờ di tản, rốt cục sáng ra mới biết Mỹ đã đi hết rồi.
Ðể thi hành chiến dịch di tản bằng trực thăng, tướng tư lệnh Thủy Quân Lục Chiến Mỹ là Carey từ chiến hạm bay vào tòa đại sứ lúc 13 giờ 15 ‘ chiều 29-4-1975 và hạ cánh tại Dao. Cùng lúc có một Toán Không Lưu do thiếu tá KQ Dave Cox chỉ huy. Họ dọn dẹp sân thượng và chỉ dẫn đoàn trực thăng từ biển vào bốc người. Trong lúc đó súng cối và đại bác của VC quanh Sài Gòn nổ tới tắp.
15 giờ 06 phút chiều 29-4-1975, một đoàn 12 chiếc trực thăng Mỹ, chở TQLC do trung tá J.L Bowltan chỉ huy, thuộc Lực Lượng Ðặc Nhiệm 76 tới bố trí quanh Dao để giữ an ninh. Ðoàn trực thăng lên xuống bốc người không ngớt, mỗi chiếc chở một lần từ 50-60 người.
Nhưng cuộc di tản đã gặp trở ngại vì bãi đáp trực thăng trúng đạn pháo kích của VC bốc cháy. Trong lúc sự liên lạc giữa toán không lưu và các phi công cũng bi trục trặc vì máy truyền tin bị hỏng, còn trung tâm tiếp vận đài tại Sài Gòn hoàn toàn tê liệt.
Những giờ phút cuối, để giải quyết số người còn ứ đọng, Mỹ phải dùng các loại trực thăng lớn CH6 và H53 đáp ngay tại bãi đậu xe trước tòa đại sứ. Song song với trực thăng Mỹ, trực thăng của KQ/VNCH cũng bốc người ra đi từng đoàn. Thành phố đã bị cúp điện hoàn toàn từ 6 giờ 30 tốì 29-4-1975. Khắp nơi trời đất tối thui, dân đen thì run rẩy núp kín trong nhà để giữ mạng, phần lính tráng còn lại, từ quan tới thuộc cấp, ai củng cố chóng con mắt chờ sáng trong các giao thông hào, đợi phép lạ mà tổng thống Dương văn Minh đã hứa là sẽ tới vào sáng ngày 30-4-1975.
Sài Gòn đã chết từ đó, chỉ còn có tiếng quạt của các loại trực thăng gầm hét đinh tai điếc óc nơi khoảng không gian mà Mỹ còn làm chủ, nhờ sự bảo vệ của QL/VNCH trong giờ thứ 25 dưới đất. Ðây cũng là những lời thóa mạ cuối cùng của người Mỹ trước khi về nước, để lại nghìn đời trên xác chết chưa chôn của miền Nam VN trong thế kỷ XX.
Cũng lúc đó, nơi các nẻo đường vắng ngắt dẫn về thương cảng, bến tàu Sài Gòn, từng chặp từng chặp lai xao động bởi tiếng máy nổ ròn của đủ loại xe dân, lính.. xen lẫn đâu đó là các tràng súng ngắn. Lúc này bọn sĩ quan đào ngủ, bọn nhà giàu bất lương, bọn văn nghệ sĩ cà chớn một thời phá nát miền Nam.. cũng ôm đầu chạy trối chết, tới các bến tàu, để tìm đường vượt thoát cọng sản, trên các chiến hạm Hải quân và Thương thuyền đang hối hả nhổ neo ra khơi. Súng nổ, đạn cối rơi, hỏa tiễn xuyên phá, tiếng trực thăng gào thét.. như những giọt nước mắt trước cơn mưa thống hận VN, ba mươi bảy năm qua cũng vẫn là những hình ảnh và âm thanh , mà người Sài Gòn đã cảm nhận trước vài giờ, khi toàn thể non sông Hồng Lạc bị đắm chìm trong vũng bùn ô uế của xã nghĩa thiên đàng.
Ðúng 9 giờ tối đêm 29-1-975 cuộc di tản tại Dao kết thúc. Người Mỹ vội cho thiêu hủy toàn bộ những gì còn lại trong toà nhà này, mà một thời được coi như một tòa tiểu bạch ốc ở phương đông. Chiếc trực thăng cuối cùng cất cánh lúc 12 giờ đêm, bỏ lại đằng sau tòa nhà trong biển lửa.
Riêng tại tòa đại sứ Mỹ, sự di tản đã gặp rất nhiều khó khăn vì đèn không đủ soi sáng hiện trường, còn bãi đáp thì quá nhỏ không thích hợp cho các loại trực thăng lớn, Tuy nhiên việc bốc người vẫn được tiếp tục, từ 11 giờ đêm 29-4-1975 cho tới 3 giờ sáng ngày 30-4-1975. Sự liên lạc bằng vô tuyến giữa Sài Gòn và Hoa thịnh Ðốn cũng chấm dứt lúc 1 giờ 06 phút, khi trạm liên lạc vệ tinh tại Dao đã bị phá hủy. Ðể nối liên lạc giữa Mỹ và toà đại sứ, Không quân Hoa Kỳ phải thiết lập một trạm liên viễn thông vệ tinh trên chiếc C130, nhưng vẫn không mấy hiệu quả.
3 giờ sáng ngày 30-4-1975, bộ ngoại giao Mỹ ra lệnh cho tòa đại sứ Sài Gòn chấm dứt di tản nhưng Martin không chịu thi hành, vì lúc đó tại chỗ vẫn còn hơn 12.000 người chờ bốc ra chiến hạm. Tới 4 giờ 56’ sàng, chính Tổng thống Ford ra lệnh bằng điện thoại, bắt buộc ông đại sứ phải rời VN. Do không còn cách nào lựa chọn, Martin đành phải bỏ lại 420 người đang đợi, trong số người này có cả nhân viên của toà đại sứ Nam Hàn. Martin ra đi đơn độc với con chó nhỏ tên Nitnoy, trên chiếc trực thăng CH46, do Ðại Uý Thủy Quân Lục Chiến tên G.Berry lái.
Tù phút đó, chỉ còn lại toán lính TQLC Mỹ giữ an ninh tòa đại sứ. Họ rút hết vào bên trong tòa nhà, đóng cửa sắt và lên trên sân thượng đợi. Ðúng 7 giờ 30 sáng ngày 30-4-1975, trực thăng ngoài biển bay vào đón họ, chấm dứt sự hiện hữu lần thứ ba của người Mỹ trên nước VN, tính tròn 21 năm , từ lúc tướng Edward Landale của CIA đặt chân tới Sài Gòn. Tình đồng minh, đồng hướng và chiến hữu giữa VNCH cùng Hoa Kỳ, cũng chấm dứt từ đó.
Theo tài liệu được Mỹ công bố, thì tòa đại sứ và Dao ngày 29 rạng 30-4-1975 chỉ di tản được 7014 người, phần lớn không có tên trong danh sách được lập lúc ban đầu. Ðể hoàn thành công tác trên, người Mỹ đã xử dung trực thăng của Sư đoàn 7 Không quân và Hạm Ðội 7 tại Thái Bình Dương. Suốt thời gian chiến dịch, chỉ có một A6 bị mất tích, một trực thăng AH1J. Cobra rớt xuống biển và 2 lính TQLC Mỹ bị tử thương khi VC pháo kích vào Dao tại phi trường Tân Sơn Nhất.
Tuy người Mỹ đả chính thức rời Sài Gòn vào lúc 7 giờ 30 sáng ngày 30-4-1975 nhưng trọn ngày đó cho tới hôm sau 1-5-1975, nhiều trực thăng của Không quân VNCH khắp nơi bay tới Hàng Không Mẫu Hạm Midway, đang bỏ neo ngoài khơi Vũng Tàu để xin đáp. Vì có quá nhiều người, nên Mỹ đã phải xô nhiều trực thăng xuống biển, để làm bãi đáp cho các trực thăng tị nạn. Dù việc làm trên có thiệt hại hằng triệu mỹ kim nhưng cũng đã cứu vớt đươc nhiều chiến binh trong giờ phút cuối cùng, không còn một lựa chọn nào khác hơn, trong khi nước đã mất.
Ba mươi bảy năm trước hay bây giờ, người Mỹ cũng chỉ nghỉ đến quyền lợi của quốc gia mình mà thôi. Bởi vậy muốn đem quân vào VN, người Mỹ phải giết một tỏng thống dân cử của bản xứ. Rồi để rút quân an toàn về nước, khi đã đạt xong mục đích chiến lược kinh tế của mình, Mỹ lại dùng áp lực quân viện, để bắt buộc đồng minh của mình, ký vào một hiệp ước giả mạo phi luân. Cuối cùng dùng nó để bán đứng quốc gia VN, chôn vùi tương lai của dân tộc anh hùng trong vòng nô lệ của cọng sản đệ tam quốc tế., suốt thời gian từ đó tới bây giờ. Tất cả đúng như lời Sir R.Thompson đã viết năm 1989 trong tác phẩm ‘ Make for the hill ‘, đại ý ông nói rằng, sự sống của miền Nam VN đã bị bán đứng , vì cảnh cấu xé của nước Mỹ. Riêng Nixon, nhân vật chính đã cùng Kissiger đạo diễn tấn thảm kịch VN hôm nay, cũng đã viết những lời sám hối trong ‘ No More VietNam ‘.Ông viết rằng, tôi đã nhìn thấy những vấn đề nan giãi của hiệp định Ba Lê, nhất là sự thỏa hiệp, cho phép bộ đội Bắc Việt công khai ở lại và xâm lăng miền Nam . Nhưng đau đớn nhất, có lẽ là lời phát biểu của M. Gauvin, nguyên Ủy Viên Giám Sát Quốc Tế (ISCC) tại VN. Ngay khi thấy CS Hà Nội ngang nhiên xé bỏ hiệp định ngưng bắn mà chúng vừa ký kết chưa ráo mực, tấn công xâm lăng VNCH, bất chấp cả Hoa Kỳ và Liên Hiệp Quốc. Vì vậy ông đã viết bài đăng trên tờ The Times số 59362 ngày 5-4-1975 rằng, sự thất bại của VNCH đã bắt nguồn từ hiệp định Ba Lê, vì nó chẳng bao giờ phản ảnh được ý muốn và nguyện vọng của dân-nước VNCH.
Một thập niên sau ngày Mỹ bỏ chạy khỏi Sài Gòn trong đêm tối trên mái nhà, do những biến chuyển chính trị thế giới, quan trọng nhất là sự hòa hoãn giữa Nga-Hoa cũng như sự liên hệ của Mỹ và Trung Cộng có chiều hướng thay đổi. Ðể chiếm phần ưu tiên, người Mỹ lại tìm cách mon men trở lại Ðông Dương lần thứ 4 vào tháng 4-1985. Bởi vậy một phái đoàn cao cấp của Mỹ , do Richard Armitage cầm đầu, cùng với phụ tá ngoại trưởng Mỹ là Paul Wolfon Witz (đặc trách Ðông Á và Thái Bình Dương ), lần đầu tới Hà Nội, với chiêu bài ‘ tìm lính Mỹ mất tích và hài cốt quân Hoa Kỳ còn tại VN’. Sự kiện giằng co úp mở giữa hai nước, cho tới khi phái đoàn nghiên cứu Mỹ do cưu bộ trưởng quốc phòng Mc.Namara, sau khi thăm viếng Hoa Lục về, đã tiết lộ âm mưu Trung Cộng đang có dã tâm muốn trở thành bá chủ Á Châu và Thái Bình Dương. Vì thế Hoa Kỳ mới mở phòng liên lạc giữa hai nước vào ngày 3-2-1995 và nối lại bang giao năm 1996. Một Ðại Sứ Mỹ tại Hà Nội được Thượng viện Hoa Kỳ chấp thuận sau 22 năm chiến tranh chấm dứt, đã chính thức xác nhận sự bình thường hoá ngoại giao với VC.
Tóm lại lịch sử đã ngừng lại và quay tròn đúng vào thời điểm cũ trên đất nước tội nghiệp VN. Cả hai : Tài phiệt Hoa Kỳ và cọng sản đệ tam quốc tế cũng đều vì quyền lợi riêng tư của mình, nên muối mặt đổi thù thành bạn. Lần này không còn sử dụng được chiêu bài VN là tiền đồn chống cộng, nên người Mỹ đã công khai tới VN qua danh phận lái buôn lái súng. Hiện trong cộng đảng cầm quyền đã manh nha hai phe theo Tàu, theo Mỹ. Nhưng dù VN có theo phe nào chăng nửa, thì chắc chắn đất nước chúng ta cũng sẽ bị cuốn hút theo vết xe lịch sử, khi Trung Cộng công khai gây nên thế chiến lần thứ 4 tại Á Châu-Thái Bình Dương.
Ðọc và viết lịch sử, không phải để khóc hận than thân, mà là lấy đó làm một kinh nghiệm để hành động cứu nước trong thực tại và tương lai. Năm 1954, khi cọng sản đệ tam chiếm được miền Bắc, một số ít trí thức khoa bảng chạy vào làm trùm tại VNCH, nên họ chẳng hề biết gì về kinh nghiệm sống chung với VC. Ngày 30-4-1975, khi VC chưa vào Sài Gòn, số trí thức khoa bảng trên lại ù trốn chạy sang Mỹ hay ngoại quốc. Họ không hề biết thế nào là sự đổi đời của phận người xuống hàng súc vật. Ở ngoại quốc vì quá tự do cái miệng, nên vẫn chứng nào tật đó, coi sự hiểu biết của mình qua mớ bằng cấp có được (thật hay dõm đâu ai biết ?) ngang hàng với lãnh tụ, muốn ai cũng phải theo ý và đứng sau lưng mình. Họ vì không sống thật với lịch sử nên chẳng bao giờ có kinh nghiệm lịch sử, vẫn ảo tưởng xây lâu đài và chức phận trên cát biển, vẫn ngây thơ muốn hòa hợp hòa giải, với một đảng cướp tàn bạo bất lương, qua tám mươi năm chỉ lừa bịp lường giết đồng bào và ban nước mình mà thôi. Tệ nhất là những ngài trí thức và gia đình mình, lúc nào cũng thích sang giàu hạnh phúc nơi thiên đường Âu Mỹ, mà mồm thì luôn xuí người khác, nếu đi hết biển, thì phải trở về để làm nô lệ cho cọng sản .
Cũng may bọn người này không nhiều và ngày nay hầu hết đều giống như những bình vội gìà nua, mà Phan Khôi từng ví với bọn cán ngố miền Bắc trong tác phẩm ‘ Trăm Hoa đua nở ‘, chỉ nổ trên giấy hay nằm trơ trọi trong góc đời hiu quạnh về chiều..
Thảm thê cho thân phận nhược tiểu VN -/-
Từ Xóm Cồn Hạ Uy Di
Quốc Hận 30-4-2012
MƯỜNG GIANG
TÀI LIỆU THAM KHẢO :
- Bí mật Dinh Ðộc Lập (TS Nguyễn Tiến Hưng)
- Larry Engelmann (nước mắt trước cơn mưa, bản Việt của Nguyễn Bá Trác).
- Không hòa bình, chẳng danh dự (Larry Berman, Nguyễn Mạnh Hùng dịch).
- Những ngày cuối cùng của VNCH của Nguyễn Khắc Ngữ..
- Báo chí hải ngoại (PNDD, KBC, Tiền Phong, Hồn Việt..)
-Khi Ðồng Minh tháo chạy của Nguyễn Tiến Hưng
- Chiến sử VNCH của Phạm Phong Dinh
- Chiến tranh VN toàn tập của Nguyễn Ðức Phương
-Thân Phận Người Lính VNCH của MG
-Tôn vinh Cuộc Chiến Đấu Thần Thánh Của QLVNCH (Phạm Kim Vinh)
-Đơi Dòng Ghi Nhớ (Phạm Bá Hoa)..

Saturday, April 26, 2014

Quốc Hận 30 tháng 4 năm 2014 / Nam California

Tương Đài Chiến Sĩ Việt Mỹ chiều ngày 26 tháng 4 năm 2014


Nghi thức chào Quốc Kỳ khai mạc buổi lễ 

Hàng ngàn đồng hương đã đến tham dự Quốc Hận 30 tháng 4

Chào Quốc Kỳ VNCH và Hoa Kỳ 


Chris Phan Nghị Viên Garden Grove và Thương Phế Binh TQLC/VNCH



Roxanne Chow đang tiếp chuyện với TPB/TQLC

NT Nguyễn Văn Ức, Cựu Đại Tá Cổ Tấn Tinh Châu và Bà Hạnh Nhơn


Hơp Ca Chiến Sĩ Vô Danh sau phần một phút mặt niệm 

Vòng Hoa Tưỡng Niệm 30-4




City Officials