Wednesday, January 30, 2013

NGÀY ĐÓ ĐẾN VỚI TÔI

 
30 tháng 4, ngày nầy 37 năm về trước, như một cơn “Đại Hồng Thuỷ”, Cộng Sản Đỏ miền Bắc xua quân vượt vùng  giới tuyến với đại “cuồng binh” trang bị xe tăng, thần công súng lớn súng nhỏ đủ loại khí giới giết người, huỷ hoại những cái gì tốt đẹp và đời sống thanh bình, đem đến cho dân miền Nam những tang tóc, đổ nát, chia lìa...Một ngày đau buồn khốn khổ nhứt cho đại gia đình miền Nam. Hàng triệu người dân phải từ bỏ tất cả tung ra những cuộc di cư tìm một thế giới tự do; biết là một sự mạo hiểm đầy gian nguy nhưng họ vẫn thử thách với số phận. Có người may mắn đến được bến bờ Tự Do, ngược lại phải bỏ mình trên Biển Đông hoặc trong mảnh đất hoan du rừng sâu nào đó trên hành trình. Số phận những người còn kẹt lại trong nước đã phải gánh chịu một sự trã thù vô cùng tàn nhẩn. Cộng Sản dùng từ “ mỹ miều”, để che đậy cái “ác tâm” mà chúng gọi là “đăng ký học tập ngắn ngày”. Học tập ở đây chỉ là bị chúng bỏ tù biệt xứ, đài đoạ, lao động khổ sai trong đói khát, không thuốc men khi bịnh tật, khác nào một sự “trả thù”! hèn.
30 tháng 4 nầy nhớ về ngày 30.4.75. Là những người may mắn thoát khỏi Cộng Sản Đỏ; chúng ta hãy cùng dành một phút nghiêng mình mặc niệm tưởng đến các vị danh tướng anh hùng, đã noi gương “Võ Tánh” tử tiết theo thành, đến các chiến sĩ anh hùng cầm súng chiến đấu thà chết không hàn giặc Cộng, đến các đồng bào gan dạ thà hy sinh mạng mình còn hơn sống với Cộng sản.
Chúng ta nguời dân Việt Nam đang có đòi sống TỰ-DO trên thế giới hãy lên án “những kẻ vô liêm sĩ" đã từng bị giặc Cộng rượt đuổi trốn chui nhủi, được thần Tự Do ra tay nâng đở cho được một đời sống sung túc hạnh phúc, nay quây lưng trở mặt với chúng ta, vì chút lợi nhuận, đi tưng bóc hùa theo Cộng Sản, ca ngợi ngày nầy, (30/4) là ngày “chiến thắng”. Nhứt là số nam nữ ca sĩ, doanh thương qua đường văn nghệ, họ vì tiền bạc mà quên đi cái ngày nào bị Cộng Sản lên án, phân biệt “nhạc xanh nhạc vàng”, văn nghệ đồi truỵ, bây giờ có ca sĩ vát mặt đến ca tụng cái “nghĩa địa hoành tráng” của Cộng Sản, mà không hổ thẹn.
Vô luân thay! Cho những kẻ “phản bội” nầy, lại ngu muội “nghe những gì Cộng Sản nói”.
     Kính mời quí vị xem tiếp: Cộng Sản đã thí mạng bao nhiêu sanh linh, để đổi lấy Tỉnh Kontun-Pleiku (Vùng 2) để mở đường tấn công chiếm lấy miền Nam thân yêu của chúng.ta.
 
 
Công Tác Pleiku
 
Rời Phù Cát từ sáng sớm, đoàn tăng cường thêm 2 chiếc xe (GMC), lấy từ Phù Cát, theo Quốc Lộ (QL) 19 lên An Khê, trên đường còn lưu lại nhiều dấu vết chiến tranh, nhiều nhà bị vết đạn trên tường, xác xe nhà binh bị đốt cháy nằm ngả nghiêng bên lề đường.
An Khê nằm trên QL 19, giữa Quy Nhơn và Pleiku, là một địa điểm chiến lược quan trọng trong thời chiến tranh. Quân Lực Hoa Kỳ lập một căn cứ lục quân, Sư Đoàn Đệ Nhứt Kỵ Binh đóng tại đây vào năm 1965, đến năm 1968, Lữ Đoàn 173 Dù Hoa Kỳ tiếp tục đóng chốt tại đây để ngăn chặn sự xâm nhập của quân đội Cộng Sản Bắc Việt xuống miền biển và đồng bằng. Từ trên cao nhìn xuống căn cứ còn thấy được đường bay và vô số doanh trại nằm phía dưới triền đèo.
Qua An Khê, đường tiếp tục đi lên, lên cao dần, xuyên qua nhiều vách đá núi. Khí hậu trở nên lạnh hơn, càng lên cao, càng thấy nhiều dấu tích tàn phá, huỷ hoại của cuộc rút quân khỏi Pleiku vừa qua. Bây giờ, chúng tôi bắt đầu lên xứ Thượng. Đường lên vùng cao có nhiều thung lũng và cầu bắc qua suối, phần nhiều cầu hư hỏng, ván lót bị long lở, hoặc bị mất, gãy gập ghềnh. Mỗi lần đi qua, phải thật hết sức cẩn thận, cứ lên non cao rồi lại xuống ghềnh là một con suối chạy ngang, một lần đang đ đèo, xe đang ngon trớn tuôn xuống gần hết đèo, bất ngờ, trước mặt chúng tôi là một cây cầu không còn ván lót, chỉ còn hai khung thành cầu chơ vơ trên con suối, tất cả chúng tôi đều hốt hoảng, vì với sức tuôn mạnh của xe đang đổ dốc ngon trớn mà đâm ầm vào thành cầu, lọt xuống suối, chắc không còn ai có thể trở về với vợ con, anh tài xế rà chân vào bàn thắng, tiếng xe gầm, lẫn mùi khét của bố thắng bốc khói, còn độ vài thước là đụng đầu cầu, anh tài xế nhanh mắt, bẻ tay lái sang lề phải vô đám rừng thưa, thì ra, ở đây đã có một con đường mòn vừa vặn cho chiếc xe tuôn vào. Cành cây, chồi quẹt vào thành xe bần bật, xe chậm rãi chạy bình thường, từ từ lăn bánh trên cát, băng qua suối, theo vết của những người đi trước, lên lề an toàn. Thật may mắn, thoát được hiểm nguy, chúng tôi ra khỏi xe, thở phào thư thả, mọi căng thẳng vừa rồi đã tạm qua, anh trưởng đoàn đến vỗ vai khen ngợi anh tài xế vài lời rồi mời anh điếu thuốc lá.“Hành khách”, chúng tôi tìm chỗ ngồi tựa nghỉ lưng, phì phà thuốc lá, trong khi anh tài xế chui xuống gầm xe, kiểm tra an toàn để còn phải tiếp tục leo đèo nữa.
Chợt đâu trong bụi rừng chồi, từ hướng suối đi lên, một người đàn ông Thượng, da đen xạm, chỉ đóng chiếc khố, người để trần, tay xách một con cá giống loài cá bông ở miền đồng bằng, tay kia anh cầm một cái “nôm”, chúng tôi vây quanh vừa xem cá, vừa xem người, đó là một con cá thật lớn, mà tôi chưa từng thấy bao giờ, nó to gần bằng bắp về người thường, một anh bạn tôi hỏi:
     - Có bán không?
     Với giọng miền Thượng “lơ lớ”, anh ta đáp:
     - Không bán! Không bán, đổi muối!
     Sau khi anh tài xế, kiểm tra xe xong, đoàn cũng đã tranh thủ …giải khát, lót lòng, chúng tôi tiếp tục lên đường, xe chạy không xa bao lâu bắt kịp người Thượng lúc nãy, tay vẫn xách con cá nặng nề, qua khỏi khu rừng chồi đến một cánh đồng láng, một làng của dân Thượng, đồng loạt nhà sàn sát nhau, mái chóp cao, vách tháp bằng nẹp tre mây, một cái thang bắt ngay cửa ra vào để đi lên xuống, vài đứa bé trần truồng chạy đùa giỡn, cạnh cái cầu thang, hai cô gái Thượng, vào tuổi cập kê, đang cùng nhau giã thóc trong một cái cối bằng hai cái chày gỗ, ngực trần, đôi “non bồng" cùng nhịp nhàng theo động tác lên xuống.
          Anh bạn ngồi cạnh chợt hỏi tôi:
     - Đố bồ, tại sao mấy cô gái đó để trần
- Nóng nực
          - Không phải đâu, người Thượng có phong tục là “xấu che, tốt khoe”, mấy cô chưa chồng, họ tự hào là “của” họ đẹp, còn mấy người đã có chồng, có con, họ cho là xấu nên đem giấu đi, khác với dân miền quê của tụi mình, có con đem ra ngoài sân, ngoài ngõ, vác vú cho con bú. Còn độc hơn nữa là mấy bà mê "ông Tướng" (bài Tứ sắc) đang trong cuộc chơi, có cả đàn ông mà mấy bà cũng vạch vú cho con bú, rất tự nhiên.
     - Vậy chắc mấy ông thua "Đứt Chến"!
     Trong xe, mọi người lục đục tìm áo ấm mặc thêm, xe bắt đầu nặng nề leo dốc, tiếng máy nổ gầm gừ to hơn, bây giờ thì đi lên, đường rất nguy hiểm, nhiều khúc quẹo rất nhặt, hai bên vách núi càng lên cao, càng cảm thấy lạnh hơn, gió và khí lạnh bắt đầu thổi đến, gió giựt từng cơn tạt rào rào qua khung cửa xe đóng kín. Chúng tôi lên đến đỉnh cao nguyên, ngọn núi cao Mang-Yang là một huyện thuộc Tỉnh Gia Lai- Kontum, dân số độ 45,000 phần đông là người thiểu số, Gia Rai và Barma, có diện tích 1,226 Km2. Tên Mang-Yang có từ tiếng người Gia Rai (có nghĩa là Cổng Trời). Mang-Yang nơi thường xuyên bị địch phục kích đánh trộm, bên đường còn nhiều xác xe nhà binh, xe đò, xe dân sự, nằm nghiêng ngửa bên triền núi.
          Lợi dụng địa thế hiểm hóc này, nơi đây quân đội Pháp cũng có nhiều lần bị phục kích, lần nặng nhứt vào ngày 24-7-54. Một trung đoàn quân đội Pháp được lệnh từ bỏ đồn An Khê, rút về Pleiku. Đoàn công-voa di chuyển trên Quốc Lộ 19, lên đèo Mang Yang, cách Pleiku khoảng 80km bị Việt Minh phục kích, chận đường nơi cây số 15, trận chiến diễn ra trong 5 ngày, quân đội Pháp chống trả quyết liệt, để giải vây, mở đường tiến về Pleiku, suốt con đường dài 55 km dầy đặt quân Việt-Minh, sau 5 ngày trung đoàn binh Pháp thua nặng số binh sĩ còn sống thoát chạy về Pleiku. Hiện nay quanh ngọn đồi nầy có nhiều “am thờ cô hồn” cho  những người đã chết trong hai lần chiến tranh
          Chúng tôi an toàn qua khỏi đèo Mang-Yang đang tiến dần đến Pleiku, nếu không biết trên đỉnh núi cao vút kia đang có một thành phố thì chắc chắn không bao giờ tôi có thể tưởng tượng được là có sự sung túc của một thành phố. Từ dưới nhìn lên chỉ thấy một phong cảnh đẹp như trong tranh vẽ của một hoạ sĩ lừng danh, từng chùm mây trắng đục như khói sương vần vũ trên đỉnh núi chen lẫn với rừng thông xanh mượt trải dài theo triền núi. “Ôi! đẹp làm sao”. Một thành phố núi cao, thành phố đầy sương, quả là một nơi tuyệt vời cho những ai muốn sống gần thiên nhiên.
          Pleiku một thành phố nằm trên đồng bằng của những ngọn núi cao ở Trung Tâm Tây-Nguyên, Trung Phần Việt Nam thuộc tỉnh Gia Lai-Kuntom, cao hơn mặt biển 750m, có mặt bằng là 261 km2, nằm trên trục lộ đường Liên Tỉnh 19, hướng Đông giáp Tỉnh Bình Định, hướng Tây giáp nước Cambodia và đường Liên Tỉnh 14, hướng Bắc giáp Kontum và hướng Nam giáp Ban-Mê-Thuộc, có dân số là 186.763 người, sắc dân chính là người Kinh, Balma, và Jarai.
          Sau hơn một giờ đoàn xe chúng tôi đi vào cửa ngõ thành phố, nhằm tháng Mười trời cuối Thu nên đêm xuống mau. Những tia nắng chiều ẻo lả vẫn còn đủ cho chúng tôi nhìn quanh thành phố là một vùng đẹp của quê hương, cây xanh đang chuyển mình thay lá, những chiếc lá úa vàng hồng nhiều màu sắc một cơn gió vô tình cuốn lá rơi lã chã trên đường phố vắng người qua lại. Đánh một vòng qua cái giếng nước (fountain), trên con đường chánh của thành phố, những cây phượng vĩ cũng đang chuyển mình thay lá với cành còn đầy nụ hoa đỏ, giống những chiếc tàn lọng to vươn ra như đôi tay khổng lồ dang rộng che chở cho mái Nhà Thờ Thiên-Chúa cao ngất nóc hình chữ “V” ngược, xây cất theo kiểu Châu Âu vào thời Pháp Thuộc.
          Đoàn xe ra ngoại ô đi về hướng Phi Trường Cù Hanh, cách thành phố 10km, dọc hai bên đường nhìn thấy nhiều trái xu-xu xanh mướt lủng lẳng đeo theo những dây leo kết chằng chịt quanh hàng rào. Nhà nào cũng có trồng xu xu, đu đủ, đậu rồng trái to, nơi đây (Pleiku) đất đỏ và dẻo mưa trơn trợt như trét “mỡ bò” lại rất thích hơp với loại rau trái nầy, người ta nói “chỉ cần bỏ hột giống xuống tự nó mộc lên và sinh quả”. Đi ngang qua một vườn trồng khoai mì (sắn), có lẽ đang đúng mùa thu hoạch, vô số thân cây bật gốc nằm ngả nghiêng trên mặt đất, nhìn cảnh nầy nhắc tôi nhớ lại lời của một anh cố vấn “xây dựng nông thôn” lúc làm công tác về miệt thôn quê ở Xã Hiệp Hoà, Biên Hoà, anh nói: “Đất ở xứ nầy tốt lắm , chỉ cần cắm một cái "que" xuống là có ăn”. Ý anh nói “que” ở đây là một khúc thân cây khoai mì (sắn).
          Xe chúng tôi tiếp tục đi về hướng phi trường, trước mặt chúng tôi từ xa, bốn giàn ‘radar” có hình bầu dục, trắng như bạch kim, to lớn khổng lồ sừng sững vượt lên như thi đua cùng núi cao, phản chiếu ánh nắng mặt trời lấp lánh như hàng vạn tấm gương phát ra ánh sáng lập loè. Ngừng xe ngay trước cổng phi trường, anh bộ đội nhảy xuống làm thủ tuc an ninh; nhìn qua cửa sổ, bỗng tôi thấy có bốn thanh niên trên người chỉ mặt cái quần “xà lỏn” che thân, họ đang ngồi  chồm hổm hai cùi chỏ gác lên hai đầu gối, đầu cuối thấp, thân người co cụp lại để tránh những mũi nhọn kẽm gai đang lởm chởm trên đầu và chung quanh họ, các anh nầy bị nhốt trong cái rọ “hay chuồng cọp” chiều cao độ một mét, ở giữa ban ngày nắng nóng, đêm xuống thì rất lạnh  của núi rừng Cao Nguyên. Tại sao họ lãnh cái hinh phạt tàn nhẫn như thế! Giữa người với con người sao nỡ đối xử tàn tệ như thuở còn man di, lạc hậu! Chúng tôi chỉ biết nhìn họ mà ái ngại, tội nghiệp, không ai dám mở lời hỏi tai sao?
 
     (Phi Trường Pleiku còn có tên gọi là Phi Trường Cù Hanh. Vào thời gian Cộng Sản Bắc Việt mở màn những đợt phá hoại, tung ra nhiều trận tấn công lớn vào miền Nam Việt Nam. Vào năm 1962, Phi Trường Pleiku là Căn Cứ 62 Phi Đoàn Quan Sát của Không Quân Việt Nam, với loại phi cơ L19 Cessna, tình hình chiến tranh ngày càng leo thang, đến 1964, một phân-đoàn chiến đấu cơ A1 Skyraiders từ phi trường Biên Hoà được đưa ra yểm trợ. Từ đấy, Căn Cứ 62 được tăng cấp số lên gọi là: Không Đoàn Tác Chiến 62.
 Binh đội Cộng Sản Bắc Việt càng tăng cường, xâm nhập vào miền Nam qua biên giới Lào, Cambochia. Pleiku là tuyến đầu chận sự tràn qua biên giới của quân Cộng Sản Bắc Việt. Do đó phi trường được nâng cấp, bành trướng lớn hơn. Không Quân Hoa Kỳ xây lại mặt bằng nối dài đường bay lên 1,829m, và các hạ tầng cơ sở được xử dụng chung giữa Không Quân Việt Nam  và Không Quân Hoa Kỳ.
          Ngày 6-2-1965, phi trường bị tấn công, pháo kích nặng, cộng quân bám sát vào hàng rào phi trường, nhưng bị hoả lực phòng thủ vòng đai chận đứng. Không có trận nổ súng nào mà không đổ máu. Kết quả Không Quân Hoa Kỳ bị 9 tử trận, 128 bị thương. Thua keo này, VC bầy keo khác, chỉ chực ăn tươi nuốt sống Pleiku, vì nơi này là một chướng ngại lớn cho ý đồ đưa binh đội Bắc Việt đi xuyên qua Lào và Cambochia, theo Đường Mòn Hồ Chí Minh (xưa Việt Minh gọi là Đường Trường Sơn) tràn xuống đồng bằng và tiến xa hơn nữa là vào miền Nam. Quan sát tình hình chuyển động quân sự của Bắc Việt quanh vùng, Cố Vấn Trưởng của Vùng II, Quân Đoàn II Chiến Thuật và Trung Tướng Ngô Dzu, Tư Lệnh Quân Đoàn II cho biết tình hình trở nên nguy kịch trầm trọng, Cộng Sản Bắc Việt điều động đến khoảng 60,000 quân di chuyển vào vùng tam biên “Việt-Miên-Lào”, dùng chiến thuật “biển người” công đồn, đả viện để biến Cao Nguyên và Kontum thành một Điện Biên Phủ thứ II, ông John Paul Vann, Cố Vấn Quân Sự Cao Cấp của Hoa Kỳ tiên đoán: “Cộng Sản sẵn sàng hy sinh 10,000 binh để chiếm cho được vùng Cao Nguyên, trận chiến sẽ trải dài từ thành phố Kontum đến Pleiku, tràn đến Bình Định…
             Mở màn cho ý đồ nầy, Cộng Sản Bắc Việt chọn một ngọn đồi cao nhứt trong vùng là Đồi 937. Sau tổng tấn công Tết Mậu Thân (1968), Bắc Việt đưa binh đội chính quy vào Cao Nguyên Trung Phần Việt Nam, chiếm những ngọn đồi cao nhứt để làm căn cứ chiến lược, ngọn 937, cao 937 mét, tính từ độ mức mặt biển, đứng riêng rẽ với các ngọn đồi khác, ngọn đồi này được bao quanh bởi những rừng cây dày đặc và tre rừng cao ngất trời, vì thế mà nơi đây rất khó dò tìm được mục tiêu, là một địa hình rất thuận lợi để lập căn cứ. Biết được ý dồ của Bắc Việt, quân đội Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hoà mở cuộc hành quân tiểu trừ.
           Sau lần đụng trận đầu tiên với binh Cộng Sản, do địa hình nhiều cây cao không tiện cho trực thăng vận đổ quân, vì vậy quân đội đồng minh Hoa Kỳ và Việt Nam phải bám lấy địch quân từng bước từ dưới chân đồi tiến lên, những trận chiến đấu cày răng lược, giáp lá cà... quyết liệt đến tàn nhẫn. Được sự yểm trợ mạnh của pháo binh và oanh tạc cơ, sau 15 ngày chiến đấu Cộng Sản rút binh chạy sang biên giới Lào. Đại đội C (Charlie là mật mã liên lạc qua vô tuyến) tiến chiếm ngọn đồi đầu tiên, lấy tên “Charlie” đặt cho Đồi 937. Kiểm điểm sau cuộc chiến tìm thấy: 65 xác binh sĩ Bắc Việt rải rác quanh vùng, nhiều nón cối, súng AK47, lựu đạn chày và nhiều cuộn băng cứu thương đẫm máu; vô đến trung tâm đồi đếm được 15 binh Bắc Việt chết treo lửng lờ từ ngọn cây, những người nầy là xạ thủ đại liên, bị xích chân vào súng lớn. Sau khi kiểm điểm ngọn đồi có tất cả 633 xác chết binh Bắc Việt, nhưng không thể đoán biết đươc bao nhiêu người bị thương được mang đi, và số người chết vùi dập bởi đại pháo làm sập hầm trú ẩn. Thiệt hại về phía Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hoà :73 người chết, 372 người bị thương. Sau khi làm chủ ngọn đồi, quân đội Hoa Kỳ còn đặt thêm một tên cho ngọn đồi là “Hamburger”.
          Trận chiến thắng đồi Charlie đã chứng tỏ sự vững mạnh của quân lục Việt Nam Cộng Hoà và Đồng Minh Hoa Kỳ, nhưng trái lại đã gặp không ít khó khăn ở truyền thông báo chí và Quốc Hội Hoa Kỳ, gây trong dân chúng Hoa Kỳ có phản ứng không tốt cho sự chiến đấu chống Cộng Sản ở miền Nam Việt Nam. Do nhiều áp lực, nên Tư Lệnh Quân Lực Hoa Kỳ ở Việt Nam quyết định bỏ Đồi Charlie, bàn giao lại cho Liên Đoàn 81 Biệt Kích Dù, từ đây đảm đang việc phòng thủ giữ Đồi Charlie.
          Cộng Sản vẫn nuôi mộng đánh  chiếm vùng Cao Nguyên Trung Phần để làm bàn đạp đánh xuống vùng đồng bằng, kế đó là miền Nam Việt Nam. Vào đầu tháng 2 năm 1972, binh Cộng Sản Bắc Việt theo con đường mà chúng đã mở sẵn từ tam biên (Việt-Miên-Lào) xuyên qua vùng đồi núi phía Nam đồn Tân-Cảnh, cách QL14 độ 2km để tiến về Quân Đoàn II. Trong lúc nầy tình hình mặt trận Tây Bắc tỉnh Tây Ninh bị áp lực mạnh của Cộng Sản và An Lộc đang bị địch bao vây, nên Liên Đoàn 81 Biệt Kích Dù được điều động về giải vây. Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn II  xin tiếp viện, Sư Đoàn Dù phái Tiểu Đoàn 11 Dù, chỉ huy bởi Trung Tá Nguyễn Đình Bảo lên thế chổ trấn thủ Đồi Charlie. Binh Cộng Sản đoán được sự phân tán lớn của Quân Đội Việt Nam Cộng Hoà, chúng liền cho mở mặt trận tấn công thăm dò, chiến sĩ VNCH ở đồi Charlie phải nhiều ngày oanh liệt “cắn răng” giáp chiến chống lại với chiến thuật “biển người” của binh Cộng Sản Bắc Việt, cố gắng giữ vững căn cứ. Nhưng cuối cùng, tất cả đã vĩnh viễn ở lại Charlie với cố Đại Tá Nguyễn Đình Bảo, vị chỉ huy trưởng anh hùng cùng nằm lại với các chiến sĩ anh em đã anh dũng hy sinh.
          Sau Charlie, binh Cộng Sản tiếp tục trên đường tấn công, nằm trong chiến dịch “Mùa Hè Đỏ Lửa”. Sư Đoàn 2 Cộng Sản được yểm trợ bởi chiến xa T54 ào ạt mở trận chiến vào hướng Tây của Bộ Tư Lịnh Tiền Phương của Sư Đoàn 22 Bộ Binh tại Tân Cảnh cách biên giới Viêt-Miên-Lào 5km, là nơi mở màn “Chiến Dịch Mùa Xuân" của Bắc Việt Cộng Sản. Mưa pháo 82 ly, hoả tiễn 122 ly kéo dài hơn 3 tiếng đồng hồ, lúc 10:30 sáng ngày 23-4-72 thì hầm chỉ huy hành quân bị trúng hoả tiễn, hệ thống điều khiển chỉ huy bị thiêu huỷ, nhiều sĩ quan chỉ huy bị thương nặng, đến 11:00 giờ đêm, cánh quân tiền phương của Cộng Sản bị Sư Đoàn 22 Bộ Binh phát hiện, cách Đakto 1km, có 3 chiến xa T54 yểm trợ, lập tức yêu cu Phi Trường Nha Trang cho tăng cường phi cơ hoả lực (ÁC130 gunship) lên bắn cháy tất cả chiến xa T54 của Cộng Quân nhưng vẫn không chận được sự tấn công của binh Cộng Sản. Đến nửa đêm, độ một trung đoàn ( độ trên 2.000 ) binh Cộng Sản ào ạt tràn vào tiền đồn Tân Cảnh, mặt khác một trung đoàn binh Cộng Sản thứ hai xuất hiện cách Tân Cảnh độ 3 km về hướng Tây Bắc, chúng tiến hành đánh chiếm QL14 cắt đường giao thông giữa Dakto và Tân Cảnh làm bốn đoạn, khiến cho sư liên lạc giữa hai thành phố bây giờ chỉ nhờ vào  máy vô tuyến. Mặc dầu thời tiết xấu các phi cơ chiến đấu Skyraider A1E, A37 xuất phát từ Phi Trường Cù Hanh lên oanh kích Cộng Quân đang chiếm giữ QL14. Gần sáng Cộng Quân vừa pháo kích vừa xua quân vào Đồn Tân Cảnh, gặp phải hoả lực mạnh của các chiến sĩ Trung Đoàn 42  mãnh liệt chống trả, nhờ vậy Tân Cảnh đứng vững đến khi trời sáng. Trời sáng sương mù nhiều lại thấp không thuận lợi cho phi cỏ yểm trợ. Trước tình thế quân địch quá đông, về phía ta thì bất lợi vì thời tiết xấu, tướng Ngô-Dzu ra lệnh di tản chiến thuật Đồn Tân Cảnh và các đồn phía Tây QL 14. Cùng với đông bào lui về tái lập giới tuyến cách Kontum 20 km, chiến đấu dũng cảm của Trung Đoàn 42 Bộ Binh đẩy lui nhiều đợt tấn công “biển người” của Cộng Quân với khối bộ binh gấp ba lần và thêm 60 chiến xa T54 yểm trợ. Trận chiến kéo dài suốt 24 tiếng đồng hồ không ngừng nghỉ; ở Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 2 liên lạc được với căn cứ đến 8:00 tối ngày 24-4-72 thì mất liên lạc. Một số quân sĩ thoát khỏi quận Dakto về cho biết Căn Cứ Tân Cảnh đã bị Cộng Sản tràn ngập đêm 24 tháng 4 năm 1972. Sau khi hai quận Dakto và Tân Cảnh bỏ ngỏ cho Cộng Sản, thành phố Kontum càng bị áp lực nặng nề của quân Bắc Việt; con đường QL 14 nối liền giữa Kontum và Pleiku bị cắt đứt, Kontum bị cô lập, thiếu dầu thiếu điện, lương thực tiếp tế không đến được, phi cơ không đủ để chuyển lương thực, ngày càng khó khăn dân chúng phải di tản về Pleiku bằng phi cơ và đường bộ cách giữa Kontum và Pleiku 45 km
           Lần lượt Cộng Sản Bắc Việt chiếm các căn cứ quan trọng tiền đồn phòng thủ Kontum và Pleiku. Muốn tiến chiếm Kontum và Pleiku thì chúng phải triệt hạ một chướng ngại vật lớn là: Lệ Khánh, căn cứ nầy còn có tên là (Polei-Kleng). Lệ-Khánh là tên một con đồi lớn, nằm về phía Tây Bắc, cách Thành Phố Kontum khoảng 22 km, chung quanh Đồi Lệ-Khánh có những đồi thông khác, nằm rải rác, tạo nên một khung cảnh thật thơ mộng. Để ngăn ngừa áp lực của Cộng sản đối với Kontum và Pleiku, trên đồi Lệ-Khánh quân đội Hoa Kỳ đặt một căn cứ hoả lực kiên cố. Doanh trại căn cứ xây theo hình tam giác, có một hệ thống giao thông hào chìm lẫn nổi, có 13 lô cốt phòng thủ quanh trại, căn cứ Lê Khánh có chức năng chận đứng mọi xâm nhập của Cộng Quân từ biên giới Việt-Miên-Lào qua con đuờng Mòn Hồ Chí Minh. Vì vậy, bất cứ giá nào CS Bắc Việt cũng quyết tâm san bằng Lệ Khánh. Cộng Quân Bắc Việt khơi mào tấn công Lệ Khánh vào những ngày đầu tháng 5/72 bằng những trận pháo không ngừng nghỉ, với những đại pháo 82 ly và 122 ly, suốt tuần dồn dập rót đại pháo vào đồn Lệ Khánh.
Đến ngày 7-5-72 cộng quân tăng cường độ pháo kích nặng hơn, từ 8:00 sáng đến nửa đêm, chúng chuyển sang tấn công ở sườn phải vòng đai. Biệt động quân giữ vững vị trí, đánh trả nhiều đợt tấn công trong đêm, đến sáng Cộng binh lui binh để phục hồi lực lượng, b lại trên 300 xác treo rải rác quanh vòng đai phòng thủ. Sau một giờ kiểm binh, cộng quân tăng cường, tấn công tới tấp. Lần này, chúng dùng đại pháo 105 ly, rót hàng ngàn quả vào căn cứ hàng nhiều giờ, trước khi thả 20 chiến xa T54 yểm trợ bộ binh tấn công căn cứ. Mặc dù đã hết sức mệt mỏi, sau nhiều giờ chiến đấu không nghỉ, Biệt Động Quân sẵn sàng với M-72 chống chiến xa, đợt tấn công lần 2 này có 5 chiến xa T-54 bị bắn cháy, nhiều xác cộng quân ngã gục tại chỗ. Lần nữa cộng quân tháo lui, chiến trận giằng co mãi đến 20 ngày, binh sĩ BĐQ phải sống ẩn núp dưới những giao thông hào chìm để tránh mưa pháo liền tay của binh CS. Quang cảnh đồi Lệ Khánh không còn được đẹp như tranh vẽ của trời Cao Nguyên nữa, căn cứ Lệ Khánh bi bầm dập thành mảnh bởi đạn pháo của cộng quân, kho đạn của đồn bị trúng pháo nổ tanh banh, trung tâm hành quân xụp đổ, những binh sĩ BĐQ vẫn cô đơn kiên cường chống giặc, lương thực, nước uống dự trữ chỉ dùng đủ 3 tháng. Căn Cứ Lệ Khánh hoàn toàn bị cô lập, không tiếp tế, không tải lương được. Biệt phòng BĐQ vẫn chiến đấu, ai bị thương nặng thì nằm bệnh xá, còn cầm súng được vẫn tiếp tục bắn địch quân, vợ con binh sĩ cũng tham gia chiến đấu, người tay súng, người tải thương, người tải đạn, người quan sát canh phòng, v.v.
Cả tháng trời, Lệ Khánh không có ban đêm, khi mặt trời vừa khuất bóng, những trái hoả châu thả xuống liên tục soi sáng cả một vùng quanh căn cứ, một tiểu đoàn pháo binh của Sư Đoàn 22 bộ binh bên kia sông Poko bắn pháo yểm trợ cánh quân trụ phòng chỉ độ 20km, xác địch quân rải dãy hàng rào phòng thủ hơn 20 ngày trước, giờ thì sình thúi, pha trộn mùi khói thuốc súng, làm cho căn cứ nặc nồng mùi tử khí. Từ ngày 20 cho đến về sau, căn cứ mất liên lạc với Quân-Đoàn II, các đồi cao điểm bị quân CS chiếm đặt cao xạ trực chỉ vào căn cứ, cây ăn-ten (antenna) dù căng lên là đích cho súng pháo của địch. Chỉ huy căn cứ Lệ Khánh quyết định rút lui khỏi căn cứ. Trong số các lô cốt, lô cốt số 13 là an toàn hơn, tiểu đoàn được lệnh sẵn sàng lên đường, đến gần sáng, phá hàng rào kẽm gai chằng chịt của lô cốt số 13, trong khi quân CS vẫn tiếp tục nã pháo như mưa vào trại. Toán tiền phương mở đường máu tiến ra ngoài, toán trước, trợ cho toán sau, dẫn dắt gia đình, binh sĩ và thương binh… thoát được ra ngoài vòng pháo của địch, hai toán chia nhau đi hai hướng khác nhau, nhờ liên lạc được vô tuyến gọi phi cơ quan sát vị trí địch quân, đem phi cơ oanh tạc cộng quân đang vây căn cứ. Hai cánh quân rút lui mãi đến chiều hôm sau mới đến con sông Poko, một cánh quân bảo vệ cho gia đình binh sĩ cố gắng qua sông để đến tạm trú tại căn cứ Liên Đội 385 Địa Phương Quân, một cánh vừa rút lui vừa chống đỡ yểm trợ cho đoàn qua sông, tiếng con nít khóc làm lộ mục tiêu, Việt Cộng rượt đuổi theo đoàn đang vượt qua sông, nhờ mùa khô, nước cạn ngang ngực nên cả đoàn và gia đình cũng lướt băng qua sông, một bà mẹ người Thượng đai đứa con còn trong nôi trước ngực, bị trúng đạn chết tức khắc nằm thả ngửa trên mặt nước, trong khi đứa con còn đang ngậm vú mẹ. Cộng Quân đuổi kịp đến bờ sông, chúng dùng súng cối 61 ly nã đạn, không chút thương tiếc vào đoàn vượt sông, thật dã man, giết chết cả đàn bà con nít, mặt nước sông Poko nhuộm đỏ máu của những người dân vô tội, 360 người cùng vượt sông, sang đến bờ chỉ còn lại 97 người sống sót.
Từ đồi Charlie, Dakto, Tân Cảnh, nay đến Lệ Khánh thất thủ, mục tiêu của CS là Pleiku, bây giờ còn lại Kontum, đầu giới tuyến, binh CS bắt đầu tấn công căn cứ : 41 và 42, là hai căn c then chốt cho an ninh của QL 14 giữa Pleiku và Kontum cách nhau 15km, âm mưu của CS là cắt đứt mối tiếp tế, liên lạc, lưu thông giữa 2 thành phố, nếu 2 căn cứ then chốt nầy mất thì Pleiku sẽ rơi vào sự kiểm soát của CS Bắc Việt, vì vậy, một bên trong tư thế tấn công, một bên trong thế thủ, dù cho có bao nhiêu thân xác phải hy sinh. Vào lúc nửa đêm, cộng quân pháo hàng trăm quả vào căn cứ, sau đó một đại đội đặc công của Sư Đoàn 2 Sao Vàng và một trung đoàn trợ chiến, đặc công của Việt Cộng còn rất trẻ tuổi khoảng từ 15-16… đã bị chích thuốc kích thích, nên rất liều mạng sống, chúng đeo vào người khoảng 50 kg chất nổ, nhào vô hàng rào căn cứ tấn công, phá rào dọn đường cho trung đoàn bộ binh, có trung đoàn pháo yểm trợ, tấn công đẫm máu vào căn cứ ở hướng Đông, chiến sĩ của Sư Đoàn 23 Bộ Binh (VNCH) từ hướng Tây đánh lên, nhờ sự quan sát tốt trên không của L19 và C7 chỉ điểm cho pháo binh yểm trợ rất chính xác, thêm hoả châu soi sáng vùng chiến địa, nhờ đó mà phi cơ C130 vũ trang (C130 gunship) và phi cơ oanh tạc F104 trực xạ chính xác vào các cánh quân Cộng Sản, trận chiến kéo dài đến sáng, Cộng Quân lơi tiếng súng, dần dần rút lui, biến mất vào các triền núi. Chiến sĩ các căn cứ hoả lực phải đi chôn 160 xác Cộng Quân quanh vòng rào phòng thủ và 40 xác khác trên bờ suối, nhiều xác đặc công CS còn trẻ trong lứa tuổi học sinh nhưng lại bị đem xử dụng liều mạng chết thật thảm thương. 
Sư Đoàn 23 Bộ Binh cho tăng viện về Kontum, cả một đoàn xe vận chuyển và các đơn vị Thiết Giáp đều bị phục kích trên tuyến đường dài từ Sơn Trà cho đến đồi Chu Pao. Vào đầu tháng 6, 1972 quyền kiểm soát đỉnh đồi Chú Pao bị rơi vào tay Cộng Sản Bắc Việt.)
 
     - Ê! Ê! Nó đang dòm bồ cà. 
     Anh bạn khều vai trong khi tôi đang suy tư nhìn những người đang bị đối xử tàn tệ trong cũi kia. Anh bộ đội mặc đồ chiến đấu màu xanh ô-liu, nón cối, đeo sao vàng nền đỏ trên vai đang đếm từng người chúng tôi. Xe tiến vô phi trường, đến khu nhà độc thân, đó là những dãy nhà tiền chế, sơn phết màu trắng, sạch sẽ phân ranh đều đặn bằng những hàng cây đu đủ hoặc chuối, đang được mùa sai quả, trước sau không một bóng người, cả một căn cứ mênh mông, lạnh tanh như nơi hoang phế, rác rến, giấy báo, gỗ ván, bàn ghế nghiêng ngửa, bàn ngồi cầu tiêu lăn lóc ngoài sân, chén đĩa bể tung tóe, có lẽ đó là dấu vết của cuộc tháo chạy, bị phá hoại, hôi của dữ dội vừa qua, sau khi Quân-Đoàn II bỏ ngỏ.
     Chúng tôi được phân cho một căn nhà để nghỉ tại đây, thời gian là bao lâu thì không biết, phải xong hết việc mới biết có được về hay không. Ra công quét dọn, chúng tôi nhặt được nhiều sách, sách học tiếng Anh, văn thơ, tiểu thuyết, nhứt là loại tự luyện văn hoá, tự học. Tôi nghĩ, nơi đây, cảnh vật tịch mịch, quanh năm với núi rừng - một thành phố buồn - các anh chàng “hào hoa” lấy sách để tự trao đổi kiến thức, giải khuây. Vuốt lại tờ giấy con dán ở vách, một câu thơ của ai đó còn lưu lại:
Bây giờ anh ở Pleiku
Cỏ xanh là núi, mây mù là sương….
 
Kẻng cơm reng lên. Chúng tôi tập họp để gặp trưởng đoàn, dặn dò những điều cần phải làm để giữ an toàn khi có báo động. Anh ta cho biết:
     Vì bọn địch “FULRO” (Lực Lượng Biệt Kích người Thượng, được trợ cấp bởi Chính Phủ Hoa Kỳ) còn đang lẩn náo gần đây âm mưu phá hoại chúng ta, nếu có báo động, các anh ở đâu thì cứ ở tại chỗ, không chạy lộn xộn ra ngoài, tránh lẫn lộn, nếu không bị địch đâm chết thì cũng bị bạn ta bắn lầm.
     Cơm xong trời đã tối, không đèn, phải nhờ mấy cây đèn bin, lấy đầy bi-đông nước chín, chúng tôi quay về chỗ nghỉ, tạm yên tâm và hy vọng sẽ có được một giấc ngủ ngon lành. Đã 3 đêm xa nhà, thật không nỗi buồn nào hơn! Những giọt mưa rơi chạm vào mái tôn ngân tiếng ton…ton… đều đều như nhịp đệm cho một bản nhạc buồn đưa tôi vào giấc ngủ lúc nào mà không hay. Đang chập chờn, nửa tỉnh, nửa mê, bỗng tiếng còi “tu hít" rít lên vang dội, tiếng kẻng chát chúa xé màn đêm, chúng tôi tung mền ngồi dậy nghe ngóng. Im lặng, nhớ lời dặn ban chiều “Ở đâu, ở đó”, thì bên ngoài, tiếng chân chạy thình thịch, tiếng người la ó, tiếng cò súng lên đạn róch rách:
     - Đừng ra ngoài.
     Anh bạn tôi nhắc nhở khẽ. Không có chuyện gì xảy ra tiếp, báo động độ nửa tiếng đồng hồ kết thúc, có lẽ cũng gần sáng, tiếng chim rừng ríu rít vừa đánh thức chúng tôi dậy. Sau đêm nghỉ ngơi, thì bắt tay vào việc. Nhờ tập trung vào công việc, nên cũng tạm quên nỗi nhớ nhà, toán Biên Hoà chúng tôi được giao việc thống kê vật liệu trong các kho, các nhóm khác được phân công phục hồi máy điện, phục hồi cơ khí và phi đạo tháo gỡ vũ khí trên các phi cơ có vũ trang. Bây giờ, chúng tôi mới có cơ hội nhìn qua cảnh vật, còn nhiều phi cơ nằm ụ, nằm rải rác trên phi đạo, những C-48, C-130, C-141, trực thăng UH-1, nhìn thấy những chiếc phi cơ này còn “đứng vững” trên các “bánh đáp”, chứng tỏ chúng chỉ bị hư hỏng nhẹ, hoặc có cái còn tốt. Có lẽ do vội vàng rút chạy chỉ được phá huỷ không triệt để, số phi cơ và các tài sản còn lại này đáng giá hàng khối dollars khổng lồ, đang chờ “chủ mới”! Những ngày nghỉ cuối tuần, chúng tôi thả nhau đi mọt sách cũ trong trại, hoặc đi bộ ra hàng rào phòng thủ, từ các vọng gác cao, nhìn xuống các cô gái Thượng tắm suối, giặt đồ, họ chỉ mặc độc nhứt chiếc xà rong, để ngực trần, vui đùa, tát nước lẫn nhau, đặc biệt không có đàn ông.
     Công việc tiến triển thật tốt, hàng thu nhặt được chuyển dần về Phi Trường Phù Cát, có lẽ những người “chủ mới” nầy xài lại hay bán đi các tài sản bạc tỷ đồng dollar nầy. Trong những chuyến vận chuyển tài sản về Phù Cát, ban đầu suông sẻ, bất ngờ, một hôm có tin xảy ra tai nạn, một chiếc xe tải GMC từ Pleiku đổ đèo Mang-Yang, xe đụng vào vách núi ở khúc quẹo ngặt, anh tài xế (lính KQ cũ) bị hất tung qua chỗ ngồi của người tháp tùng áp tải, anh cán bộ áp tải, bị văng qua thế chỗ người tài xế, anh bị cái "vô-lăng”(Volant) đập chết, người tài xế bị thương, tất cả đều được đem về Phi Trường Phù Cát, “Tử đâu, táng đó”, anh cán bộ được chôn tại đây, anh lính KQ.nằm điều trị đến ngày bình phục.
Tính ra, thời gian công tác đã ngoài 2 tháng, một hôm cuối tuần, chúng tôi được lệnh áp tải lương thực, theo xe đi chợ thị xã, nơi mà ngày xưa, Bộ Chỉ Huy Quân Đoàn II, Vùng II Chiến Thuật trú đóng, ngày nào, đường phố rộn rịp, xe cộ nhà binh, dân sự, dân chúng và binh sĩ sinh hoạt tấp nập, vui vẻ, đời sống an lành, sung túc của thành phố màu xanh, bây giờ phố mưa buồn, ướt át, những con đường trơn trượt như trét mỡ bò mà vắng vẻ người qua lại, chẳng bù cho ngày xưa, khu vực này là Trung Tâm Thương Mại sầm uất, ồn ào...
     Nơi cái bồn binh phun nước (fountain) ở đầu con đường chánh, thẳng tắp, chúng tôi đang mệt mỏi với cái cần xé đầy rau quả trên vai, thì thấy bên kia vỉa hè gần đường có một cái quán lộ thiên, kê vài cái bàn, ghế con thấp lè tè mặt đất, một cô gái trẻ độ tuổi trăng tròn, trong bộ đồ bà ba, ngoắt tay, miệng mời chúng tôi:
     - Ngồi nghỉ chân, uống cà phê đi các anh. Tiện nơi ngồi nghỉ mệt, chờ xe đón.
     Chúng tôi ngó lẫn nhau như hỏi ý. Cô gái tiếp tục mời vồn vã luôn tay, luôn miệng:
     - Vô ngồi nghỉ mệt đi các anh, ở đây có cà phê"cứt chồn". Đặc biệt ngon lắm.
          Người con gái miền cao nguyên, thanh nhã. Dáng cao, làn da trắng mịn, giọng nói miền Nam thanh tao, dịu dàng rất để gây cảm tình, không ai bảo ai, chúng tôi đồng loạt đặt cái “ của nợ ” trên vai xuống, kéo ghế ngồi quanh cái bàn con vuông vứt, anh bạn hỏi:
     - Cà phê cứt chồn là sao hả cô?
     - Là con chồn ăn hột cà phê, sau đó “Ị” ra, người đi rừng lượm về phơi khô, rang lên rồi xay ra cà phê.
     - Ở đây chắc có nhiều chồn lắm phải không cô?
     Chúng tôi cùng cười rộ, làm hai má của cô gái đã hồng lại hồng thêm. Lần lượt, cô bưng 5 tách cà phê đặt lên bàn, trong thao tác nhẹ nhàng, lịch sự, với những ngón tay thon thon, dong dài, búp măng.
     - Các anh người Miền Nam, Sài Gòn?
     - Còn cô quê ở đây? Cô có biết Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II ở chỗ nào không?
     Không chút ngập ngừng, chứng tỏ là rất quen thuộc địa phương này, Cô chỉ về hướng xa xa trên con đường nối dài với nơi chúng tôi đang ngồi:
     - Đằng kia kìa, chỗ mấy ngôi nhà sập nát bình địa, còn lại mấy tấm tường vôi vàng lẫn trong đám cây, nơi đó là Quân Đoàn II, họ đánh nhau dữ quá, năm 72, rồi năm 75, họ bỏ hết không còn gì.
     - Rồi bây giờ còn lại cô.
     Cô gái lại thẹn thùng, cười mỉm, quay chiếc lưng “ong” vội vã vào trong. Nhìn thân hình người con gái cao nguyên với mái tóc dài kẹp thả lỏng tận thắt lưng, chiếc áo bà ba trắng chật vừa phải, ôm xát thân mình cô nổi bật những đường nét mà những phụ nữ thi hoa hậu cần phải có, chiếc quần đen láng lóng lánh, bóng lộn, ôm gọn cả thân hình tròn trịa, cân đối. Tôi nghĩ: Giá mà cô ta mặc bộ đồ tắm, thì chắc chắn không thua gì các nàng dự thi trên sân khấu để giám khảo ngắm nhìn, cho điểm, đôi má hồng, đôi môi đỏ tự nhiên hiện trên khuôn mặt tròn trái soan, đôi chân mày vòng cung hình lá liễu cân đối trên cặp mắt hạt huyền tròn xoe, ẩn hiện dưới cặp lông nheo cong vút, nhấp nháy, mỗi lần cô chớp mắt thì: ôi! Thật tuyệt vời.
     Thảo nào, lúc đang vào thời chiến tranh nóng bỏng ở vùng Cao Nguyên, một vị cố vấn trưởng đầy quyền lực trong tay đã phải luỵ vì tình với một phụ nữ của Thị Xã Pleiku.
     Ông John Paul Vann, trong thời gian làm cố vấn cho Tướng Ngô Dzu, Tư Lệnh Quân Đoàn II, Vùng II Chiến Thuật, phải lòng một cô gái “má đỏ môi hồng” nên đã thay đổi cuộc đời của Ông. Sóng gió của mối tình muộn và đầy ngang trái nầy, đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến tận “Tòa Nhà Trắng ở Hoa Thịnh Đốn”, vì Ông đang là một nhân vật quyền thế đương thời, tình yêu này sẽ ảnh hưởng lớn trên vận mạng quốc gia bạn, mà giữa lúc Cao Nguyên trong cảnh khói lửa ngút trời chiến tranh, Ông đã nói lên tâm sự của mình, thổ lộ cùng mọi người về sự lựa chọn cho đời Ông: “Sau khi tình hình của Cao Nguyên sáng sủa, tôi sẽ làm đám cưới với nàng, tôi sẽ ở lại đây với nàng cho hết cuộc đời và Việt Nam sẽ là quê hương thứ hai của tôi”.
     Vì thế, từ lúc đó bạn bè của ông đều nghĩ rằng: ông đang phục vụ một cách hăng say cho quê hương Việt Nam của ông, chớ không phải làm cố vấn cho một quốc gia bạn. Sự ước nguyện của ông chẳng bao giờ thành. Vào “Mùa Hè Đỏ Lửa”, Bắc Việt Cộng Sản cho mở cuộc tấn công vào tận Thị Xã Kontum, Ông cùng người quan sát viên Hoa Kỳ trên chiếc phi cơ trực thăng, rời B Tư Lệnh Quân Đoàn II ở Pleiku đi quan sát mặt trận. Trên đường bay đi Kontum, chiếc trực thăng OH-58 bỗng phát nổ cháy trên bầu trời Pleiku, lúc đó là 9:20 đêm 09-6-1972, ông Vann, người quan sát viên và phi công đều chết. Tai nạn gây ra là lúc trực thăng bay trong mưa, sương mù, máy bay đang bay ở cao độ thấp nên đụng cây rừng phát nổ.
     Ông Vann được đưa về Hoa Kỳ, an táng tại Arlington National Cemetery, Tiểu Bang Virginia. Ông thọ 48 tuổi. Tổng Thống Hoa Kỳ Richard Nixon thăng cấp cho ông từ Đại Tá lên Cố Thiếu Tướng.
Sau buổi tiệc chia tay vào ngày cuối tuần, chúng tôi hớn hở thu dọn hành trang, nhìn lại lần nữa quang cảnh điêu tàn, xơ xác, vắng tanh, những chiếc phi cơ phơi mình, dầm mưa, dãi nắng, lòng chua xót cho những chiến lợi phẩm đáng giá bị bỏ phế này.
Từ giã phi trường, trên đường trở về, chúng tôi phải đi qua một vòng nữa: xuyên qua thành phố, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II nơi bị san thành bình địa, chỉ còn lại những đống gạch vụn to tướng. Nơi đây ngày xưa, đã từng là đầu não chỉ huy chống lại những cuộc lan tràn xuống miền Nam của Cộng Sản Bắc Việt. Nhưng bây giờ thời oanh liệt nay còn đâu? Tất cả đã tan tành trong khói lửa, máu và chết chóc. Con lộ dẫn chúng tôi quanh trở lại vùng bồn binh, nơi quán "cóc" bên đường mà anh em chúng tôi đã có được một lần cùng ngồi uống tách cà phê thơm có cô chủ xinh đẹp. Cuộc gặp gỡ như bèo nước, mây trôi, rồi vĩnh viễn không còn gặp nhau nữa.
Mặt trời vẫn mọc trên cao, sinh hoạt đời sống con người vẫn tiếp tục bình thường, dáng điệu dịu dàng của cô gái Pleiku đang loay hoay chuẩn bị cho một ngày mới, “ Giã Từ Pleiku ” của “ còn chút gì để nhớ, để quên …”
Không phải chỉ có Ông Tướng Cố vấn cảm nhận được cái đẹp, cái thuỳ mỵ dễ thương của người con gái Pleiku, mà nhiều du khách đến đây, dù chỉ một lần thôi, cũng phải cảm xúc trước cái đẹp của con người, của cảnh vật thiên nhiên, của cây xanh, núi cao mây phủ mù mờ. Trước những cảnh đẹp xúc tích, hữu tình này, nhà thơ Vũ Hữu Định đã không cầm lòng, bộc phát một bài thơ mô tả gần như thật của sự quyến rũ ở đây:
 
Phố núi cao phố núi đầy sương
Phố núi cây xanh trời thấp thật buồn
Anh khách lạ đi lên đi xuống
May mà có em đời còn dễ thương
 
Em Pleiku má đỏ môi hồng
Ở đây buổi chiều quanh năm mùa Đông
Nên tóc em ướt và mắt em ướt
Nên em mềm như mây chiều trong
 
Phố núi cao phố núi trời gần
Phố xá không xa nên phố tình thân
Đi dăm phút đã về chốn cũ
Một buổi chiều nào lòng vẫn bâng khuâng
 
Xin cảm ơn thành phố có em
Xin cảm ơn một mái tóc mềm
Mai xa lắc trên đồn biên giới
Còn một chút gì để nhớ để quên
 
Thơ: Vũ Hữu Định, Phạm Duy: phổ nhạc
Ca sĩ: Sĩ Phú, Khánh Ly, Thanh Lan….
 
 
Nguyễn Uyên Hưng
(Cary, North Carolina. USA)
 

 
 
 
Sách Tham Khảo:
·        “Chinh Chiến Điêu Linh”: Kiều Mỹ Duyên
·        A Bright Shinning Live: Neil Sheelan
·        Việt Nam War
 
 

Hồi ký của Bà Hillary Clinton / Chuyện Tình Đẹp

Hillary Rodham Clinton -Living History
Trở lại những ngày đầu
Khi gặp Bill Clinton, cô Hillary Diane Rodham thuộc trong số 27 nữ sinh viên của tổng cộng 235 sinh viên của Đại học luật Yale. Thời điểm đó Bill Clinton là một trong những ngôi sao của trường (Lời người dịch - LND).
Thật không thể không để ý tới Bill Clinton vào mùa thu 1970. Khi đến Yale, anh ấy trông như một người Viking Bắc Âu rất “ngầu” hơn là một sinh viên từng nhận học bổng Rhodes tr ở về Mỹ sau hai năm tại Oxford. Cao và đẹp trai với bộ râu nâu đỏ và mái tóc quăn bờm, anh ấy cũng toát lên sức sống từ vẻ trầm tư. Khi lần đầu tiên gặp trong sảnh sinh viên, tôi thấy anh ấy nói chuyện trước một nhóm sinh viên bu quanh lắng nghe có vẻ thích thú. Lúc đi ngang qua, tôi nghe anh ấy nói: “…và không chỉ bấy nhiêu đó thôi, chúng tôi còn trồng được những quả dưa hấu to nhất thế giới”. Tôi hỏi người bạn: “Ai vậy?”. “Ồ, đó là Bill Clinton, anh bạn trả lời - Cậu ấy là dân Arkansas và tất cả cậu ấy nói tới trước tới giờ chỉ gồm bấy nhiêu đó thôi”! 
Chúng tôi không thực sự nói chuyện với nhau cho đến ngày cuối cùng của khóa học vào mùa xuân 1971. Cùng tình cờ ra khỏi lớp về nhân quyền và chính trị học của giáo sư Thomas Emerson, Bill hỏi tôi đi đâu. Khi nghe tôi nói đến phòng đào tạo để ghi danh khoá học tới, anh ấy cho biết mình cũng đến đó. Khi cùng đi, anh ấy khen chiếc váy hoa dài của tôi. Lúc nghe nói đến chiếc váy do mẹ may, anh ấy bắt đầu hỏi lấn sang chuyện gia đình và nhả cửa của tôi.

Chúng tôi cùng xếp hàng cho tới khi cả hai cùng tới bàn ghi danh. Cô nhân viên ngẩng đầu hỏi: “Ô hay, Bill, làm gì ở đây vây? Anh đăng ký rồi mà!”. Tôi bật cười khi nghe anh ấy thú thật rằng anh chỉ kiếm cớ theo tôi. Quãng đường dài mà chúng tôi đi cùng nhau sau đó đánh dấu buổi hò hẹn đầu tiên. Cả hai chúng tôi đều muốn xem cuộc triển lãm Mark Rothko (học sĩ phái trừu tượng người Mỹ gốc Latvia , 1903 – 1970) tại phòng nghệ thuật Yale. Tuy nhiên, do có tranh chấp về lao động, vài toà nhà trong khuôn viên trường học đã phải đóng cửa, trong đó có viện bảo tàng.

Khi tôi và Bill đi ngang, anh ấy nảy ra ý nghĩ rằng chúng tôi có thể lọt vào bên trong nếu đề nghị nhân viên bào tàng cho chúng tôi vào nhặt rác trong sân. Nhìn anh ấy nài nỉ tìm cách cho chúng tôi vào, lần đầu tiên tôi nhận ra khả năng thuyết phục trong hành động của anh ấy. Cuối cùng cả hai chúng tôi cũng được viếng thăm viện bảo tàng. Chúng tôi đi hết phòng này tới phòng khác, nói về Rothko và hội hoạ của thế kỷ 20. Tôi phải thú nhận rằng tôi rất ngạc nhiên trước những vấn đề anh ấy quan cũng như kiến thức của anh ấy về những chủ đề mà thoạt tiên có vẻ không hợp với người “chàng Viking” có gốc gác Arkansas.
Chúng tôi kết thúc công việc nhặt rác trong sân của viện bảo tàng. Tôi đến ngồi trên chiếc dùi khổng lồ của bức tượng Draped seated woman của Henry Moore và chúng tôi nói chuyện tới sẩm tối. Tôi bắt đầu nhận thấy anh chàng Arkansas này phức tạp hơn ấn tượng ban đầu. Đến nay, anh ấy vẫn có thể khiến tôi ngạc nhiên với những kết nối mà anh ấy đan dệt giữa ý tưởng và từ ngữ cũng như cách anh ấy trình bày vấn đề nhẹ nhàng. Tôi vẫn yêu cách anh ấy tư duy và cách anh ấy thể hiện ở ngoại hình. Một trong những điều đầu tiên tôi chú ý ở Bill là bàn tay. Cổ tay nhỏ và ngón tay thon trông như bày tay nhạc sĩ dương cầm hay bác sĩ phẫu thuật. Khi lần đầu tiên gặp nhau thời sinh viên, tôi rất thích ngồi ngắm anh ấy lật sách. Bây giờ bàn tay đó đã có những dấu hiệu của năm tháng, sau hàng ngàn cái bắt tay, những cú quật bóng golf và hàng dặm chữ ký. Đôi tay, như chủ nhân của nó, bắt đầu nhăn nheo nhưng vẫn đầy sức sống, quyến rũ và tình cảm.
Mùa hè năm đó, Bill Clinton theo Hillary đến California, nơi bà làm thư ký cho một công ty luật ở Oakland (LND).
Cuối hè, chúng tôi trở về New York và thuê gian trệt căn nhà số 21 đại lộ Edgewood, với giá 75 USD/tháng. Trong gian nhà có phòng khách, lò sưởi, phòng ngủ nhỏ., phòng thứ ba dùng làm phòng đọc và phóng ăn , phòng tắm nhỏ và cái bếp “thời tiền sử”. Sàn nhà không phẳng và đĩa có thể rơi ra khỏi bàn ăn nếu chúng tôi không chêm thêm chân bàn. Tường đầy khe nứt đến mức chúng tôi phải nhét giấy nêm kín để tránh gió lạnh. Dù vậy, tôi yêu căn nhà đầu tiên của chúng tôi. Sau Giáng sinh, Bill đánh xe từ Hot Springs lên Parl Ridge (tiểu bang Illinois ) đến thăm gia đình tôi. Bố mẹ tôi đã gặp anh ấy mùa hè trước nhưng tôi vẫn sợ vì bố tôi có tật chỉ trích thẳng thừng các bạn trai tôi. Tôi có thể hình dung bố sẽ nói gì khi thấy một gã theo chính kiến dân chủ với khuôn mặt có hai bát tóc dài như Elvis Presley. Mẹ tôi lại thích Billl, nhất là cái khoản anh ấy hăm hở phụ mẹ rửa bát. Tuy nhiên, điều khiến mẹ tôi bị Bill thực sự chinh phục là sự tranh luận của anh ấy về về quyển sách triết mà mẹ đọc từ hồi đại học. Với bố tôi, thoạt đầu tình hình diễn biến có vẻ chậm nhưng sau đó không khí được làm nóng khi hai người cùng đánh bài hoặc xem bóng đá trên truyền hình. Đám bạn tôi cũng thích anh ấy. Sau khi tôi giới thiệu Bill với Betsy Johnson, mẹ cô ấy – bà Roslyn – đã níu tôi vào góc phòng, nói: “Bác không cần quan tâm cháu làm gì nhưng đừng để gã này vuột mất. Hắn là tên duy nhất mà bác thấy có thể làm cho cháu cười”.
Sau khi học xong trường luật vào mùa xuân năm 1973, Bill đưa tôi đi dạo trong chuyến đi châu Âu lần đầu tiên của tôi (…). Đến London, Bill đã chứng tỏ mình là một hướng dẫn viên tuyệt vời. Chúng tôi trải qua hàng giờ quan tu viện Westminster, Phòng triển lãm nghệ thuật Tate và trụ sở Quốc hội Anh. Chúng tôi lang thang từ Salisbury đến Lincoln, đến Durham rồi York, dừng lại một chút để ngắm tàn tích một tu viện làm cho bị hoang phế bới đạo quân Cromwell năm nào hay vẩn vơ đi qua các ngôi vườn của một biệt thự quê khổng lồ. Rồi, khi hoàng hôn buông xuống vùng hồ tuyệt đẹp District of England, khi chúng tôi ngôi trên bờ hồ Ennerdale, Bill hỏi cưới tôi…
Tôi rất yêu anh ấy nhưng tâm trạng ngổn ngang những lo nghĩ về tương lai và cuộc sống; vì vậy, tôi đã trả lời: “Không, không phải lúc này”. Ý tôi muốn nói: “Cho em thêm thời gian”. Mẹ tôi đã chịu nhiều đau khổ bởi cuộc hôn nhân đổ vỡ dẫn đến ly dị của ông bà ngoại tôi và thời niên thiếu cô đơn đầy buồn tủi của mẹ đã in đậm trong tim tôi. Tôi biết rằng khi quyết định kết hôn, cuộc hôn nhân của tôi phải là cuộc sống gia đình ăn đời ở kiếp. Nhìn lại quãng thời gian đó và nhìn lại chính mình, tôi nhận ra rằng tôi đã hoảng sợ thế nào về tội lỗi nói chung và về tình yêu mãnh liệt của Bill dành cho tôi nói riêng. Với tôi, anh ấy là hiện thân của sức mạnh thiên nhiên và tôi nghĩ rằng liệu mình có thể chịu nổi nỗi khó khăn sẽ kinh qua khi đối mặt những thay đổi từng thời kỳ trong cái sức mạnh thiên nhiên đó của Bill hay không. Bill Clinton sẽ là người vô giá trị nếu anh ấy không bền bỉ. Anh ấy đã lập mục tiêu và tôi là một trong những mục tiêu đó. Anh ấy cầu hôn tôi lần nữa, lần nữa và tôi luôn từ chối. Cuối cùng, anh ấy nói: “Thôi được, anh sẽ không hỏi cưới em thêm lần nào nữa và nếu em quyết định lập gia đình với anh thì em phải nói ra (…).

Sau đó Bill tốt nghiệp, trở về Arkansas dạy luật; Hillary đến Washington làm việc cho Uỷ ban tư pháp Hạ viên, lúc đó thụ lý cuộc điều tra Richard Nixon trong vụ Watergate (LND).
Ngày 9/8/1974, Nixon từ chức tổng thống và tôi bất ngờ thất nghiệp (…). Tôi quyết định nghe theo con tim hơn là cái đầu. Tôi chuẩn bị hành lý tới Arkansas . (Hillary nhận lời mời dạy khoa luật Đại học Arkansas, LND). “Bồ có mất trí không vậy? - bạn tôi, Sara Ehrman, hỏi sau khi nghe tôi thông báo - Tại sao bồ lại quẳng tương lai đi?”. Đôi lúc tôi phải lắng nghe một cách khó khăn cảm giác của mình để quyết định điều gì nên làm. Khi đó bạn phải quyết định một mình, cho dù bạn bè và người thân – chưa kể công chúng và báo chí - sẽ tra vấn sự lựa chọn và hoài nghi động cơ của bạn.
Tôi đã yêu Bill trong trường luật và tôi muốn ở cùng anh ấy. Tôi biết mình sẽ hạnh phúc hơn khi có Bill ở bên cạnh và chỉ cần vậy, tôi luôn tin rằng mình có thể sống mãn nguyện ở bất kỳ đâu. Do đó, tôi đánh xe tới một nơi mà tôi chưa từng sống, không có bạn bè và cả gia đình. Tuy nhiên, trái tim tôi mách rằng tôi đã đi đúng hướng (…). Vào cuối niên khóa, tôi trở lại Chicago và vùng duyên hải miền Đông để thăm bạn bè và gặp một số người từng đề nghị làm việc với tôi. Tôi vẫn không chắc mình giải quyết thế nào cho số phận. 
Trên đường ra phi trường, Bill và tôi đi ngang qua một căn nhà gạch đỏ gần đại học, đang treo bảng bán. Tôi bất giác chợt nhận ra rằng đó là căn nhà nhỏ rất xinh. Sau vài tuần đi xa và suy nghĩ, tôi quyết định trở lại cuộc sống tại Arkansas và trở lại với Bill. Khi đến đón tôi, Bill hỏi: “Em còn nhớ căn nhà em thích không? Anh mua rồi. Bây giờ em hẳn phải kết hôn với anh vì anh làm sao sống nổi một mình trong căn nhà đó!”. Bill thích thú đánh xe đến và đưa tôi vào bên trong. Căn nhà có mái hiên, phòng khách trần cao, lò sưởi, một cửa sổ lồi rất to, phòng ngủ, phòng tắm và một căn bếp thoạt trông đã biết cần nhiều thời giờ dọn dẹp. Với lời cầu hôn lần này của Bill, tôi nói: “Vâng!”.
Sau tất cả những gì xảy ra từ đó tới nay, người ta hay hỏi tôi rằng tại sao tôi và Bill gắn bó với nhau. Đó không phải là câu hỏi tôi thích nhưng xét ở góc độ bản chất công chúng với thói quen dòm ngó cuộc sống chúng tôi, nó lại là câu hỏi mà được hỏi đi hỏi lại nhiều lần. Tôi biết nói gì bây giờ, để giải thích về một tình yêu bền bỉ sau bao nhiêu năm tháng đã ngày càng nảy nở qua những chia sẽ trong chăm sóc và dạy dỗ đứa con gái, qua việc chu tất mồ yên mả đẹp cho các cụ sinh thành và qua việc gìn giữu tình bằng hữu với các gia đình bè bạn, một tình bạn suốt đời, một niềm tin chung nhất và một lời hứa bất dịch cho đất nước chúng tôi? Tất cả những gì tôi có thể khẳng định là sẽ không ai hiểu rõ tâm can cũng như không ai có thể làm cho tôi cười, trừ Bill. Thậm chí sau ngần ấy năm, anh ấy vẫn là người mạnh mẽ, đầy sinh lực và thú vị nhất mà tôi từng gặp. Bill Clinton và tôi đã bắt đầu từ một cuộc trò chuyện vào mùa xuân 1971 và hơn 30 năm sau, chúng tôi vẫn tiếp tục trò chuyện với nhau.
 
Vượt qua cơn bão Monica Lewinsky
Năm 1998 - thời điểm sự kiện Lewinsky bùng nổ, nước Mỹ có hơn 4,5 triệu người lập gia đình và cũng có 1,7 triệu người ly dị hoặc hôn nhân tan vỡ. Tính đến ngày 11/10/2003, cặp vợ chồng Hillary - Bill Clinton sẽ tròn 28 năm chung sống.
Họ vẫn không có tên trong danh sách trung bình 1,5 triệu người Mỹ ly dị mỗi năm: Cơn bão Monica Lewinsky đã đi qua... (Lời người dịch - LND)
Tôi biết rằng tôi và Bill vẫn phải thực hiện các công việc thường nhật. Vài tùy viên ở Cánh Tây đã rì rầm qua điện thoại di động về vụ Monica Lewinsky và họ thậm chí còn xì xào đằng sau những cánh cửa đóng kín. Vấn đề quan trọng bây giờ là trấn an ban trị sự Nhà Trắng rằng chúng tôi sẽ giải quyết được cuộc khủng hoảng và sẵn sàng phản công như chúng tôi đã từng làm trong quá khứ.
Điều tốt nhất tôi có thể làm cho chính mình và cho những người quanh tôi là tiến thẳng lên phía trước. Đáng lý tôi nên dành nhiều thời gian hơn cho các cuộc tiếp xúc đầu tiên với công chúng (...). Theo David Kendall (luật sư riêng của Bill Clinton, LND), lần này gã ác tâm (chưởng lý Kenneth Starr, LND) có thể dùng trò cũ bằng cách đòi trát toà cho thẩm cung tất cả nhân viên, bạn bè, người thân gia đình biết thông tin liên quan đến vụ Lewinsky. David Kendall nói thêm rằng ngày 16/1, Bộ trưởng Tư pháp (Janet) Reno đã gửi thư đến hội đồng thẩm phán đề nghị cho Starr mở rộng phạm vi điều tra. Sau này, chúng tôi mới biết đề nghị của Reno đã dựa vào thông tin không đầy đủ và sai lệch do chính gã ác tâm cung cấp.
Bill đã bị bịt mắt và sự bất công trong vụ việc càng khiến tôi quyết tâm đứng cạnh anh ấy thực hiện cuộc chiến chống lại những lời buộc tội. Tôi biết thiên hạ đang tự hỏi: "Làm sao bà ấy (Hillary) có thể dậy nổi vào buổi sáng, huống hồ chường mặt ngoài công chúng? Ngay cả khi không tin những lời cáo buộc, thì nội việc nghe thiên hạ bàn tán thôi cũng đã khiến bà ấy đủ suy sụp rồi". Như tôi, Bill cũng không hũy các cuộc hẹn trước. Anh ấy chuẩn bị dự cuộc phỏng vấn lên lịch trước với Đài phát thanh quốc gia (...).
Chiến dịch pháp lý của Kenneth Starr cuối cùng đã thành công và Bill Clinton phải thú nhận toàn bộ sự việc trước công chúng Mỹ... (LND)
David Kendall thông báo với giới truyền hình rằng Bill sẽ phát biểu trước công chúng lúc 10 giờ tối. Vài cố vấn tin cậy nhất của Bill, luật sư Nhà Trắng Chuck Ruff cùng Paul Begala, Mickey Kantor, James Carville, Rahm Emanuel và vợ chồng Harry - Linda Thomason, đã tập trung tại khách sạn Solarium để giúp Bill soạn diễn văn. David Kendall cũng có mặt và cả Chelsea - con bé không biết chuyện gì đang xảy ra. Thoạt đầu, tôi tránh mặt. Tôi không muốn giúp Bill soạn diễn văn chỉ bởi điều đó vi phạm nguyên tắc về phép lịch sự và sự tôn trọng đời sống riêng tư mà tôi đặt ra lâu nay. Tuy nhiên, cuối cùng, vì thói quen, có thể vì tò mò hoặc cũng có thể vì tình yêu dành cho Bill, tôi đã lên gác. Khi tôi vào phòng, khoảng 8 giờ tối, ai đó đã nhanh tay vặn tắt âm lượng truyền hình. Họ biết tôi không thể chịu nổi khi nghe những gì truyền hình tường thuật về vụ bê bối Lewinsky. Lúc tôi hỏi đến bài diễn văn, Bill còn chưa quyết định phải nói như thế nào. Anh ấy muốn công chúng hiểu rằng anh ấy thành khẩn hối hận việc lừa dối gia đình, bạn bè và đất nước, rằng mình đã phạm một sai lầm kinh khủng (...).
Chỉ Bill, tôi và nhóm chính khách đối ngoại Nhà Trắng biết trước rằng vài giờ sau bài diễn văn thú nhận tội lỗi cá nhân tổng thống, Mỹ sẽ nã tên lửa vào trại huấn luyện khủng bố của Osama bin Laden ở Afghanistan. Bill bị buộc tội ra lệnh thực hiện vụ tấn công để lái dư luận khỏi sự chú ý vào vấn đề khó khăn của mình (...). Anh ấy trở về nhà, ngập sâu trong im lặng.
Quả là như tra tấn khi Bill và tôi cùng bị giam vào một nơi, nhưng cũng thật khó lòng mà thoát ra. Báo chí đã bao vây hòn đảo và chỉ chực đổ bộ xuống đó ngay khi chúng tôi xuất hiện trước công chúng. Thoạt đầu, chúng tôi không muốn xuất hiện. Nhưng Walter và chị Betsy, vợ anh, đã có thái độ khuây khỏa khi nói về những kẻ đang đòi cái đầu của Bill và chỉ trích tôi vì đã không tha thứ cho anh ấy. "Thật không thể tin nổi", Walter nói. "Tại sao bọn người ấy không hiểu cuộc đời nhỉ? Chị biết đấy, tôi đã sống đủ lâu để biết rằng những cuộc hôn nhân tốt đẹp đều kinh qua sóng gió. Chúng ta chẳng ai hoàn hảo cả. Phải dong buồm mà tiến lên chứ!".
Cuối tháng 8, không khí bắt đầu bớt căng thẳng. Dù còn đau đớn và thất vọng về Bill, nhưng những giây phút cô đơn đã khiến tôi nghiệm ra rằng tôi vẫn yêu anh. Điều mà tôi vẫn chưa biết là cuộc hôn nhân của chung tôi có thể hoặc cần phải chấm dứt hay không. Dự đoán từng ngày bao giờ cũng dễ hơn đoán định tương lai. Tôi chưa quyết định có nên chiến đấu cho chồng tôi và cuộc hôn nhân của tôi hay không, nhưng tôi đã quyết phải chiến đấu cho tổng thống của tôi.
Cảm xúc cá nhân và niềm tin chính trị của tôi bị va chạm dữ dội. Ở cương vị người vợ, tôi chỉ muốn vặn cổ Bill. Tuy nhiên, anh ấy cũng là tổng thống của tôi và tôi cho rằng dù thế nào, Bill cũng đang lãnh đạo nước Mỹ theo cách mà tôi phải tiếp tục hỗ trợ. Dù anh ấy gây ra điều gì, tôi không nghĩ có người nào khác trên đời nà lại có thể chịu nhiều đối xử thô bạo nhẫn tâm so với những gì Bill nhận lãnh và đối mặt. Sự riêng tư của anh ấy, sự riêng tư của tôi, sự riêng tư của Monica Lewinsky và sự riêng tư của gia đình chúng tôi đã bị xâm phạm thô bạo.
Tôi tin rằng những gì chồng tôi làm là hoàn toàn sai về mặt đạo đức. Tuy nhiên, tôi cũng tin rằng sai lầm của anh ấy không phải là sự phản bội Tổ quốc. Nếu những kẻ như Starr và phe cánh của y phớt lờ Hiến pháp và lợi dụng quyền hạn cho mục tiêu xấu xa và có thể lật đổ được tổng thống, thì như vậy quả thật đáng buồn cho đất nước chúng tôi. Chức tổng thống của Bill, chức tổng thống hợp hiến cũng như tính chính trực của Hiến pháp bắt đầu nằm ở vị thế chông chênh trên bàn cân.
Những gì tôi làm và nói trong những ngày tháng tới sẽ ảnh hưởng đến không chỉ tương lai của tôi và Bill mà cả tương lai của nước Mỹ. Cuộc hôn nhân của chúng tôi cũng ở thế chông chênh và tôi không biết chắc nó có thể (hoặc cần phải) lật nghiêng theo hướng nào (...).
Ngày 9/9, các trợ lý của Starr đưa hai chiếc xe tải đến trước các bậc thang của Capitol và chuyển giao những bản sao của "báo cáo Starr" gồm 110.000 từ, kèm với 36 thùng hồ sơ hỗ trợ. Tôi chưa đọc báo cáo của Starr nhưng nghe đâu, trong bản báo cáo 445 trang này, từ "sex" (hoặc biến thể nào đó của nó) được nhắc đi nhắc lại đến 581 lần. (...) Việc công bố nó là một khoảnh khắc u ám trong lịch sử nước Mỹ.
Bill phó mặc số phận chính trị của anh ấy cho người dân nước Mỹ. Anh ấy cầu xin sự cảm thông của họ rồi trở lại làm việc cho họ với sự tận tuỵ mà anh ấy đã đem vào nhiệm kỳ của mình kể từ ngày đầu tiên đặt chân đến Nhà Trắng. Và chúng tôi tiếp tục những phiên họp tham vấn thường kỳ, buộc chúng tôi phải nêu và trả lời các câu hỏi khó khăn mà những năm tháng vận động tranh cử không ngừng nghỉ đã cho phép chúng tôi trì hoãn. Giờ đây, tôi muốn cứu lấy cuộc hôn nhân của chúng tôi, nếu có thể được (...).
Bằng sự tha thứ của mình đối với chồng, bà Hillary đã góp phần quan trọng khiến nước Mỹ nhìn lại vị tổng thống của họ với thái độ vị tha hơn. Các cuộc tấn công vào gia đình Clinton bắt đầu gây công phẫn và bà Hillary ra tranh cử thượng nghị sĩ New York. (LND)
Vào ngày bầu cử 7/11, Bill và Chelsea bỏ phiếu cho tôi tại điểm bầu cử địa phương - trường tiểu học Douglas Grafflin ở Chappaqua. Sau bao năm trời thấy tên Bill trên phiếu bầu, tôi thấy lòng rộn ràng và vinh dự khi thấy tên của chính tôi. Kết quả thông báo vào buổi chiều cho thấy tôi chắn chắn thắng cử.
Cuối cùng, ngày được trông đợi nhất đã đến. Do chỉ có thành viên quốc hội và ban trị sự của họ được phép vào thượng viên, không loại trừ cả các tổng thống, nên Bill cùng Chelsea và vài thành viên gia đình tôi buộc phải chứng kiến lễ tuyên thệ nhậm chức thượng nghị sĩ của tôi từ hành lang dành cho khách.
8 năm qua, tôi đã ngồi trên khán đài quan sát Bill, chia sẻ những trăn trở tương lai đất nước trong chính toà nhà này. Ngày 3/1/2001, khi bước ra giữa khán phòng thượng viện và tuyên thệ "nguyện hết lòng ủng hộ và bảo vệ Hiến pháp Hoa Kỳ...", tôi nhìn lên khán đài thấy mẹ, con gái và chồng tôi đang mỉm cười với bà thượng nghị sĩ mới toanh của New York...
Hillary - người con, người mẹ, chính khách
Cựu đệ nhất phu nhân đã viết nhiều về lối suy nghĩ và hành xử của bà trong cuộc sống và công việc. Bà trân trọng gắn chúng với tình yêu vô bờ bến mà những người thân thiết đã dành cho bà và ngược lại.
Theo Hillary, thứ quý nhất mà bà được thụ hưởng từ cha mẹ là niềm tin mà họ ban tặng, từ đó bà tìm được lối đi và sự lựa chọn cho cuộc sống của mình. (Lời người dịch - LND)
Mẹ tôi, Dorothy Howell Rodham, là một người nội trợ. Cuộc sống của bà gói trọn trong việc chăm sóc tôi và hai em trai tôi. Đến hôm nay tôi vẫn còn thán phục vì bà đã vượt qua thời thơ ấu cô đơn để trở thành một người mẹ đầy tình yêu, luôn tỉnh táo và cân bằng, và luôn tìm ra thời gian để trò chuyện cùng chúng tôi. Thời trẻ, từng có lúc bà phải làm người giữ trẻ để đổi lấy nơi cư ngụ và mức lương 3 USD/tuần. Ngày nào bà cũng phải giặt đồ vì bà chỉ có một chiếc sơmi và một chiếc váy. Nhưng kinh nghiệm làm người giữ trẻ trong gia đình đầy tình thương ấy đã dạy cho bà cách chăm sóc gia đình và con cái khi bà trưởng thành.
Vào một mùa hè nọ, mẹ giúp tôi xây dựng một thế giới tưởng tượng cho mình bằng cách xây một ngôi nhà bằng một hộp giấy, lấy những mảnh gương nhỏ làm hồ, lấy những nhánh cây con làm cây cối, rồi nghĩ ra những câu chuyện cổ tích cho búp bê đóng vai. Một lần khác, bà lại khuyến khích giấc mơ đào một đường hầm tới tận Trung Quốc của em trai Tony bằng cách đọc sách về Trung Quốc cho em nghe, để rồi mỗi sáng Tony hì hục đào những đường hầm cạnh nhà và tìm thấy những thứ ngộ nghĩnh mà mẹ đã giấu sẵn dưới đất. Mẹ luôn khuyến khích chúng tôi đọc sách để tìm hiểu về thế giới xung quanh. Hằng tuần, bà đưa tôi đến thư viện trong vùng để tôi có thể lang thang giữa những giá sách thiếu nhi...
Cả cha và mẹ tôi đều luôn có ý thức huấn luyện chúng tôi thành những người cứng rắn để có thể tồn tại được trong bất kỳ hoàn cảnh sống nào, và phải biết đứng lên tự bảo vệ mình. Có lúc mẹ nhận ra tôi ít ra ngoài chơi với bạn bè, rồi đi chơi về thì thường khóc và mách với bà rằng đứa bạn ở nhà bên kia đường luôn xô đẩy và hiếp đáp tôi. Một lần khi thấy tôi bỏ về, bà chặn tôi lại và ra lệnh: "Hãy đi ra ngoài ấy. Nếu Suzy đánh con, con có quyền đánh lại nó. Hãy tự bảo vệ mình. Trong nhà này không có chỗ cho những người hèn yếu". Sau đó bà núp sau rèm cửa nhà bếp nhìn tôi gồng mình lên và quay lại "đấu trường" bên kia đường. Rồi tôi trở về sau vài phút, mặt bừng lên vì chiến thắng: "Giờ thì con có thể chơi với bọn con trai. Còn Suzy vẫn sẽ là bạn con".
Cha mẹ tôi có những quan niệm chính trị khác nhau, luôn tranh luận về những vấn đề chính trị quanh bàn ăn mỗi ngày, nhờ đó tôi hiểu được rằng những quan điểm khác nhau vẫn có thể cùng tồn tại dưới một mái nhà.
Cho đến năm 12 tuổi, tôi đã có thể phát biểu những quan điểm riêng của mình. Những niềm tin của tôi ngày nay đều là kết quả tổng hợp và lựa chọn những quan điểm về giá trị cuộc sống của cha mẹ tôi trước đây.
Cô con gái Chelsea được bà Hillary gọi là "điều kỳ diệu của đời tôi". Cách bà Hillary dạy dỗ con gái chính là cách bà tự hoàn thiện mình. (LND)
Sự ra đời của Chelsea là điều kỳ diệu và hứng khởi nhất trong cuộc đời tôi.
Ngay sau khi Chelsea chào đời năm 1980, Bill ôm Chelsea trong tay và đi vòng quanh bệnh viện để "tạo nên mối dây giao cảm cha con". Bill hát cho con nghe, ru con ngủ, khoe con với mọi người và nói rằng anh ấy đã 'phát minh' ra tình phụ tử. Với tôi, Chelsea là điều bí ẩn lớn nhất - có những lúc Chelsea khóc mà tôi không tài nào dỗ nổi. Tôi thường nói với bé Chelsea lúc đó: "Chelsea, đây là điều hoàn toàn mới đối với cả hai mẹ con. Mẹ chưa bao giờ làm mẹ, con cũng chưa bao giờ làm em bé. Chúng ta phải giúp nhau để làm được điều đó tốt nhất con nhé". (...)
Đến khoảng năm 1986, Chelsea bắt đầu hiểu được mơ hồ là có người cha nổi tiếng là thế nào. Trước đó, năm Chelsea 4 tuổi, có người hỏi Bill làm nghề gì, bé nói: "Cha con nói chuyện điện thoại, uống cà phê và giảng giải". Nhưng đến năm 1986 thì chúng tôi phi chuẩn bị tinh thần để cho bé hiểu những tiểu tiết tiêu cực trong chính trị, cụ thể là việc những lực lượng đối lập có thể nói này nói kia về cha mẹ của bé. Chúng tôi ngồi quanh bàn ăn, giả vờ như đang trong một buổi tranh luận chính trị trong đó tôi đóng vai chính khách đối lập chỉ trích Bill không làm tốt vai trò thống đốc. Bé Chelsea tròn xoe mắt, không tin nổi là người ta có thể nói về cha của bé những điều tồi tệ như thế. (...)
Cho đến thời điểm đó, làm con tổng thống luôn là điều khó khăn. Bill và tôi vẫn cố sắp xếp thời gian để ăn tối cùng với con và nói về những chuyện thuần tuý gia đình, như kế hoạch cuối tuần hoặc là những chuyến đi nghỉ. Tôi cũng cố gắng loanh quanh ở khu vực phòng Chelsea vào những lúc cháu đi học ballet về vì biết đâu Chelsea có điều gì cần trao đổi. Ít nhất thì tôi cũng muốn được thấy bóng dáng con tôi trước khi cháu bước vào phòng riêng...
Ngày kỷ niệm sinh nhật cháu, chúng tôi bàn về những trường đại học mà Chelsea có thể nộp đơn. Suốt buổi, Chelsea chỉ ngồi im lặng, nhưng cuối cùng lại đột ngột lên tiếng: "Ba mẹ biết không, con nghĩ là con muốn đến xem trường đại học Stanford". Tôi quên phắt việc kiềm chế phản ứng tâm lý, nói ngay: "Cái gì cơ, Stanford quá xa nhà. con không thể đi xa như thế - cách đây đến những ba múi giờ. Cha mẹ sẽ không có lúc nào gặp con cả". Bill xiết chặt tay tôi và nói với Chelsea: "Con cưng, con có thể đi bất cứ nơi đâu con muốn". Buổi trò chuyện kéo tôi về thực tế: đằng nào thì hơn một năm nữa, con gái sẽ rời xa chúng tôi. Có lẽ con tôi đã sẵn sàng, nhưng tôi thì chưa. (...)
Cuối cùng Chelsea cũng được nhận vào S. Tôi cố gắng không thể hiện tâm trạng âu sầu vì cảm giác sắp mất con, vì sợ rằng tôi sẽ làm hỏng mất khoảnh khắc quan trọng này trong đời con mình. Tôi tự an ủi mình bằng cách dành thật nhiều thời gian cho Chelsea. Chúng tôi chơi trò chơi để giải toả tâm lý này, và rồi tôi cũng vượt qua được giai đoạn khó khăn đó...
... Tôi nhận ra rằng Bill và tôi phải nói chuyện với Chelsea về điều này (vụ Monica Lewinsky). Khi tôi nói Bill phải tự làm điều đó, mắt anh nhoà lệ. Bill đã phản bội niềm tin trong cuộc hôn nhân của chúng tôi, và cả hai chúng tôi biết điều đó có thể là một đổ vỡ không thể hàn gắn được. Mà bây giờ chúng tôi lại còn phải nói với Chelsea rằng Bill cũng đã lừa dối cháu nữa. Đó là những giây phút khủng khiếp đối với tất cả chúng tôi...
Một giai đoạn gay go khác của Hillary là khi bà phân vân có nên ra tranh cử hay không (LND).
Một trong những niềm an ủi trong lúc tôi cân nhắc về quyết định ra tranh cử là Bill - chúng tôi bắt đầu trò chuyện lại về những điều khác ngoài tình trạng hôn nhân của chúng tôi. Nhờ thế mà cả hai dần thoải mái trở lại. Bill rất cố gắng tỏ ra có ích, còn tôi thì tôn trọng ý kiến của anh ấy. Bill cẩn thận trao đổi từng chi tiết những bận tâm của tôi và đánh giá từng khó khăn mà tôi có thể gặp phải. Chúng tôi đổi vị trí cho nhau, giờ thì Bill đóng vai trò mà trước đây tôi vẫn hay làm đối với chồng mình. Dù sao tôi vẫn thấy mình băn khoăn mãi - khi thì tôi nghĩ tranh cử là điều tuyệt vời, khi thì tôi thấy đó là điều điên rồ. (...)
Hai khó khăn nhất trong đời mà tôi phải đương đầu cho đến nay là giữ cuộc hôn nhân của Bill và tôi, và ra tranh cử ghế thượng viện tiểu bang New York. Đến giờ, tôi biết tôi muốn cuộc hôn nhân của tôi được bền vững vì tôi yêu Bill và trân trọng những tháng năm chúng tôi sống cùng nhau. Tôi biết tôi không thể nuôi dưỡng Chelsea một mình tốt bằng khi tôi và Bill cùng nhau nuôi dưỡng cháu. Tôi biết mình có thể sống một mình và sống tốt, nhưng tôi vẫn mong tôi và Bill có thể cùng nhau đi đến cuối con đường. Chúng tôi đã hứa cùng nhau xây dựng lại cuộc hôn nhân này với niềm tin, tình yêu và quá khứ san sẻ cùng nhau. Khi tôi nhận rõ ra điều này, tôi thấy mình sẵn sàng hơn trong việc bắt đầu bước vào cuộc tranh cử. (...)
Mục tiêu của tôi là đi đến 62 hạt trong toàn tiểu bang. Tôi dừng lại các quán nhỏ bên đường như cách mà Bill và tôi từng làm trước đây, dù chỉ có vài người trong quán tôi cũng dừng để bước vào và trò chuyện với họ về những mối bận tâm của mọi người. Với tôi, đó là cách tốt nhất để tiếp cận những vấn đề của người dân. Nhưng tôi không cảm thấy mệt mà ngược lại, cuộc vận động tiếp thêm năng lượng cho tôi, tôi học được cách lắng nghe người khác, xem xét những lựa chọn khác nhau và quyết định dựa trên bản năng của mình (...)
Ngày cuối cùng ở Nhà Trắng (LND)
Tôi cảm ơn người nhân viên phụ trách trang hoàng hoa cho từng căn phòng trong Nhà Trắng, cảm ơn những người đã làm bếp cho chúng tôi, những người đã cẩn thận chăm sóc nơi ở này. Tôi ôm những người xung quanh để tạm biệt, và rồi biến những giây phút này thành vũ điệu chia tay. Chúng tôi xoay tròn trong gian phòng lát đá. Chồng tôi chen vào, ôm tôi trong vòng tay và chúng tôi nhảy điệu valse suốt chiều dài hành lang rộng. Lúc đó, tôi nói lời chia tay với ngôi nhà mà tôi đã sống 8 năm trong dòng lịch sử.

Hòang Thanh Tâm - Khánh Ly / Chuyện Tình Buồn