Chợ An Ðông và khu chung cư chung quanh chợ được xây cất vào năm 1954, năm đất nước chia đôi, trên một khu đất trống và rộng thuộc Quận 5 Chợ Lớn. Toàn bộ khu vực này nằm ở giữa hai đại lộ Hùng Vương có con đường sắt chạy song song ở phía bắc và đại lộ Hồng Bàng ở phía nam; tiếp giáp hai mạn đông, tây là hai con đường nhỏ Yết Kiêu và Nguyễn Duy Dương. Chung cư An Ðông gồm bốn khu ba từng, mỗi khu hình chữ L, bao quây lấy chợ nằm ở chính giữa, tổng cộng gồm khoảng bốn năm trăm đơn vị gia cư.
Tôi rời Hà Nội vào Nam rất sớm. Năm 1951 tôi đã theo bố tôi và người chị
cả vào định cư ở Sài Gòn trong khi mẹ tôi và các anh chị tôi vẫn còn ở
Hà Nội cho đến ngày di cư. Vào Nam ba bố con tôi ở chung với gia đình
người bác ở đầu đường Hồng Thập Tự gần sở thú Sài Gòn. Thời gian chúng
tôi ở đó tôi thường theo các anh họ tôi đạp xe đi tắm ở hồ bơi mà hồi đó
chúng tôi gọi là “đi pít-xin”. Hồ bơi ở xa lắm, mãi tuốt trong Chợ Lớn.
Tôi nhớ là để tới hồ bơi chúng tôi phải dắt xe đi ngang một con đường
sắt, rồi lại phải băng qua một bãi đất trống rất rộng mấp mô đầy những
mồ mả.
Chợ An Đông (Ảnh chụp năm 1967)
Nếu tôi chỉ nói cái số nhà 39 thì chắc chẳng một ai hình dung căn nhà
của mẹ tôi nằm ở chỗ nào trong khu chợ An Ðông. Nhưng nếu nói nó ở ngay
sát cạnh quán cơm gà nổi tiếng Siu Siu thì có thể nhiều người hình dung
ra ngay. Siu Siu là một quán cóc nằm sát bên hông nhà mẹ tôi. Ông Siu
Siu khi mở quán này đã thương lượng với mẹ tôi câu điện từ trong nhà
chúng tôi để thắp đèn trong quán, lại dùng cái vỉa hè ngay trước cửa nhà
chúng tôi để đặt bàn ăn. Bù lại ông Siu Siu mỗi tháng trả cho cho mẹ
tôi một khoản tiền. Trong suốt hai mươi năm trời chúng tôi ăn cơm gà trừ
dần vào khoản tiền này, ăn nhiều phát ớn, đến độ tôi phải tự hỏi cơm gà
Siu Siu thì ngon quái gì mà đông người đến ăn như thế. Mỗi buổi chiều
từ trên ban công nhìn xuống dưới hè ở trước nhà tôi thường quan sát thực
khách ăn ở phía dưới. Tôi nhận diện không biết bao nhiêu những khuôn
mặt nổi tiếng, từ minh tinh tài tử, văn nhân nghệ sĩ cho đến những nhân
vật chính trị và quân sự quan trọng của miền Nam, và tôi thường tựï hỏi
trong số những thực khách ấy có mấy ai biết là mình ngồi ăn ở ngay trước
cửa căn nhà của mẹ tôi, bà Nhất Linh.
Năm 1954 khi chúng tôi dọn đến ở thì khu chung cư An Ðông này chưa hoàn
toàn xây xong. Chúng tôi là một trong số rất ít những người đầu tiên đến
cư ngụ. Tôi khám phá ra là cả cái chợ này lẫn khu chung cư được xây
ngay trên cái bãi đất tha ma rộng mênh mông mà mấy năm trước tôi đã phải
dắt xe đạp đi ngang qua mỗi lần tắm “pít-xin”. Bây giờ thì cái hồ tắm
ấy gọi là hồ tắm An Ðông nằm ngay cạnh chung cư chúng tôi ở cách con
đường nhỏ Yết Kiêu.
Năm đó tôi được mười bốn tuổi. Kỷ niệm của tôi về những ngày đầu tiên
đến ở căn nhà ấy là một trận ốm kịch liệt khiến tôi phải nằm bẹp trên
giường tới hơn một tuần lễ. Căn nhà mới tinh, phòng ốc còn trống trơn vì
chưa có nhiều đồ đạc. Tôi ngửi thấy từ nhừng bức tường cái mùi nồng
nồng của nước vôi mới quét. Những ngày ốm tôi nằm hầu như một mình trong
căn gác trống trải, tai nghe từ một cái máy phóng thanh đặt trên nóc
chợ phát ra những bài hát cổ trong một tuồng tích Tàu, chắc hẳn là để
quảng cáo cho cái chợ và khu chung cư mới xây cất. Tiếng phèng la inh ỏi
xen lẫn tiếng hát giọng Quảng Ðông léo nhéo nghe chua như tiếng mèo gào
động đực. Cheng hoèng… e… ếng, e… ê… pẩy… coong… Trong cơn mê bệnh tôi
thấy mình nằm trên một bãi tha ma (mà quả là tôi đang nằm trên bãi tha
ma thật) có tiếng kèn nhão nhoét và tiếng hát ỉ ôi vẳng lại nghe hệt như
từ một đám ma Tàu tôi vẫn thường thấy ở trong Chợ Lớn.
Thời gian ấy bố tôi ở bên Pháp. Bố tôi ở Paris sáu tháng. Có anh cả tôi
là anh Việt đang du học bên đó. Ðầu năm 1955 khi bố tôi trở về Sài Gòn ở
căn nhà chung cư thì khu vực này đã tấp nập, chợ An Ðông ồn ào tiếng
người mua bán và tất cả cả đơn vị gia cư đã kín người ở. Ða số người ở
chung cư An Ðông là người Việt gốc Hoa và người Bắc di cư.
Bố tôi về nước mang theo cây kèn clarinet ông mua ở bên Pháp. Thỉnh
thoảng ông lấy kèn ra thổi dăm ba bản nhạc Tây. Tiếng hắc tiêu của ông
được đệm bởi tiếng chợ búa ồn ào ở dưới nhà, lâu lâu lại phụ họa những
tiếng chửi nhau rất là thô tục của đám người trong chợ đang giành nhau
một cái sạp hàng. Tôi không ngạc nhiên khi thấy chỉ ít lâu sau bố tôi
giã từ đám thính giả ở chợ An Ðông và xách kèn lên Ðà Lạt ở liền trên đó
mấy năm. Tôi cũng được gửi lên đó sống bên cạnh bố. Ở trên Ðà Lạt quả
nhiên tiếng kèn của ông được lắng nghe. Mỗi buổi chiều thứ Bẩy bố tôi tổ
chức hòa nhạc tại gia, ngoài tiếng hắc tiêu của ông lại có sự phụ họa
tiếng đàn lục huyền cầm của giáo sư Vĩnh Tường. Khách đi đường, người
ghếch xe đạp kẻ ngừng chân bước, lắng nghe tiếng nhạc hòa tấu vẳng ra từ
trên lầu căn nhà chúng tôi ở trên đường Yersin trong bầu không khí êm ả
của buổi chiều Ðà Lạt.
Năm 1958 bố tôi trở về Sài Gòn làm báo Văn Hóa Ngày Nay. Cố nhiên là bố
tôi không ở căn chung cư của mẹ tôi. Ông thuê một căn gác trên đường
Trương Minh Giảng để ở và lấy chỗ làm việc. Còn tôi thì dính liền với
chợ An Ðông và căn nhà của mẹ tôi cho đến ngày di tản qua Mỹ. Tính ra
tôi đã căn nhà đó tròn hai mươi năm, giữa hai cuộc di cư, từ cuộc di cư
năm 1954 cho đến cuộc di tản năm 1975.
Hai mươi năm sống dưới một mái nhà thật ra chẳng lâu gì cho lắm, còn
thua cả thời gian chúng tôi từng sống ở một ngôi nhà trên đất Mỹ. Nhưng
không hiểu sao mỗi lần nhớ về quá khứ tôi có cảm tưởng như thời gian ở
đấy dài lắm, dài nhất trong đời tôi. Sao lạ thế nhỉ? Phải chăng vì thời
gian ấy tôi ở Việt Nam và trải qua nhiều biến động nhất trong đời? Hay
chỉ vì đó là thời gian tôi ở giữa lứa tuổi từ 14 đến 35, tức là lứa tuổi
mà có lẽ ở bất cứ người nào cũng đều cho là đẹp và đáng ghi nhớ nhất?
Chợ An Ðông mỗi sáng họp rất sớm. Mới ba bốn giờ trời còn tối người ta
đã sửa soạn họp chợ. Từ dưới nhà vẳng lên gác tiếng động lạch cạch của
những người phu khuân vác đóng xếp những sạp hàng bầy trên mặt đường
quanh chợ. Trong bao nhiêu năm tiếng lạch cạch đều đặn ấy đã thấm sâu
vào trong giấc ngủ của chúng tôi. Ðến khi tỉnh giấc thì tiếng ồn ào của
chợ đã òa vỡ ở bên ngoài. Từ ban công lầu hai nhìn xuống dưới đường
những chiếc bạt vải che mưa nắng dựng lên chi chít; qua những khoảng hở
giữa hai cánh bạt là đầu và vai của những người đi chợ chen nhau qua lại
giữa những sạp hàng. Ðến trưa thì tiếng ồn tắt. Chợ vãn. Bạt che, sạp
hàng thoắt cái biến mất, mặt đường quanh chợ bỗng vắng te, một vài con
chó sục sạo trong đống rác. Trong cơn nóng hực của thành phố Sài Gòn chợ
An Ðông cũng theo người lịm vào giấc nghỉ trưa. Trôi đi trong giấc ngủ
nặng nề tôi nghe có tiếng chổi quét uể oải “lẹt xẹt lẹt xẹt” của mấy
người phu quét đường. Cho đến năm giờ thì chợ lại thức dậy bởi tiếng
động lạch cạch bầy bàn của quán cơm gà Siu Siu.
Chiều đến khi cơn nắng đã dịu tôi thường bắc ghế ra ngồi ở ban công nơi
mẹ tôi có trồng ở góc một cây hoa giấy, cành lá và hoa giấy đỏ leo trên
một tấm lưới sắt thưa. Ðiếu thuốc lá Capstan trên môi tôi thường nhìn
qua những bông hoa giấy ngắm cảnh chợ vãn từ trên cao. Phía bên kia
đường Nguyễn Duy Dương là trường trung học Trí Dũng quét màu vôi đỏ, giờ
tan trường những cô cậu học sinh Tàu trong bộ đồng phục xanh trắng cà
vạt đỏ đi túa ra khỏi cổng. Trên hè lề đường ngay phía dưới ban công
những thực khách của quán Siu Siu ngồi ăn uống ngon lành, trên mặt bàn
ăn những chai lớn chai nhỏ bia Larue đầu cọp, bia “33”, những đĩa thịt
gà trắng nuột nà, những bát cơm gà nóng bốc khói. Thỉnh thoảng tôi thấy
mẹ tôi bước ra cửa gọi cơm để đãi khách và bao giờ cũng vậy ông chủ Siu
Siu đích thân bưng cơm và thịt gà vào trong nhà cho mẹ tôi. Biết ý mẹ
tôi ông luôn luôn mang vào một khẩu phần đặc biệt: một đĩa đùi gà được
chặt rất khéo có thêm vài ba cái phao câu và một đĩa lòng gà gồm gan,
mề, lòng, điểm mươi quả trứng bé bé xinh xinh màu vàng ngậy.
Khách đến chơi nhà mẹ tôi vào buổi sáng nếu đi xe hai bánh thì phải dắt
xe luồn lách giữa những sạp hàng trước khi có thể tách lên lề dựng xe
trước cửa. Vì ở vị trí góc trông ra hai mặt đường nên nhà có hai cánh
cửa lớn, loại cửa kéo ra kéo vào bằng sắt, cửa trông ra phía chợ thường
xuyên đóng, chỉ mở cửa sắt bên hông phía cơm gà Siu Siu. Nếu khách đến
vào buổi chiều hay tối thì có thể đậu xe sát lề đường rồi đi qua bàn của
quán cơm gà để vào nhà. Một tấm bảng đề hiệu “CẨM LỢI chuyên bán sỉ cau
khô” gắn trên cánh cửa sắt, ngay phía dưới ban công.
Những bồ cau khô chất cao gần đụng trần chiếm nửa diện tích căn nhà dưới
của mẹ tôi, một cái cân khá lớn đặt ngay cửa, một cái sập gỗ thấp và
một cái két sắt nặng nề. Phần còn lại để trống chừa lối đi vào nhà
trong. Nhà trong là một khoảng hẹp dùng laøm bếp, cạnh có cầu thang bậc
cao, hẹp, gấp khúc ở giữa để lên gác. Dưới lòng cầu thang là cầu tiêu
phòng tắm. Ðấy, hiệu cau Cẩm Lợi của mẹ tôi như thế đấy. Nó bé và chật
chội lắm, không thể nào sánh được với hiệu cau khá rộng của bà ở số 15
hàng Bè Hà Nội trước ngày di cư.
Căn trên gác là thế giới của chúng tôi. Chúng tôi là tất cả mọi người
trong nhà ngoại trừ mẹ tôi. Rộng 4×12 mét vuông căn gác để mấy thứ sau
đây đã chật cứng: một cái sập gụ to bằng gỗ quí, một cái đi văng, một
tấm phản, một bộ bàn ăn, một tủ gương đựng quần áo, một cái tủ chè dùng
làm bàn thờ. Cạnh chiếc bàn ăn đóng sát vào thành tường là một cái giá
đựng sách. Treo trên cao là hai bức tranh chân dung bố mẹ tôi do họa sĩ
Nguyễn Gia Trí vẽ, bức họa bố tôi tay cầm bao thuốc lá và mẹ tôi cầm một
miếng cau. Ðồ đạc ở trong nhà có bốn thứ mẹ tôi đã mất công thuê chở từ
Hà Nội vào, đó là cái cân, cái két sắt để ở dưới nhà và cái sập gụ, cái
tủ chè để ở trên gác. Gác là chỗ để chúng tôi ăn ngủ. Còn chỗ để chúng
tôi mơ mộng là hai cái ban công nhỏ được làm đẹp bằng những giàn hoa
giấy. Những phút mộng mơ hiếm hoi của chúng tôi tuy thế chẳng bao giờ
trọn vẹn vì ban công lúc nào cũng thoảng mùi cứt mèo chua loét mà mũi
chúng tôi không tài nào làm quen nổi. Chả là chợ An Ðông có cả một đạo
quân những con mèo hoang, chúng cứ nhè những khoảng đất trồng cây rất
hiếm hoi để đào bới ỉa bậy. Hàng đêm vào mùa động đực những con mèo
hoang này thường đuổi nhau trên thành ban công, những ban công nối sát
nhau chạy dài suốt dọc lầu hai của mấy chục căn chung cư. Vì nhà mẹ tôi ở
góc nên con mèo bị săn đuổi chạy đến trước nhà chúng tôi là cùng đường,
nó quay lại cong mình gầm gừ, rồi tiếng mèo gào động đực ré lên chọc
thủng giấc mơ của chúng tôi đánh thức chúng tôi dậy nhiều lần trong đêm.
Mẹ tôi có cả một thế giới riêng của bà ở nhà dưới. Quanh bà là những
người giúp việc. Một người lo việc cơm nước và một người chuyên làm việc
nặng khuân vác cau. Trong số những người giúp việc ấy có bà Hai và chú
Tiều là hai người mà tôi nhớ đến nhất mỗi khi hồi tưởng về căn nhà cũ
của mẹ.
Bà Hai già lắm, đầu vấn khăn, miệng móm mém, người nhỏ thó, đi đứng lòm
khòm vì lưng còng, có tật nói năng lung tung chẳng kiêng nể một ai vì
thế ai cũng ngán bà. Mỗi tối bà có thể cong người nằm gọn lỏn như một
con tôm trên mặt cái bàn cân. Vì vậy cái cân trở thành giường ngủ của
bà.
Chợ An Đông trước năm 1975
Góc bán gà vịt
Các bà bán rau.
Cửa hàng đồ sứ.
Trò ảo thuật của gánh thuốc Sơn Đông.
Quầy thuốc lá trên vỉa hè.
Xe sinh tố ngày ấy.
Chú Tiều ở tuổi trung niên người Hoa, đầu hói, quanh năm mặc cái quần xà
lỏn phô tấm thân lực lưỡng, nhưng chú lại bị bệnh khùng, suốt ngày nói
năng lảm nhảm không thua bà Hai nhưng nói bằng tiếng Tàu chả ai hiểu chú
nói gì. Không như bà Hai được mướn thường trực và ở luôn tại nhà, chú
Tiều sống lây lất trong chợ, được mẹ tôi kêu tới mướn mỗi khi cần có
người làm việc nặng. Sau này vì tội nghiệp muốn giúp đỡ thêm cho chú nên
ngay cả những công việc nhẹ như xấy cau, sàng cau hoặc dọn dẹp nhà cửa
mẹ tôi cũng nhất nhất gọi chú tới làm, thành thử chú có mặt ở nhà mẹ tôi
hầu như thường xuyên. Chú làm việc gì cũng rất kỹ lưỡng từng li từng tí
lại rất lương thiện không tơ hào của ai một đồng bạc cắc nên rất được
mẹ tôi thương. Không ai biết thật rõ tông tích chú Tiều. Dân trong chợ
kháo nhau là chú có gia đình ở đường Nguyễn Trãi nhưng cha mẹ chết hết.
Chú ở với anh chị nhưng chị dâu không thương, khinh rẻ hành hạ chú vì
thấy chú khùng, chú giận bỏ nhà ra đi, sống lây lất trên các đường phố
rồi cuối cùng đến chợ An Ðông lượm của dư của đổ của mấy bà gánh bún cơm
phở mà ăn. Tối đến chú ngủ ngoài hiên bên hông nhà mẹ tôi. Mẹ tôi thấy
tội nên sai người làm mang cái mền nhà binh đắp cho chú để chú đỡ lạnh
và đỡ muỗi cắn. Sau này thì chú tìm được chỗ ngủ tốt hơn ở trong chợ.
Xe hủ tiếu mì đặc trưng của người Hoa thời bấy giờ.
Mẹ tôi mặc chiếc áo cánh, đầu vấn khăn, ngồi trên chiếc sập gỗ dưới nhà
đôn đốc người làm và tiếp khách. Bà hình như bận bịu suốt này với khách
khứa. Khách gồm cả người bán cau lẫn người mua cau. Mẹ tôi từ khi vào
Nam không ôm đồm bán bán lẻ bán sỉ cau khô lẫn cau tươi như hồi còn ở
ngoài Bắc, bà chỉ chuyên bán sỉ cau khô. Nguồn cung cấp cau chính là
tỉnh Quảng Nam ở miền Trung và tỉnh Bến Tre ở miền Nam. Mẹ tôi thường
xuyên mua cau từ các đại lý của hai vùng ấy mà người đại diện là bà Năm
Dung (chúng tôi thường gọi là cô Năm Dung) ở Hội An và bà Thái Nguyên ở
Bến Tre. Ngoài ra mẹ tôi cũng mua cau từ đại lý của ông Cơ Tấn ở trong
Chợ Lớn. Qua mấy chục năm buôn bán và giao hảo tốt đẹp những người đó đã
trở thành những người bạn cau thân thiết của mẹ tôi. Còn chúng tôi xem
cô Năm Dung, bà Thái Nguyên, ông Cơ Tấn như người nhà. Mẹ tôi cũng có
nhiều dịp đi Hội An và Bến Tre để tìm hiểu tình hình cau và mua cau
thẳng từ nguồn. Cau khô mẹ tôi mua về được phân loại, cau tốt để riêng,
cau mốc được tẩy trắng bằng diêm sinh, được đóng bao rồi bán lại cho các
bạn hàng chợ trong vùng Sài Gòn – Chợ Lớn.
Mỗi lần xe hàng tới là một ngày bận rộn. Chú Tiều được gọi đến. Chiếc xe
cam nhông quay đít vào lề đường (xe bao giờ cũng giao hàng vào buổi
chiều vì buổi sáng chợ họp không vào được), cảng phía sau mở, một tấm
ván bắc từ sau xe xuống hè làm cầu thang. Quàng một tấm khăn đỏ lên vai
chú Tiều lên xe cúi mình kê vai vác từng bao tải cau lớn bước xuống
thanh ván. Vào nhà chú nghiêng vai thẩy lên bàn cân để cân trước khi bao
cau được chất đống trong nhà. Mẹ tôi lắp cặp kính lão vào mắt đứng bên
cạnh bàn cân, cúi xuống xê dịch quả tạ trên cán cân, xê qua xê lại cho
tới khi hai cái mũi cân thăng bằng, rồi bà rút cái que chổi cắm trong
một lọ mực tím bắt đầu nghệch ngoạc viết lên trên bao cau: “Cau Mỹ Lợi
41,8 ký”. Chú Tiều trong lúc chờ đợi mẹ tôi cân cau thì ngửa mặt nhìn
trần nhà, đầu nghếch một bên, ngón tay đưa cao chỉ vào một góc tường,
miệng nói lảm nhảm tiếng Tiều Châu, như thể chú đang nói chuyện với một
con thạch sùng nào đó trên trần nhà. Mặc dù chú có vẻ hoàn toàn lạc hẳn
trong thế giới riêng nhưng chú Tiều tỉnh lắm, chú biết rất chính xác khi
nào mẹ tôi cân xong. Mẹ tôi vừa cắm cái que chổi vào lại lọ mực thì tức
thời chú cúi xuống sát bàn cân, nghiêng vai vác bao cau lên chất cao
trên đống bao tải rồi chú lại lững thững đi ra ngoài, cái đầu nghiêng
nghiêng, miệng xùi nước miếng, một cánh tay giơ cao dứ dứ lên trời, chú
bước lên tấm ván để sửa soạn vác một bao cau khác.
Mẹ tôi cân và đánh dấu các bao cau xong thì giơ một ngón tay đẩy cặp
kính lão xuống sống mũi, khẽ cúi đầu nhướng mắt nhìn quanh quất. “Mấy
đứa nó đâu hết cả rồi? Này! Bà Hai, bà lên gác bảo mấy cô cậu xuống tính
sổ”. Bà Hai lầm bầm câu gì trong miệng, lững thững đi qua nhà bếp để
lên gác. Cầu thang hẹp lại dốc, bà đã cao tuổi nên rất ngại mỗi lần phải
lên gác, tiếng lầm bầm chắc là để rủa chúng tôi. Khi chúng tôi bước
xuống cầu thang tay cầm sẵn giấy bút thì ở dưới nhà ồn lên tiếng tranh
cãi. Quá quen cảnh đôi co về giá cả giữa mẹ tôi và khách nên chúng tôi
thường kiên nhẫn chờ cho đến khi đôi bên tỏ vẻ đồng ý nhau mới bắt đầu
tính sổ. Hồi đó làm gì có máy tính chúng tôi phải làm hàng chục những
con tính nhân. “Cau Mỹ Lợi một bao nặng 41, 8 ký, mỗi ký giá…. đồng…
Thành tiền là… Cau Mỹ Lồng 35.9 ký… Mỗi ký giá… Cau Xuồng…”. Vừa tính
toán xong thì mẹ tôi và khách lại đổi ý, hai người lại cò kè thêm một
bớt hai, khách thì bảo cái cân nhà chúng tôi sai, mẹ tôi thì chê cau
đắt, cau xấu, cứ ồn cả lên. Thành thử chúng tôi phải tính lại có khi đến
vài lần. “Bà tính đắt thế thì chúng tôi làm sao sống nổi”. Mẹ tôi hay
nói thế nếu mẹ tôi là người mua cau. Còn nếu mẹ tôi là người bán cau thì
câu nói trên lại được chuyển qua miệng khách hàng. Cứ như thế cảnh đôi
co được lập đi lập lại trong suốt mấy chục năm buôn cau của mẹ tôi.
Đến thập niên 90 vẫn còn vài chiếc xe chè, nước ngọt như chiếc này, mãi về sau thì gần như đi vào dĩ vãng.
Không ai để ý đến chú Tiều lúc ấy đang đổ cau ra sàng để phơi. Khách đã
quen với tính khùng của chú nên mặc kệ chú nói lảm nhảm. Nhưng chú Tiều
ngoài bệnh tâm trí lâu lâu lại lên cơn nhức đầu búa bổ. Lúc lên cơn chú
thường ôm đầu trợn mắt, miệng rú lên khiến mẹ tôi phải quát: “Tiều, mày
điên quá làm khách của tao sợ… Ðây này cầm lấy mấy chục đi đâu khuất
mắt, khi nào hết điên trở lại”. Mẹ tôi cũng dốc vào tay chú mấy viên
thuốc nhức đầu Opthalidon từ trong một hộp thuốc chúng tôi mua sẵn cho
chú để trên nóc cái két sắt. Chú nhét tiền và thuốc vào cạp quần rồi
lững thững vừa hú vừa đi vào trong chợ.
Mẹ tôi mỗi khi đi khỏi nhà thì hai cánh cửa sắt ở nhà dưới được khép
chặt lại. Cửa ấy khi sập vào nhau thì cái móc sắt ở cánh bên này quàng
vào cánh bên kia và cửa tự động khóa. Muốn mở cần một chiếc chìa khóa
lớn. Nhưng chiếc chìa khóa này đã bị mất từ thời tám đại nào rồi. Mẹ tôi
nhiều lần bảo chúng tôi gọi thợ đến làm cái chìa khác nhưng chúng tôi
lười chẳng ai chịu đi. Chúng tôi bảo bà rằng chẳng cần chìa chiếc gì ráo
trọi, một con dao phay lớn nậy xoẹt một cái là cửa bung ngay. Vì thế
trong bao nhiêu năm cánh cửa sắt của hiệu cau Cẩm Lợi được mở bằng con
dao phay. Khách vô phúc đến chơi nhà tôi nhằm đúng lúc cửa đóng đang
rung cửa để gọi thì bắt gặp một ông Tàu lừng lững từ trong nhà tiến lại,
tay dứ lên trời con dao phay sáng quắc, cảnh tượng ấy trông thật hãi
hùng!
Chú Tiều khi không có việc gì làm ở nhà mẹ tôi thì lang thang ngoài chợ.
Chú tự động quét sân chợ và lượm rác rất sạch sẽ. Hễ đói bụng là chú la
cà mấy gánh phở, bún riêu. Khách ăn xong còn thừa là chú bưng tô húp.
Có khi chú lại thò tay vào cả cái sô mà mấy bà bán bún phở đổ đồ ăn thừa
để đem về cho heo ăn. Chú bốc đồ trong sô bỏ miệng ăn tỉnh khô. Mấy bà
bán bún thấy tội nghiệp nên thường để dành đồ dư trong tô cho chú. Buổi
chiều chú phụ dọn bàn dùm cho ông Siu Siu. Ông Siu Siu cho chú 5 đồng
uống cà phê và để dành cho chú cơm và thịt gà dư của khách. Vì vậy chú
Tiều càng ngày càng béo trắng ra, trông như con nhà giầu vậy.
Thuở ấy tôi có nhiều bạn bè đến chơi lắm. Như tất cả những thanh niên
khác cùng trang lứa lũ chúng tôi năm ba mống thân nhau từ thời niên
thiếu, cùng trải qua thời trung học, cùng vào đại học, để rồi sau rốt
đứa trước đứa sau cùng lên đường nhập ngũ. Mẹ tôi coi những người bạn
của con mình như con đẻ nên ai cũng thích đến nhà tôi chơi. Nhiều đứa
còn ở lại ăn ngủ dầm dề nhiều ngày. Mẹ tôi thấy bạn tôi ở lại thì rất
vui, bà dặn người làm mua thêm thức ăn thức uống. Chỉ “thêm bát thêm
đũa” thôi mà. Bà nói. Lòng hiếu khách của mẹ tôi không phải không có lý
do: bà rất cần có người giúp bà trong việc tính sổ sách và viết thư cho
bạn hàng cau. Bà rất ngại phải sai mấy đứa con trai lười chẩy thây của
bà. “Mỗi lần nhờ đến chúng nó là mặt chúng nó nhăn như bị”. Mẹ tôi than
thở với mấy thằng bạn của tôi, những đứa mà – cố nhiên – lúc nào cũng tỏ
ra rất vui được tính sổ cho bà.
Bà Hai thì trái lại rất ghét mấy đứa bạn tôi, ghét ra mặt, bảo chúng nó
là lũ ăn hại. Thằng nào đến chơi gặp bà Hai ở dưới nhà là y như bị bà
chặn lại hỏi ngay: “Này cậu Hùng, cậu có ăn cơm không thì bảo cho tôi
biết trước”. Thằng bạn cười giả lả: “Ăn cũng được không ăn cũng không
sao mà, có gì đâu quan trọng bà Hai” – “Này này tôi bảo cho cậu biết. Ăn
thì nói ăn. Không ăn thì nói không ăn. Chứ cái kiểu đến giờ cơm cứ lỉnh
lỉnh ngồi vào bàn là không được với tôi đâu nhá” – “Ừ, bà đã nói thế
thì tôi ăn vậy”. Nói xong nó lỉnh lên gác. Ðằng sau lưng nó có tiếng lầm
bầm: “Ăn thì cứ như hạm ăn ấy. Ðâu có phải chỉ là thêm bát thêm đũa!”.
Còn bạn gái của tôi thì – hỡi trời! – năm thì mười họa mới được nàng hân
hạnh đặt bước tới thăm, gặp bà Hai thì cạch tới già không bước chân trở
lại. Bà Hai hỏi thẳng, sỗ sàng: “Cô gặp cậu ấy để làm gì?”. Lúc tiễn cô
bạn ra cửa tôi còn nghe phía sau lưng tiếng nguýt lẫn tiếng lẩm bẩm
(may mà cô bạn không nghe thấy): “Thế này thì nát một đời hoa rồi còn gì
nữa!”. Anh Triệu tôi sau này lấy vợ anh mua căn chung cư số 41 ngay sát
cạnh để ở. Mẹ tôi và anh đồng ý cho thợ đục vách tường chỗ cầu thang để
hai nhà ăn thông với nhau. Trước khi đưa vợ về ở anh lo nhất là bà Hai
có thể nói điều gì làm phật ý cô vợ trẻ của mình. Anh bèn dúi bà một số
tiền, năn nỉ bà giữ miệng không được ăn nói lung tung. Bà Hai nghoẻn nụ
cười móm: “Thế tôi khen cô ấy có được không?” – “Không! Khen cũng
không!”. Anh tôi la lên. “Bà cứ ngậm miệng cho tôi nhờ!”.
Phía trước nhà mẹ tôi trên mặt đường mỗi buổi sáng bầy một dẫy sạp hàng
bán đủ thứ, nhiều nhất là sạp trái cây, vải vóc và quán ăn. Ngay trước
cửa nhà là ba quán bán cà-phê, cháo huyết và bánh cuốn.
Cà-phê bít tất của ông ba Tàu là chỗ lũ bạn bè chúng tôi ngồi thường
trực. Mẹ tôi thấy chúng tôi thích tụ họp ở đó thì ngạc nhiên lắm, bà nói
sao không bảo họ bưng cà-phê vào trong nhà ngồi uống có phải sạch sẽ
hơn không? Mẹ tôi đâu biết rằng tâm lý bọn trẻ chúng tôi là chỉ chờ trực
để có dịp “thoát ly” khung cảnh gia đình. Ngồi ở quán, cho dẫu chỉ cách
nhà vỏn vẹn ba bốn thước, cũng đủ làm chúng tôi thoải mái như ngồi ở
một chốn xa lạ nào khác. Cạnh quán cà-phê là hàng cháo huyết do một mụ
Tàu ngồi bán. Gọi là cháo huyết hay cháo hến cũng đúng vì cháo có cả
huyết lẫn hến. Buổi sáng sớm nào mà trời còn hây hây lạnh, húp bát cháo
hến nóng nóng cay cay mùi gừng, nhai miếng huyết sần sật và để tan trong
miệng miếng dầu cháo quẩy mềm nóng, đã lắm chứ!
Ngay cạnh quán cháo là hàng bánh cuốn. Không biết cô chủ quán này tên là
gì nhưng chúng tôi cũng cứ gọi là quán bánh cuốn cô Mùi. Cô bán hàng
người Bắc này ngồi ngay trước mũi chúng tôi trong bao nhiêu năm không
làm chúng tôi chú ý, cho tới khi truyện Cô Mùi trong tác phẩm Xóm Cầu
Mới của bố tôi được đăng lần đầu trên tập san Văn Hóa Ngày Nay vào năm
1958.
Hồi đó cảnh làng quê đất Bắc mà bố tôi tả trong truyện Xóm Cầu Mới xa lạ
với chúng tôi quá. Nó thuộc một thế giới rất xưa cũ không liên hệ gì
đến đời sống thực của chúng tôi ở chợ An Ðông. Vì vậy để “thực tế hóa”
chúng tôi tưởng tượng Xóm Cầu Mới là Xóm Cầu Muối (một cái cầu có thật
trong thành phố Sài Gòn, gần cầu Ông Lãnh)) và cô bán bánh cuốn trước
nhà thay thế cô Mùi trong truyện, mặc dù cô ta không có một tí nào nét
đẹp duyên dáng của cô Mùi trong mộng tưởng của chúng tôi khi đọc truyện.
Người cô mập tròn lại lùn tịt. Khi cười đôi mắt ti hí của cô nhắm tít
lại.
Tôi không biết là bố tôi có lần nào trông thấy “cô Mùi” chợ An Ðông này
chưa, nhưng chắc hẳn là bố tôi có nghe chúng tôi nhắc tới cô nhiều lần.
Từ dạo cô có tên gọi chúng tôi không bảo người làm mua bánh cuốn mang
vào nhà ăn như trước nữa mà ra ngồi hẳn cái sạp hàng của cô để có dịp
nói chuyện và trêu chọc cô. “Này cô Mùi, cô bán cho tôi một đĩa bánh
cuốn” – “Các anh cứ gọi em như thế, em đâu phải tên Mùi” – “Thế tên cô
là gì?… Mà thôi! Dẫu cô có tên là gì gì đi nữa tôi cũng cưù nhất định
gọi cô là Mùi vì tôi thích thế”.
Dĩ nhiên là cô Mùi này không hiểu vì sao chúng tôi lại gọi cô bằng cái
tên ấy vì chúng tôi không bao giờ giải thích. Như hầu hết dân chợ cô ta
chưa chắc đã biết ông Nhất Linh là ai, chứ đừng nói gì đến đọc truyện Cô
Mùi của Nhất Linh. Ngay cả khi bố tôi mất năm 1963, trong khi cả thành
phố Sài Gòn xôn xao trước cái chết của bố tôi thì dân buôn ở chợ không
mảy may hay biết là ở trên cái căn lầu số 39 chung cư An Ðông ấy, bố tôi
đã lặng lẽ uống độc dược tự tử để phản đối một chế độ.
Phải mãi nhiều năm sau ngày bố tôi mất, khoảng năm cuối của thập niên
60, thì tên Nhất Linh mới được mọi người dân chợ biết đến. Hồi ấy có một
dạo cứ mỗi lần tôi đi vào trong chợ là y như có tiếng xầm xì to nhỏ:
“Ðấy! Con ông Nhức Linh đấy!” – “Nhức Linh là ai vậy mày” – “Tao đâu có
biết ổng là ai. Nghe cổ nói dzậy thì biết dzậy thui! Cổ vô tận đây tìm
nhà ổng thì chắc ổng cũng phải là dân cỡ bự!”.
Người được nhắc tới với cái tên “cổ” không phải ai xa lạ mà là nữ minh
tinh màn bạc Thẩm Thúy Hằng. Cái ngày mà cô Thẩm Thúy Hằng xục xạo vào
chợ An Ðông để hỏi nhà của ông Nhất Linh là một biến cố lớn cho dân
trong chợ.
Sáng hôm ấy mẹ tôi đi vắng và – thiệt may – tôi lại tình cờ có mặt ở nhà
dưới. Vì có tôi nên cửa sắt không đóng. Nếu cửa đóng thì cô tài tử màn
bạc này chắc hẳn sẽ được chú Tiều nghênh đón bằng con dao phay và cảnh
này chắc sẽ làm cô tởn tới già còn hơn những cảnh rùng rợn trong phim
xi-nê.
Ði sau Thẩm Thúy Hằng là một lô một lốc những đứa trẻ con bận quần xà
lỏn mình trần trùng trục. Tôi cũng mặc quần xà lỏn nhưng lịch sự hơn
chúng nó một tí là có cái áo sơ mi cộc tay khoác lên. Cô Thẩm Thúy Hằng
thì cố nhiên ăn mặc sang trọng lộng lẫy lắm. Minh tinh điện ảnh mà! Vừa
bước vào nhà cô nói oang oang: “Trời đất ơi! Cả cái chợ An Ðông này hổng
ai biết nhà ông Nhứt Linh ở đâu. Mãi sau tôi mới nhớ ra là bà Nhứt Linh
bán cau. Thế là mấy đứa nhỏ ùn ùn dẫn tôi tới đây”. Ðoán biết ngay cô
nữ tài tử này đến nhà tôi về chuyện gì nên tôi nói: “Mẹ tôi không có
nhà. Nhưng cô có thể nói chuyện với tôi nếu có liên quan đến bản quyền
những tác phẩm của ba tôi” – “Ðúng dzậy! Tôi đến để điều đình về việc
thực hiện cuốn phim dựa trên cuốn tiểu thuyết Ðoạn tuyệt của nhà văn
Nhứt Linh”. Rồi cô Thẩm Thúy Hằng chìa tấm danh thiếp mời tôi đến tư gia
của cô để bàn về chi tiết. Cô nói chưa có quyết định ai sẽ là người
đóng vai Loan còn vai Dũng thì có thể do nghệ sĩ La Thoại Tân đóng. Lúc
tiễn cô ta ra ngoài tôi nhìn tấm thân khá đẫy đà của cô và thầm nghĩ
trong bụng cô này mà đóng vai Loan thì hỏng béng nó cả cuốn tiểu thuyết
của bố tôi. Tuần lễ sau tôi gặp Thẩm Thúy Hằng lần thứ hai tại nhà cô ở
đường Duy Tân. Mấy tháng sau không hiểu vì lý do gì cô cho biết bỏ ý
định thực hiện cuốn phim Ðoạn tuyệt.
Chuyện cô Thẩm Thúy Hằng đến nhà mẹ tôi làm xôn xao dân chợ một dạo.
Nhưng đó không phải là lần đầu tiên họ được dịp chiêm ngưỡng tận mắt
những nghệ sĩ nổi tiếng. Cặp nghệ sĩ cải lương Kim Cương – Hùng Cường
một buổi chiều nọ cũng làm náo động đám trẻ con khi họ đến ăn ở quán cơm
gà Siu Siu.
Bữa đó tôi đang ngồi học bài trên gác thì có tiếng gọi ơi ới ở dưới
đường: “Kim Cương tụi bay ơi!” – “Hùng Cường tụi bay ơi!”. Tôi bèn ra
đứng ở ban công nhìn xuống. Trẻ con mấy chục mạng từ trong chợ chạy túa
ra đường đứng thành hình vòng cung lớp trong lớp ngoài chung quanh quán
cơm gà. Có vài người lớn trong đám nhưng họ chỉ đứng nhìn ở xa. Mấy đứa
nhỏ đứng hàng đầu tiến sát lại gần cái bàn ăn của hai thực khách nhìn
trân trân vào tận mặt cô Kim Cương, thần tượng của chúng mà trước đó
chúng chỉ được thấy trên màn ảnh TV. Rồi bất ngờ trong đám con nít đồng
loạt có tiếng vỗ tay, vừa vỗ tay vừa reo hò, rất đúng nhịp: “Kim Cương
nhai! Kim Cương nuốt!”. Tức mình, tài tử Hùng Cường đang ăn đứng lên
phùng má trợn mắt nhìn đám trẻ. Tưởng nghệ sĩ này làm trò hề, lũ trẻ lại
rộ lên cười. Ông Siu Siu đang chặt thịt gà, xách con dao phay chạy ra
xua tay nói lớn: “Hê! Ðể cho người ta ăn lớ! Ðể cho người ta ăn lớ!”.
Ðám trẻ rãn ra xa thôi hò hét nhưng không chịu đi, cứ đứng quanh đó mà
nhìn cho tới khi cặp nghệ sĩ ăn xong lên xe.
Cứ như thế từ trên ban công căn nhà của mẹ tôi tôi ngắm cảnh sinh hoạt
phía dưới không bao giờ chán mắt. Nội nhìn ông Siu Siu chặt thịt gà đã
thấy mê! Con gà bóng mỡ nằm ngửa trên thớt. Một nhát dao phay bổ ngọt
trên bụng. Rồi phập phập! Hai cái đùi gà văng ra. Bằng bốn đầu ngón tay
trái ông Siu Siu chặn cái đùi gà, chặn kín chỉ chừa một khoảng hở. Phập!
Con dao phay bổ sát móng tay. Rồi cứ thế các ngón tay ông ta lùi dần,
lùi đến đâu con dao phập sát tới đó. Phập! Phập! Phập! Thoắt cái, đùi gà
đã được chặt thành từng khúc nhỏ đều đặn. Xúc những miếng gà đã chặt
bằng lườn con dao phay ông trải thịt gọn ghẽ lên một chiếc đĩa trắng,
rắc một ít hành lá lên trên, thế laø đĩa gà được mang cho khách, cùng
với những bát cơm gà nóng vàng ngậy bốc khói cộng thêm hai thứ nước
chấm, một chén xì dầu có những lát ớt đỏ và một chén gừng băm trộn dấm.
Trong bao nhiêu năm quan sát ông Siu Siu chặt thịt gà tôi cứ bị ám ảnh
bởi một ý nghĩ và ý nghĩ này không ngớt theo tôi cho tới tận ngày nay,
hơn bốn mươi năm sau. Ðó là có bao giờ ông ta lơ đễnh trong lúc chặt
thịt? Tôi không dám nghĩ tiếp vì cái hậu quả mà tôi hình dung thấy nó
kinh khiếp quá!
Ngày nọ qua ngày kia trải qua hai mươi năm cái sinh hoạt ở dưới quán cơm
gà Siu Siu đã in vào trí nhớ tôi như là những hình ảnh sống động khó
phai mờ. Hình ảnh ấy phản ánh một bức tranh xã hội thu nhỏ của thành phố
Sài Gòn qua thời gian. Khi cuộc chiến bắt đầu nở lớn lan rộng ở vùng
quê thì ở những chiếc ghế dưới kia đã có thêm nhiều màu áo trận trong số
thực khách. Tôi đã nhìn thấy những nữ sinh e ấp trong chiếc áo dài
trắng gắp miếng thịt gà âu yếm bỏ vào trong bát của người yêu, một người
lính rất trẻ ngồi đối diện; tôi đã nhìn thấy dẫy bàn ăn đầy ắp những
chai bia của những người lính trận đến đây ăn uống trong một lần về
phép. Chợ An Ðông cũng bắt đầu có bóng dáng những người lính Mỹ. Vào năm
1966 khi quân đội Mỹ đổ nhiều vào Việt Nam thì chủ nhân của chung cư
này là tay tài phiệt Huỳnh Siêu đã cho xây cất thêm lầu bốn và dành
nguyên lầu này để cho Mỹ thuê. Ở trên lầu bốn của chung cư là lầu thượng
có mở câu lạc bộ là chỗ giải trí cho lính Mỹ. Ðêm đêm tiếng nhạc và
tiếng trống thình thình từ trên đầu chúng tôi dọng xuống.
Quân đội Mỹ đi đến đâu thì thế nào mà chẳng có đoàn nữ binh lén lút hoặc
công khai lảng vảng đâu đó để phục vụ. Nhưng tôi chỉ phỏng đoán thế
thôi chưù không tài nào phát hiện được. Chợ An Ðông bề ngoài trông vẫn
nghiêm túc. Không một bóng dáng chị em ta nào lảng vảng. Thuở ấy nhóm
bạn của tôi chia đôi. Một số ít đậu tú tài xong thì nhập ngũ. Số còn lại
đông hơn có tôi trong đó tiếp tục đại học và được “hoãn dịch vì lý do
học vấn”. Có một thông lệ là mỗi lần có đứa nào từ mặt trận về phép Sài
Gòn thì đám hậu phương chúng tôi phải chung tiền để bao nó đi chơi bời
mà chúng tôi gọi là đi “xả xui”. Xả xui thì độc có hai chỗ chúng tôi
biết đến là Ngã Ba Chú Ía và ngõ Lê Văn Duyệt đối diện Quân Vụ Thị Trấn.
Cả hai chỗ này đều dơ dáy kinh khiếp nhưng tụi nó ở trong rừng cả năm
kẹt quá cỡ, được xả là khoái rồi, chẳng bao giờ chê bai.
Thế rồi bất ngờ một hôm tôi được dẫn đến một cái động rất sang mà lại
chẳng phải đi đâu xa xôi. Nó ở ngay trên đầu chúng tôi, lầu ba chung cư
An Ðông!
Anh bạn văn Trần Phong Giao của tôi ơi! Anh ở dưới suối vàng hãy thứ lỗi
cho tôi tiết lộ chuyện này. Nói đến chung cư An Ðông mà không nhắc đến
anh và kỷ niệm này thì quả thiếu xót. Anh Giao hồi đó là chủ bút của tạp
chí Văn. Anh là một người thật dễ mến, thật “tình thân” như anh luôn
luôn viết thế khi kết thúc một bức thư gửi bạn bè. Năm đó anh xuất bản
cuốn Tuyển tập Nhất Linh, trong đó có đăng bài “Niềm vui chết yểu” của
tôi. Sách xuất bản xong, một bữa anh lái xe mô-bi-lét đến tìm tôi ở chợ
An Ðông. Gặp tôi ở trước cửa nhà anh móc ngay trong túi một cái phong
bì, nhưng anh không đưa phong bì cho tôi, chỉ nói: “Trong này có 500
đồng tiền nhuận bút của anh. Anh có hai lựa chọn. Một là anh nhận cái
phong bì này. Hai là anh nhận một món quà khác tương đương với giá
tiền”. Thấy tôi lưỡng lự anh nheo mắt bảo tôi: “Món này độc đáo lắm. Bảo
đảm anh sẽ thích”. Rồi không để tôi lựa chọn anh ra lệnh: “Ði theo
tôi!”. Nói xong anh khóa xe mô-bi-lét, lững thững bước đi trước. Ra
đường Nguyễn Duy Dương anh dẫn tôi đến một cái cầu thang lên lầu ba của
khu chung cư chúng tôi ở. Tôi đi theo anh mà lòng ngờ ngờ vực vực. Chưa
bao giờ tôi bước chân lên lầu ba. Chúng tôi đi qua một hành lang rất
dài, hai bên hành lang là một dẫy cửa phòng đóng kín, tôi có cảm tưởng
như là mình đang đi trong hành lang của một khách sạn lớn. Ðến một phòng
nọ anh gõ cửa. Cửa mở. Ðầu của một cô gái Tàu thò ra. Chúng tôi vào
phòng. Anh Giao nói mấy câu với cô gái rồi đưa cho cô ta cái phong bì.
Xong anh lui ra, nháy mắt với tôi một cái, rồi khép cửa lại. Tôi nhìn
căn phòng rộng trống hổng chỉ có một cái giường nệm lớn trải khăn trắng ở
giữa phòng trong lòng phân vân không biết phải làm gì. Trong lúc đó cô
Tàu vào buồng tắm mở nước vặn vòi hoa sen. Lát sau cô trở ra không mặc
quần áo gì cả chỉ quấn một cái khăn tắm quanh người rồi cô ta ra hiệu
tôi cởi quần áo để vào phòng tắm chung với cô.
Một tiếng đồng hồ sau bước xuống cầu thang tôi lẩm bẩm: “Thằng cha Giao
này tài thiệt! Hắn ở xa tít thế mà biết hết mọi chuyện ở ngay trên đầu
mình”. Trong đời viết văn vốn không nhiều nhặn gì cho lắm của tôi đây là
lần đầu tiên cũng là lần duy nhất tôi có tiền nhuận bút. Mà may quá tôi
lại không nhận cái tiền nhuận bút ấy!
Biến cố Mậu Thân xẩy đến đột ngột làm thay đổi cuộc sống của bọn thanh
niên chúng tôi. Thằng trước thằng sau khóa 1/68 rồi khóa 2/68 chúng tôi
lần lượt trình diện Trung tâm Nhập ngũ Quang Trung. Mồng hai Tết năm ấy
chợ An Ðông kinh hoàng trong tiếng súng nổ chát chúa từ phía đường Minh
Mạng bên kia con đường sắt. Việt cộng đang chiếm đóng và trấn thủ chùa
Ấn Quang, nơi mà chỉ hai đêm trước mẹ tôi và tôi dắt tay nhau đi bộ qua
những con đường tối vắng giữa tiếng pháo nổ ran để đến chùa hái lộc đầu
năm.
Kể từ biến cố đó lũ bạn bè chúng tôi tan tác mỗi đứa mỗi ngả trong đời
quân ngũ. Riêng cá nhân tôi sau khi tốt nghiệp khóa 2/68 tại quân trường
Thủ Ðức tôi được tuyển vào ngành Chiến tranh Chính trị và phục vụ tại
Tổng cục CTCT ở Sài Gòn, vì vậy mà sau này tôi vẫn tiếp tục sống tại
chung cư An Ðông cho đến ngày di tản sang Mỹ cuối tháng Tư năm 1975.
Năm 1973 tôi lập gia đình. Thái Vân và tôi sống ở từng dưới trong căn
nhà số 41 kế cạnh tiệm cau Cẩm Lợi, trong khi anh chị Triệu tôi ở trên
gác. Năm sau khi nhà tôi sinh đứa con đầu lòng, nhà tôi phải đưa thằng
bé về nhà mẹ đẻ một tháng vì lúc ấy chúng tôi chưa mướn được người làm.
Mẹ tôi rất mong ngày con dâu và cháu về lại chợ An Ðông. Ngày vợ tôi
bồng con trở về mẹ tôi mừng lắm. Bà nói với nhà tôi: “Mợ biết ngay là
con sắp về vì mấy hôm nay mợ thấy thằng Tiều dọn dẹp thật sạch sẽ cái
phòng của con, nó lau chùi kỹ lưỡng bàn ghế từng li từng tí không còn
một hạt bụi”.
Vào những năm chót của cuộc chiến chợ An Ðông phản ánh đời sống đầy khó
khăn của dân chúng miền Nam. Ðám người từ vùng quê kém an ninh đổ về
thành phố sống laây lất trong chợ, trên vỉa hè ngay trước cửa nhà chúng
tôi. Những người ăn xin bu quanh thực khách để xin tiền hoặc để chờ
khách ăn xong lấy đồ ăn thừa khiến ông Siu Siu phải vất vả đuổi họ đi.
Vào năm 1974 tên tuổi của mẹ tôi được nhắc đến nhiều lần liên quan đến
một vụ kiện giữa một bên là mấy trăm cư dân sinh sống trong chung cư An
Ðông và một bên là tài phiệt Huỳnh Siêu.
Tưởng cũng nên nói là năm 1954 khi mẹ tôi và tất cả những người khác mua
những căn trong chung cư của tài phiệt Huỳnh Siêu thì không phải là mua
đứt mà là mua trong thời hạn hai mươi năm. Chính cái điều khoản “mua 20
năm này” ghi rất nhỏ trong tờ hợp đồng khiến tay tài phiệt này vào năm
1974 đã vin vào đó đòi trục xuất ra khỏi chung cư tất cả những cư dân
đang sinh sống làm ăn tại đó. Sau nhiều lần nhóm họp mẹ tôi được đề cử
làm người đại diện cho cả chung cư An Ðông đứng ra kiện Huỳnh Siêu, có
luật sư Trần Văn Tuyên biện hộ. Tên mẹ tôi, bà Nguyễn Tường Tam, được
báo chí hồi đó nói tới khá nhiều lần.
Vụ Huỳnh Siêu chưa ngã ngũ thì biến cố tháng Tư 1975 xẩy ra.
Chợ An Ðông bề ngoài xem ra có vẻ bình lặng nhưng bên trong cư dân hoảng
hốt mỗi người lo toan cho mình một cách riêng để đối phó với viễn cảnh
cộng quân sắp tràn vào thành phố. Vài ngày trước biến cố trọng đại này
vợ chồng tôi không tài nào ngủ được vì đêm khuya có tiếng đục “kịch
kịch” của những nhát cuốc nện xuống sàn nhà từ căn nhà kế cận. Chúng tôi
đoán là họ đào đất để chôn của. Ban ngày tôi thường xuyên vắng nhà để
đi tìm đường vượt thoát. Buổi trưa ngày 29 tháng Tư, một ngày sau khi vợ
con tôi đã rời Việt Nam bằng máy bay của không lực Mỹ, tôi trở về căn
nhà An Ðông với mục đích từ biệt mẹ tôi đồng thời báo cho bà biết là tôi
đang tìm đường trốn khỏi nước. Mẹ tôi không có nhà.
Thời gian lúc ấy thật gấp rút. Tôi chạy lên gác nhìn quanh quất xem có
thể mang những thứ gì theo. Có quá nhiều thứ để mang nhưng cuối cùng tôi
chỉ đủ thì giờ gói hai tập bản thảo hai tác phẩm sau cùng của bố tôi là
bản thảo cuốn Xóm Cầu Mới và Giòng sông Thanh Thủy cho vào một bao ny
lông đem đi. Xuống dưới nhà thì vừa vặn người em họ tôi, nhà văn Thế
Uyên, ghé thăm. Tôi chỉ kịp nói mấy câu với Thế Uyên rồi đi ngay. Trước
khi đi tôi lục trong túi xách tay có một xấp bó giấy bạc 500 đồng lấy
một bó đưa cho Thế Uyên. “Ông ở lại chắc cần tiền”. Tôi nói. Thế Uyên
chúc tôi: “Ông đi may mắn”.
Chúng tôi chia tay. Ðó là hình ảnh sau cùng tôi ghi nhớ trước khi tôi
giã từ vĩnh viễn căn nhà chúng tôi đã sống suốt 20 năm, căn nhà An Ðông
của mẹ tôi.
Hai mươi mốt năm trôi qua trên đất Mỹ nhanh như một chớp mắt.
Năm 1996 chúng tôi trở về Việt Nam lần đầu tiên và có dịp ghé chợ An
Ðông thăm căn nhà cũ. Căn nhà nay đã đổi chủ. Bảng hiệu cau Cẩm Lợi thay
thế bằng bảng tiệm vàng Kim Xuyến. Trong lúc vợ con tôi đi sắm đồ trong
chợ An Ðông (nay được tân trang phía trong với một dẫy cầu thang cuốn)
tôi đứng trước cửa tiệm vàng nhìn lên cái ban công trên cao nhớ lại
những giờ phút xa xưa đứng trên đó nhìn xuống cái quán Siu Siu ở dưới
này bây giờ không còn nữa, nhớ lại cả một thời thanh xuân, thời tuổi trẻ
của mình mà lòng bồi hồi.
Ðã bao nhiêu nước chẩy qua cầu.
Mẹ tôi không còn nữa. Sau biến cố năm 1975 mẹ tôi đã sống thêm được 6
năm tại căn nhà An Ðông ấy và chứng kiến bao nhiêu cảnh tang thương của
cuộc đổi đời. Tuy mẹ tôi được nhà cầm quyền mới để yên không làm khó dễ
như bà vẫn hằng lo ngại (do tên tuổi bố tôi), nhưng bà đã trải qua bao
cảnh chia ly tử biệt trong gia đình. Mẹ tôi chứng kiến chị cả tôi, chị
Thư, chết trong một tai nạn xe cộ vào năm 1976, anh Thạch tôi bị đi tù
cải tạo ở miền Bắc, anh chị Triệu tôi vượt biên, bị bắt, bị tù, rồi vượt
biên nữa. Những người con của bà, người chết người bỏ đi xa, căn nhà
vắng dần bóng người, mẹ tôi nhiều lúc sống thui thủi một mình trong căn
nhà An Ðông. Người chăm lo hầu hạ bà sau này nhiều nhất là chị Thạch và…
chú Tiều. Vâng, chú Tiều, con người điên điên khùng khùng ấy không ngờ
lại là người rất có tình nghĩa, tận tụy chăm lo cho mẹ tôi cho đến những
ngày cuối của đời bà.
Theo lời chị dâu tôi, chị Thạch, sau năm 1975 chú Tiều ở hẳn trong nhà
mẹ tôi. Chú giặt dũ, nấu cơm, đóng cửa, mở cửa, coi nhà và trông nom mẹ
tôi. Hồi đó trộm cướp nhiều lắm, mẹ tôi nhiều lúc ở nhà một mình nên sợ,
may mà có chú Tiều bảo vệ. Ðêm đêm chú giắt con dao phay sáng quắc đi
tới đi lui trước nhà khiến đám bụi đời và lũ trộm cắp rất ngán không ai
dám bén mảng đến cửa. Anh Thạch tôi sau 5 năm trời cải tạo trở về sống ở
chợ An Ðông. Ngày anh trở về là ngày vui nhất của mẹ tôi. Anh là người
duy nhất trong số các con của mẹ tôi được sống với mẹ trọn một năm chót
của đời bà. Tháng Tư năm 1981 mẹ tôi bị bệnh nặng. Anh cả tôi từ bên
Pháp về Việt Nam đưa mẹ tôi sang Paris chữa bệnh. Ðến phi trường Orly mẹ
tôi được chở thẳng đến bệnh viện. Bà qua đời tại đó ít lâu sau, thọ 74
tuổi.
Trong cuộc đổi đời khủng khiếp ấy tội nghiệp nhất phải nói là ông chủ
quán cơm gà Siu Siu. Vào năm 1975 sau 20 năm làm ăn phát đạt ông Siu Siu
trở nên giầu có. Ông đã tậu 3 căn nhà sát nhau trong một dẫy phố đường
Nguyễn Duy Dương, cạnh trường Trí Dũng, và biến 3 căn này thành một nhà
hàng bán cơm gà thật lớn, trong khi ông vẫn duy trì cái quán cóc nhỏ ở
sát cạnh nhà mẹ tôi. Vẫn theo lời kể của chị Thạch thì sau năm 1975,
chính quyền niêm phong và tịch thu tất cả những nhà hàng lớn của Hoa
kiều, chỉ cho hoạt động những nhà hàng nhỏ bán buôn lẻ tẻ. Ông Siu Siu
bỗng nhiên một lúc bị tước đoạt cả 3 căn nhà. Còn quán cóc thì ông sang
lại cho chú Sáng, một người bà con của ông. Tháng Sáu năm 1978 những
thương gia trong Chợ Lớn hùn nhau tổ chức một cuộc vượt biên bằng tàu.
Ông Siu Siu và toàn gia đình ông tham dự trong chuyến đi ấy. Ra khơi
không may tàu chìm. Toàn thể gần trăm người trên tàu không một ai sống
sót chỉ trừ một mình ông Siu Siu. Ông bám vào một tấm ván theo sóng biển
trôi tấp vào bãi biển tỉnh Bến Tre. Dân chúng địa phương báo cho công
an biết và ông được chở vào bệnh viện cứu sống. Sau khi điều tra lý lịch
biết ông Siu Siu ở chợ An Ðông họ điện cho công an phường An Ðông để
xin giải ông về quận 5. Ông Siu Siu sau đó trở thành người mất trí.
Không còn nhà cửa để ở ông sống lây lất ngay dưới mái hiên căn nhà cũ
của mình ở đường Nguyễn Duy Dương. Rồi giống như chú Tiều ông bắt đầu
điên khùng nói năng lảm nhảm. Nhưng tệ hơn chú Tiều ông phải ngửa tay
xin từ gói xôi, gói bắp của những người qua đường để sống, những người
mà chỉ mấy năm trước đã là thực khách thường xuyên của quán cơm gà rất
nổi tiếng của ông.
Còn chú Tiều nhờ trời thương nên có hậu vận khá. Sau khi mẹ tôi qua
Pháp, chị dâu tôi và anh Thạch là hai người sau cùng ở lại chợ An Ðông.
Khi anh chị Thạch quyết định về ở Thủ Ðức anh chị đã sang căn nhà 39 An
Ðông cho bà Kim Xuyến. Bà Xuyến sửa lại căn nhà để mơû một tiệm vàng
khang trang đẹp đẽ. Theo lời chị Thạch thì căn trên gác được sửa sang
gắn cửa kính lắp máy lạnh và đặc biệt để dành riêng cho chú Tiều ở. Chả
là bà Kim Xuyến có nhà riêng 3 tầng ở đường Lý Hồng Phong nên bà không ở
tiệm vàng. Mỗi sáng bà đến chợ An Ðông bán hàng. Chiều đến bà cho vàng
vào trong két sắt (cái két sắt lớn của mẹ tôi để lại) khóa két lại rồi
giao nhà cho chú Tiều coi giữ. Ðêm đêm chú Tiều giắt con dao bên lưng,
đi tới đi lui, giống như trước kia chú đã làm thế để bảo vệ mẹ tôi, do
đấy mà không một tên bất lương nào dám bén mảng đến trước cửa căn nhà số
39. Bà Xuyến về nhà riêng có thể yên tâm ngủ vì tiệm vàng đã có chú
Tiều canh giữ. Một người khùng điên, không tài cán, không người thân
thích, mà lại được tín nhiệm giao phó trông coi cả một tiệm vàng… Ðúng
là chuyện khó tin nhưng có thực!
Sáu năm sau, năm 2002, chúng tôi lại trở về Sài Gòn và đến thăm lại căn
nhà cũ một lần thứ hai. Tiệm vàng Kim Xuyến không còn ở đó nữa. Từng
dưới nhà nơi chỗ hai cửa sắt trông ra hai mặt đường đã bị bịt tường kín
bưng. Trên lầu những ban công được che bằng những song sắt chắc chắn.
Chúng tôi đoán chủ nhân mới là sở hữu chủ của cả hai căn 39 và 41, họ
dùng căn 41 làm chỗ buôn bán và dùng căn nhà cũ của mẹ tôi làm kho chứa
hàng.
Lần đó cũng là lần sau cùng tôi nhìn thấy căn nhà An Ðông cũ của mẹ tôi.
Bức tường kín mít đã hoàn toàn chắn tôi với quá khứ. Tôi bâng khuâng tự
hỏi không biết số phận của chú Tiều bây giờ ra sao, còn sống hay đã
chết?
Nguồn: Tran Duong
No comments:
Post a Comment