Tôi,
1935 vào đời, khóc dối. Gã trai Hà Nội, quán tại Hà Ðông. Nhóc Ðặng Trí
Hoàn sinh nhằm thời nô lệ, thực phong. Cùng vận nước long đong từ tấm
bé lớp vỡ lòng. Tôi học tiếng Tây thay cho tiếng Mẹ. Ngày, mỗi ngày, vẫn
cà cưởng đồng ca: “Maréchal, nous voìlà!” Thưa ngài Thống chế Pétaín, chúng con đang hiện diện.
Tiếng
trẻ hát không át nổi tiếng bom Sa Ðiện (1924, Trung Hoa). Bom từ Phạm
Hồng Thái vỡ ra. Nổi lửa thiêng hãnh tiến. Qua thập niên nhục hờn, còn
sôi động dư ba, thức tỉnh đồng bào ta. Mau đứng lên
giành độc lập. Cùng giải phóng quê nhà. Phá gông cùm nô lệ!
Năm
năm sau, máu dân chủ nở hoa (1929, Yên Báy). Nguyễn Thái Học, và 12
chiếc đầu rơi máu chảy, nhưng danh thơm còn mãi. Muôn năm. “Không thành công thì cũng thành nhân.” Rồi
cô Giang vì nghĩa huỷ thân. Gái 18 bước lên đài tiết liệt. Anh linh:
“Trai trung, gái trinh.” Dũng khí ấy muôn đời mãi đẹp Kể chi là bại hay
thành .
Sau Pháp thuộc đến thời Nhật chiếm Tôi học tiếng Phù
Tang. Học nghĩa đói no, học nghĩa cơ hàn. Ất Dậu, phá đậu trồng đay. Ðốt
lúa thay than chạy máy. Ba triệu dân tôi hồn lau, bóng sậ. Chết đói đầy
đường, kín ngõ Thăng Lọng. Mỗi sớm mai, nhiều chiếc xe bò chở đầy xác
ốm tong. Người ngắc
ngoải đem vùi cùng thây chết.
Bom
nguyên tử nổ bên trời Nhật phiệt. Nhật đầu hàng, mộng đế quốc tan tành.
Giang sơn mình chưa thoát khỏi điêu linh. Bị gả bán cho thực dân như
cũ.
Bác Hồ thối tha nhảy ra làm lịch sử Tuyên ngôn độc lập, tự
do. Bá tánh hân hoan lòng mở như cờ . Tôi trống ếch bập bung. Tôi thiếu
nhi súng gỗ. Yêu làm sao hai chữ Việt Minh. Ðảng bịp tuyên dương ngụy
nghĩa tại Ba Ðình. Vua Bảo Ðại playboy, từ Paris về trao ấn tín. “Thề
phanh thây uống máu quân thù.”
Tôi
10 tuổi, chúc Bác Hồ nghìn tuổi. Tôi nhóc tỳ mơ ngựa sắt roi tre. Giang
sơn này, và miền Nam yêu dấu dặm ngàn kia. Cần giải phóng khỏi tay giặc
Phá . Bác móc túi
nhân dân. Lạc quyên tuần lễ vàng, lễ bạc . Vi thiềng tướng Lư Hán, cầu
an . Rồi Việt Minh hành xử giống Việt gian . Chúng lén đâm Việt Quốc .
Ám sát giữa ngày, giết vội trong đêm . Rồi chỉ điểm cho Tây, bán xác anh
em . Rồi Bác rút ra biên . Mùa kháng chiến ca bài tiêu thổ Ðuôi Cộng
Sản ló ra từ đó .
Tôi
10 tuổi, học thêm bài gian khổ Tuổi thơ đói rét trường kỳ . Tôi áo vá,
chân trần lặn lội khắp sơn khê . Chặng cuối là Thái Nguyên, bản rú . Tôi
đói cơm và tôi đói chữ . Tuổi thơ ơi sao quá đọa đầy .
Tôi
mười lăm, trôi giạt xuống Sơn Tây. Bương Cấn, Ba Vì, đá ong cằn cỗi .
Tôi nhếch nhác chuồn lại về Hà Nội. Lại tiếng Tây xí xố trong đời. Tôi
học sửa xe. Tôi lén nhập viện
mồ côi . Thằng chủ bẩn biến tôi thành đầy tớ. Viện mồ côi như nhánh
sông nước lợ Bày hàng, quyên góp của bàn dân. Nói dậy nghề, dậy chữ. Láo
khoét cho qua. Tôi trốn viện trở về căn nhà nát.
Lũ em tôi
kiếm ăn trên bãi rác. Bố tong teo gò lưng đạp xích lô. Mẹ buôn thúng bán
bưng tất tưởi ven đô. Thằng con lớn là tôi, khóc thầm trong lớp học.
Ơn
cha mẹ không quản gì lao nhọc. Mong cho con cái nên người. Tôi làm gì
với mớ chữ nghĩa đây trời ? Tôi tận sức rồi cũng tôi thơ thẩn. Ham vui.
Tôi
mười sáu, trốn vào Nam lập chí. Năm 1954, cùng đoàn người di cư theo
Ngô chí sĩ. Tôi thành con bà phước giữa đời. Trại học sinh cho hai bữa
cơm tươi . Tôi múa may,
bán báo, dậy kèm, tìm học phí. Hai năm liền tôi thi trượt Tú Tài. Tôi
hành xác cạo đầu. Tôi kinh sử miệt mài. Vẫn vỏ chuối. Cán mai.
Khoá
14, tôi thi vào Võ Bị Lính cà nhỏng, cao bồi, thất chí. Bị lũ đàn anh
hành xác triền miên. Tôi ba gai thù niên trưởng đái thiên. Coi sinh viên
cán bộ như ăng-ten rẻ mạt [... ]May chưa bị đuổi khỏi quân trường.
Tôi
chọn Nhảy Dù, màu mũ đỏ dễ thương.
Chọn gian khổ làm đầy thêm nghĩa
sốn.
Xa trường mẹ mới thấy hồn chao động.
Nhớ gì đâu từng kỷ niệm buồn
vui.
Gặp lại đệ huynh trong binh lửa rực trời.
Thấy thân thương hết nói .
Tôi đánh giặc, làm thơ.
Tôi yêu cuồng sống vội.
Nhảy Dù, nhảy đầm, đời khật khưỡng
say.
Bài thơ đầu tay: “Không Gian Vương Dấu Giầy.” Ðời rộng
lượng biến tôi thành thi sĩ. Tôi, Hà Huyền Chi, viết không ngưng nghỉ
Thơ ròn như súng tiểu liên. Tôi bập bỗng Thơ khi bước giữa bãi mìn. Mê
viết lách, tôi nhảy về báo chí. Rồi phát thanh, điện ảnh tận vui. Cũng
đóng 8 phim, cũng đạo diễn một thời. Rồi ấn họa cho đủ mùi tạp lục.
Tháng
Tư Ðen với đáy cùng đớn nhục. Tôi giạt sang Mỹ quốc cầu an. Tôi đọa đầy
tôi. Thiếu tá lao công. Thi sĩ bồi bàn. Rồi kế toán, công trừ mạt kiếp.
Gia tài mang theo là một trời quê hương tưởng tiếc. Tám truyện dài như
chứng tích bi thương. Lệ khô rồi còn nhức nhối đường gươm. Thơ lại bắn
từ trái tim nứt rạn. 24 tập thơ vẫn dư sức đạn. Từ thơ là
nhạc, hơn 400 phổ bản. Hơn 40 nhạc sĩ góp phần. Kỷ vật cho đời là Lệ
Ðá, phù vân.
Cám ơn
Trời ban chút xíu hồng ân. Cám ơn vợ cho nồng nàn tương cảm. Ơn Ðồng
Minh cho mũi dao lút cán. Cám ơn em cho nước lớn sông dài . Cám ơn đời
còn đẹp lúc chiều phai.
Hà Huyền Chi.
No comments:
Post a Comment