Thật
lòng, tôi không có nhiều gắn bó với Pleiku. Và dường như cái phố núi
buồn hiu ấy đã cho tôi nhiều nỗi buồn hơn là niềm vui. Vậy mà khi đã xa
-thực sự vĩnh viễn xa- Pleiku rồi, tôi lại thấy da diết nhớ, trăn trở
với cái cảm giác mình có tội với Pleiku, và mãi mãi sẽ còn nợ phố núi
này một lời xin lỗi.
Tôi chưa (và có thể không) có dịp về
thăm lại Pleiku, nên cái xa cách ấy lại càng thấy mịt mùng. Cái phố núi
vốn đã bé nhỏ, như một ông nhà thơ đã ví von “đi dăm phút trở về chốn
cũ” ấy, giờ với tôi dường như chỉ còn là chút sương khói trong lòng.
Điều kỳ lạ là chút khói sương mờ ảo ấy cứ luôn lãng đãng trong ký ức và
trái tim già cỗi của tôi, như những mảng mù sương từng bao phủ, giăng
mắc trên phố núi Pleiku ngày trước.
Nếu không có cuộc chiến Kontum, có lẽ sẽ
không có dấu chân nào của tôi trên bùn lầy đất đỏ Pleiku. Dẫu là dấu
chân của người lính chiến. Chợt đến chợt đi, hay có khi nằm lại vĩnh
viễn trên núi rừng heo hút vô danh. Thống thuộc một đại đơn vị có bản
doanh tại Ban Mê Thuột, nhưng đơn vị tôi có hậu cứ tại Sông Mao (Phan
Thiêt) và đảm trách một vùng hành quân khá rộng lớn dọc theo miền duyên
hải. Đúng ngày cuối năm âm lịch 1972, khi cả đơn vị đang chuẩn bị cho
quân sĩ ăn Tết tại doanh trại Lý Thường Kiệt - Sông Mao, chúng tôi nhận
lệnh di chuyển khẩn cấp lên An Khê, thay thế cho một đơn vị của Sư Đoàn
101 Không Kỵ Hoa Kỳ rút quân về nước, và tăng cường cho mặt trận Bình
Định, khi một số đơn vị của Sư Đoàn 22BB hoạt động ở đây, vừa di chuyển
lên mặt trận Dakto, Tân Cảnh.
Loanh quanh ở An Khê chưa được hai
tháng, cùng với Thiết Đoàn 3 Kỵ Binh tăng phái, đánh vài trận, giải tỏa
một số căn cứ của Sư Đoàn Mãnh Hổ Đại Hàn nằm dọc trên đèo An Khê bị
Cộng quân tạo nhiều vòng đai vây hãm, đơn vị chúng tôi được lệnh di
chuyển khẩn cấp lên phi trường Pleiku để được không vận lên Kontum. Bộ
Tư Lênh HQ Sư Đoàn 22BB vừa bị tràn ngập tại căn cứ Tân Cảnh và vị Tư
Lệnh đã ở lại để vùi thây nơi chiến địa cùng với quân sĩ dưới quyền.
Địch quân đang trên đà tràn xuống trong ý đồ chiếm lấy Kontum.
Tôi đến Pleiku như vậy đó. Thời gian
chưa đủ nhìn một dãy phố và núi đồi chạy dọc theo con đường dẫn ra phi
trường Cù Hanh. Tôi có cảm giác chưa đến thì đã rời khỏi Pleiku. Hơn tám
tháng sống chết với chiến trường và giữ vững Kontum, chúng tôi được kéo
về Pleiku dưỡng quân và bổ sung quân số. Đây là phần thưởng đặc biệt
cho một đơn vị tạo nên kỳ tích trong trận chiến đẩm máu để có một
“Kontum Kiêu Hùng”. Một tháng đóng quân trên Đồi Đức Mẹ. Lại là một
tháng “gió lạnh mưa mùa”. Cả núi đồi và thành phố Pleiku mờ mịt và lầy
lội trong mưa. Hình ảnh của bao nhiêu bạn bè đồng đội vừa mới hy sinh
trên chiến trường Kontum lúc nào cũng hiện ra trước mặt, đau đớn tựa hồ
như những nhát chém còn rỉ máu trong lòng. Muốn tạm quên chốc lác đã là
một điều không dễ. Bọn tôi cần được say. Mỗi ngày chỉ ra phố để uống
rượu. Thỉnh thoảng đi nhận đám lính bị Quân Cảnh của ông đại úy Hiển
bắt. Khi đó tôi đâu có biết ông đồn trưởng Quân Cảnh này là nhà thơ
Hoàng Khởi Phong, cũng chịu chơi, nhậu nhẹt, lãng mạn (và vi phạm quân
phong quân kỷ?) như ai.
Pleiku có nhiều quán cà phê và nhiều
khuôn mặt mỹ nhân, nhưng chúng tôi chỉ chọn các quán rượu. Dường như cà
phê không đủ ấm, không đủ để quên, và cái say của rượu cũng chóng phôi
pha hơn cái say đàn bà, con gái. Hơn nữa chỉ được có một tháng, mà trước
mặt là những trận chiến đẫm máu đang chờ. Chẳng ai muốn vương vấn nợ
tình.
Riêng tôi còn có một anh bạn, Liên Đoàn
Trưởng BĐQ trú đóng ở Biển Hồ. Vợ và hai đứa con chết thảm tại Quảng Đức
vì xe bị VC giật mìn, nên bây giờ anh chỉ làm người tình với rượu. Tôi
bị anh kéo theo cái vòng “tục lụy” này.
Lúc trước anh là một cấp chỉ huy nổi
tiếng trong BĐQ, thời gian binh chủng này mới thành lập. Nhưng sau đó do
ảnh hưởng từ các phe nhóm chính trị, anh đã bị bắt đi tù một thời gian,
ngưng thăng cấp và sau đó chuyển đến đơn vị tôi, với cái lệnh “không
được giữ chức vụ chỉ huy nào.” Biết anh là một niên trưởng và từng dạn
dày lửa đạn, tôi tận tình giúp đỡ an ủi anh. Thời gian sau anh bỗng dưng
được “vô tội”, trở lại binh chủng, thăng cấp và chỉ huy một Liên Đoàn
BĐQ tại QK2.
Do cái ân tình đó, nên những ngày không
hành quân, anh đến kéo tôi ra quán rượu. Tôi chỉ nhìn Pleiku qua những
cơn say. Vì vậy Pleiku với tôi càng nhỏ hẹp hơn, chỉ là không gian của
một quán rượu trong khu Chợ Mới. Một tháng, tôi chưa hề biết tên một
con đường, thì làm sao biết được tên của một mỹ nhân , để “may mà có em
đời con dễ thương !”
Tôi rời khỏi Pleiku một ngày sau khi
thành phố Ban Mê Thuột vừa lọt vào tay giặc. Sáng ngày 13.3.75, theo
những toán quân đầu tiên của đơn vị được trực thăng vận từ Hàm Rồng đổ
xuống Phước An, quận lỵ duy nhất còn lại của tỉnh Darlac, nằm cách BMT
khoảng 30 cây số trên QL 21 về hướng Nha Trang. Khi một nửa đơn vị vừa
xuống Phước An, thì Pleiku có lệnh di tản. Một nửa quân số còn lại phải
di chuyển theo đoàn quân trên Tỉnh Lộ 7B. Một cuộc triệt thoái sai lầm,
tệ hại và bi thảm nhất trong chiến tranh. Nửa đơn vị của tôi gần như bị
xóa sổ. Hai người bạn thân của tôi đều là tiểu đoàn trưởng đã tự sát,
nhiều đồng đội đã chết trong đớn đau tức tưởi.
Hình ảnh cuối cùng của Pleiku trong mắt
tôi là dãy núi Hàm Rồng, nhưng trong trí óc tôi chỉ còn đọng lại những
cái chết bi tráng của đám bạn bè đồng đội cùng với những người Pleiku mà
tôi chưa kịp biết mặt, làm quen. Và trong lòng tôi, dường như Pleiku
chỉ có thế. Không phải là những con đường, góc phố, là rạp ciné Diệp
Kính, Thanh Bình, hội quán Phượng Hoàng, quán cà phê Dinh Điền, cà phê
Văn, cà phê Lính, Bắc Hương, Thiên Lý, và lại càng xa lạ với những ngôi
trường mang tên Pleime, Pleiku, Phạm Hồng Thái, Minh Đức, Bồ Đề..mà
những cô học trò ngày ấy bây giờ đang mang theo cái hồn Phố Núi đi khắp
muôn phương. (Giờ nghĩ lại, tôi thấy mình khờ khạo biết bao nhiêu!)
Ngày ấy, tôi là thằng lính bộ binh, một
thứ lính “hạng bét”, chỉ có khốn khổ gian truân và chết chóc. Tháng năm
lặn lội trong núi rừng, chỉ còn biết có súng đạn và mục tiêu trước mặt.
Được chút thời gian không đủ cho một cơn say, thì đâu còn biết gì tới
thơ với thẩn (mặc dù tôi vốn mê thơ - nhưng rất dốt về thơ). Ngoài bài
hát nổi danh được phổ từ thơ Vũ Hữu Định, tôi chưa hề được đọc thơ các
thi nhân nổi tiếng một thời của Pleiku hay viết về Pleiku. Sau này đọc
Nguyễn Bắc Sơn, Nguyễn Mạnh Trinh, Kim Tuấn, Nguyễn Xuân Thiệp, Võ Ý,
Cao Thoại Châu, Hoàng Khời Phong…, tôi thấy hối tiếc quá chừng. Pleiku
đẹp quá, dễ thương, thơ mộng quá.
Nguyễn Bắc Sơn, nhà thơ một thời hành
quân đánh giặc ở Mật khu Lê Hồng Phong, Sông Mao, nơi đơn vị tôi trú
đóng, từng viết những câu thơ hào sảng ;
Ngày mai đánh giặc may còn sống
Về ghé Sông Mao phá phách chơi,
Uống rượu tiêu sầu cùng gái điếm
Đốt tiền mua vội một ngày vui
Về ghé Sông Mao phá phách chơi,
Uống rượu tiêu sầu cùng gái điếm
Đốt tiền mua vội một ngày vui
….
cũng từng bị “đày” lên Phố Núi, nhưng giờ thì đắm say ánh mắt của một nàng thiếu nữ Pleiku:
Ðứng trên núi thấy hàng đèn thị trấn
Là thấy mình buốt lạnh mấy nghìn năm
Vì đêm nay trời đất lạnh căm căm
Nên chợt nhớ chút lửa hồng bếp cũ
Nên phải nhớ mắt một người thiếu nữ
Ðã nhìn mình rất ấm một ngày xưa
Dù mai sau ngày nắng tiếp ngày mưa
Nhưng vĩnh cửu chút mơ màng thuở đó
Là thấy mình buốt lạnh mấy nghìn năm
Vì đêm nay trời đất lạnh căm căm
Nên chợt nhớ chút lửa hồng bếp cũ
Nên phải nhớ mắt một người thiếu nữ
Ðã nhìn mình rất ấm một ngày xưa
Dù mai sau ngày nắng tiếp ngày mưa
Nhưng vĩnh cửu chút mơ màng thuở đó
….
Vậy mà hơn một tháng ở Pleiku tôi đã
ngu ngơ, lãng phí. Không nhìn ngắm, mơ mộng với Pleiku mà chỉ biết say
với rượu. “Ta say, trời đất cũng say.” Tôi đã bắt Pleiku say với tôi, mà
đáng lý ra tôi phải say đắm với Pleiku mới phải. Đôi khi tôi cũng tự
gạt để an ủi mình “Có thể chính mấy ông nhà thơ này đã làm cho Phố Núi
đẹp hơn, thơ mộng và lãng mạn hơn những gì nó có?” Nhưng có lẽ tôi đã
nhầm, sau này được dịp làm quen với những người Phố Núi, tôi chợt nhận
ra rằng Pleiku đâu chỉ có những ông thi sĩ tài danh ấy, mà dường như cứ
mỗi người Pleiku đã là một nhà thơ, hay ít nhất cũng là một bài thơ
chưa được viết thành lời. Dẫu gì, tôi cũng có tội với Pleiku.
Ba năm hành quân ở Kontum và Pleiku,
nhiều đồng đội, bạn bè tôi đã nằm lại nơi này. Võ Anh Tài, Đặng Trung
Đức, Trần Công Lâm, Đỗ Bê … những tiểu đoàn trưởng nổi danh, những
người anh, người bạn thân thiết như tình huynh đệ cùng một đơn vị từ
ngày tôi vừa mới ra trường, đã vĩnh viễn ở lại với Kontum, với Pleiku.
Khi tất cả -có lẽ cũng như tôi- chưa biết rõ mặt Pleiku cùng những vần
thơ tuyệt vời ca tụng phố núi thơ mộng một thời.
Tôi vẫn mãi đau đớn khi hình dung cuôc
di tản bi thảm trên Tỉnh Lộ 7B vào những ngày giữa tháng 3. Cùng với
những đổng đội của tôi, còn có biết bao nhiêu người Pleiku đã không đi
hết đoạn đường kinh hoàng đẫm máu ấy. Trong đó chắc chắn có rất nhiều
“em Pleiku má đỏ môi hồng” của nhà thơ Vũ Hữu Định, những bông hoa dại
đã làm cho những thằng lính “bị đày” lên phố núi thấy đời dễ thương hơn.
Thiếu những bông hoa ấy, Phố núi sẽ không còn đẹp, không còn lãng mạn,
để cho bao thi nhân cảm xúc, để cho nhà thơ Không Quân Võ Ý vẫn mãi còn
tiếc nhớ khôn nguôi một thời “Xưa Trên Đó″:
Xưa trên đó sương nhòa hơi thở đượm
dốc cũng vừa ta bước xuống vô biên
mê cho lắm cho tay dài với mộng
mặt trời lên chiếu rạng tới ưu phiền
dốc cũng vừa ta bước xuống vô biên
mê cho lắm cho tay dài với mộng
mặt trời lên chiếu rạng tới ưu phiền
…
Một dạo bay qua nhìn qua trên đó
đồi như vương cây như vấn chân nàng
phố cũng xưa và tim thì đau nhói
quạt nồng đâu qua đó để cơ hàn…”
đồi như vương cây như vấn chân nàng
phố cũng xưa và tim thì đau nhói
quạt nồng đâu qua đó để cơ hàn…”
Chúng tôi ra đi, cũng (rất vô tình)
bỏ lại các cô gái Thượng. Những cô gái chân chất hồn nhiên mà đẹp đẽ như
những cánh lan rừng. Họ mới thực sự là những người chủ Phố Núi, nên
không đành bỏ núi đồi, buôn bản. Và chắc không hề biết đã từng là niềm
vui, là nỗi khát khao của những thằng lính trẻ xa nhà, khi rủ nhau ẩn
nấp sau những gốc cây, bờ đá để nhìn (trộm) các cô vô tư khoe mình bên
các dòng suối biếc. Tuyệt vời!
Thuở ra đi, lòng dạ rối bời, chưa kịp
nhận ra những điều gắn bó, giờ hồi tưởng, trong lòng bỗng chợt dấy lên
bao nỗi bâng khuâng.
Thì ra, tôi đã mắc nợ phố núi quá nhiều.
Nợ những người đã ở lại với Pleiku trong cơn đổi đời khốn khó, nợ
người Pleiku nằm lại đâu đó trên tỉnh lộ 7B kinh hoàng, và nợ cả những
người Pleiku ra đi mang theo bóng dáng mờ ảo mù sương và cả cái hồn Phố
Núi.
Nợ ân tình thì không thể nào trả cho hết được. Đành viết mấy dòng này xin tạ lỗi Pleiku. •
Phạm Tín An Ninh
No comments:
Post a Comment