Wednesday, November 26, 2025

CUỘC ĐỜI LY KỲ CỦA TỶ PHÚ NGUYỄN TẤN ĐỜI…

Khởi nghiệp từ hai bàn tay trắng nhưng với tầm nhìn xa trông rộng, ông Nguyễn Tấn Đời đã trở thành một trong những đại gia giàu có bậc nhất Sài Gòn trước năm 1975.

Trong giai đoạn 1950 - 1975, Sài Gòn có rất nhiều doanh nhân thành đạt, trong đó không thể bỏ qua ông Nguyễn Tấn Đời - "trùm tài phiệt" thứ thiệt. Ông đã viết hồi ký chi tiết về cuộc đời mình với nhiều tình tiết ly kỳ như trắng tay làm lại cuộc đời từ đầu, buộc phải làm chủ ngân hàng sắp phá sản...
Tay trắng khởi nghiệp:
Ông Nguyễn Tấn Đời sinh năm 1922 tại làng Bình Hòa, tổng Định Thành, tỉnh Long Xuyên (nay là thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang). Ông nội Nguyễn Tấn Đời là một trong những đại gia tiếng tăm ở làng Bình Hòa thời bấy giờ. Vì thế, từ nhỏ ông đã được gia đình cho ăn học khá đàng hoàng. Có một chi tiết thú vị là thời gian ở Long Xuyên, Nguyễn Tấn Đời vừa học vừa lùa bò thuê.
Năm 1945, ông lên Sài Gòn theo học bậc cao đẳng tiểu học nhưng vì thời cuộc khiến việc học gián đoạn. Ông trở về quê nhà rồi lại lên Sài Gòn khi chiến tranh lan đến làng quê nhỏ.
Lức mới lên Sài Gòn, do không có tiền bạc, không người thân thích, hàng ngày ông lân la khắp nơi tìm kiếm việc làm, đêm đến thì ăn bờ ngủ bụi. Sau đó, ông vào làm sổ sách cho một hãng buôn của người Pháp nhưng lại nhanh chóng bỏ việc vì nhàm chán. Ông chọn nghề môi giới làm công việc mưu sinh. Ông tập trung vào mặt hàng vải vóc, vật liệu xây dựng và giàu lên nhanh chóng.
Năm 1949, ông Đời tham gia vào ngành kinh doanh tiền tệ song nhanh chóng phá sản. Không nản lòng, ông quyết định "khởi nghiệp" bằng nghề làm gạch ngói.
Với sự siêng năng và uy tín trong làm ăn, chỉ hai năm sau, Hãng gạch ngói Đời Tân trở nên nổi tiếng khắp Nam Kỳ lục tỉnh, cung cấp cho thị trường từ Sài Gòn, miền Đông cho đến cả miền Tây Nam Bộ.
Ông "vua cao ốc" miền Nam:
Đầu thập niên 1950, ông mở rộng kinh doanh ra nhiều lĩnh vực khác và đều thành công, cả trong lĩnh vực xuất nhập khẩu và cạnh tranh trong nhiều lĩnh vực với các doanh nghiệp nước ngoài.
Cũng trong thời gian này, ông bắt đầu hoạt động trong lĩnh vực đầu tư xây cao ốc cho thuê, nổi danh với nhiều cao ốc đồ sộ lúc đương thời và đem lại cho ông những món lợi kếch xù.
Năm 1954, cao ốc đầu tiên do ông xây dựng được đưa vào sử dụng. Đó là cao ốc Mai Loan 125 phòng tại số 16 Trương Định. Toàn bộ số phòng trên đều được thuê, đa số là những người sống độc thân như nhà văn, nhà báo, ca sĩ, vũ nữ…
Năm 1955, ông Nguyễn Tấn Đời xây thêm cao ốc Tân Lộc với 5 tầng lầu, 90 phòng ở số 177 – 179 đường Lê Thánh Tôn. Các căn hộ trong cao ốc này rộng rãi và tiện nghi hơn cao ốc Mai Loan, khi khánh thành cũng được thuê hết.
Sau đó, ông xây thêm cao ốc thứ ba là cao ốc Victoria ở số 937 đường Trần Hưng Đạo. Cao ốc này được xem là cao nhất và nhiều phòng nhất thời bấy giờ, gồm 240 phòng.
Năm 1962, ông đầu tư xây cao ốc President ở số 727 đường Trần Hưng Đạo với 1.200 phòng, và ngay tức khắc nó đã được người Mỹ thuê dài hạn 10 năm…
Đến năm 1963, Nguyễn Tấn Đời cho xây thêm cao ốc Đức Tân ở số 491 đường Phan Thanh Giản (nay là Điện Biên Phủ) và cao ốc Prince ở số 175 - 177 đường Phạm Ngũ Lão.
Vào những năm 1960, ông Nguyễn Tấn Đời được xem như “vua” cao ốc của Sài Gòn. Những tòa cao ốc của ông rất đồ sộ, có cái lên đến 1.655 phòng và tất cả được người Mỹ thuê.
Từ trắng trở thành tỷ phú, cái tên Nguyễn Tấn Đời được người dân cả miền Nam biết đến.
Một thời gian sau, ông chuyển sang kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng với cương vị là Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng Giám đốc Ngân hàng Tín Nghĩa – một ngân hàng thương mại lớn nhất miền Nam những năm 1970. Ông đã có những cải tổ gây chấn động ngành ngân hàng.
Mất trắng và tái khởi nghiệp ở nước ngoài:
Trong lúc đang ăn nên làm ra, ngày 21/4/1973, Nguyễn Tấn Đời bị Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh bắt giam. Đến 1975, ông Đời được trả tự do nhưng mọi quyền hành mất hết. Từ một đại gia nức tiếng, ông trở nên trắng tay.
Lúc này, ông lang thang vạ vật tìm đường sang Canada. Tại đây, ông được một người bạn làm ăn cũ người Nhật giúp vốn và hỗ trợ kỹ thuật để mở một nhà hàng Kobe tại Canada. Từ một nhà hàng, dần dần Nguyễn Tấn Đời phát triển thành một hệ thống với hàng loạt chi nhánh tại Mỹ như Washington. DC, Texas, Chicago, New York, Califonia, Hawaii, Floriada...Lúc này, tên tuổi của ông lại nổi tiếng như thuở xưa.
Khi đã thành danh nơi đất khách, ông Đời dự định về Việt Nam xin phép kinh doanh các ngành nghề trước kia như mở ngân hàng, xây cao ốc, mở xí nghiệp sản xuất…. Tuy nhiên, mọi kế hoạch đang tính toán dở dang thì ông lâm bệnh và từ trần vào ngày 6/7/1995 tại Orlando, Florida (Mỹ).
(Theo Tri Thức và Cuộc Sống)
(Việt Luận)

 

Thursday, November 13, 2025

Danh ca Khánh Ly và những cuộc tình đi qua NHẠC XƯA - Đại Úy Mai Bá Trác Nha Kỹ Thuật

Danh ca Khánh Ly và những cuộc tình đi qua NHẠC XƯA Như là một định mệnh, những danh ca hàng đầu của nhạc Việt như là Khánh Ly, và một số người khác nữa, đều trải qua nhiều lận đận trong hôn nhân. Đó dường như là một sự bù trừ, khi họ đạt được quá nhiều thành công trong sự nghiệp phủ đầy hào quang, thì phía sau đó là những góc khuất mà có thể ít người biết tới. Danh ca Khánh Ly sinh quán ở Hà Nội, cha của cô hoạt động chính trị từ thời thập niên 1940-1950 nên thường xuyên phải đi lánh nạn và vắng nhà. Mẹ đi bước nữa, rồi cha qua đời từ rất sớm trong một sự kiện bí ẩn mà cho đến giờ Khánh Ly vẫn chưa biết là tại sao. Từ thời điểm đó, vì mẹ bận rộn với cuộc sống mới, với cuộc mưu sinh mới, nên Khánh Ly nhận được ít sự quan tâm, thiếu tình thương, và từ đó về sau dường như lúc nào cũng khao khát sự yêu thương. Khánh Ly nói rằng vì quá thương nhớ cha, thèm khát vòng tay của cha, nên thuở nhỏ cô mang cảm giác giận hờn tất cả mọi người vì những cái mình thiếu. Và có lẽ là quá thần tượng cha, nên cô cũng thường tìm kiếm tình thương tương tự vậy từ những người đàn ông mà cô gặp. Nhưng – lẽ dĩ nhiên là – không có một bất kỳ người đàn ông nào có thể yêu thương vợ giống như tình thương của người cha dành cho con gái. Tình yêu đầu đời đến khi Khánh Ly 14 tuổi. Lúc này cô chơi cùng nhóm bạn với người anh, trong đó toàn là con trai, và Hải là một người trong nhóm đó. Theo lời kể của Khánh Ly thì Hải có duyên, nhảy đầm giỏi, họ đến với nhau bằng một tình cảm rất ban sơ, thậm chí là còn chẳng biết nắm tay, chỉ đơn giản là không gặp thấy mong, thấy nhớ. Hải từng nói: Khi nào anh ra trường, anh sẽ cưới Mai (tên thật của Khánh Ly). Nhưng đó chỉ là tình yêu đầu khi tuổi đời còn rất trẻ, khi người ta còn rất nhiều điều quan tâm khác, nhiều nghĩa vụ cần phải thực hiện. Hải bỏ trường dược và vào quân ngũ, trở thành lính không quân, ít được về thăm nhà, và thời gian xa vắng đã làm cho họ thể còn gặp nhau nhau nữa. Không lâu sau đó, Khánh Ly bất ngờ lấy chồng khi mới 16 tuổi, với một người mà cô nói rằng không phải là lấy vì yêu, mà là vì những phút giây nông nỗi ở cái tuổi luôn thích làm ngược ý của mẹ, sa đà vào những cuộc vui, hậu quả là cô đã có bầu với một người bạn của anh mình. Tuy chồng là một công tử ăn chơi, nhưng lại được sinh ra trong một gia đình có đạo, biết chịu trách nhiệm với hậu quả gây ra nên một đám cưới chóng vánh đã được tổ chức trong nhà thờ. Khánh Ly theo chồng về Đà Lạt, sinh con và làm dâu. Tuy nhiên việc lấy chồng và có con không làm cho Khánh Ly trưởng thành nhanh hơn lên được, cô vẫn vô tư và hồn nhiên với cuộc hôn nhân và với cả hai đứa con được lần lượt sinh ra. Dù gia đình sống ở Đà Lạt, nhưng chồng Khánh Ly thường được điều động đi công tác xa, rất hiếm khi về nhà. Ngoài ra, vì mê hát, lại còn quá trẻ nên Khánh Ly không phải là một người biết vun vén và sẵn sàng hy sinh cho gia đình, nên tình cảm vợ chồng vốn không phải là quá gắn bó ngày từ lúc mới cưới, đã dần dần trở nên lạnh lẽo. Khánh Ly kể lại rằng chồng là một người tốt tính, hiền, chưa từng tỏ ra vũ phu hay thô lỗ, nhưng một hôn nhân không có tình yêu như vậy chỉ có sự ngột ngạt, không thể chia sẻ với nhau được điều gì, và ngoài con cái ra thì không có một điểm chung nào, gần như là phần ai nấy sống. 

Vì tất cả những lý do đó, họ kết thúc 5 năm hôn nhân và Khánh Ly mang con về lại Sài Gòn ở tuổi 22. 

Đó là năm 1967, cũng là năm Khánh Ly gặp người chồng thứ 2 là Mai Bá Trác, là một đại úy biệt kích, quê ở Đà Nẵng. Đó là một người đàn ông đẹp trai, duyên dáng, lịch thiệp và được nhiều phụ nữ mê đắm. Hai người có một cô con gái chung đặt tên Mai Mai Misa. Nhưng cuộc hôn nhân này cũng không kéo dài được bao lâu, năm 1972, hai người đường ai nấy đi mà nguyên nhân chính là ông quá đào hoa. 


Báo đưa tin Khánh Ly chia tay thiếu tá Mai Bá Trác năm 1972 Cuộc tình sau cùng của Khánh Ly ở Sài Gòn trước năm 1975 là với một quân nhân tên là Đỗ Hữu Tùng, người đã mất tích trận Đà Nẵng tháng 3 năm 1975. Sinh ra và lớn lên tại Đà Nẵng, sau khi học xong tú tài, Đỗ Hữu Tùng đã tình nguyện vào học khóa 16, trường Võ bị Đà Lạt. Ra trường với cấp bậc Thiếu úy, ông xin về TQLC và trở thành một sĩ quan của binh chủng này. Đỗ Hữu Tùng được nhận xét là ít nói, có vẻ thâm trầm, dáng người thấp nhưng chắc chắn và có làn da ngăm đen, khuôn mặt hiền lành. Theo lời kể của Khánh Ly thì với Đỗ Hữu Tùng, cô có mối tình sâu đậm nhất trong đời: Năm đó tôi mới ngoài 20. Tôi gặp anh rất tình cờ, trong một buổi khao quân sau trận Hạ Lào. Rồi thời gian qua đi, đến năm 1974, tôi tình cờ gặp lại anh khi tôi ra Huế để thăm nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Tôi không phủ nhận rằng tôi yêu anh và anh yêu tôi. Đó là tình yêu của tôi ở lứa tuổi ngoài 20, gần 30, tôi mới biết thế nào là tình yêu. Cuộc tình của tôi cũng khốc liệt như thời cuộc, mặc dù chúng tôi chỉ được gặp nhau được không quá 10 lần. Đôi khi ngồi tại phi trường rồi nói chuyện với nhau rồi tôi lên máy bay trở vào Saigon, còn anh trở ra mặt trận. Anh kẹt ở bãi biển Sơn Trà – Đà Nẵng. Và khi Đà Nẵng mất, anh không trở về. Tôi có hỏi thăm, tôi đi tìm ở các nơi nhưng không ai thấy anh, không ai nói được một điều nào đích xác về sự mất tích của anh. Tôi đã sống với hy vọng được gặp lại anh trong suốt 15 năm. Phải qua 15 năm đó, tôi mới tự nói với mình rằng quả thật anh đã không còn nữa. Tôi vẫn tôn thờ hình ảnh và tình yêu đó, là bởi vì đó là tình yêu đích thực mà tôi có trong đời sống của tôi. 

Khánh Ly và các nghệ sĩ khác trong một lần khao quân. Cô đứng bên cạnh Đỗ Hữu Tùng Năm 1975, 

Khánh Ly đưa ba con đi Mỹ. Cuộc sống không chồng, không tiền, không nghề nghiệp cơ cực nơi xứ người đã khiến nữ ca sĩ lừng lẫy một thời phải nhiều lần bị rơi nước mắt. Cô phải làm nhiều công việc tay chân để kiếm tiền nuôi con, trong đó có cả công việc lao công, cọ rửa toilet rất cực nhọc. Cuộc hội ngộ với ký giả Nguyễn Hoàng Đoan trên đất Mỹ đã tạo ra một ngả rẽ mới cho cuộc đời Khánh Ly trên xứ người. So với vị thế của một ngôi sao lớn như Khánh Ly thì ông Nguyễn Hoàng Đoan chỉ là một bóng dáng mờ nhạt sau lưng vợ. Tuy nhiên, đây mới chính là người đàn ông mà Khánh Ly cần – Một người đàn ông giản dị nhưng chân thành, là người đứng đằng sau tất cả những thành công trong sự nghiệp Khánh Ly tại hải ngoại. Ông Đoan là một nhà báo khi còn ở Sài Gòn, nên đã nhiều lần gặp và nói chuyện với Khánh Ly khi còn ở Việt Nam, nhưng lúc đó chỉ là bạn bè bình thường. Lần gặp lại nơi xứ người, họ cũng chỉ như hai người đồng hương, đồng ngữ mà thôi. Khánh Ly kể lại: “Lúc tôi gặp anh Đoan lần đầu, anh hỏi tôi cần gì. Tôi nói tôi cần mấy bộ chén, mấy đôi đũa ăn cơm. Anh là người đi mua, 6 cái chén, 6 đôi đũa. 

Anh không bao giờ cưa kéo hay tán tỉnh tôi và anh cho tôi cảm giác có thể tin cậy. Tôi lúc đó chưa dám nghĩ là anh có cho tôi tình thương hay không. Tôi chỉ nghĩ, đó là người mình có thể nương tựa. Rồi hai mảnh đời cô đơn muốn có một mái ấm, muốn có những bữa cơm gia đình kết hợp, ở với nhau, sống với nhau thì dần thương nhau. Lúc đó, anh có công ăn việc làm, có thu nhập, trong khi tôi đang tay trắng, một nách ba con nhỏ, mà ở đất Mỹ thì còn ai biết, ai nhớ Khánh Ly nữa? Tôi hiểu, đó là người hy sinh cho mình, bởi anh thiếu gì người mà phải đi lấy một mẹ nạ dòng có 3 đứa con?” Sự nhiệt tình và ấm áp của ông Đoan đã khiến mối quan hệ của họ trở nên thân tình hơn. Sau vài tháng gặp gỡ, ông Đoan ướm lời: “Ở đây anh không có gia đình, em cũng không có gia đình. Em nghĩ sao khi chúng mình kết hợp thành một gia đình?”. Sau khi đắn đo suy nghĩ, Khánh Ly gật đầu. Đó là năm 1976, hai người dọn về ở chung, nương tựa vào nhau, cùng nhau vượt qua những tháng ngày khó khăn đầu tiên nơi xứ người. Đám cưới năm 1976 Sự tận tuỵ của ông Nguyễn Hoàng Đoan dành cho cuộc đời Khánh Ly, dành cho giọng hát của Khánh Ly và dành cho gia đình chung của hai người đã khiến cuộc hôn nhân của họ bền chặt đến cuối cùng, cho đến khi ông Hoàng Đoan qua đời năm 2015. Nói về quan điểm trong hôn nhân, Khánh Ly nói rằng để có cuộc sống vợ chồng hạnh phúc thì cần phải có sự nhẫn nại và cần hy sinh rất nhiều, nếu không thể hy sinh thì không thể ở chung được với ai. “Nếu bạn lấy phải một người chồng “cao” quá thì bạn phải cao bằng họ. Nếu bạn không thể “cao” bằng họ thì bạn phải kéo họ xuống thấp bằng mình. Còn nếu lấy ông chồng “thấp” quá, bạn phải kéo ông ấy lên, không kéo được thì bạn phải ngồi xuống. Có như vậy hai người mới ở với nhau được. Không thể nào để cái tôi của mình ảnh hưởng tới đời sống vợ chồng” (Khánh Ly) Thời trẻ, vì cái tôi quá lớn, và cũng vì Khánh Ly cũng không muốn đánh đổi sự tự do bay nhảy và niềm đam mê ca hát để toàn tâm toàn ý lo cho chồng. Đến khi người đàn ông không tìm thấy ở vợ mình những cái họ cần, thì sẽ đi tìm người đàn bà khác. Vì vậy khi đến cuộc hôn nhân thứ 3, Khánh Ly nói rằng cô đã sống với chồng bằng tất cả sự toàn tâm, toàn ý, và kết quả đó là cuộc hôn nhân lâu bền nhất. Và lời đồn thổi về những cuộc tình Ngoài 3 cuộc hôn nhân chính thức, Khánh Ly còn trải qua những cuộc tình và vô số những tin đồn liên quan. Trở lại với mối tình đầu tiên, là chàng phi công tên Hải, sau khi chia tay và Khánh Ly đi lấy chồng thì có một lần hai người tình cờ gặp lại nhau trong một vũ trường ở Pleiku. Hải hẹn với Khánh Ly là sáng hôm sau nếu rảnh sẽ đưa cô đi chơi biển Hồ trước khi về lại Sài Gòn. Đêm đó cô về khách sạn ngủ thì bỗng nghe tiếng gõ cửa rất mạnh, mở cửa thì thấy Hải: “Tôi ngạc nhiên vì thấy anh xuất hiện và không có phản ứng gì. Những xúc cảm ngày xưa không kịp sống lại bởi quá bất ngờ. Bỗng anh ngã nhào vào tôi rồi cả hai đổ xuống giường. Tôi chỉ kịp đẩy anh Hải ra thì anh đã nằm vật ra ngủ. Hóa ra anh Hải bị say quá. Có khi lúc đó ôm mà anh không biết là tôi đâu. Thấy anh ngủ, tôi kéo mền đắp, phần còn lại chiếc giường tôi nằm. 5h sáng tôi tỉnh dậy và không thấy ai. Tôi biết rõ ràng mình không mơ, đó là câu chuyện rất thật”. Khánh Ly kể lại, đó là buổi sáng định mệnh bởi anh Hải lặng lẽ rời khỏi căn phòng và ra đi mãi mãi. “Buổi sáng hôm đó, khi vẫn đang ở khách sạn, tôi nghe một tiếng nổ rất lớn. Hỏi ra mới biết chiếc máy bay anh Hải lái chưa kịp cất cánh đã bị cháy. Tôi lao đến nơi anh Hải bị nạn. Rồi chiều đó, tôi xin được đi theo chuyến bay đưa thi hài anh về lại Sài Gòn. Khi máy bay đáp xuống, mọi người lạnh nhạt với tôi. Họ chẳng biết tôi là ai hoặc có thể đã nghe về tôi nhưng vì một lý do nào đó nên không ai nói gì. Đám tang anh Hải, chờ cho dòng người tiễn đưa anh đã về hết, tôi mới lặng lẽ vào nghĩa trang. Tôi ngồi đó, một mình bên nấm mộ của anh. Sau này, tôi được biết mọi người đều nghĩ vì tôi mà anh Hải chết. Họ đặt câu hỏi: Tôi và anh đã làm gì đêm trước để đến nỗi hôm sau anh Hải phải ra đi?”. Khánh Ly tâm sự là cô đã phải mang theo nỗi oan này suốt một khoảng thời gian dài. Mãi tới khi sang Mỹ, lúc đó Khánh Ly đã lấy người chồng thứ ba là ông Hoàng Đoan thì mới nhận được một bức thư rất lạ. “Tôi mở thư thấy hình của anh Hải. Đằng sau là chữ của bố anh viết: Gửi ca sĩ Khánh Ly, thay mặt cho cố nhân…. Lúc đó, tôi hiểu rằng nỗi oan của mình đã được giải. Tôi cầm tấm hình anh Hải rồi tôi trốn vào buồng tắm khóc vì không muốn chồng biết. Tôi khóc vì tôi tủi”. Có một người đàn ông khác đã từng gắn bó với Khánh Ly trước khi qua đời năm 1968, đó chính là cố chuẩn tướng không quân Lưu Kim Cương, là nhân vật trong bài hát Cho Một Người Nằm Xuống của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Họ quen nhau ngay từ khi Khánh Ly vẫn chưa nổi tiếng, và mặc cho nhiều tin đồn vây quanh, Khánh Ly nói rằng cô luôn xem ông Lưu Kim Cương như là một người anh thân thiết. Khánh Ly đã gặp Lưu Kim Cương từ khi cô mới là một cô bé 16,17 tuổi, khi hát tại phòng trà Anh Vũ ở Sài Gòn. Lúc đó chưa ai biết Khánh Ly là ai, nhưng Lưu Kim Cương đã chú ý đến cô ca sĩ nhỏ nhắn da ngăm đen này ngay từ lần đầu tiên cùng vợ đến xem cô hát tại phòng trà với những ca khúc tiền chiến Con Thuyền Không Bến, Đêm Đông, Chiều Vàng… những ca khúc dường như quá tuổi đối với một ca sĩ mới 17 tuổi. Khánh Ly kể rằng công Cương đã nói với cô rằng dù có chuyện gì xảy ra, thì hãy luôn giữ mãi nụ cười trên môi. Năm 1964, Khánh Ly bỏ Sài Gòn để lên Đà Lạt sống cùng chồng con, hát ở các Night Club tại đây. Người đầu tiên lên cao nguyên tìm Khánh Ly và khuyên cô về lại Sài Gòn, không phải là Trịnh Công Sơn, mà chính là Lưu Kim Cương. Năm 1968, Lưu Kim Cương mất trong trận Mậu Thân. Một bài báo năm 1969 đã ghi lại về Khánh Ly và Lưu Kim Cương như sau: …

Những buổi sinh hoạt văn nghệ của Quán Văn vào những hôm có Khánh Ly hát, người ta để ý, bao giờ cũng có một khuôn mặt trẻ, khuôn mặt của 1 thanh niên, ngồi lặng lẽ ở 1 góc tối, lặng lẽ theo dõi Khánh Ly ca. Khuôn mặt đó đã được giới trẻ phát giác ra là LKC. Mặc dầu Đại tá nhà ta bao giờ đến quán Văn cũng mặc thường phục và đóng vai người khách trầm lặng tầm thường. Ngày đó người ta đã bàn tán nhiều về chuyện LKC và Khánh Ly, và chính LKC ngày còn sống cũng đã từng thổ lộ tâm tình với 1 số bạn thân thiết… Nhưng tình yêu đó chỉ là tình tuyệt vọng, vì không thể nào 2 người có thể kết hợp sống gần gũi nhau được. Tại sao? Chẳng bao giờ LKC chịu tiết lộ, cả Khánh Ly cũng thế. Bài báo năm 1969 Một người đàn ông khác được xem là người gắn bó nhất với sự nghiệp của Khánh Ly, đó là nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. 

Họ thân thiết đến nhau đến nỗi có rất nhiều tin đồn, nhưng trước sau như một, Khánh Ly nói rằng cô tìm thấy ở ông Trịnh tình cảm của một người cha mà cô đã thiếu thốn từ nhỏ. Ở bên cạnh nhạc sĩ, Khánh Ly như là một cô gái bé nhỏ, cần được chỉ dạy, hướng dẫn, không chỉ là trong nghề ca hát, mà còn ở lối sống, cách nghĩ. Cũng chính nhờ Trịnh Công Sơn hướng dẫn mà Khánh Ly đã hoàn thiện được tiếng hát của mình để vươn thành một nữ ngôi sao ăn khách nhất Saigon. Khánh Ly cũng nói rằng đối với cô, tình thân có được với Trịnh Công Sơn còn cao hơn cả tình nhân. Vì nếu là tình nhân, phải dây dưa vào thứ tình cảm lằng nhằng thì họ đã không thể gắn bó được với nhau như đã từng… Khánh Ly cũng đã rất nhiều lần nói rằng trong vài chục năm quen biết, lúc nào cô cũng xem nhạc sĩ Trịnh Công Sơn là người anh, người thầy, người cha: “Ông Sơn và tôi ngày đó chỉ ngồi cạnh nhau. Tôi không bao giờ dám hỗn hay ngang vai phải lứa với ông”. … “Tôi không thể nào là bạn của Trịnh Công Sơn được. Tôi chỉ là người con, người em của ông thôi. Trịnh Công Sơn là người ban ơn cho tôi mà. Ơn của ông không thua gì ơn cha mẹ tôi. Cha mẹ tôi tạo hình hài cho tôi ra đời, nhưng ông Sơn mới là người nuôi sống đời sống của tôi sau này. Nếu gọi là bạn, thì tôi hơi hỗn với Trịnh Công Sơn. Tôi không xứng đáng là bạn ông Sơn. Ông Sơn như một người cha, người anh với tôi”. (trích bài phỏng vấn của Long Phạm) Mới đây, trả lời 1 tờ báo trong nước nhân dịp về Việt Nam biểu diễn tháng 6 năm 2022, danh ca Khánh Ly nói về việc đã bị phim hư cấu trở thành một trong những “tình nhân” của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn: “Nếu được là người yêu của ông Sơn, tôi hãnh diện chứ. Dễ gì được làm người yêu của Trịnh Công Sơn. Tôi có gì đáng để cho ông ấy yêu đâu. Nếu điều đó là sự thật thì ông Sơn là người thiệt, và tôi là người có lợi. Nhưng mà tôi không thể tự nhận điều đó được. Tôi không thể tham lam, nhận những điều không phải của mình. Và quan trọng là lúc đó tôi đã có gia đình. Các con tôi sẽ nghĩ gì khi xem phim có cảnh mẹ chủ động đi tìm ông Trịnh Công Sơn. Trong khi tôi với bố nó vẫn ở với nhau”. chuyenxua.net biên soạn


Nguồn chuyenxua.net kèm theo link bài viết. 

Chuyện Khánh Ly và Mai Bá Trác

 Khánh Ly có một thời son trẻ lận đận với chuyện tình yêu và chưa bao giờ được sống trọn vẹn với mơ ước của mình và những cuộc tình ồn ào đi qua đời bà cũng ít người biết đến.

Sau khi sang Mỹ định cư năm 1975, giọng hát của Khánh Ly vẫn đứng đầu ở hải ngoại. Từ đó đến nay, bà đã hai lần về Việt Nam với tư cách thăm viếng người nhà. Lần sau cùng vào tháng 5/2000. Tài danh là thế, nhưng đường tình cảm của Khánh Ly không được may mắn như sự nghiệp ca hát. Suốt thời son trẻ của bà toàn lận đận với chuyện tình yêu và chưa bao giờ được sống trọn vẹn với mơ ước của mình, và các cuộc tình ồn ào đi qua đời bà cũng ít người biết đến.
Người chồng đầu lầm lỡ
Khánh Ly lập gia đình lần đầu và có hai con với một người có biệt danh là "Minh Đĩ”. Trong cuốn “Chuyện kể sau 40 năm” của Khánh Ly, bà đã chia sẻ: “Tôi mới 17 tuổi đã thành đàn bà, đã mang trong người một mầm sống không mong đợi. Lỗi của tôi... Tôi biết anh ta ở Vũ Trường Đồng Khánh. Anh ta là một người đẹp trai dù ăn nói không có duyên… Tôi thích Minh nhưng không hề cảm thấy rung động, hồi hộp chờ mong. Không có cảm giác đông cứng hoặc cháy bỏng, ngộp thở lảo đảo, bềnh bồng, tan chảy như bọt nước”.
Sau đó, chuyện tình của bà cũng dở dang, Minh đi tù vì đảo ngũ. Một mình bà lái xe đi viện sinh con đầu lòng là Ly Cơ. Năm sau Minh về, hai người sống với nhau như vợ chồng và sinh người con trai thứ 2. Suốt cuộc tình với Minh, bà luôn đau khổ vì sự lầm lỡ ngu dại.
Chồng thứ 2 là đại úy tay chơi
Trên trang Duyên dáng Việt Nam đã tiết lộ về người chồng thứ 2 của Khánh Ly, đó là một đại úy biệt kích và là một tay chơi có hạng của đất Sài Gòn thời đó.
Ông tên là Mai Bá Trác, con trai thứ trong một gia đình giàu có và tiếng tăm ở Đà Nẵng, từng chỉ huy một trại biệt kích biên phòng ở biên giới Tây Ninh vào những năm cuối thập niên 60. Là một người đàn ông có thân hình to lớn, không thuộc thành phần đẹp trai, học giỏi, nhưng ông ta có dáng dấp của một kẻ phong trần, bụi bặm và lì lợm.
Vốn con nhà giàu, lại nắm chức vụ hái ra tiền, nên mang danh là lính biên giới, nhưng tháng nào Mai Bá Trác cũng có mặt ở Sài Gòn mấy ngày để ăn chơi xả láng với nhiều người đẹp. Nhưng đến khi gặp Khánh Ly thì Trác chết mê, chết mệt. Ông quyết tâm theo đuổi và cuối cùng Khánh Ly đã đồng ý làm đám cưới để thành vợ, thành chồng.
Năm 1972, họ cho ra đời một bé gái. Ông Mai Bá Trác lấy tên thật của Khánh Ly (là Nguyễn Thị Lệ Mai, bạn bè thường gọi là “Mai đen” bởi làn da không được trắng) làm chữ lót, đặt tên con là Mai Mai Misa như để bày tỏ hết lòng yêu thương của ông ta. Đến khi ván đã đóng thuyền, biết chắc là của mình rồi, ông Trác lại ngựa quen đường cũ, không có ý bỏ vợ, nhưng lại lén lút trăng hoa với nhiều người phụ nữ khác.
Cũng vào năm 1972, Khánh Ly nhờ văn phòng Thừa Phát Lại ập vào bắt quả tang để có chứng cứ ly dị. Mặc dù Mai Bá Trác nhiều lần muốn quay lại nhưng Khánh Ly kiên quyết từ chối.
Hiện Mai Bá Trác định cư ở Mỹ và rất thường về Việt Nam để thăm nhà. Lần về nào ông cũng lên Thủ Đức ghé thăm bà chị ruột của Khánh Ly đang sinh sống tại đó.
Mối tình tuyệt vời nhưng ngắn ngủi
Năm 1972, sau khi nói lời chia tay với Mai Bá Trác, trong một lần ra Huế hát phục vụ cho binh sĩ, Khánh Ly đã gặp Đỗ Hữu Tùng trong một bữa tiệc khao quân.
Sinh ra và lớn lên tại Đà Nẵng, sau khi học xong tú tài, Đỗ Hữu Tùng đã tình nguyện vào học khóa 16, trường Võ bị Đà Lạt. Ra trường với cấp bậc Thiếu úy, ông xin về Thủy quân Lục chiến và trở thành một sĩ quan nổi tiếng của binh chủng được coi là thiện chiến nhất của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Mặc dù lúc bấy giờ, Đỗ Hữu Tùng đã có vợ và con, nhưng hai người đã gặp tiếng sét ái tình. Họ dường như không còn biết đất trời là gì. Khánh Ly thường xuyên bay ra chung sống với Đỗ Hữu Tùng tại vị trí đóng quân. Thậm chí, ông Tùng đã có ý bỏ vợ để lấy Khánh Ly.
Cũng vì thế, mà có cuộc đánh ghen giữa người chồng cũ Mai Bá Trác và ông Đỗ Hữu Tùng. Báo Duyên dáng Việt Nam cho biết, do vẫn còn yêu Khánh Ly khi chia tay, lại một lần tình cờ gặp Đỗ Hữu Tùng tại Sài Gòn, Ông ta theo dõi và biết Tùng thường xuyên có mặt tại phòng trà Khánh Ly, nên rủ thêm vài chiến hữu, lặng lẽ mở cuộc đột kích.
Khi Đỗ Hữu Tùng xuất hiện, mới bước vào bên trong, Trác đã bám theo và cho Tùng hai cái tát. Trước khi định móc súng ra để xiết cò, thì mọi người kịp thời can ngăn. Đỗ Hữu Tùng đã nhanh chóng rút lui, nhưng ông đâu có chịu nhục, nhất là khi Mai Bá Trác và Khánh Ly đã không còn là chồng vợ. Ông ta vội huy động một số đàn em Thủy Quân Lục Chiến ở hậu cứ ra trả đũa, nhưng Mai Bá Trác cũng đoán được ý đồ đó của Tùng nên cũng vội biến khỏi đấu trường.
Một thời gian sau đó, Đỗ Hữu Tùng đã tử trận vì đạn pháo kích ngày 29/3/1975 tại bờ biển Đà Nẵng.
Hiện tại sống hạnh phúc cùng chồng và 4 người con
Hiện nay, Khánh Ly đang định cư ở nước ngoài và kết hôn với ông Nguyễn Hoàng Đoan, một nhà báo kiêm nhà văn viết tiểu thuyết phóng sự năm 1975.
Bà có tổng cộng bốn người con, hai trai và hai gái. Trong lần trả lời báo chí gần đây nhất, Khánh Ly đã chia sẻ: “Điều quan trọng với tôi là gia đình sau khi rời sân khấu. Gia tài cuối cùng của một người đàn bà chính là những đứa con. Chồng có thể bỏ mình vì một triệu lý do. Các con thì không… Đến bây giờ thì tôi không còn mong ước gì hơn. Ngay bây giờ nếu không còn hát được nữa tôi cũng xin chắp tay lậy tạ cuộc đời và mọi người ở nơi tôi đã bắt đầu và đã trở lại”.
An Nguyên/Giadinhonline

Monday, November 10, 2025

60 năm Đảo chính 1-11-1963 TT Ngô Đình Diệm bị thảm sát Cù Mai Công

 

ĐẠI SỰ BẤT THÀNH, NGÀY LỄ ĐẪM MÁU

Trong giới Công giáo, lễ Các thánh 1-11, lễ Các linh hồn 2-11 là lễ lớn. Nếu không có ngăn trở quan trọng, giáo dân buộc phải dự lễ. Cả Tổng thống Diệm lẫn ba vị đại tá Lê Quang Tung – Bùi Dzinh – Trần Khắc Kính đều là người Công giáo nhiệt thành khó bỏ qua việc này. Thực tế sáng 2-11, ngay trong cơn dầu sôi lửa bỏng, thập tử nhất sinh, trước khi quyết định gọi điện thoại cho phe đảo chính báo nơi ẩn náu của mình, ông Diệm và bào đệ là ông Nhu vẫn bí mật dự lễ Các linh hồn ở nhà thờ Cha Tam.

Cuộc đảo chính của nhóm các tướng lĩnh, do tướng Dương Văn Minh cầm đầu, có lẽ đã tính toán cả chuyện này khi quyết định chọn ngày D cho cuộc đảo chính: 1-11-1963.

Ông Dzinh, ông Tung không chỉ Công giáo nhiều đời như dòng tộc Tổng thống Ngô Đình Diệm mà còn đồng hương Lệ Thủy (Quảng Bình), Huế với ông Diệm nên không khó để biết hai vị này rất trung thành với ông Diệm. Ông Tung còn được ông Ngô Đình Nhu giao nhiệm vụ thành lập Quân ủy Trung ương đảng Cần Lao.

 Ông Dzinh và ông Kính sinh cùng năm 1929, ông Tung lớn hơn vài tuổi, cũng coi là đồng trang lứa. Cuối năm 1956, ông Tung được đích thân Tổng thống Diệm gọi vào Dinh Độc Lập phỏng vấn rất lâu, sau đó phong trung tá, đưa làm giám đốc Sở Liên lạc. Phó giám đốc là ông Kính, lúc đó mới đại úy. Sau đó sở này đổi tên Sở Khai thác địa hình.

Ngay sau đó, ông Tung đi Honolulu học khóa đặc biệt về hoạt động bí mật và xâm nhập. Ông Kính và em ông Tung là trung úy Lê Quang Triệu cũng đi Saipan (một hòn đảo thuộc đảo Guam) học về tình báo.

Ngày 15-3-1963, Tổng thống Diệm đổi Sở Liên lạc thành Lực lượng Đặc biệt, thăng ông Tung lên đại tá, tư lệnh Lực lượng Đặc biệt. Thiếu tá Trần Khắc Kính là phó. Đại tá Tung lo về hoạt động tình báo, gián điệp ở miền Bắc; việc tổ chức, huấn luyện Lực lượng Đặc biệt thuộc ông Kính.

Ông Tung cũng đồng thời là chỉ huy trưởng Lữ đoàn Liên binh Phòng vệ Phủ Tổng thống, lực lượng tinh nhuệ nhất của Quân lực Việt Nam Cộng hòa; trang bị hỏa lực rất mạnh, có cả xe tăng lẫn cao xạ bắn máy bay.

ĐẠI SỰ BẤT THÀNH

Lữ đoàn Liên binh Phòng vệ Phủ Tổng thống đóng ở thành Cộng Hòa trên đại lộ Thống Nhứt; cách Dinh Độc Lập vài trăm thước.

Lực lượng Đặc biệt và Lữ đoàn Liên binh Phòng vệ Phủ Tổng thống là nỗi ám ảnh thất bại của nhóm tướng lĩnh đảo chính với hậu thuẫn của Mỹ – như đã từng thất bại trong cuộc đảo chính năm 1960. Thậm chí, theo tác giả Nông Huyền Sơn, “một kế hoạch do Ngô Đình Nhu soạn thảo giao cho Lê Quang Tung thực hiện là sử dụng Lực lượng Đặc biệt cải trang tiếp cận tòa đại sứ Mỹ phóng hỏa, gây rối loạn an ninh rồi ám sát đại sứ Henry Cabot Lodge cùng một vài nhân vật quan trọng của tòa đại sứ Mỹ. Kế hoạch này được ấn định thực hiện trong tháng 9-1963”.

Cũng theo đó, “Không may cho ông Nhu, một sĩ quan của lực lượng đặc biệt có người yêu làm nhân viên ở tòa đại sứ đã tiết lộ kế hoạch này. Bị bại lộ, Ngô Đình Nhu rút lệnh thực hiện”.

Ngày 19.10.1963, tướng Paul D. Harkins, chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy Viện trợ Quân sự Mỹ ở Việt Nam Cộng hòa thông báo cho Tổng thống Diệm biết ngân khoản Hoa Kỳ dành cho Lực lượng Đặc biệt bị cắt giảm. Và nhóm tướng lĩnh âm mưu đảo chính, với hậu thuẫn của Mỹ và đại sứ Mỹ Henry Cabot Lodge, Jr., ra tay trước.

NGÀY LỄ CÁC THÁNH 1-11-1963 ĐẪM MÁU

Sáng 1-11-1963, dù là thứ Sáu, nhưng do là ngày lễ Các thánh, ông Tung và ông Kính dự lễ ở nhà thờ cùng gia đình xong đã ở nhà nghỉ lễ. Đại tá Bùi Dzinh lúc ấy đang ở Sa Đéc, chỉ huy Sư đoàn 9 kiêm tư lệnh Khu 42 chiến thuật.

Cũng trong buổi sáng này, tại Bộ Tổng tham mưu (nay là Bộ Tư lệnh Quân khu 7) sát bên vùng Ông Tạ, nhóm tướng lĩnh làm đảo chính chính thức bắt tay vào kế hoạch: gởi danh sách các sĩ quan ủng hộ Tổng thống Diệm “phải mời cho bằng được” đến Bộ Tổng tham mưu họp, trong đó có đại tá Lê Quang Tung – chỉ huy Lực lượng Đặc biệt, trung tá Nguyễn Ngọc Khôi – tư lệnh Lữ đoàn Liên binh Phòng vệ Phủ Tổng thống. Ông Khôi gốc Quảng Trị, Công giáo; cùng khóa 3 Võ bị Đà Lạt với đại tá Bùi Dzinh. Lý do triệu tập: Nghe nói có một cuộc đảo chính Tổng thống Diệm nên trung tướng Trần Văn Đôn, quyền tổng tham mưu trưởng triệu tập tất cả các vị tư lệnh mọi quân binh chủng và giám đốc nha, sở ở Sài Gòn về họp ở Bộ Tổng tham mưu.

Trước đó, nhóm tướng lĩnh đảo chính đã tạo tin giả: “Việt cộng đang tập trung quân ở Hố Bò, Củ Chi, chuẩn bị tấn công Sài Gòn”. Lực lượng Đặc biệt của đại tá Tung đã bị điều ra đây. Sư đoàn 5 Bộ binh về bảo vệ Đô thành Sài Gòn. Tổng thống Diệm không ngờ tư lệnh Sư đoàn 5, đại tá Nguyễn Văn Thiệu (sau là tổng thống nền Đệ nhị Cộng hòa) thuộc nhóm tướng lĩnh làm đảo chính.

Tại cuộc họp, một quyết nghị của Hội đồng Quân nhân Cách mạng, do trung tướng Dương Văn Minh lam chủ tịch đã được công bố: “Truất phế ông Ngô- Đình-Diệm và bãi bỏ chế độ Tổng-thống” (nguyên văn).

Năm sĩ quan đứng lên phản đối là đại tá Lê Quang Tung, đại tá Cao Văn Viên – chỉ huy Lữ đoàn Nhảy dù, đại tá Huỳnh Hữu Hiền – Không quân, trung tá Nguyễn Ngọc Khôi, thiếu tá Nguyễn Đức Xích – tỉnh trưởng Gia Định. Theo tác giả Nông Huyền Sơn, ông Tung “trợn mắt”: “Tụi bây đeo lon, mặc áo, thụ hưởng phú quí, lạy lục để được Tổng thống Diệm ban ơn mà nay lại giở trò bất nhân bất nghĩa…”. Đại tá Tung “chưa dứt câu đã bị đại úy Nguyễn Văn Nhung kè vai, khóa tay lôi xểnh ra khỏi phòng họp. Một nhóm Quân cảnh khác cưỡng bức ba người còn lại (trừ đại tá Cao Văn Viên) đi theo đại úy Nhung (sĩ quan tùy viên tướng Dương Văn Minh)” đưa sang tạm giam trong phòng “cô lập các sĩ quan chống đối”. Chiều 1-11, em đại tá Tung là thiếu tá Triệu – tham mưu trưởng Lực lượng Đặc biệt đến Bộ Tổng tham mưu tìm anh cũng bị tạm giữ.

Theo đại tá Phạm Bá Hoa, lúc đó là đại úy, người được thiếu tướng Trần Thiện Khiêm yêu cầu gọi điện thoại “mời” các tướng tá về họp và có mặt ở buổi họp đó nói ông Tung bị Quân cảnh gác phòng họp còng tay đưa ra ngoài bắn chết. Nhưng cũng có thông tin nói tối 1-11-1963, Nguyễn Văn Nhung đưa hai anh em ông Tung và Triệu ra nghĩa trang Bắc Việt tương tế bên cạnh Bộ Tổng tham mưu, cùng một quân cảnh dùng lê đâm chết, vùi xác vào một đống cỏ rác. Đến giờ vẫn còn ý kiến khác nhau về chuyện này.

Trước cuộc họp, sáng 1-11, đại tá Hồ Tấn Quyền – tư lệnh Hải quân đã bị hai sĩ quan thuộc quyền lừa rời Bộ Tư lệnh Hải quân đi Biên Hòa mừng sinh nhật ông và sát hại ở Thủ Đức.

Trước đó, chiều 1-11-1963, Tổng thống Diệm đã ra lệnh cho “các đại đơn vị và các đơn vị quân đội, các lực lượng địa phương” về “giải phóng Thủ đô”. Hồ sơ lưu trữ của Quân đội Việt Nam Cộng hòa ghi chú: “Trong số này có gọi đại tá Bùi Dzinh và thiếu tướng Cao đem 4 tiểu đoàn về giải phóng Thủ đô vào 4 giờ chiều ngày 1-11-1963”. (Thiếu tướng Cao không rõ ai, có lẽ là Huỳnh Văn Cao – tư lệnh Quân đoàn IV, một trong số ít tướng trung thành với ông Diệm).

Nhận lệnh, đại tá Bùi Dzinh đã lập tức điều động Trung đoàn 15 thuộc Sư đoàn 9 bộ binh và một pháo đội của Tiểu đoàn 9 pháo binh về Sài Gòn phản đảo chính. Đây là lần thứ hai ông tham gia phản đảo chính. Trước đó, khi là tư lệnh phó Sư đoàn 21, ông đã cùng đại tá tư lệnh Trần Thiện Khiêm đưa Sư đoàn 21 từ miền Tây về Sài Gòn ứng cứu Tổng thống Ngô Đình Diệm, phản đảo chính thành công trước nhóm sĩ quan do đại tá Nguyễn Chánh Thi (chỉ huy trưởng Lữ đoàn Nhảy dù) cầm đầu tổ chức đảo chính ngày 11-11-1960.

Lần này, ông Khiêm lại thuộc phe đảo chính. Và đại tá Nguyễn Hữu Có thuộc phe đảo chính đã dàn lính Sư đoàn 7 bộ binh chặn ở ngã ba Trung Lương sau khi ra lệnh cho tỉnh trưởng Định Tường – trung tá Nguyễn Khắc Bình rút hết phà tại bến bắc Rạch Miễu và Mỹ Thuận về bờ phía Mỹ Tho để ngăn Sư đoàn 9 vượt sông Tiền.

Trong lúc này, đến tối 1-11, dù cả chỉ huy trưởng (Lê Quang Tung) lẫn tư lệnh (Nguyễn Ngọc Khôi) bị bắt giữ, binh sĩ Liên đoàn Phòng vệ Phủ Tổng thống với trang bị mạnh vẫn kháng cự lực lượng đảo chính rất quyết liệt bằng đại bác và đại liên, thậm chí còn đưa một đại đội tái chiếm (không thành công) Đài Phát thanh Sài Gòn gần đó vốn đã bị lực lượng đảo chính do đại tá Phạm Ngọc Thảo tấn công, chiếm giữ.

Sự kháng cự này tạo điều kiện cho 20g30 tối 1-11, Tổng thống Ngô Đình Diệm, cố vấn Ngô Đình Nhu và hai đại úy tùy viên lặng lẽ rời Dinh Gia Long vô Chợ Lớn…


 

ĐẢO CHÁNH 1/11/63: ĐÚNG HAY SAI?

    Tuần qua đánh dấu kỷ niệm 62 năm quân lực VNCH đảo chánh, giết TT Ngô Đình Diệm và ông em, cố vấn Ngô Đình Nhu, thay đổi lịch sử miền Nam VN.

    Hơn nửa thế kỷ đã trôi qua, nhưng toàn bộ biến cố vẫn còn sống nguyên vẹn trong đầu óc những người đủ 'già' đã trải qua, sống trong những ngày lịch sử đó. Và cho đến nay, cuộc chính biến đó vẫn còn là đề tài tranh cãi sôi nổi mỗi khi được nêu lên.

    Nhân dịp này, DĐTC phá lệ, không bàn về thời sự chính trị Mỹ, mà xem lại trang sử không vui của đất nước.

    Đây là đề tài nhạy cảm, không bao giờ đạt được sự nhất trí của tất cả, mỗi lần nêu lên là sẽ có tranh cãi, tùy góc độ nhìn. Bài này tất nhiên sẽ gây tranh cãi vì phản ảnh quan điểm của một cá nhân, có nhiều người đồng ý, cũng có nhiều người không chia sẻ quan điểm, sẽ có tranh cãi nếu không công khai trên diễn đàn thì cũng giữa những bạn bè ngồi nói lại chuyện cũ. DĐTC nhìn nhận mọi người đều có quyền khác biệt quan điểm cũng như hoàn toàn có quyền lên tiếng bảo vệ cái nhìn của mình, chỉ xin mọi người đủ bình tĩnh, tranh luận trong ôn hoà, lịch lãm, không bao giờ quên tất cả chúng ta dù sao cũng vẫn chia sẻ dòng máu Việt hết, và dù sao cũng không thay đổi được lịch sử, thay đổi những gì đã xẩy ra thật.

    Trở lại câu chuyện đảo chánh.

    Nhận định một biến cố chính trị luôn luôn tùy thuộc thời điểm: ngay trong lúc biến cố xẩy ra mà kẻ này tạm gọi là cách nhìn nhất thời, hay sau đó một thời gian, nhìn ngược lại xem hậu quả biến cố như thế nào trong lâu dài. Bây giờ, hơn 60 năm sau, ta thử nhìn lại một cách điềm tĩnh, không phải trong không khí sôi sục của những ngày biến loạn.

    Lịch sử đã và sẽ coi TT Ngô Đình Diệm là một người vĩ đại, có công  thật lớn với tổ quốc, mà không ai có thể phủ nhận được. Đồng thời, ông cũng không phải là thần thánh siêu việt hoàn hảo không bao giờ sai lầm. Trái lại, chính ông đã phạm phải những sai lầm khổng lồ đưa đến cái chết thật đáng tiếc của anh em ông và đại họa cho cả nước.

    Trong bối cảnh lịch sử của VN thời đó, không ai có thể phủ nhận cái công, cái tài của ông Diệm, đã lôi VN ra khỏi vực sâu do thực dân Pháp và đám tay sai vô tài và trụy lạc Bảo Đại để lại. Khi nhận trọng trách thủ tướng, từ Mỹ về nước, ông Diệm đã thừa hưởng một đất nước khó có thể thê thảm hơn, phải nói là khó tuyệt vọng hơn. Cầm đầu bởi ông vua không sống ở VN mà bận ngủ với gái bên Hồng Kông, bên Pháp,..., qua những nội các bù nhìn, nô lệ các đại quan Phú Lăng Sa. Chính trị chia năm xẻ bẩy, với các giáo phái Bình Xuyên, Cao Đài, Hòa Hảo hùng cứ như thời thập nhị sứ quân, chưa kể những 'chiến khu tự trị' của các đảng phái như VNQDĐ, Đại Việt,... Quân đội quốc gia mới được thành lập chẳng những thiếu kinh nghiệm chiến trường, thiếu thốn súng đạn, mà lại bối rối trong lựa chọn chống Pháp hay chống cộng.

    Vừa lãnh cái 'bãi rác' đó chẳng bao lâu, chưa kịp làm gì thì lại bị lãnh búa qua việc chia đôi đất nước, với cộng sản Việt Minh chiếm một nửa nước, cả triệu dân BV bỏ của chạy lấy người, di cư vào Nam. Mà cái đại họa trước mắt là Hòa Ước Geneve lại ấn định sẽ có tổng tuyển cử thống nhất đất nước chỉ hai năm sau, là bình phong che đậy cái thảm bại của quân Pháp, một thứ mà sau này Mỹ gọi là 'decent interval', một khoảng cách coi được để dâng cả nước vào tay Hồ Chí Minh, mà không quá mất mặt. Làm sao trong hai năm có thể dựng sống lại cái thây ma -hay cái bãi rác- Nam VN do Bảo Đại và các đại quan Pháp để lại. Mà có dựng lại được thì nhân danh tự do, dân chủ, cũng không có cách nào thắng được BV đông dân hơn, lại nằm trong vòng tay sắt của VC. Không ai quên việc năm 1945, cán bộ CS Việt Minh đã 'giúp' nông dân ít học hay mù chữ bỏ phiếu bầu quốc hội đưa đến việc các đại cán VM lãnh trên 90% phiếu gần hết. Thực tế ai cũng nhìn thấy là ông Diệm được trao cho trách nhiệm dọn dẹp bãi rác Nam Việt cho sạch để Hồ Chí Minh vào hưởng, dọn cỗ cho VC xơi, không hơn không kém.

    Thế đấy, nhưng ông Diệm đã mang lại phép lạ, chỉ trong một năm đầu, đã ổn định tình hình, tiêu diệt trọn vẹn đám cướp Bình Xuyên của Bẩy Viễn, các giáo phái hỗn độn, củng cố quân lực, tạo nơi ăn chốn ở cho cả triệu dân Bắc di cư, chặn cái tổng tuyển cử cuội, cho miền Nam một cơ hội trở thành một tiểu 'đại cường' trong vùng Đông Nam Á. Nam VN trở thành một cái gương 'dựng nước lại từ đống tro tàn' được sự ngưỡng mộ của cả thế giới, nhất là những xứ chậm tiến mới thoát nạn đô hộ của các cường quốc thực dân Tây Âu đã bóc lột các xứ bị đô hộ tới xương tủy.

    Nhiều người sẽ giải thích nam VN thành công là nhờ Mỹ giúp. Nhưng lịch sử, nhất là qua ngày 30/4/75, rồi sau này qua chiến tranh Afghanistan, đã phơi bày ra rõ ràng giới hạn của sự can thiệp, 'cứu giúp' của đại cường Mỹ. Thực tế là dưới thời ông Diệm, Mỹ chỉ can thiệp qua việc yểm trợ tiền bạc, ngoài ra, người ra chính sách, săn tay áo lên dựng lại nước vẫn chính là ông Diệm, không thể chối cãi được.

    Một điều hiển nhiên: ông Diệm chẳng những là một nhà lãnh đạo tài ba, mà còn là gương sáng về đạo đức, thanh liêm và tinh thần yêu nước. Những đặc tính mà càng về sau, càng trở nên hiếm hoi trong đất nước chúng ta, để rồi bây giờ đã biến mất hoàn toàn, hơn nửa thế kỳ sống trong 'thiên đường xã nghĩa', chẳng còn ma nào yêu nước, trong sạch không tham nhũng.

    Chuyện đáng tiếc đưa đến đại họa cho đất nước là dù sao thì ông Diệm cũng không phải là thánh sống hoàn hảo, mà chỉ là một người, tuy hơn người, nhưng vẫn đầy thiếu sót, sai lầm, đầy đủ hỷ nộ ái ố. 

    Trước sự thành công ngoài dự đoán của tất cả, ông Diệm đã lên cơn 'say sóng', tự tin quá đáng, tự coi mình là thiên tài, nhận được thiên mệnh cứu nước, trở nên tự cao tự đại quá đáng, tự cho mình hoàn hảo, nghĩ đúng, nói đúng, làm đúng, đi con đường đúng, trong khi tất cả những người khác ý đều sai, đều làm chuyện phá nước, hại nước, kể cả những người đã xả thân cho đất nước trong các đảng hay phong trào chính trị chống Pháp và chống cộng, từ Quốc Dân Đảng tới Đại Việt,... Cái tự tin của ông Diệm chỉ mở cửa cho anh em thân cận trong gia đình và một đám lâu la tay sai, gọi dạ bảo vâng như đám thái giám quanh hoàng đế. Và chính cái 'dựa hơi', lạm dụng của gia đình và đám tay sai đã kéo ông Diệm vào vũng lầy độc tài quan liêu gia đình trị, khiến ông dần dần mất hết hậu thuẫn của quần chúng. 

    Cuối trào, trong cuộc khủng hoảng với Phật giáo, ông Diệm đã để cho ông anh Giám Mục Thục và ông em cố vấn Nhu và bà la-sát vợ ông Nhu thao túng, quậy tung chính trường, lấy những quyết định thất sách khiến cả nước chống đối. Vốn không phải là người kỳ thị tôn giáo, chủ trương đè bẹp Phật giáo, nhưng ông Diệm đã yếu đuối để anh em lạm quyền, đưa đến việc ông Diệm bị hiểu lầm, tố cáo là muốn đàn áp Phật giáo để bành trướng Công giáo, khiến ông mất hậu thuẫn trong nước cũng như trên khắp thế giới.

    Đi xa hơn chuyện chống đối của khối Phật giáo, các biện pháp ông em Nhu tung ra để ổn định tình hình, đã như những giọt nước làm tràn ly, trầm trọng hóa sự chống đối của quần chúng và cả quân đội khi ông Nhu mang đảng Cần Lao vào quân đội, cho một trung tá 'Quân Ủy Trưởng' có quyền ra lệnh cho các tướng (Trung tá Quân Ủy Trưởng đó sau 63, chạy qua Paris, trở mặt, theo VC, công khai gia nhập Hội Việt Kiều Yêu Nước). Và nguy hại hơn xa, ít thì cũng lơ là cuộc chiến sinh tử chống CSBV xâm lang chiếm miền Nam, nhiều là giúp đám du kích khố rách áo ôm VC đi từ chiến thắng này tới thành công nọ trên mặt trận chính trị và quân sự.

    Đưa đến tình trạng các tướng lãnh quân đội lo sợ thảm họa mất nước trong nay mai vào tay CSBV, nếu không thay đổi gì. Ông Diệm, từ vai trò 'cứu thế' biến thành chìa khoá có thể mở cửa cho CSBV chiếm cả miền Nam trong nay mai. Nhu cầu trước mắt mấy ông tướng là phải thay thế ông Diệm để cứu nước khỏi rơi vào tay CSBV.

    Việc lật đổ ông Diệm có cần thiết không? Có chính danh không?

    Việc lật đổ, thay thế ông Diệm là giải pháp cuối cùng, trở nên cần thiết khi ông Diệm mất hết hậu thuẫn của dân, mà đi xa hơn nữa, dân cả nước đã công khai nổi lên chống ông Diệm. Chiến tranh VN không phải chỉ là một chiến tranh thuần túy quân sự, mà còn là một cuộc chiến tranh thủ nhân tâm, mong được hậu thuẫn của toàn dân. Một khi mà dân cả nước nổi lên chống TT, thì TT không thể nào tiếp tục 'trị vì' và việc TT ngồi nắm quyền biến thành lý cớ quá tốt và tiện lợi cho CSBV tuyên truyền chống miền Nam.

    Dân miền Nam VN có chống chế độ Diệm không? Nhiều người ủng hộ ông Diệm bây giờ đã cố viết lại lịch sử, quả quyết ông Diệm không hề mất hậu thuẫn của dân, mà chỉ bị đảo chánh vì Mỹ muốn thay 'gia nô', và vì các tướng có quá nhiều tham vọng cá nhân. Đúng là viết lại lịch sử.

    Tất cả những người đã sống thời đó, đủ hiểu biết, đều thấy rõ ông Diệm chẳng những đã mất hậu thuẫn của dân, mà còn bị dân chống đối rất mạnh. Khi tất cả sinh viên, học sinh từ Huế xuống tới Sàigòn xuống đường biểu tình, bãi học, để nói lên tiếng nói chống ông Diệm, khi tất cả các báo bị kiểm duyệt, đục bỏ cả trang báo, khi vô số bà già tay không kéo giây kẽm gai bằng sắt nhọn, đánh nhau với cảnh sát dã chiến với đầy đủ súng ống, dùi cui, khi hàng loạt sư già trẻ, nam nữ sẵn sàng tự thiêu, thì không thể nói ông Diệm vẫn còn hậu thuẫn của dân. Càng không thể nói cả nước đã bị CS nằm vùng thao túng. Việc tố cáo các sư -nhất là Thích Trí Quang- là VC chỉ là những đòn đánh vớ vẩn, vô căn cứ, chụp mũ rẻ tiền, nghèo nàn trí tưởng tượng, vì vấn đề phức tạp hơn nhiều. Thích Trí Quang là một ông sư với tham vọng trần tục quá lớn, muốn làm một 'Khomenei' của VN, đứng trên tranh chấp quốc-cộng, dĩ nhiên bị VC khai thác, nhưng chưa ai thấy bằng chứng thuyết phục nào về việc TTQ là VC. Không ai có thể chối cãi VC có len lỏi vào khai thác việc chống đối ông Diệm, nhưng nói tất cả đều do VC chỉ đạo từ trên xuống dưới là tôn vinh VC quá đáng khi đám cán ngố vẫn chỉ là đám cán ngố, không phải là siêu nhân tài giỏi tới vậy. 

    Trong hoàn cảnh đó, sự hiện diện của ông Diệm đương nhiên đã không còn là một rào cản chống CSBV nữa, mà đã biến thành một thứ thảm trải đường cho chiến thắng cuối cùng của CSBV. Và việc lật đổ ông Diệm trở thành cần thiết. Dĩ nhiên, nếu ông Diệm đủ ý thức và đủ uyển chuyển, có thể thay đổi chính sách, để ý hơn đến hậu thuẫn của dân thì đó là con đường lý tưởng ai cũng muốn và ai cũng hy vọng. Nhưng như trên đã bàn qua, những thành công vượt bực của ông Diệm đã đẩy ông vào thế 'say men chiến thắng', tự tin quá đáng, cương quyết giữ vững lập trường, không chịu thay đổi hay cải cách, cải tổ chính quyền. Trước thái độ cứng rắn một chiều đó, thay đổi chính quyền bằng bạo lực là giải pháp cuối cùng, khó tránh.

    Ngay trong ngày 1/11, khi cuộc đảo chánh đang tiến hành, phản ứng của dân chúng cũng nói lên hết sức đầy đủ tính chính danh của cuộc đảo chánh. Dân chúng, nhất là thế hệ trẻ sinh viên, tự ý đổ xô xuống đường với những khuôn mặt hả hê vui mừng nhất, hoan nghênh quân đội, kéo đổ tượng Hai Bà Trưng mà nhiều người cho là tượng bà Nhu và con gái. Người dân Sàigòn đổ xô xuống đường, mang hoa, mang nước uống và thực phẩm đến tặng các quân nhân tham gia đảo chánh, các tướng lãnh được tung hô như đại anh hùng dân tộc. Tất cả tự phát từ lòng dân, không ai chối cãi hay viết lại lịch sử được. Cứ nhìn hình ảnh dân Sàigòn trong ngày đảo chánh 1/11/1963, rồi so sánh với ngày VC chiếm Sàigòn ngày 30/4/75 thì thấy ngay người dân nghĩ gì.

    Bây giờ, những người ủng hộ TT Diêm, vẫn ra rả sỉ vả các tướng đảo chánh, bôi bác họ, chẳng hạn tố cáo họ đảo chánh vì vài trăm đô, nhưng sự thật lịch sử, khi đó toàn thể quân đội (với cả mấy chục ông tướng tư lệnh vùng, tư lệnh binh chủng, gốc bắc, trung và nam, theo Phật giáo, theo Công giáo), đã hoàn toàn mất tin tưởng vào ông Diệm, ngoại trừ một nhúm 3-4 sĩ quan trong số cả mấy ngàn sĩ quan QLVNCH.

    Tóm lại, trong bối cảnh của tình hình chung khi đó, cuộc đảo chánh là cần thiết, được sự ủng hộ nhiệt tình của toàn dân, và được lãnh đạo bởi các tướng nghiêm chỉnh, thật tình lo cho đất nước, lo cho tình trạng chiến tranh chống xâm lăng của CSBV.

HẬU QUẢ DÀI HẠN

    Trên nguyên tắc cũng như trên thực tế, cuộc đảo chánh bùng nổ một cách miễn cưỡng như phương tiện cuối cùng để miền Nam còn cơ hội chống đỡ hữu hiệu cuộc xâm lăng của CSBV với hậu thuẫn của cả đại tập đoàn CS quốc tế. Thế nhưng giải pháp thay thế đã không có, hay chính xác hơn, có mà còn tệ hơn cái bị thay thế. Các tướng lãnh có đầy đủ nhiệt huyết và hậu thuẫn ngay lúc ban đầu để lãnh đạo cuộc chiến sống còn của đất nước, nhưng đáng tiếc thay, đúng như các cụ đã dạy, các tướng chủ mưu cũng như lãnh đạo cuộc đảo chánh đã phơi trần sự thật cho quần chúng thấy rất sớm, chỉ là những tay 'võ biền hữu dũng vô mưu', có tâm nhưng không có tài lãnh đạo chính trị, không kiểm soát nổi đám tướng tá chiến hữu, nói chi tới lãnh đạo cả nước. Cái chất keo 'huynh đệ chi binh' gắn chặt họ vào với nhau tan ra nước lã sau khi ông Diệm bị giết, đưa đến tình trạng các tướng, chẳng ai phục ai, ai cũng đầy tự tin mình giỏi hơn ai hết, thi nhau đảo chánh, chỉnh lý, chỉ nhắm đáp ứng tham vọng cá nhân mà chẳng ai cần biết quyền lợi tối thượng của đất nước, chẳng ai còn nhớ CSBV đang tấn công chiếm cả nước. 

    Dịp may ngàn năm một thuở, cờ vào tay, các tướng lãnh quên bẵng đất nước để chỉ lo cho tham vọng cá nhân, đưa đến tình trạng để VC đi từ chiến thắng này tới chiến thắng kia, đe dọa mất nước trong vài tuần. Bất cần biết, ta cứ nhắm mắt lo cho địa vị cá nhân trước, VC đã có... Mỹ lo. Mà quả thật, tình hình trở nên nguy cấp tới độ Mỹ phải nhẩy vào cứu nguy khẩn cấp. Ở đây, quý độc giả có thể tranh cãi bất tận về việc Mỹ nhảy vào cuộc vì nhu cầu khẩn cấp cứu Nam VN hay vì tham vọng đế quốc muốn nắm toàn quyền quyết định về cuộc chiến, kẻ này không tranh luận về đề tài này. Chỉ biết là ngay sau khi đảo chánh thành công, miền Nam VN đã rơi vào tình trạng loạn sứ quân, với các tướng tranh dành quyền hành, tuyệt nhiên quên bẵng hay bất cần biết mối đe dọa của CSBV. Đi vận động, tìm đồng minh để đảo chánh chiếm hết thời gian của các tướng, đáng lẽ phải dành cho cuộc chiến chống CSBV. Một ông tướng chỉ huy được vài xe thiết giáp là mau mắn mang xe tăng vào thủ đô để chiếm quyền, một ông tướng khác có được vài ba chiếc máy bay, vội dọa thả bom giết lính mình để giành lấy quyền cho mình. VC rung đùi mang cán bộ vào tiếp thu các làng xã bỏ ngỏ vì lính đang ở Sài gòn bận chuyện 'chỉnh lý'.

    Tình trạng thê thảm đó, khiến Mỹ bắt buộc -hay giúp Mỹ có lý do chính đáng- can thiệp trực tiếp, đổ TQLC vào Đà Nẵng, mở đầu cho việc bơm nửa triệu lính Mỹ vào cuộc chiến. Nhưng việc Mỹ can thiệp, tuy cứu được Nam VN trong nhất thời, đã biến cuộc chiến xâm lăng của CSBV thành một 'cuộc chiến chống xâm lăng của đế quốc Mỹ thay thế thực dân Pháp'. Nếu người dân chất phác không tin hẳn tuyên truyền của VC thì ít ra họ cũng thắc mắc đắn đo, đặt câu hỏi. 

    Chúng ta mất phần lớn chính nghĩa. Trong một cuộc chiến bảo vệ đất nước chống xâm lăng của CSBV và tay sai 'Mặt Trận Giải Phóng' mà người dân chất phác lại thấy lính ngoại quốc đánh giết lính VN, trong đó có chính thân nhân, bạn bè, con cái họ. Chuyện này, ông cựu quan lại Diệm đã thấy rõ hơn ai hết, từ đó đã công khai chống việc Mỹ mang quân vào Nam VN trực tiếp can thiệp vào cuộc chiến. Ông Diệm hiểu tâm lý quần chúng VN hơn xa mấy ông Kennedy và Johnson ngồi trong Tòa Bạch Ốc cách VN nửa trái đất. Không phải họ mù tịt không hiểu gì, nhưng họ cân nhắc quyền lợi của chính nước Mỹ của họ, và giống như bất cứ người Mỹ nào khác, luôn luôn đầy đủ tự tin chỉ có mình mới làm nên chuyện, tất cả mọi người khác đều không bằng ta, đúng trong truyền thống văn hóa Mỹ.

    Để rồi chúng ta mất luôn cả nước.

    Tóm lại, ông Diệm về nước đã thành công ngoài mọi dự đoán, phải công nhận đã là một 'cứu tinh dân tộc', vực miền Nam VN dậy từ đống tro tàn do thực dân Pháp và ông vua chơi bời bù nhìn Bảo Đại để lại. Nhưng thành công và quyền lực trong tay đã biến thái ông Diệm từ một người thật tình yêu nước lo cho dân trở thành một người yêu chính mình và lo cho chính mình và gia đình mình. Gia đình trị độc đoán trở thành cái mộc bảo vệ cái ghế ông Diệm ngồi. 

    Việc thay đổi chế độ, thay người lãnh đạo trở nên thiết yếu, chuyện sống còn của đất nước. 

    Cái không may cho đất nước là những người thay thế ông Diệm lại thiếu khả năng, trong khi lại quá dư thừa tham vọng cá nhân, hành động vô trách nhiệm nhất khi sẵn sàng trao cho Mỹ trách nhiệm chống xâm lăng của CSBV để chỉ chú tâm vào việc dành quyền lực cho chính mình. Mà cái mỉa mai đau lòng nhất là cái quyền lực mà mấy ông tướng tranh dành, chỉ là quyền lực hão khi người Mỹ thực sự nắm hết quyền quyết định mọi chuyện, từ tài chánh tới quân sự. Số phận xứ ta nằm trong tay những người không xứng đáng. Không phải tất cả các tướng đều đáng trách. Trong khi các tướng tài thanh liêm như Cao Văn Viên, Đỗ Cao Trí,... tránh né dính đáng vào chính trị, vào các chỉnh lý, thì vai trò lãnh đạo đất nước rơi vào tay đám tướng nhiều tham vọng cá nhân nhưng bất tài như Nguyễn Khánh, Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Chánh Thi,... tài cán chỉ đáng làm xã trưởng, nhưng lại coi trời bằng vung, coi quyền hành như cái giải thể thao phải đoạt cho bằng được, coi dân như khán giả ngồi coi trận đấu. Đám tướng tá trẻ có tâm, có tài, yêu nước như Ngô Quang Trưởng, Nguyễn Khoa Nam, Lê Minh Đảo, Lê Văn Hưng,... thì khi đó còn quá trẻ, vai vế còn quá thấp. Cái thảm họa của miền Nam VN là các biến cố lớn như đảo chánh, chiến tranh, ... xẩy ra quá sớm, nếu xẩy ra một chục năm sau, khi các tướng thế hệ sau nổi lên, thì trang sử VN đã được viết khác hoàn toàn.

    Nôm na ra, cuộc đảo chánh lật đổ ông Diệm là cần thiết, nhưng cũng là một sai lầm. Sai lầm không phải trong việc lật đổ ông Diệm, mà sai lầm ở điểm tất cả các tướng lãnh cũng như các chính khách dân sự được các tướng trao cho trách nhiệm điều hành đất nước, tất cả chẳng ai đủ tài, đủ uy để thay thế ông Diệm, ông Nhu và các phụ tá của họ. Bỏ qua những tướng tuồng chèo hát bộ như một Nguyễn Cao Kỳ mặc đồ bay đen, đeo khăng quàng tím, với súng lục lủng lẳng bên hông như cao bồi trong những phim cao bồi rẻ tiền Mỹ, ăn nói bừa bãi vô ý thức nhất, xử thế như một đại ca băng đảng hơn là một thủ tướng hay tư lệnh binh chủng, các tướng chủ chốt trong cuộc đảo chánh cũng chẳng khá hơn bao nhiêu. Tướng Dương Văn Minh đi vào lịch sử như ông tướng đã được kêu gọi cứu nước hai lần, để rồi trở thành ông tướng độc đáo đã khai tử nước hai lần, cả Đệ Nhất lẫn Đệ Nhị Cộng Hòa đều cáo chung dưới tay ông Minh. Tướng Trần Văn Đôn, người chủ chốt trong cuộc đảo chánh, lại là ông tướng 'Tây con' nổi tiếng không phải nhờ tài cầm quân mà nhờ tài tán gái, có thời bị đồn là kép của bà Nhu. 

    Cuộc đảo chánh hoàn toàn chính đáng, chính danh, và cần thiết. Cái chết của anh em ông Diệm-Nhu thật ra không cần thiết, không chính đáng, là một tội lớn của tướng Dương văn Minh là người đã lấy quyết định đó. Điều đáng tiếc lớn hơn nữa là những tướng đảo chánh không đủ bản lãnh, tài năng và uy tín để thay thế TT Diệm, biến đảo chánh thành một sai lầm lịch sử đưa đến mất nước 12 năm sau. 

    12 năm là một thời gian quá dài để có thể nói một cách thuyết phục các ông tướng đảo chánh phải chịu trực tiếp trách nhiệm mất nước, nhưng nói cho cùng, ta mất nước vì Mỹ bất tài đã can thiệp. Khi Mỹ kiểm soát từng cắc tiền viện trợ, kiểm tra từng viên đạn, chỉ đạo từng trận đánh, thì nếu thành công đó là công của Mỹ, thất bại chỉ có thể là lỗi của Mỹ không hơn không kém. Nhưng việc để cho Mỹ can thiệp và nắm nhiều quyền như vậy là lỗi của các tướng đã không cản vì bận tranh dành quyền hành lẫn nhau. Lịch sử sẽ xác nhận lỗi lớn nhất của các ông tướng là đã đặt tham vọng cá nhân lên trên quyền lợi đất nước, bán cái cho Mỹ trách nhiệm bảo vệ đất nước trong khi biết rất rõ Mỹ làm hay không làm chuyện gì đều theo nhu cầu và quyền lợi của nước Mỹ, không phải theo nhu cầu và quyền lợi của nước Việt ta. Những ông tướng phường chèo suốt ngày lo chỉnh lý, tìm quyền lực như Nguyễn Khánh, Nguyễn Chánh Thi, Nguyễn Cao Kỳ đều là những người vô trách nhiệm, là tội đồ dân tộc. Thay thế ông Diệm là việc cần thiết, đáng tiếc là những người thay thế không khá hơn mà còn tệ hơn xa.

    Câu hỏi nếu các tướng không đảo chánh ông Diệm thì đất nước sẽ ra sao, là loại câu hỏi giả tưởng hoàn toàn vô ích vì sẽ không bao giờ có câu trả lời thỏa đáng cho tất cả mọi người.

    Bây giờ, dù sau hơn 60 năm, có thể vẫn chưa đủ để đánh giá đúng mức công và tội của ông Diệm, cũng như công và tội của các tướng được, vì những người của thời đó vẫn nhiều người còn sống, chắc phải đợi một hai thế hệ nữa lịch sử mới phán xét ít chủ quan hơn và công bằng hơn. Mà cũng phải nói ngay, trách nhiệm viết lại lịch sử cho chính xác là trách nhiệm của những thế hệ tị nạn sau, chứ dĩ nhiên không ai có thể tin được lịch sử do VC viết, bất kể qua tài liệu tuyên truyền của VC hay qua... Wikipedia.

    Trong toàn bộ câu chuyện, việc đáng than phiền vì đáng buồn nhất là người dân, những người chịu hậu quả trực tiếp của mọi chuyện xẩy ra trong hậu trường chính trị tại Sàigòn và Hoa Thịnh Đốn, lại tuyệt đối chẳng có tiếng nói gì. Thân phận 'dân ngu khu đen' là vậy.