1.
Đất nước thanh bình mà trong một đêm yên tĩnh rạng sáng 11 tháng 6 năm
2023, hàng chục người dân da đen cháy vì quanh năm trần lưng phát rẫy,
làm nương, bỗng tập hợp thành hai nhóm, mang súng đạn cùng lúc lao vào
tấn công trụ sở công an hai xã trong huyện Cư Kuin, tỉnh Đăk Lăk, giết
chết chín người, gồm bốn sĩ quan công an, hai cán bộ xã và ba người dân,
bắn bị thương hai sĩ quan công an khác, là sự việc vô cùng nghiêm
trọng.
Nửa
đêm khuya khoắt, ba người dân chết ở chỗ nổ súng tấn công chính quyền,
chắc chắn không phải dân làm rẫy, chỉ có thể là nhân viên làm việc ở trụ
sở công quyền bị tấn công. Nếu vậy, chín người chết đều là viên chức
nhà nước.
Tấn
công trụ sở công quyền nhà nước, thẳng tay bắn giết viên chức nhà nước,
đương nhiên là tội ác hoang dại, không biết đến pháp luật, không biết
đến đạo đức, không thể chấp nhận, phải bị truy tố và nhận án thoả đáng.
Nhưng tiếng súng đó cũng là tiếng nổ, là sức phá của mâu thuẫn xã hội,
là tiếng chuông gióng giả vang lên, cảnh báo sự bất ổn trong xã hội và
sự bất an trong lòng người dân đã lan rộng, lan xa đến tận buôn làng
người dân tộc hồn nhiên, chân chất.
Dù
những người nổ súng tấn công cơ quan chính quyền, giết cán bộ nhà nước
đều là người dân sắc tộc Tây Nguyên, nhưng vụ việc không đơn thuần chỉ
là xung đột sắc tộc, mà còn là bộc lộ trong xã hội đã chứa chất mâu
thuẫn tới mức đối kháng, một mất một còn. Mâu thuẫn giữa một bộ phận
người dân yếu thế với chính quyền luôn ỷ vào sức mạnh bạo lực nhà nước, ỷ
vào lực lượng công an khổng lồ, được trang bị kĩ lưỡng, trang bị từ vũ
khí tối tân đến trang bị tư duy nhận thức, không biết đến số phận con
người, không biết ơn nghĩa nhân dân, không biết đến những giá trị nhân
văn, chỉ biết còn đảng còn mình. Có công cụ trấn áp đầy sức mạnh, nhà
nước ngạo nghễ áp đặt ý chí chủ quan của nhà nước chuyên chính vô sản
với người dân, không quan tâm đến khát vọng, nhu cầu đơn giản, bình
thường và chính đáng từ đời sống vật chất đến đời sống tâm linh của
người dân.
Người
dân các dân tộc ít người, nhỏ bé, lẻ loi ở Tây Nguyên có không gian
sống riêng biệt và linh thiêng, không gian của Giàng, của thần linh, có
tài sản riêng to lớn và quí giá không chỉ là đất đai núi rừng bát ngát,
mà nền văn hoá riêng rất đặc sắc, độc đáo và cuộc sống tự do cũng là tài
sản vô giá của những con người ngàn đời kiêu hãnh là con của Cha Núi,
con của Mẹ Rừng nhưng lại là những tộc người dân số ít ỏi, cuộc sống
nghèo khổ, phụ thuộc và gắn bó mật thiết với thiên nhiên, là nhóm người
yếu thế, thân cô, thế cô nhất, bị coi thường, bị mất mát, bị dồn nén, ức
chế lớn nhất.
Yếu
thế, thân cô thế cô, người dân phải nhận từ mất mát, thua thiệt này đến
mất mát, thua thiệt khác, đi từ dồn nén này đến dồn nén khác, thành
quẫn trí, liều thân, chấp nhận thí cả mạng sống, thí cả cuộc đời vào mất
mát cuối cùng cho một hành động, một tiếng nói phản kháng.
2.
Thời Pháp cai trị cả Đông Dương, dù là thực dân xâm lược, nhiều quan
Pháp cai trị có nền tảng văn hoá nhân loại dày dặn, khi đến Tây Nguyên
họ nhận ra ngay nét độc đáo của những bộ tộc dân cư Tây Nguyên làm cho
xã hội loài người thêm phong phú, làm cho con người có thêm vẻ đẹp, thêm
sức mạnh văn hoá. Họ phát hiện ra ngay nền văn hoá lâu đời vô cùng đặc
sắc của các bộ tộc Tây Nguyên góp cho kho tàng văn hoá loài người thêm
lung linh, rực rỡ.
Những
trí tuệ văn hoá và tâm hồn nhân văn phát hiện ra vẻ đẹp văn hoá dân
gian Tây Nguyên cũng giống như bác sĩ Alexandre Yersin phát hiện ra khí
hậu mát lành của Đà Lạt, của Tây Nguyên. Phát hiện của Yersin về khí hậu
Đà Lạt được lọc qua lá cây, lọc qua sương mù, tinh khiết và mát lành,
dẫn đến quyết định của toàn quyền Đông Dương Paul Doumer xây dựng thành
phố nghỉ dưỡng Đà Lạt. Phát hiện ra nét đặc sắc văn hoá dân gian Tây
Nguyên, chính quyền thực dân Pháp đã có chính sách bảo tồn không gian
văn hoá Tây Nguyên, hạn chế người Kinh ở miền xuôi đến khai phá đất rừng
hoang hoá bạt ngàn và màu mỡ, tạo ra nguy cơ biến những cánh rừng
nguyên sinh thành ruộng lúa, vườn cây, thành làng xóm người Kinh, biến
những đồi cỏ thành đô thị náo nhiệt, tất dẫn đến nền văn hoá đầy bản sắc
của những bộ tộc ít người ở Tây Nguyên bị nền văn hoá rực rỡ của số
đông người Kinh đồng hoá.
Văn
hoá không phải chỉ là tiếng cồng của con trai, điệu múa của con gái,
tiếng hát khan của người già Tây Nguyên; văn hoá còn là tín ngưỡng, là
đức tin. Tin ở Giàng, tin ở thần linh, đức tin tôn giáo là một giá trị
sống của người dân Tây Nguyên, làm nên thế giới tâm hồn người dân Tây
Nguyên. Trân trọng giữ gìn bản sắc văn hoá Tây Nguyên, đức tin tôn giáo
của người dân Tây Nguyên cũng được tôn trọng. Thời Pháp thuộc, người dân
được tự do tìm đến đức tin của mình và giáo phái Tin Lành phát triển
rất mạnh ở Tây Nguyên.
Chính
sách hạn chế sự ngoại nhập vào không gian văn hoá Tây Nguyên đã giữ cho
núi rừng Tây Nguyên màu xanh bạt ngàn và thần rừng, thần núi vẫn lãng
đãng đi về với ngôi nhà rông, với những nếp nhà sàn núp dưới tán rừng
thâm nghiêm.
Chỉ
đến năm 1937, quản đạo Đà Lạt là Trần Văn Lý thấy đất Đà Lạt dù màu mỡ
nhưng chênh vênh dốc, không thuận cấy lúa, song lại là đất tốt của hoa
màu, cây trái. Quản đạo Đà Lạt Trần Văn Lý đề nghị với tổng đốc Hà Đông
Hoàng Trọng Phu, đưa những nông dân Hà Đông chuyên nghề trồng rau, trồng
hoa cung cấp cho Hà Nội vào Đà Lạt. Từ hai mươi tám gia đình nông dân
từ Hà Đông vào Đà Lạt năm 1937, đến nay đã là hàng ngàn gia đình trồng
rau, trồng hoa, biến những đồi hoang bên đồi thông Đà Lạt thành đồi rau,
đồi hoa.
Gần
hai mươi năm sau, năm 1954, trong số hơn triệu người di cư từ Bắc vào
Nam, chỉ có hơn năm mươi ngàn dân di cư được đưa lên đất rừng Tây Nguyên
mênh mông. Lên Tây Nguyên nhưng dân Bắc đi cư chỉ bám theo trục đường
giao thông từ Hố Nai lên Đà Lạt.
Dân
trồng rau, trồng hoa từ Hà Đông vào Đà Lạt, dân di cư rải dọc đường 20
đều không xâm nhập vào không gian sống và không gian văn hoá của các bộ
tộc tạo nên linh hồn núi rừng Tây Nguyên, tạo nên văn hoá Tây Nguyên.
Nhờ vậy, những cánh rừng đại ngàn vẫn phủ kín đất Tây Nguyên. Hồn rừng,
hồn văn hoá của người Tây Nguyên vẫn nguyên vẹn.
Nhưng
từ sau năm 1975, những cán bộ công nông chỉ cần có bằng cao cấp lí luận
chính trị của trường đảng Nguyễn Ái Quốc, chỉ cần kiên trì chủ nghĩa
sắt máu Mác-Lênin, chỉ có ý chí áp đặt chuyên chính vô sản với cuộc
sống, với người dân là trở thành quan cai trị mảnh đất linh thiêng huyền
thoại Tây Nguyên.
Quan
người Kinh cai trị thì phải có bộ sậu cán bộ người Kinh có bằng lí luận
trường đảng Nguyễn Ái Quốc, có khuôn mẫu thiết chế xã hội người Kinh ở
đồng bằng áp đặt cho Tây Nguyên. Cả gia đình, cả họ hàng, cả làng xóm
quan cai trị từ đồng bằng ven biển tràn lên Tây Nguyên, phá rừng lập
làng, bạt núi lập phố trên đất buôn làng, nương rẫy Tây Nguyên.
Tầm
nhìn hạn hẹp, chỉ thấy trước mắt, không thấy lâu dài, không có chiều
sâu văn hoá, những chủ trương, những dự án phá rừng trồng cao su, cà phê
hình thành trong phòng máy lạnh quan cai trị.
Tư
bản hoang dã làm giầu bằng đất đai, bằng tài nguyên thiên nhiên đi đêm
với quan cai trị, khoanh vùng chiếm đất Tây Nguyên trên bản đồ.
Những
công ty cao su phá hàng trăm hecta rừng trồng cao su. Hàng trăm hecta
rừng mất đi cho sân golf, cho resort, cho những khu đô thị mọc lên. Hàng
ngàn hecta rừng chìm dưới lòng hồ thuỷ điện… Những cánh rừng thăm thẳm
của thần linh, của huyền thoại, sử thi Tây Nguyên nhanh chóng biến mất.
Năm
1954, các dân tộc Tây Nguyên chiếm 85 phần trăm dân số, 510 ngàn dân
trên tổng số 600 ngàn dân. Tỉ lệ và con số đó những năm sau là: Năm 1976
chỉ còn 69,7 phần trăm. 853 ngàn dân Tây Nguyên trên tổng số 1,225
triệu dân. Năm 2004 tỉ lệ dân tộc Tây nguyên chỉ còn chiếm 25,3 phần
trăm. 1,181 triệu trên 4,668 triệu dân. (Tây Nguyên – Wikipedia tiếng Việt).
Người
Kinh đã thực sự làm chủ dải đất Tây Nguyên. Quan người Kinh nắm quyền.
Dân người Kinh chiếm đất. Bên những dãy nhà tầng san sát ở thị trấn
người Kinh trên sườn đồi, bên những chòm xóm nhà ngói giếng nước của
người Kinh dưới thung lũng là lẻ loi mái nhà sàn tranh tre xơ xác tuềnh
toàng của người dân Tây Nguyên. Người chủ ngàn đời của rừng thiêng Tây
Nguyên, của văn hoá Tây Nguyên nay thành người ăn nhờ ở đậu, thành kẻ
thất thế, lưu vong ngay trên mảnh đất của tổ tiên.
Rừng
vừa là nguồn sống vật chất, là đọt măng rừng, là tổ ong mật. Vừa là
nguồn sống tâm linh. Cha Núi cao, Mẹ Rừng rộng là sự che chở, bao bọc,
là nơi sống gửi, thác về của người dân Tây Nguyên. Rừng Tây Nguyên không
còn. Nguồn sống vật chất không còn. Không gian văn hoá Tây Nguyên không
còn. Nguồn sống tinh thần không còn. Thần linh của rừng không còn. Đời
sống tâm linh không còn. Đến đức tin tôn giáo cũng không còn!
Chiều
22.3.2023, giáo dân xã Đak Nông, huyện Ngọc Hồi, giáo xứ Kontum đang
làm lễ Thánh hợp pháp như thường ngày thì nhóm người mặc đồ dân sự và
sắc phục công an xộc vào nhà thờ, tự xưng là chính quyền, giải tán buổi
lễ. Người nói tiếng Kinh, giọng miền Bắc xông lên bục linh mục đang làm
lễ đòi linh mục dừng lễ, đến công an làm việc rồi cầm sách Kinh Thánh
của linh mục, gấp lại, mang đi. Người ngắt cầu dao, cúp điện. Đức tin
tôn giáo không còn là phần hồn của người Tây Nguyên cũng không còn!
Mỗi
sắc tộc có mặt trong cuộc đời đều cần có không gian sinh tồn của sắc
tộc. Có không gian sinh tồn, mới có sức mạnh trường tồn của sắc tộc, mới
giữ được bản sắc riêng của sắc tộc và mới thực sự là mình. Không có
không gian sinh tồn dù có những cá nhân của sắc tộc có mặt trong cuộc
đời thì cá nhân đó đã bị văn hoá nơi sinh sống đồng hoá, còn sắc tộc đó
đã bị hoà tan rồi.
Những
sắc tộc Tây Nguyên đang trong quá trình không còn không gian sinh tồn,
đang bị hoà tan. Những người chủ ngàn đời của mảnh đất Tây Nguyên, ngàn
đời tự do phóng khoáng với cây rừng thân thiết, với đất rừng bao dung
phải đau đớn, tuyệt vọng nhận ra một thực tế từ sau 1975 họ dần dần mất
hết. Mất nguồn sống hàng ngày. Mất giá trị văn hoá. Mất cả đức tin. Đó
là cội rễ sâu xa của tiếng súng Cư Kuin, Đak Lak đêm 11.6.2023.
3.
Tiếng súng Cư Kuin, Đak Lak đêm 11.6.2023 giết chết chín mạng người
trong cuộc sống thời yên hàn là thất bại đau đớn trong công cuộc cai trị
dân của chính quyền, là thất bại nặng nề trong trọng trách bảo đảm trật
tự trị an, an toàn xã hội của bộ máy công an khổng lồ, được trang bị
tối đa, được chăm bẵm tuyệt đối.
Một
người nổ súng thì ý đồ và quá trình sự việc diễn ra âm thầm trong suy
nghĩ, trong nội tâm, người ngoài khó phát hiện. Nhưng vài chục người
cùng hành động là phải có quá trình dài, vận động, tập hợp, tổ chức,
phân công, chuẩn bị với nhiều hoạt động dù lén lút nhưng phải diễn ra
trong không gian rộng, cả không gian thực trên mặt đất, cả không gian
mạng trên trời và diễn ra trong thời gian dài. Hoạt động nổi cộm ráo
riết như vậy mà lực lượng công an rải kín địa bàn, nắm địa bàn từng
giây, từng phút không hay biết để ngăn chặn. Máu những sĩ quan công an
đổ ra ngay trong phòng ngủ trụ sở công an là một thất bại, một trận thua
trắng. Trong thất bại đó, bốn sĩ quan công an đương nhiệm bị giết hại
có phần trách nhiệm không nhỏ. Vậy mà những sĩ quan không hoàn thành
nhiệm vụ lại được thăng quân hàm như đã lập chiến công xuất sắc!
Lại
ngậm ngùi thương nhớ ba sĩ quan công an chết trong sự kiện ba ngàn cảnh
sát cơ động rầm rập bao vây tấn công người dân thôn Hoành, Đồng Tâm, Mỹ
Đức, Hà Nội đang trong giấc ngủ bình yên đêm 9.1.2020.
Người
dân thôn Hoành khiếu kiện đất đai là tranh chấp dân sự rất bình thường
và nhỏ nhặt. Tranh chấp dân cự phải giải quyết ở toà án và những người
quyết liệt khiếu kiện giữ mảnh đất tạo ra nguồn sống cho dân làng đều là
người dân lương thiện, là đảng viên đang sinh hoạt đảng, chưa ai là tội
phạm bị truy tố. Chưa ai phải bị cưỡng chế bằng bạo lực nhà nước. Nhưng
ỷ sức mạnh bạo lực nhà nước, công an mở ngay chiến dịch lớn đánh vào
dân thôn Hoành, phá cửa xông vào tận giường ngủ, xả súng giết dân như
xông vào đồn địch, như giết kẻ thù của dân tộc Việt Nam, của lịch sử
Việt Nam!
Trang
bị vũ khí hiện đại, chủ động đánh vào dân trong giấc ngủ mà ba sĩ quan
công an hi sinh liền lập tức được truy tặng huân chương chiến công. Dân
thôn Hoành đều là người dân lương thiện vì không ai là tội phạm bị truy
tố. Đánh vào người dân lương thiện mà là chiến công là đã đẩy người dân
lương thiện, cần cù lao động đóng thuế cho nhà nước trở thành kẻ thù của
nhà nước!
Máu
con người đều quí. Máu chiến sĩ công an, quân đội càng vô cùng cao quí.
Nhân dân thầm lặng mà tinh tế, bao dung và công bằng. Nhân dân biết rõ
và không quên từng sự hi sinh cho cuộc sống của nhân dân, đất nước.
Những chiến sĩ công an, quân đội đổ máu hi sinh cho đời sống nhân dân,
cho đời sống đất nước được nhân dân thương tiếc và biết ơn mới là sự
phong tặng xứng đáng, cao quí và trường tồn.
Phạm Đình Trọng
📍 NGƯỜI THƯỢNG LÀ AI?
Tây
Nguyên đầu thế kỷ 20 phủ một màu xanh bạt ngàn của núi rừng. Trên vùng
đất hoang sơ ấy là nơi sinh sống của hàng nghìn ngôi làng của những sắc
tộc bản địa. Trông họ rất khác với người Annam : da đen, đóng khố, đi
chân chất, cà răng, căng tai, ăn bốc… Họ sống thành từng làng, gắn bó
bền chặt với nhau.
Người
Annam và người Pháp gọi chung họ là Mọi. Theo sự giải thích của hai nhà
nghiên cứu Nguyễn Kinh Chi và Nguyễn Đổng Chi trong cuốn “Mọi Kontum”
in lần đầu năm 1937, từ Mọi có lẽ có nguồn gốc từ tiếng Ba-na là
“tơ-moi” để chỉ những người khách đến làng của người Ba-na, ví dụ tơ-moi
Xơ-đăng, tơ-moi Gia-rai có nghĩa là khách Xơ-đăng, khách Gia-rai. Người
Việt bắt chước cũng gọi theo nhưng tiếng Việt thì độc âm nên lâu dần bỏ
chữ “tơ” chỉ còn lại từ “moi” để chỉ người bản địa ở Tây Nguyên.
Cách
gọi này đến sau năm 1945 thì bỏ hẳn vì dễ mang tính miệt thị, thay vào
đó bằng cách gọi theo địa phương là “người Tây Nguyên” hay “người
Thượng” để chỉ những người sống ở miền thượng du.
Theo
hai nhà nghiên cứu trên, dân số người Thượng bấy giờ ước chừng khoảng
300.000 đến 500.000 người, chia thành nhiều bộ lạc khác nhau. Trong đó,
có ba bộ lạc lớn là Ba-na, Xơ-đăng và Dja-rai (Gia-rai). Trong mỗi bộ
lạc lại có những bộ tộc khác nhau. Ví dụ như có người Ba-na chính tông,
và các bộ tộc như Bonam, Hrui, Konho, Krem v.v.
Ngoài
ra, còn có người Lạt, Mạ, Stiêng và Srê ở hai Cao nguyên Lang-biang và
Gia-rinh. Người Mnông ở Tây Nam Cao nguyên Đắk Lắk và Tây Bắc Cao nguyên
Lang-biang.
Người
Thượng đến từ đâu, tổ tiên của họ là ai thì vẫn chưa có đáp án chính
xác. Chỉ biết chắc rằng các nhóm dân này đã bị người Chàm khuất phục,
trở thành thần dân của Champa, rồi nhượng lại những vùng đất tốt nhất ở
miền duyên hải cho người Chàm, rồi rút dần lên vùng núi cao Trường Sơn –
Tây Nguyên.
Nhà
nghiên cứu người Pháp có hơn 23 năm sống cùng các bộ tộc ở Tây Nguyên
là Jaques Dournes cho rằng vì sự hiểm trở của đồi núi vùng này đã làm
cho các sắc tộc bị cô lập và hình thành các ngôn ngữ khác nhau.
Về
sau, khi người Chàm suy yếu, quyền lực rơi vào tay người Annam, thì
người Thượng vẫn được tự do trong khu vực của họ. Núi rừng, sông suối,
muông thú vẫn là của người Thượng, họ định kỳ nộp thuế cho triều đình
Annam.
Dù họ là ai, đến từ đâu thì người Thượng vẫn được biết đến là những cư dân đầu tiên của Tây Nguyên ngày nay.
Do
không có chữ viết nên những thay đổi trong xã hội chỉ được nghiên cứu
khi người Pháp và người Việt bắt đầu tiếp cận khu vực này.
Người Thượng ở Tây Nguyên – Kỳ 1: “Cổ tích” luật tục
Bốn
mươi bốn năm sau biến cố 30/4, Tây Nguyên hôm nay không còn là miền
Thượng của ngày trước. Rừng và các làng của người Thượng đau đớn nhường
chỗ cho các nông, lâm trường, đập thuỷ điện. Nhà văn Nguyên Ngọc cho
rằng cần ít nhất 100 năm để khôi phục
Tây
Nguyên hôm nay không còn là miền Thượng của ngày trước. Rừng và các
làng của người Thượng đau đớn nhường chỗ cho các nông, lâm trường, đập
thuỷ điện.
Nhà
văn Nguyên Ngọc cho rằng cần ít nhất 100 năm để khôi phục rừng ở Tây
Nguyên, trong đó có một việc rất quan trọng là phục hồi các làng của
người Thượng để họ giữ rừng như xưa kia.
Người
Thượng có cách giữ rừng riêng của mình. Họ sống bền chặt với rừng. Rừng
chở che và nuôi sống họ. Rừng là cuộc sống của người Thượng từ lúc sinh
ra đến lúc lìa đời. Không còn rừng thì họ chẳng còn là mình nữa.
Chúng
tôi thấy rằng hiểu biết về người Thượng có lẽ là cách ngắn nhất để hiểu
Tây Nguyên. Với nỗ lực đó, Luật Khoa tạp chí xin gửi đến bạn đọc lần
lượt các bài viết tổng hợp từ nhiều tài liệu và ý kiến các chuyên gia về
vai trò của người Thượng đối với rừng và đất đai ở Tây Nguyên ngày xưa,
trước và sau biến cố 30/4
Video
23
Vấn đề ở Tây Nguyên: Cần một chính quyền có ‘tâm’ và có ‘tầm’ VOA Tiếng Việt
Chưa thể xác định đâu là nguyên nhân dẫn đến “sự kiện Cư Kuin” nhưng
người thiểu số ở Tây Nguyên càng ngày càng nghèo túng, bế tắc là một
thực tế không thể phủ nhận.
Do đặc điểm địa lý và lịch sử, tại Việt Nam có ba khu vực mà phần lớn
các sắc tộc thiểu số quần cư tại đó đã nhiều thế kỷ: Tây Bắc, Tây
Nguyên và Tây Nam bộ (đồng bằng sông Cửu Long). Vì nhiều lý do, cả ba
khu vực đều chậm phát triển, dân chúng các sắc tộc thiểu số nghèo túng
và do chính sách vừa thiển cận, vừa lệch lạc lại dễ dàng bị thao túng
bởi lợi ích của các cá nhân, phe nhóm nên cả ba khu vực đều bị đe dọa
bởi nguy cơ các sắc tộc thiểu số nổi loạn, đòi tự trị như người Việt đã
từng và đang chứng kiến.
Không phải tự nhiên mà đầu thập niên 2000, Bộ Chính trị của đảng CSVN
quyết định thành lập ba “Ban Chỉ đạo” (BCĐ) cho ba khu vực này (BCĐ Tây
Bắc, BCĐ Tây Nguyên, BCĐ Tây Nam bộ). BCĐ Tây Nguyên được thành lập đầu
tiên (2002) sau khi xảy ra vụ nổi loạn hồi 2001 - người thiểu số chiếm
trụ sở chính quyền tỉnh Đắk Lắk. Hai năm sau (2004), do hai khu vực còn
lại cũng bất ổn, Bộ Chính trị của đảng CSVN quyết định thành lập thêm
BCĐ Tây Bắc và Tây Nam bộ.
Tuy mục tiêu của cả ba BCĐ vừa kể là giám sát, tư vấn về chủ trương,
phối hợp với chính quyền các địa phưng trong khu vực trách nhiệm để duy
trì trật tự, trị an nhưng trên thực tế, các BCĐ loại này chỉ thêm tốn
kém cho công quỹ, tạo thêm điều tiếng vì đủ loại tiêu cực. Năm 2004,
người thiểu số ở Tây Nguyên lại nổi loạn thêm một lần nữa. Đến năm 2011
là cuộc nổi loạn ở Tây Bắc (Mường Nhé). Đó cũng là lý do cuối năm 2017,
Bộ Chính trị của đảng CSVN quyết định giải thể cả ba BCĐ (1).
Sở dĩ phải dông dài về các BCĐ Tây Bắc, BCĐ Tây Nguyên, BCĐ Tây Nam
bộ vì đó chính là một trong những chuyện có thể dùng làm ví dụ để chứng
minh, hệ thống chính trị, hệ thống công quyền nhận thức rất rõ về ẩn họa
đe dọa cả sự toàn vẹn lãnh thổ lẫn an ninh chính trị - kinh tế - xã hội
quốc gia nhưng “dưới sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của đảng CSVN”
các chủ trương, chính sách cũng như việc thực thi những chủ trương,
chính sách này chẳng khác gì gài mìn ở tương lai, đặc biệt là gài mìn
tại khu vực Tây Nguyên.
***
Rừng là không gian sinh tồn của các sắc tộc thiểu số ở Tây Nguyên.
Rừng là phần chính yếu trong cả văn hóa lẫn đời sống của 12 sắc tộc bản
địa. Bất kể sự khốc liệt của chiến tranh, đầu thập niên 1980, rừng vẫn
còn bao phủ khoảng 70% tổng diện tích ở Tây Nguyên (khoảng 3,8 triệu héc
ta) nhưng đến nay, tại Tây Nguyên chỉ còn khoảng 2,1 triệu héc ta rừng
và chỉ 10% trong số này được xem là “rừng giàu”, 90% còn lại là rừng
nghèo kiệt (2).
Giữa thập niên 1970, dân số ở khu vực Tây Nguyên là 1.225.000 người
thuộc 18 sắc tộc, trong đó người thuộc các sắc tộc thiểu số là 850.000
người, chiếm khoảng 70% dân số. Hiện nay, dân số ở khu vực Tây Nguyên
khoảng sáu triệu người (số liệu năm 2021) thuộc 53 sắc tộc, trong đó 52
thuộc các sắc tộc thiểu số nhưng dù có thêm nhân khẩu của 35 sắc tộc
thiểu số khác, tỷ lệ người thiểu số ở Tây Nguyên chỉ chừng 37,5% (khoảng
2,2 triệu người [3].
Theo nhiều chuyên gia KHXH, bởi mỗi sắc tộc cần không gian sinh tồn
riêng, khi Tây Nguyên trở thành nơi tập trung gần như tất cả các sắc tộc
ở Việt Nam, những sắc tộc bản địa phải cư trú xen kẽ với các sắc tộc
khác, trong đó đa số là người Kinh, việc soạn - thực thi chính sách phải
chú trọng đến hóa giải khác biệt, loại bỏ những ẩn ức có thể dẫn tới
xung đột. Tuy nhiên trên thực tế, chính sách đã biến phần lớn thành viên
của các sắc tộc bản địa trở thành đói nghèo, gánh chịu đủ loại thiệt
thòi cả về y tế lẫn giáo dục.
Cho dù 1,7 triệu héc ta rừng đã bị đốn trụi nhưng theo một số thống
kê do các cơ quan hữu trách của chính quyền Việt Nam thực hiện và công
bố: Giai đoạn 2013 – 2015, trong 326.909 gia đình thuộc các sắc tộc thiểu số thì có 32.975 (10%) gia đình thiếu đất ở (10%), 293.934 (khoảng 90%) gia đình thiếu đất canh tác (4).
Các số liệu vừa đề cập tuy đáng ngẫm nghĩ nhưng chắc chắn đã lạc hậu,
tỉ lệ người thiểu số không có đất ở, thiếu đất canh tác đã vượt xa mức
vừa dẫn khi nghèo túng và bế tắc tiếp tục khiến họ phải bán xới nhà cửa,
ruộng nương để tiếp tục sinh tồn trên bản quán, năm ngoái, giới hữu
trách và hệ thống truyền thống chính thức cảnh báo hiện tượng người
thiểu số ở Tây Nguyên bị... “dụ dỗ” nên thi nhau bán sạch nhà cửa, ruộng
nương (5).
Trong một bài viết được công bố trên tạp chí Lý luận Chính trị hồi
tháng 1/2021, dẫn trên dữ liệu thống kê từ các nguồn chính thống bà
Nguyễn Thị Thanh Dung (Viện Chính trị học, Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh) nhận định: Do tình trạng “mạnh ai nấy được” diễn ra khá
phổ biến, dẫn đến các tộc người thiểu số Tây Nguyên vốn chưa thích nghi
với điều kiện sản xuất thị trường hiện đại đã bị “nghèo đi” theo cả
nghĩa tương đối và tuyệt đối, làm tăng mâu thuẫn xã hội, tăng nguy cơ
xung đột xã hội. Trong lúc tỷ lệ số hộ nghèo tuyệt đối ở Tây Nguyên đã
giảm từ gần 50 % (2006) xuống dưới 15% (hiện nay) thì tỷ lệ hộ nghèo tương đối của các tộc người thiểu số, chiếm từ 52% đến 70% trong tổng số hộ nghèo ở Tây Nguyên(6).
Cũng trong bài viết vùa đề cập, bà Dung cho biết:Ở Tây Nguyên, các nông, lâm trường làm ăn thua lỗ, không mang lại lợi ích kinh tế cho nhà nước,
nhà nước không có nguồn thu từ các nông, lâm trường này để giải quyết
những vấn đề kinh tế, xã hội mới nảy sinh do sự thu hẹp đất đai của các
cộng đồng... Đất rừng bị khai thác bừa bãi, lượng nước ngầm
trong đất cạn kiệt, lượng nước tưới giảm, suy giảm thảm thực vật, ảnh
hưởng đến năng suất, chất lượng cây trồng. Điều này đã ảnh hưởng trực
tiếp đến lợi ích của người sản xuất mà trước hết là các tộc người thiểu
số. Người dân Tây Nguyên bị “nghèo” đi trong nền “kinh tế rừng” truyền
thống, trong lúc chưa có sinh kế thay thế hiệu quả, chưa thể và chưa có
điều kiện để thích nghi hoặc chuyển sang nền sản xuất hiện đại...
***
Chưa thể xác định đâu là nguyên nhân dẫn đến “sự kiện Cư Kuin”
nhưng người thiểu số ở Tây Nguyên càng ngày càng nghèo túng, bế tắc là
một thực tế không thể phủ nhận. Ngoài việc thỉnh thoảng thừa nhận thực
tế đó, hệ thống chính trị, hệ thống công quyền Việt Nam tiếp tục khiến
thảm trạng về dân sinh trong các cộng đồng thiểu số trở nên tồi tệ hơn.
Làm sao có thể xem chính quyền Việt Nam vừa có “tâm”, vừa có “tầm”
khi càng ngày càng nhiều thành viên của các sắc tộc bản địa không có
nơi cư trú, không có đất canh tác mà vẫn thản nhiên giao đất vào tay
những doanh nghiệp chỉ nhận đất để sang nhượng rồi tiếp tục phá rừng như
Công ty Long Sơn hay để nhận tiền bồi thường từ các dự án như đã trình
bày trong hai phần trước của bài viết này?
Trước giờ, những cảnh báo, đề nghị của bất kỳ ai nằm bên ngoài hệ
thống chính trị, hệ thống công quyền Việt Nam về việc điều chỉnh chính
sách, cách đối xử đối với các cộng đồng thiểu số tại Việt Nam nói chung,
tại Tây Nguyên nói riêng đều bị quy chụp là “thù địch”, là “phản động”, là “phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân”
nhưng chẳng lẽ di dân thiếu viễn kiến, phá rừng để... trồng cao su, để
phát triển kinh tế, để phát triển thủy điện, để thực hiện dự án sân golf
này, dự án đô thị kia,... và tạo ra thực trạng như đã biết với Tây
Nguyên, với các cộng đồng thiểu số cả ở Tây Nguyên lẫn các khu vực khác
lại là... “thiện chí”, là... “đúng đắn, tiến bộ” và là... “củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân”?
Không phải tự nhiên mà nhiều quốc gia đa dạng về sắc tộc dành đủ loại
ưu đãi cho các sắc tộc bản địa cũng như sắc tộc thiểu số... Nếu không
thể tìm hiểu qua thân nhân, bạn bè thì có thể sử dụng Google để tìm kiếm
thông tin về chính sách đối với các sắc tộc bản địa của Mỹ, Canada,
Úc,... Những diễn biến ngay sau khi xảy ra “sự kiện Cư Kuin”,
đặc biệt là những hình ảnh, video clip và những nhận định, bình luận vừa
hằn học, vừa miệt thị nhắm vào nhiều thành viên của các cộng đồng thiểu
số ở Tây Nguyên từ các tài khoản vốn vẫn dùng để bảo vệ đảng CSVN, bảo
vệ nhà nước XHCN trên mạng xã hội có thể “bảo vệ” cái gọi là... “khối đại đoàn kết toàn dân”.
Cứ nhìn vào lịch sử nhân loại cả cận đại lẫn hiện đại ắt sẽ nhận ra,
việc chủ động phát tán, giới thiệu những hình ảnh, video clip nhằm xiển
dương “quân – dân đoàn kết cùng chung tay trấn áp tội phạm” (7), bày tỏ sự hào hứng, hả hê khi săn lùng thành viên của các cộng đồng thiểu số sau “sự kiện Cư Kuin”, khăng khăng quy chụp đó là “âm mưu, thủ đoạn” của những “Nhà nước Degar”, “Tin lành Degar”, “FULRO”,...
như đang thấy chính là cách chứng minh cho thành viên của các cộng đồng
thiểu số nhận ra họ chẳng là gì ngay tại bản quán, trao cho kẻ thù thật
sự của xứ sở này, dân tộc này cơ hội để khi cần có thể “hà hơi, tiếp sức” nhằm hình thành các lực lượng đòi ly khai, đòi tự trị để lũng đoạn tương lai quốc gia, vận mệnh dân tộc.
Đối tượng nào thật sự đang “phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân”?
No comments:
Post a Comment