Thưa các bạn
độc giả.
Câu chuyện về mầu da tại Hoa Kỳ
Câu chuyện về mầu da tại Hoa Kỳ
Giữa tháng 2
nước Mỹ được nghỉ vì là ngày lễ tưởng nhớ các vị tổng thống. Xin có đôi điều
ghi nhận về nước Mỹ, dân Mỹ và Tổng thống Mỹ.Nửa thế kỷ vừa qua nước Mỹ đối xử
với Việt Nam nói chung từ chiến tranh đến hòa bình thực sự rất đẹp. Ngày xưa
người Mỹ không tử tế như vậy. Năm 1776 Tuyên ngôn Độc Lập rất hay. Hiến Pháp 1778
rất xuất sắc. Hoa Kỳ tôn trọng nhân quyền nhất thế giới. We The People…Nhưng
tất cả đều không phải vậy. Da đen không phải là người. Da đen là nô lệ. 150 năm
trước dù đã giải phóng nô lệ nhưng đến năm 1870 tu chánh án 15 ra đời da đen
mới được đi bầu. Rồi đến năm 1920 với tu chính án số 17 phụ nữ mới được đi bầu.
Năm nay 2020 phụ nữ Mỹ kỷ niệm 200 năm làm cử tri. Khi người Mỹ da trắng từ Âu châu theo con tầu
MayFlower, Hoa Tháng 5 đến Mỹ, ăn nhậu với da đỏ một chầu Thanksgiving nhưng
vẫn không coi da đỏ là con người. Ăn xong lễ Tạ ơn đầu tiên năm 1621 Mỹ xua
đuổi dân da đỏ lội bộ đi từ miền
Đông qua miền Tây. Trên con đường gian khổ gọi là Đường mòn nước mắt, the trail
of tears. Mười phần chết bẩy còn ba. Tập
trung da đỏ vào các khu đồng khô cỏ cháy.
Sắc dân da đỏ diệt vong ngay trên đất đai huyền thoại mà chính họ đã
tuyên xưng là chủ nhân đón chào người da trắng. Mãi đến năm 1924 những người da
đỏ còn sống xót trong các khu tập trung mới được coi là công dân Mỹ. Chỉ còn
nghề mở xòng bài, uống rượu và đóng phim cao bồi Viễn Tây cho Hollywood.
Dân Tàu da
vàng được đưa qua Mỹ làm cu ly đường xe lửa phải chờ đến năm 1943 mới được xin
nhập tịch. Phải cắt bỏ tóc đuôi sam truyền thống và khi ra làm ăn chỉ được làm nghề
giặt ủi. Nhưng dân
Việt Nam di tản đợt đầu từ năm 1975 chỉ
cần chờ 5 năm đến 1980 là được phép trở thành công dân Hoa Kỳ. Một
lần nữa, chúng ta
phải cảm ơn những người dân Mỹ với 58 ngàn chiến binh hy sinh và 300 ngàn
thương binh trở về từ chiến tranh Việt Nam. Chúng ta phải cảm ơn dân Mỹ mở vòng
tay đón người tỵ nạn từ Việt Nam lần
lượt đến Mỹ suốt nửa thế kỷ vừa qua. Tổng cộng khoảng 2 triệu. Đến được đất này
và được hưởng phúc lợi và quy chế công dân nhờ con đường gian khổ của dân da đen,
da đỏ và da vàng đã trải qua với 200 năm thay đổi người Mỹ da trắng ngày xưa
thành người Mỹ da trắng ngày nay. Thank you America. Bây giờ xin nói đến các
ông tổng thống Hoa Kỳ.
Tình tự dân tộc ở đâu?
Tổng thống
Hoa Kỳ có phải là tổng thống của chúng ta hay không? Chúng ta đây là người Việt
mang quốc tịch Hoa Kỳ. Trên pháp lý thì đúng đấy, nhưng trên thực tế thì dân ta
có vẻ lạnh lùng hờ hững lắm. Như vậy có vẻ bất công với đất nước mà chúng ta đã
hưởng phúc lợi khá nhiều. Vẫn còn nhớ khởi đi từ thập niên 80, anh em gặp nhau
trên con đường xuôi ngược tìm nơi định cư. Tay bắt mặt mừng, hỏi rằng bây giờ
bạn làm gì ở đâu. Câu trả lời nhẹ nhàng lý thú: trước làm hãng Ford, mới đây
thì lãnh lương Carter. Check Carter lãnh đủ 4 năm, rồi qua làm việc với tổng
thống Reagan. Cho đến bây giờ có nhiều bạn cao niên chúng tôi lãnh tiền già của
vị tổng thống mới mà vẫn quen mồm gọi là anh Obama. Ngôn ngữ hết sức là tự do
dân chủ.
Dân ta ở Mỹ
đã 10, 20 hay thậm chí 40 năm. Đã đứng lên nghe đọc lời thề vào quốc tịch. Vui
vẻ giơ tay thề bỏ hết những giây mơ rễ má với quê hương cũ. Những bà già xin
thề sẽ một lòng cầm súng chiến đấu cho Tổ Quốc mới, nhưng thật sự tấm lòng
không hề rung động với Hiệp Chúng quốc Hoa Kỳ.
“Lòng quê gởi áng mây tần xa xa”
“Lòng quê gởi áng mây tần xa xa”
Người thì làm
ăn cật lực để gởi tiền về quê. Mua đất, cất nhà. Người thì đi về như đi chợ.
Người thì đốt lửa, thổi gió đấu tranh về quê hương. Hết năm này qua năm khác.
Bao nhiêu là đám cưới, bao nhiêu lần khai sinh, bao nhiêu đám ma. Ở trên miền
đất đầy cơ hội đã gần nửa thế kỷ mà sao vẫn mang tâm trạng lưu đầy, mãi mãi làm
người lưu vong trong hoàn cảnh tạm dung.
Bài học lịch
sử và tình tự dành cho Tổ Quốc mới, khi thi xong nhập tịch là buông xuôi hết.
Như vậy, phải chăng chúng ta đối xử với nước Mỹ dường như không phải đạo.
Kể từ năm 75
cho đến nay là năm 2 không 2 không. Có lẽ đã đến lúc chúng ta phải dành cho đất
nước tử tế này một chút tình dân tộc.
Xin vui lòng
đọc bài giãi bầy với mối chân tình. Xin đọc lại bài học quốc tịch bằng tấm lòng
thông cảm.
Các vị tổng thống Hoa Kỳ
Ghi dấu lịch
sử đầu tiên dành cho vị tổng thống thứ nhất George Washington. Ông là vị khai
quốc công thần, là cha già dân tộc, là quốc phụ của Hoa Kỳ. Vị tướng chỉ huy
cuộc chiến tranh cách mạng chống Anh quốc. Thành lập Hiệp chủng Quốc và lên làm
tổng thống 2 nhiệm kỳ. Ông sinh ngày 22 tháng 2 năm 1796. Vì vậy nước Mỹ có
ngày President’s Day cũng gọi là Washington’s Birthday. Sau đó người ta cũng
ghép chung vào ngày lịch sử này để kỷ niệm thêm ngày sinh nhật của vị tổng
thống thứ 16 là Abraham Lincoln. Ông sinh ngày 12 tháng 2-1809. Cho đến nay ngày
President trở thành ngày quốc lễ và nước Mỹ chọn ngày Thứ hai của tháng Hai,
nằm giữa sinh nhật của hai vị tổng thống vĩ đại. Một người lãnh đạo kháng chiến
thành lập quốc gia. Một người chiến thắng cuộc nội chiến, thống nhất đất nước.
Nếu hỏi rằng,
ngoài hai vị kể trên trong tất cả các vị tổng thống Hoa Kỳ hơn 200 năm qua thì
còn có tổng thống nào xếp hạng cao trong lịch sử. Hoa Kỳ có ngay câu trả lời.
Các tổng thống vĩ đại của nước Mỹ
Câu trả lời
không phải bằng văn bản mà bằng cả 1 công viên quốc gia. Không phải là vườn
cảnh, tượng đài mà bằng núi đá. Tại tiểu bang South Dakota có hình tượng khắc
trên đá. Các hình tượng vĩ đại của 4 ông tổng thống vĩ đại. Trái núi chiếm diện
tích 1,300 mẫu tây, với tượng đài cao 60 bộ nằm trên khu đất cao 5,700 feet trên
mặt biển. Từ trái qua phải là hình tổng thống Washington, Jefferson, Roosevelt,
và Lincoln.
Tổng thống
Jefferson là người nhậm chức thứ ba, nhưng là cha đẻ của bản Tuyên ngôn độc
lập. Ông đã viết ra những câu bất hủ trong các bản văn lịch sử để làm khuôn
vàng thước ngọc cho đời sau. Đó là câu: “Con người sinh ra bình đẳng và
ai cũng có quyền mưu cầu hạnh phúc.”
Vị sau cùng
là tổng thống Roosevelt, người đã lãnh đạo nước Mỹ khi nhân loại bước vào thế
kỷ 19. Tượng đài khắc trên núi Rushmore là công trình thực hiện cha truyền con
nối của gia đình điêu khắc gia Borglum. Ngày nay có hai triệu du khách đến thăm
hàng năm.
Tinh hoa của dân chủ
Với hơn 200
năm lập quốc, nền dân chủ của Hoa Kỳ không một lần nào thay đổi người lãnh đạo
mà có rối loạn binh đao. Hoàn toàn không có đảo chính, cách mạng, binh biến.
Ngay cả những lúc chiến tranh sóng gió hay lúc các vị tổng thống bị truất phế,
từ chức thì việc thay đổi cũng tuần tự theo luật lệ hoàn tất rất nhẹ nhàng và
an toàn tuyệt đối.
Theo hiến
định, khi vị tổng thống tại chức qua đời hay từ chức thì ông phó lên thay. Nếu
không có phó tổng thống hay vì lý do gì, ông phó không lên thay thì người thứ
ba là chủ tịch hạ viện và kế tiếp là bộ trưởng ngoại giao. Trong thể chế dân
chủ, quyền hạn do các chính trị gia nắm giữ nên vai trò bộ trưởng quốc phòng và
tham mưu trưởng liên quân thuộc phe quân sự không nằm trong danh sách được giao
quyền lãnh đạo đất nước.Bang giao Việt Mỹ.
Trong hoàn cảnh
thuộc về đợt di dân Việt Nam đến Hoa Kỳ vào cuối thế kỷ thứ 20, nếu chúng ta
tìm hiểu về cuộc đời của tất cả các vị tổng thống Hoa Kỳ sẽ tìm thấy rất nhiều
chi tiết lý thú. Tuy nhiên, nói đến mối giao tình Việt Mỹ phải kể lại câu chuyện
sử liệu từ thời tổng thống thứ 18 của Hiệp Chủng Quốc là ông Grant vào năm
1869.
Việt sử ghi
lại rằng vào năm 1870, ông Bùi Viện gốc làng Trình Phố, tỉnh Thái Bình dưới
triều Tự Đức được cử đi sứ qua Hồng Kông rồi nhân dịp này theo tàu viễn dương
qua Hoa kỳ vào triều đại Tổng thống Ulysses Grant. Tổng thống Mỹ tiếp kiến hứa
hẹn viện trợ cho Việt Nam canh tân. Ông Bùi Viện về nước trình lên kết quả và
lại trở lại Mỹ quốc lần thứ hai. Tuy nhiên, kỳ này Hoa Kỳ lại đổi ý nên việc
viện trợ không thành.
Dù sao thì
đây cũng là một ghi dấu về những ngày bang giao Việt Mỹ đầu tiên. Nhưng suốt
một trăm năm từ thời kỳ1850 đến 1950 miền Đông Nam Á vẫn trong vòng ảnh hưởng
của Pháp nên Việt Nam không có cơ hội liên hệ với Hoa Kỳ. Cho đến năm 1975, cựu
đại sứ Bùi Diễm, thuộc giòng họ Bùi Viện, đại diện Việt Nam Cộng Hòa lại thất
bại trong lần xin viện trợ cuối cùng.Tổng thống Hoa Kỳ và chiến tranh Việt Nam
Cho đến thời
kỳ 1954 của tổng thống thứ 34 là ông Eisenhower, Việt Nam mới có cơ hội đóng
vai trò trong lịch sử Hiệp Chủng Quốc.
Vào cuối thập
niên 50, trong chuyến đi Mỹ, chúng ta thấy hình ảnh ông Eisenhower đón chào
tổng thống Ngô Đình Diệm và ca ngợi vị nguyên thủ Việt Nam là vĩ nhân của Đông
Nam Á. Và chẳng bao lâu sau đó, vị tổng thống thứ 35 của Hoa Kỳ là ông Kennedy
đã gián tiếp trách nhiệm về cuộc đảo chánh và việc hạ sát anh em ông Diệm năm
1963 tại Sài Gòn. Ông Kennedy tuy giải tỏa được một chế độ cản đường nhưng cũng
rất ân hận về cái chết của ông Diệm. Cả hai ông Ngô Đình Diệm và Kennedy đều là
Thiên Chúa Giáo.
Nhưng niềm ân hận cũng không lâu, chỉ sau một thời gian ngắn đến lượt ông Kennedy bị ám sát chết tại Dallas, Texas.
Nhưng niềm ân hận cũng không lâu, chỉ sau một thời gian ngắn đến lượt ông Kennedy bị ám sát chết tại Dallas, Texas.
Cái chết của
cả hai vị tổng thống đều vẫn còn nhiều bí ẩn cho đến ngày nay. Ông Johnson lên
thay trong vai trò tổng thống thứ 36 với gánh nặng chiến tranh Việt Nam. Trong
các vị tổng thống liên quan, chính ông Johnson là người xử dụng tối đa mọi
phương tiện để chiến thắng. Ông là người quyết tâm nhưng vẫn không thành công
và để cho ông Nixon lên thay với chiêu bài Việt Nam hóa chiến tranh, rút quân
về bằng mọi giá. Năm 1974, Nixon, vị tổng thống thứ 37 vì Watergate phải từ
chức. Ông Gerald Ford thứ 38 lên thay, thể theo lòng dân và quốc hội, quay lưng
cuộc chiến tranh Việt Nam. Từ nay đối với Hoa Kỳ, Việt Nam chỉ còn là vấn đề
nhân đạo.
Với 5 vị tổng
thống can dự vào chiến tranh Việt Nam, bắt đầu từ Eisenhower, Kennedy, Johnson,
Nixon và Ford, người Mỹ gọi đây là The War of the Presidents. Ý nói là cuộc
chiến riêng tư của các vị tổng thống, không can dự gì vào nước Mỹ và dân Mỹ.
Làn sóng chống chiến tranh của dân Mỹ dâng cao với các cuộc xuống đường hàng
triệu người. Bây giờ sống tại đây chúng ta mới có thể hiểu được là lòng dân của
Mỹ quốc thực sự ảnh hưởng đến chính quyền ra sao. Không cần đúng hay sai, không
cần giữ lời cam kết. Đối với dân chúng Hoa Kỳ, lòng kiên nhẫn và sự chịu đựng,
hy sinh rất giới hạn. Đánh không xong thì rút, sống chết mặc bay. Từ các quan
niệm đó, định mệnh đưa chúng ta đến Hoa Kỳ.
Tổng Thống Hoa Kỳ và dân tỵ nạn Việt Nam
Sau ông Ford,
dân tỵ nạn lần lượt sống với 5 vị tổng thống của thời hậu chiến. Bắt đầu từ ông
Carter, tổng thống thứ 39, ông già hiền lành đạo đức chính là vị ân nhân đầu
tiên mở cửa nước Mỹ cho thuyền nhân từ các trại tỵ nạn vào Hoa Kỳ. Khi đoàn
biểu tình Việt Nam thắp nến đi trước Bạch Cung để than khóc cho thuyền nhân thì
ông Carter đã mở cửa ban công ngó xuống vẫy tay chào. Nước mắt dân tỵ nạn Việt
Nam di tản đợt đầu, nhỏ giọt xuống đại lộ Constitution đã làm động lòng ông
tổng thống chuyên cất nhà Homeless. Lệnh tổng thống ban ra từ đây các tàu chiến
của hạm đội số Bảy bắt đầu xua đuổi hải tặc và vớt người di tản. Các phái đoàn
Mỹ lên đường đến phỏng vấn tại trại tỵ nạn Đông Nam Á. Rồi tiếp đến ông thứ 40
là Reagan suốt 8 năm đưa ra các đạo luật tỵ nạn, khởi sự các buổi thảo luận thả
tù, để sau này ông Bush số 41 tiếp tục mở rộng tấm lòng nhân đạo.
Bước qua thập
niên 90, triều đại Bill Clinton, tổng thống thứ 42 là thời kỳ của hòa giải và
hàn gắn. Clinton mở đường hiệp thương, giải tỏa cấm vận, đưa tay dắt đường cho
Hà Nội trở về với thế giới tự do. Ông Clinton chấm dứt nhiệm kỳ bằng một chuyến
công du cuối cùng dưới hình thức qua Việt Nam để trình diễn một màn Workshop
dân chủ đi từ Hà Nội đến Sài Gòn.
Qua đến ông
Bush, vị tổng thống thứ 43 của Hoa Kỳ đã đem bài học Việt Nam ra để đánh trận
Trung Đông, nhưng đã gặp nhiều cay đắng. Bây giờ đến lượt tổng thống Obama, với
hoàn cảnh thế giới điên đảo, nợ nần chồng chất, ông có quá nhiều mối bận tâm. Nhưng
chuyến thăm viếng Việt Nam của vị tổng thống da đen đã trở thành dấu ấn giao
tình đậm nét nhất trong lòng tuổi trẻ.
Xem như vậy,
lịch sử cận đại của Hoa Kỳ từ 1954 đến nay có 11 vị tổng thống. Năm vị tham dự
vào cuộc chiến Việt Nam. Ba triệu lính lần lượt tham chiến. 58 ngàn người chết.
Mỗi vị tổng thống khi nhắc đến Việt Nam đều mang một kỷ niệm cay đắng khôn
nguôi.
Kể từ 1975
đến nay 2020, 5 vị tổng thống liên quan đến dân Việt Nam hậu chiến, qua các
lãnh vực di dân tỵ nạn và nhân đạo. Cả 5 người đã mang một quan niệm mới mẻ về
hai chữ Việt Nam. Đã bớt phần đau thương cay đắng. Trong những năm gần đây, sự
thành công của người Việt tại Hoa Kỳ trong tất cả các lãnh vực đã đem đến cho
các ứng cử viên tổng thống một ý niệm mới mẻ tốt đẹp của chúng ta tại quê hương
mới. Riêng tổng thống Obama, trong bài diễn văn nhậm chức đã nhắc đến Việt Nam
qua trận Khe Sanh.
Trong 8 năm
qua, con cháu chúng ta đã làm quen với vị tổng thống da mầu đầu tiên thứ 44 với
niềm tự hào của một thế hệ di dân gốc Việt góp phần xây dựng đầy hưng phấn
trong tương lai. Biết đâu sẽ có ngày Hoa kỳ chào mừng một tổng thống Việt Nam
da vàng. Mặc dù ngày đó có thể còn rất xa, nhưng bây giờ xin vui lòng nhận chấp
nhận các tổng thống của chúng ta. Trong niềm tin mới, chúng ta cùng ghi dấu
ngày President’s Day. Dù rằng nghĩa trang Việt Nam tại Los Gatos có treo đôi
câu đối: “Trăm năm xác tục gửi quê người, Vạn dặm hồn thiêng về cố
quốc.” Tôi cũng xin nhắc lại hai bài học trăm năm của các di dân đến
trước chúng ta. Một văn hào Nga đã nói rằng: “Nơi nào tôi sống có tự
do, nơi đó chính là quê hương.” Một chính khách Ba Lan tỵ nạn lại nói
rằng: “Muốn đấu tranh hữu hiệu cho quê hương cũ, hãy làm một công dân
tốt trên quê hương mới.”
Phần kết luận với thời hiện Tại. Ngày xưa trong chiến tranh Việt Nam làm sao chúng ta biết được tâm tư
người dân Mỹ. Bây giờ ta là dân Mỹ, sống trong lòng nước Mỹ, nhận định phải rõ
ràng hơn. Chiến binh Mỹ qua Việt Nam chiến đấu là đi quân dịch. Tiền tuyến
không thể nỗ lực nếu hậu phương phản chiến. Chiến cuộc lại kéo quá dài. Tổng
thống nào cũng muốn kết thúc. Ông Johnson thực sự muốn chiến thắng bằng mọi
giá, nhưng không thành công. Ông Nixon muốn trực tiếp hòa với Tầu để đạt được
hòa bình bằng mọi giá. Với 10 năm binh đao trong cuộc chiến điêu linh của chiến
trường tồi tệ. 58 ngàn tử sĩ và 300 ngàn
thương binh. Trải qua 5 đời tổng thống với những cuộc biểu tình phản chiến trên
toàn quốc. Hình ảnh người đàn ông Mỹ người tẩm xăng bế con nhỏ đứng dưới chân
tường Ngũ giác đài làm rung động thế giới. Tổng trưởng quốc phòng Mc.Namara
đứng trên lầu nhìn xuống kinh hoàng. Lòng dạ nào mà còn tiếp tục chiến tranh.
Sau cùng người đàn ông đã đặt đứa nhỏ qua một bên để tự hỏa thiêu trở thành
biểu tượng của phản chiến. Với những tin tức như vậy người Việt chúng ta làm
sao còn trách cứ Hoa Kỳ bỏ Việt Nam. Chưa thấy quan tài, chưa đổ lệ. Sau những trận Khe Sanh, Cồn Thiên với
hàng trăm quan tài phủ cờ sao chở về phi trường Travis. Nhạc Tap não nùng cất
tiếng chiêu hồn vang khắp không gian miền Bắc CA đưa hình ảnh vào phòng khách
của triệu gia đình dân Mỹ. Làm sao mà Mỹ không rút. Còn phần chúng ta. Mất nước
là mất tất cả. Lỗi tại ta mọi đường. Chiến thắng của cộng sản thế giới tại Việt
Nam là chiến thắng cuối cùng trước khi chủ nghĩa Maxist diệt vong. Trên đây là kết
luận về phần 5 vị tổng thống trong chiến tranh Việt Nam. Các vị tổng thống của
thời kỳ hậu chiến đều thể theo tinh thần nhân đạo của dân Mỹ mà đón nhận người
Việt di dân ty nạn. Khi bản nhạc trái mùa lên tiếng có tuyết rơi tại Sài Gòn,
đại sứ Mỹ theo lệnh tổng thống Ford cố gắng ở lại đến giây phút cuối cùng tháng
4 để di tản con số ấn định là 7 chục ngàn người. Nhưng khi hàng ngàn người tràn
ngập trên biển Đông vào đầu tháng 5 thì Bạch Cung nhắm mắt chấp thuận nhận tất
cả vào Mỹ. Con số di dân ty nạn Việt Nam đầu tiên vào Mỹ hoàn toàn không cần
giấy tờ là 135 ngàn. Hai năm sau những người nầy đứng lên tuyên thệ lấy thế
xanh và năm 1980 vô quốc tịch. Con đường đi vào đại lộ Citizen của da đen phải
trải qua lịch sử đẫm máu 3 năm Civil War Hoa Kỳ với thời gian nô lệ kéo dài hai
trăm năm gian khổ. Con đường của người phụ nữ công dân Hoa Kỳ được đi bầu cũng
phải đấu tranh nhiều năm từ khi có hiến pháp đến khi tu chính án ra đời. Con
đường da đỏ trở thành công dân là phải hy sinh cả một sắc tộc gần diệt vong.
Sau cùng con đường Trung Hoa và Nhật Bản da vàng cũng phải trải qua gian khổ từ
thế kỷ 19 đến 20. Riêng di dân ty nạn Việt Nam dù trải bao nhiêu đau thương tù
đầy trên đất, kinh hoàng trên biển nhưng bước chân đến đất Mỹ là mọi thứ đã an
bài. Chỉ cần vọn vẹn 5 năm.
Lời cuối cho anh em.
Tôi viết tiểu luận nầy nửa đêm về sáng. Chính tả Việt Mỹ có nhiều chỗ sai lầm. Tin tức ngày tháng cũng có thể không đúng. Đây chỉ là cảm nghĩ, không phải là viết chính sử. Xin bà con cứ tùy tiện đọc và chỉ dẫn. Chúng tôi sẽ sửa lại khi in thành sách. Còn chuyện chính trị hiện tại, với vị tổng thống đang cầm quyền. Khi nào ngài hết nhiệm kỳ, chúng ta sẽ luận bàn thêm. Chuyện thời tổng thống thứ 45 sẽ còn dài dòng. Hẹn đến khi ghi dấu 50 năm người Việt tại Hoa Kỳ. Cũng không muộn.
Tôi viết tiểu luận nầy nửa đêm về sáng. Chính tả Việt Mỹ có nhiều chỗ sai lầm. Tin tức ngày tháng cũng có thể không đúng. Đây chỉ là cảm nghĩ, không phải là viết chính sử. Xin bà con cứ tùy tiện đọc và chỉ dẫn. Chúng tôi sẽ sửa lại khi in thành sách. Còn chuyện chính trị hiện tại, với vị tổng thống đang cầm quyền. Khi nào ngài hết nhiệm kỳ, chúng ta sẽ luận bàn thêm. Chuyện thời tổng thống thứ 45 sẽ còn dài dòng. Hẹn đến khi ghi dấu 50 năm người Việt tại Hoa Kỳ. Cũng không muộn.
Giao Chỉ San Jose
No comments:
Post a Comment