Sinh năm 1940 tại Hà Nội. Con út nhà văn Nhất Linh. Cử Nhân Khoa Học tại Đại Học Sài Gòn. Trước 1975 là giáo sư Toán Lý Hóa. Phụ trách nhà xuất bản Phượng Giang năm 1973. Qua Mỹ năm 1975, làm chuyên viên hóa chất tại tiểu bang Washington. Mới về hưu tháng 5/06. Cộng tác với Thế Kỷ 21 từ năm 2002. Tác phẩm đầu tay: Hồi ký Nhất Linh Cha Tôi xuất bản tháng 7/2006, đúng 100 năm ngày sinh của Nhất Linh.
viết, trong bóng rợp của người cha
“Một
lần. Buổi trưa. Lâu rồi. Mẹ tôi ngồi nhặt cau trên sâp gụ. Tôi nằm ngửa
bên cạnh bà, hai tay cầm giơ trước mặt cuốn truyện Đoạn Tuyệt của Nhất
Linh. Đọc đến đoạn cảnh mẹ chồng ác nghiệt với con dâu, tôi nhỏm dậy hỏi
mẹ tôi: “Mợ này, mợ có phải chịu cảnh mẹ chồng nàng dâu như cậu tả
trong truyện không?”. Mẹ tôi ngửng lên nhìn tôi nói: “Đấy là cậu viết
tiểu thuyết… Bà nội con có khó tính thật nhưng đâu đến nỗi khắc nghiệt
thế…”. Rồi mẹ tôi tiếp tục nhặt cau.”
Trên đây là phần đầu của
hồi ký nhan đề “Bà Cẩm Lợi” tôi viết về mẹ tôi, bà Nhất Linh. Tôi rất
tâm đắc bài viết này, đặc biệt là câu mở đầu “Một lần. Buổi trưa. Lâu rồi”
mà tôi cho là một lối hành văn mới mẻ. Viết xong, vì muốn khoe bà chị,
tôi in bản thảo gửi ngay cho chị Thoa ở bên Pháp đọc trước khi đăng trên
tạp chí. Ít lâu sau tôi nhận được điện thoại của chị. Chị chê tôi: “Em
không biết viết văn. Câu văn thì phải có chủ từ, phải có động từ; em
không thể viết hai chữ “Một lần” rồi chấm ngang xương được. Chị có quen
một bà bạn dậy Việt văn, chị đề nghị để bạn chị sửa lại bài ấy trước khi
em cho đăng báo.” Rồi chị nói thêm: “Em phải học lối viết của cậu thì
văn mới hay được.”
Chị tôi nói thế nhưng tôi không giận chị. Trái lại
tôi yêu chị Thoa của tôi hơn vì câu nói thể hiện cái tính thật thà chơn
chớt nó làm nên con người chị.
Chị Thoa bây giờ không còn nữa. Có
thể chị đã được gặp lại cha tôi ở bên kia thế giới như chị từng mong ước
khi chị còn sống. Và có thể chị đã thuật lại quãng đời sau này của
chúng tôi cho cha tôi nghe. Ông nghĩ sao khi được biết, qua lời chị kể,
nửa thế kỷ sau khi ông mất, tôi đã trở thành “một nhà văn không biết
viết văn”.
Năm ấy tôi ở tuổi đôi mươi. Tôi là người duy nhất trong số
các con của ông cụ thường hay bàn luận với cha về chuyện văn chương.
Thời gian này cha tôi vừa viết xong cuốn tiểu luận “Viết và đọc tiểu
thuyết” và chúng tôi bàn về cuốn sách này. Trong sách có đề cập đến “sự
quan sát” và “tìm chi tiết” mà ông cụ cho là những yếu tố quan trọng để
viết một quyển truyện. Trong lúc bàn luận tôi thuật lại với ông một
chuyện tôi chứng kiến: một hôm ở Đà Lạt tôi đang đứng trước vườn nhà thì
thấy ông cụ tôi tiễn một người khách đi qua vườn để ra về. Hai người
dừng lại trước một cái cổng gỗ thấp. Ông cụ nhìn vào cái then cổng giơ
tay toan gỡ cái then cài lên thì người khách – tưởng lầm cha định bắt
tay – vội đưa tay ra bắt. Cha tôi bắt tay ông khách rồi sau đó một lát
lâu mới giơ tay gỡ cái then cổng. Tôi hỏi ông có phải ông cố ý không mở
cửa ngay là cốt để tránh cho khách cái ngượng biết là mình lầm. Cha tôi
trả lời ông không nhớ chuyện ấy, nhưng “tránh cho người khác cái ngượng
biết rằng mình lầm” là một nhận xét hay, khi viết truyện nên có những
chi tiết như thế.
Một lần khác khi xuất bản cuốn sách Giòng Sông
Thanh Thủy ông đưa cuốn sách cho tôi đọc. Một tuần sau biết tôi đã đọc
xong ông cụ hỏi ý kiến tôi. Tôi nói: “Con đọc xong và khi gấp sách lại
con chỉ nhớ có một chi tiết, chi tiết rất nhỏ có lẽ người đọc chắc chẳng
mấy ai để ý, đó là đoạn cậu tả lúc anh chàng Ngọc xuống suối đổ thuốc
độc vào bi-đông đựng cà phê để đầu độc Nghệ và Tứ. Trong lúc chăm chú
làm công việc này và chỉ chú ý sao cho thuốc độc khỏi đổ ra ngoài, nhưng
tiếng nước róc rách vẫn lọt vào tai chàng và tuy không nhìn chàng cũng
thấy hiện ra những gợn sóng nhỏ, những vân ánh sáng chạy lăn tăn trên
nền cát trắng mịn. Đọc nhưng chi tiết này con thấy cậu tả rất sống động
và rất thực, mặc dù trên đời mình chưa bao giờ có kinh nghiệm làm những
chuyện như thế”.
Hồi đó tôi chưa viết văn, chưa hề có truyện nào đăng
trên báo, chỉ thỉnh thoảng viết một truyện ngắn đưa ông xem và ông rất
thích. Nhưng chính qua những lần nói chuyện như thế mà chúng tôi thấy rõ
mối đồng cảm giữa hai bố con trong văn chương. Tuy thế cha tôi không hề
khuyến khích tôi đi vào con đường văn của mình, mặc dù hồi đó ông đã
khuyến khích vài cây bút trẻ trở thành những nhà văn có tên tuổi. Có thể
là ông muốn để tôi tự do tuyệt đối trong việc lựa chọn đời mình, cũng
có thể là ông muốn tôi chú tâm vào việc học hành (giống như ông thời bên
Pháp theo học ngành khoa học, tôi hồi đó cũng đang theo học chương
trình cử nhân của trường Đại học Khoa học Sài Gòn).
Tôi cho là chính
vì tin tưởng vào khiếu văn nơi tôi mà ông cụ đã quyết định làm giấy ủy
quyền trao cho tôi (thay vì một người con khác của ông) trách nhiệm
trông coi hai nhà xuất bản Đời Nay và Phượng Giang và quyết định xuất
bản những tác phẩm của ông trước khi ông từ trần.
Về cuộc sống tôi đã
đi đúng con đường của cha tôi trong những năm đầu của tuổi thanh niên:
cả hai chúng tôi đều tốt nghiệp Cử nhân Khoa học và cùng khởi nghiệp
bằng nghề dậy học. Nhưng sau đó thì con đuờng của hai bố con khác hẳn:
trong khi cha tôi bỏ nghề dậy để làm báo, viết văn…, nghĩa là không hề
dùng tới kiến thức khoa học mà ông đạt được ở đại học Montpellier, thì
tôi suốt đời vẫn sống bám vào kiến thức ấy (giáo sư Toán Lý Hoá ở Việt
Nam hay chuyên viên Hoá Học ở Hoa Kỳ) cho đến ngày về hưu. Tôi đã không
chọn đi theo nghiệp văn của ông cụ. Trong vòng gần nửa thế kỷ tôi không
cầm bút, tôi chỉ viết hai bài về cha tôi theo yêu cầu xin bài của các
tạp chí.
Năm 1964, nhân ngày giỗ đầu của ông cụ tôi, báo Văn Học ở
Sài Gòn ra số đặc biệt Tưởng Niệm Nhất Linh, anh Phan Kim Thịnh xin tôi
viết môt bài, và “Niềm Vui Chết Yểu”, bài viết đầu tiên của tôi xuất
hiện trên báo. Bài ấy được khá nhiều người đọc và gây tiếng vang, một
phần vì bài viết tiết lộ chi tiết cái chết và những giờ phút cuối cùng
của Nhất Linh, một phần khác vì lối viết lạ, một thứ pha trộn giữa hồi
ký và văn chương. Hai nhà văn Duy Lam và Nguyễn Thị Vinh (hai người được
cha tôi đề nghị là thành viên tương lai của Tự Lực Văn Đoàn) khuyến
khích tôi tiếp tục viết, nhưng trái với nhiều người mong đợi, tôi không
hề cầm bút.
Mãi 21 năm sau, vào tháng 7 năm 1985 ở Hoa Kỳ, nhà văn Võ
Phiến xin bài tôi nhân dịp tạp chí do anh chủ trương ra số đặc biệt về
ông cụ tôi. Vì thế mà có bài viết thứ hai “Nhất Linh Cha Tôi” xuất hiện
trên tờ Văn Học Nghệ Thuật.
Rồi 18 năm sau nữa tôi mới viết bài thứ
ba “Cây Bàng Lá Đỏ” đăng trên tập san Thế Kỷ 21 số Xuân Quí Mùi 2003.
Năm đó tôi vừa bước sang tuổi 63, và chỉ còn hai năm nữa là đủ tuổi về
hưu. Tôi nghĩ trước trong đầu những chuyện tôi phải làm sau khi về hưu
và quyết định thực hiện giấc mơ thời niên thiếu: viết.
Vì thế sau bài
“Cây Bàng Lá Đỏ” tôi viết khá nhiều và đều đặn. Chủ bút tờ báo, anh
Phạm Phú Minh ưu ái dành diễn đàn Thế Kỷ 21 cho tất cả những bài viết
của tôi. Năm 2006, tôi tập hợp những bài ấy lại và xuất bản cuốn sách
đầu tiên Nhất Linh Cha Tôi. Rồi tiếp theo những năm 2008 và 2012 hai
cuốn sách nữa của tôi lần lượt xuất bản, tập truyện Mùa Hạ Năm Ấy và bút
ký Căn Nhà An Đông của Mẹ Tôi. Từ đấy tôi được thiên hạ khoác lên vai
tôi hai chữ “nhà văn”, một chức vị tôi không chọn trong đời.
Cùng
thời gian tôi có sách xuất bản một người trong họ tôi, anh Nguyễn Lân,
con của nhà văn Hoàng Đạo, cũng sáng tác và xuất bản sách. Một hôm nọ,
nhân dịp Lân ghé Seattle tôi rủ Lân tới thăm nhà văn Thế Uyên, lúc này
anh đã bị tai biến mạch máu não và phải ngồi trên xe lăn. Mặc dù một
cánh tay bị liệt anh cũng ráng cầm ngược cái bút chì gõ đầu có cục tẩy
lên phím máy chậm chạp gõ từng chữ từng chữ để sáng tác. Tôi nói với
anh: “Trong họ mình chẳng bù với ông và Duy Lam viết từ nhỏ, trở thành
những nhà văn có tiếng tăm từ lâu, Lân và tôi mãi trên 60 tuổi mới bắt
đầu sáng tác, chúng tôi là những nhà văn muộn màng”. Lân nói thêm:
“Nghĩa là tụi tôi thuộc loại hoa nở muộn”. Rất nhanh Thế Uyên đáp lại:
“Không phải hoa nở muộn mà là hoa nở mượn”. Tôi hiểu ngay anh mỉa mai
chúng tôi mượn danh cha mình để viết văn.
Đây là lần thứ hai tôi bị
chê bởi một người thân trong họ. Nhưng cũng như lần trước với chị Thoa
tôi không hề giận Thế Uyên vì tôi biết quá rõ tính thích châm chọc của
anh. Tôi nói: “Tôi phục ông thật. Ông viết bài nói rõ ông bị stroke, não
bộ của ông bị sứt mẻ, thế mà ông chơi chữ rất nhanh và tài tình, chứng
tỏ bộ óc của ông còn rất sharp”.
*
Trong
lời Bạt cho cuốn sách Nhất Linh Cha Tôi, nhà văn Duy Lam viết: “Sống
trong bóng rợp của một người cha nổi tiếng như Nhất Linh rồi cầm bút
viết những đoạn thể hồi ký về chính cha ruột mình về mặt tâm lý không
phải là chuyện dễ dàng.”
Nhà văn Duy Lam viết không sai. Bóng rợp của
cha tôi khiến tôi viết không dễ như những nhà văn khác. Bởi vì cái bóng
cha tôi rất đặc biệt, thế gian ít có: cha tôi nổi tiếng không phải chỉ
vì là nhà văn Nhất Linh mà còn nổi tiếng vì là nhà cách mạng Nguyễn
Tường Tam. Sau cái chết của cha tôi năm 1963 và trong bối cảnh chính trị
rất phức tạp của thời cuộc miền Nam Việt Nam những năm sau đó, chính
cái bóng thứ hai của cha tôi ảnh hưởng trực tiếp vào đời sống tôi. Có
thể nói, với tôi, bóng rợp của Nhất Linh là bóng mát, bóng rợp của
Nguyễn Tường Tam là bóng đè. Một đằng bảo tôi viết đi, một đằng bảo tôi
đừng viết.
Nói cho công bình cái thời mà tôi mới bắt đầu viết tôi có
lợi thế hơn hẳn những nhà văn khác lúc khởi nghiệp. Bài viết của tôi
không biết hay hay dở cũng được độc gỉa tò mò đọc để xem “con trai ông
Nhất Linh viết văn ra sao?”. Nhưng lợi thế đó cũng làm tôi ngần ngại
trước khi cầm bút. Tôi nghĩ trong đầu: mình viết dở sẽ làm mất mặt ông
cụ. Chưa viết mà đã tự tạo cho mình một sự khó khăn, thành thử khi viết
tôi đắn đo loay hoay khổ sở lắm. Viết vài trang, bỏ dở, vài ngày sau,
đọc lại thấy nhạt nhẽo, vứt thùng rác. Cứ thế. Nhiều lần. Bài “Niềm Vui
Chết Yểu” sở dĩ hoàn thành vì đã lỡ hứa với anh chủ bút báo Văn Học nên
tôi phải ráng viết cho xong. (Tôi tự xét mình có một đức tính, trong rất
nhiều tính xấu, đó là rất trọng lời hứa).
Bài viết ấy gây tiếng vang
lớn làm tôi thích thú thì ít mà làm phiền nhiễu tôi thì nhiều, khiến
tôi khổ sở còn hơn là cái khổ trong lúc viết bài. Vì sao? Bà Nguyễn Thị
Vinh và anh Duy Lam không những “bắt” tôi viết tiếp (vì khen tôi viết
hay) lại còn chưa chi đã bàn tính chuyện to lớn là tiếp tục… sự nghiệp
Tự Lực Văn Đoàn. Chưa chi đã làm tôi sợ. Đấy là mới nói cái bóng Nhất
Linh. Cái bóng thứ hai, cái bóng của Nguyễn Tường Tam, còn khiếp hơn:
các đồng chí của ông cụ tôi, thấy tôi nổi tiếng, thay nhau đến quyến rụ
và rủ tôi vào… đảng! Mà tôi thì lại chúa ghét chính trị (cái khổ của tôi
hồi đó là không có can đảm nói thẳng điều đó). Của đáng tội tôi không
trách họ rủ tôi vào đảng hoạt động chính trị, cũng lỗi tại tôi cả vì tôi
đã “dại dột” lạc đường vào lịch sử: đêm đảo chánh ngày 1/11/1963 tôi
cùng bốn sinh viên Nguyễn Hữu Đống, Nguyễn Thanh Hùng, Nguyễn Trọng Cảnh
và Dương Kiền chui vào Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH, thảo truyền đơn ủng hộ
cuộc đảo chính do Tướng Dương Văn Minh cầm đầu, tờ truyền đơn ký tên 5
sinh viên được loan trên đài phát thanh Sài Gòn sáng ngày 2/11/1963, như
tôi đã thuật lại trong bài “Tờ Truyền Đơn”.
Sau bài “Niềm Vui Chết
Yểu” cuộc sống vô tư của tôi cũng chết yểu theo. Tôi phải tự nhủ thôi
đừng viết nữa, cứ im lặng sống khoẻ ru như các anh tôi, không bị ai kỳ
vọng làm phiền. Hồi ấy tôi bị dụ vào những hoạt động này nọ vừa văn hoá
vừa chính trị tốn rất nhiều thì giờ, ảnh hưởng đến việc học hành của tôi
ở Đại học Khoa học mà môn học tự nó đã gay go rồi, lại phải học bằng
tiếng Pháp. Cuối năm 1964 nghe nói ở Đại học Huế mới mở phân khoa Khoa
học đầu tiên giảng dậy bằng tiếng Việt, tôi bèn khăn gói ra Huế học, một
là để việc học dễ dàng hơn, hai là để trốn bầu khí chính trị xáo động ở
Sài Gòn.
Để chú tâm vào việc học, ở Huế tôi không tiếp xúc với bất
kỳ ai và từ chối không tham dự mọi sinh hoạt dù văn hoá hay chính trị.
Thế mà có yên đâu. Một chuyện xẩy ra cho tôi cứ như là trong truyện
trinh thám: Một bữa nọ đi học về tôi đi bộ trên đường Lê Lợi dọc bờ sông
Hương. Một chiếc xe hơi màu đen rà tới đậu gần tôi. Hai người đàn ông
ăn bận lịch sự xuống xe tiến về phía tôi áp sát người tôi ép tôi lên xe.
Hai người bắt cóc tôi ngồi hai bên hông tôi ở băng dưới. Tất cả 5 người
trên xe đều im lặng. Chiếc xe chạy qua cầu Trường Tiền qua cửa Thượng
Tứ tiến vào Thành Nội. Xe chạy lặng lẽ một hồi qua những con đường nhỏ
nhiều bóng cây rồì đậu trước một căn nhà nằm khuất sau vườn cây rậm. Khi
họ dẫn tôi vào nhà tôi thấy trong một căn phòng rộng đã có đầy người
trong đó và không khí rất nghiêm trang. Ở cuối phòng một băng-rôn với
hàng chữ đỏ, lớn: Tinh Thần Nguyễn Thái Học Bất Diệt. Phía dưới là di
ảnh của Nguyễn Thái Học và cha tôi. Tôi sực nhớ ra hôm đó 16-7-1965, là
ngày tưởng niệm 35 năm liệt sĩ Nguyễn Thái Học lên đoạn đầu đài.
Trước
quang cảnh ấy trong óc tôi lóe lên hình ảnh đám tang của ông cụ tôi với
chiếc xe tang có hàng băng-rôn ở đầu xe: Nguyễn Thái Học 16-7-1930,
Nguyễn Tường Tam 7-7-1963.
Trong thời gian tôi ở Huế, một đảng viên
cốt cán của VNQDĐ cũng là đàn em của ông cụ tôi, anh Lê Hưng, từ Sài Gòn
đến thăm tôi tại Đại học xá Nam Giao. Anh Lê Hưng nói với tôi: “Anh
biết là nhiều người rủ em vào đảng và em đã từ chối, lấy cớ bận học. Hôm
nay, anh gặp em cốt hỏi em một câu, một câu thôi, em hãy trả lời thành
thật: em có thích làm chính trị không?”. Tôi ngạc nhiên trước câu hỏi
của anh. Trước đó người ta chỉ nói đến bổn phận, đến trách nhiệm phải
làm một cái gì cho đất nước, không ai đặt vấn đề “thích” hay “không
thích”. Tôi trả lời là thực bụng tôi không thích chính trị. Anh cám ơn
tôi và nói từ nay về sau sẽ xem tôi như bạn và không đả động đến chuyện
lôi kéo tôi nữa. Anh Lê Hưng giữ lời hứa này với tôi cho đến ngày anh
mất, khoảng trên 20 năm trước đây, anh bị tử nạn vì đi bộ băng qua đường
bị xe hơi cán chết ở tiểu bang California.
Tôi không nhớ rõ vào năm
nào nhưng chắc khoảng vài năm sau khi chúng tôi định cư ở Mỹ một hôm tôi
lái xe từ thành phố Tacoma đến Seattle thăm nhà văn Thanh Nam vì nghe
nói anh bị bệnh. Lúc đến nhà mới biết anh bị đau cổ họng không nói
chuyện được và chị Thanh Nam, nhà văn Tuý Hồng, thay anh tiếp chuyện
tôi. Trong câu chuyện, chị Tuý Hồng hỏi tôi: “Hồi ở Việt Nam tôi có đọc
một bài viết của anh về ông cụ. Sau bài đó tôi chờ đợi mãi không thấy
anh viết. Nghĩ rằng anh có thể viết bài nhưng lại đăng ở tạp chí khác
chăng, tôi đi lùng tất cả các báo để đọc, rồi lại hỏi thêm bạn bè, nhưng
tuyệt nhiên không thấy bài nào của anh cả. Tại sao anh không viết?” Lúc
ấy tôi im lặng không nói gì vì không biết trả lời chị ra sao.
Năm
2007 sau khi cuốn sách Nhất Linh Cha Tôi được xuất bản, tôi có gửi tặng
nhà nghiên cứu và phê bình văn học Nguyễn Hưng Quốc ở bên Úc một cuốn.
Anh Quốc cũng có thắc mắc giống hệt chị Túy Hồng, anh viết cho tôi bức
điện thư đề ngày 11 Jan 2007 như sau:
Anh Nguyễn Tường Thiết thân,
Tôi
đã nhận được cuốn hồi ký anh gửi hôm qua. Tôi cũng đã đọc xong. Đọc
nhanh một phần vì một số chương là đọc lại. Ấn tượng chung rất thích. Ít
có cuốn hồi ký văn học nào viết hay như vậy. Anh có khiếu quan sát và
nhận xét tinh tế. Trí nhớ lại tốt. Đặc biệt, điều tôi thích nhất: viết
có chất văn. Thường, phần lớn các hồi ký chỉ nhằm đến việc cung cấp tư
liệu. Anh thì rõ ràng là viết hồi ký như một cách làm văn chương. Về
phương diện văn chương, ngoài câu văn rất trong sáng và gợi cảm, một
trong những cống hiến có ý nghĩa nhất là sự xáo trộn về thời gian: mảnh
ký ức này chồng lên mảnh ký ức khác, quá khứ xa chồng lên quá khứ gần.
Cái nhớ của con người, nhờ đó, trở thành phức tạp và đa tầng hơn. Và
cũng nhờ đó, trở thành thú vị hơn.
Đọc cuốn hồi ký, điều dễ thấy nhất
là tình yêu của anh đối với cha anh và với anh em, họ hàng của anh. Tuy
nhiên, điều khác cũng dễ thấy là sự tỉnh táo của anh khi anh nhận xét
về người thân. Tôi rất cảm động khi thấy anh ghi nhận cái-không-đẹp của
mẹ anh hay sự chậm chạp của chị anh. Ghi nhận như vậy không phải chỉ là
một sự thành thực và can đảm mà còn là một sự tỉnh táo ít thấy. Tôi cũng
rất quý anh ở chi tiết hồi trẻ anh mê đọc VP (Võ Phiến) hơn đọc bố anh.
Những sự thành thực như vậy làm tập hồi ký như sáng hơn. Tôi nghĩ thế,
không biết có đúng không?
Điều tôi ngạc nhiên khi đọc tập hồi ký là
cái khoảng trống vời vợi giữa bài đầu (Niềm Vui Chết Yểu) và bài sau
(Nhất Linh Cha Tôi), hơn 20 năm, từ 1964 đến 1985. Tôi không hiểu sao
anh có thể im lặng lâu đến như vậy? Tôi chỉ hy vọng là từ nay, về hưu
rồi, anh sẽ viết thật nhiều.
Xin cảm ơn anh về cuốn sách. Mong gặp anh (và chị Thái Vân?)
Thân,
Nguyễn Hưng Quốc
Hy vọng bài viết này sẽ giải tỏa thắc mắc của anh Nguyễn Hưng Quốc về cái “khoảng trống vời vợi” trên 20 năm tôi im lặng không viết.
*
Viết, trong bóng rợp của người cha… Bóng rợp ấy ảnh hưởng thế nào đến cách viết của tôi?
Năm
2020 cuốn sách Nhất Linh Cha Tôi được xuất bản ở Việt Nam. Một buổi tọa
đàm về cuốn hồi ký này diễn ra tại Quận 3 Sài Gòn vào ngày 4/7/2020.
Nhà nghiên cứu Nhật Chiêu trong phần giới thiệu cuốn sách có nói: “Nhất
Linh Cha Tôi không phải chỉ là cuốn hồi ký thuần tuý của một người con
viết về cha vì tác giả là nhà văn nên bút pháp sống động vô cùng. Tác
gỉa cũng rất hay ở chỗ thoát ly khỏi văn phong của Tự Lực Văn Đoàn. Ông
Nguyễn Tường Thiết là con của Nhất Linh nhưng văn của ông không phải là
một “Nhất Linh con” hay “Tự Lực Văn Đoàn nối dài”. Văn trong cuốn hồi ký
này rất hiện đại.”
Qua những lời giới thiệu trên và qua nhận định
của những nhà phê bình như Thụy Khuê, Nguyễn Hưng Quốc thì rõ ràng là
tôi có một lối viết khác biệt với cha tôi.
Nhưng cái khác biệt đó,
theo tôi, chỉ khác biệt về bút pháp hay kỹ thuật viết, chứ về nội dung
cơ bản thì không có gì khác nhau: từ lối hành văn trong sáng, câu văn
giản dị, những nhận xét về người về cảnh, tâm lý nhân vật, tìm chi tiết…
nhất nhất tôi đều học từ Nhất Linh.
Ngoài ra tôi còn học được bài
học quý giá từ cha tôi khi ông khuyên tôi viết văn cần nhất ở sự chân
thành. “Mình phải thành thật đối với chính mình”. Lời khuyên này là kim
chỉ nam cho những bài viết của tôi. Trước khi đặt bút viết, lời khuyên
này bao giờ cũng loé lên trong đầu tôi trước nhất.
Nhà nghiên cứu văn
học Nguyễn Hưng Quốc nhận xét về cách viết của tôi đặc biệt ở chỗ thời
gian xáo trộn: “mảnh ký ức này chồng lên mảnh ký ức khác, quá khứ xa
chồng lên quá khứ gần”. Nhà nghiên cứu văn học Thụy Khuê tìm thấy trong
hồi ký của tôi “mộng và thực giao thoa trong những mảnh đời anh, mảnh
đời gia đình, được cắt dán chồng chéo một cách rất hiên đại, không trước
sau, không thống nhất, như trong lối viết hồi ký cổ điển.” Nhà văn Phạm
Xuân Đài đào sâu hơn khi ông viết: “Truyện của Nguyễn Tường Thiết xẩy
ra luôn luôn cảnh vụt đi vụt vể của những mảnh thời gian khác nhau, đó
là một kỹ thuật để diễn tả cái thực tại tâm viên ý mã của tâm trí con
người, của những liên tưởng không dứt xẹt chỗ này chỗ kia nhanh như
điện””
Tôi cho rằng chính cái “kỹ thuật để diễn tả thực tại” như nhà
văn Phạm Xuân Đài nêu lên mới chính là điểm làm nên khác biệt giữa cách
viết của hai cha con.
Trên nửa thế kỷ đã trôi qua kể tử khi cha tôi
“ngừng bút” chấm dứt nghiệp văn, cho đến ngày tôi bắt đầu “gõ máy” để
khởi đầu văn nghiệp. Hoàn cảnh thay đổi, phương tiện viết thay đổi, cách
thưởng ngoạn của độc giả thay đổi… do đó tạo nên cách viết thay đổi.
Hãy
nhìn khung cảnh viết của tôi, năm 2006, khi tôi ngồi trong quán cà phê
Starbucks để viết “Đỉnh Gió Hú”. Khung cảnh là một chiếc bàn nhỏ có ba
thứ đặt ở trên: ly cà phê, cái laptop và tập bản thảo dịch của ông cụ.
Ly cà phê, cái laptop là hiện tại, tập bản thảo là quá vãng. Về không
gian ba thứ ấy chỉ cách nhau có một gang tay nhưng về thời gian chúng
cách nhau những nửa thế kỷ. Tay tôi nâng cốc cà phê, mắt tôi nhìn vào
phím máy, óc tôi nghĩ về tập bản thảo. Tất cả xẩy ra đồng thời và chỉ
trong nháy mắt. Thực tại của tôi lúc viết là những liên tưởng không dứt
“xẹt chỗ này chỗ kia nhanh như điện” đúng như diễn tả của nhà văn Phạm
Xuân Đài.
Để bắt kịp cái liên tưởng tâm viên ý mã ấy trong tâm trí
tôi, tôi phải dùng kỹ thuật viết flashback để ghi lại những mảnh hiện
tại, quá khứ chồng chéo lên nhau. Lối viết này tôi bắt chước kỹ thuật
điện ảnh hiện đại với nhiều “xen” flashback rất đột ngột.
Ngày xưa
ông cụ tôi viết tay. Bây giờ tôi gõ máy vi tính. Máy giúp tôi thực hiện
flashback dễ dàng. Chỉ việc highlight, copy, paste tôi có thể nhào lộn
thời gian, vứt đoạn này lên trên, bỏ đoạn kia xuống dưới trong nháy mắt,
nhờ thế mà những mảnh quá khứ, hiện tại được cắt dán, chồng chéo lên
nhau một cách dễ dàng nhanh chóng.
Khi viết xong tập hồi ký Nhất Linh
Cha Tôi tôi in từ trong máy ra để có được “bản thảo” tác phẩm của mình.
Bản thảo là một tập 300 trang giấy chữ in trông gọn gàng sạch sẽ vì mọi
sửa đổi, thêm thắt, bôi xóa, nhờ máy đã không còn để lại một dấu vết
nào. Trông nó sạch sẽ nhưng trơ trẽn, vô hồn.
Bản thảo Xóm Cầu Mới
của cha tôi, trái lại, chứa đầy nét gạch xoá, sửa chữa, chú thích. Chính
những tuồng chữ chép tay nhỏ nhí và run run này mới đích thực là bản
thảo. Mỗi lần nhìn nó tôi lại rưng rưng trong người như thể có hình bóng
và hồn thiêng cha tôi hiển hiện đâu đây trên những trang giấy.
*
Bây
giờ ở tuổi bát tuần tôi xem như ngừng bút hẳn. Có lần tôi tự hỏi: nếu
trời cho mình được trẻ lại, được sống một lần thứ hai thì mình sẽ chọn
đời sống ấy ra sao và làm gì? Một câu hỏi ngớ ngẩn nhưng tôi nghĩ ai mà
trong đời chẳng có lúc tự đặt câu hỏi “giá mà”?
Vâng, giá mà tôi trẻ
lại ở tuổi đôi mươi tôi sẽ chọn đi lại đúng cuộc đời cũ của mình vì tôi
bằng lòng với nó, chỉ khác một điều là tôi sẽ chọn nghiệp văn và để cả
cuộc đời thứ hai này viết một tác phẩm duy nhất, một tác phẩm vĩ đại dầy
gần mười ngàn trang; đó là tiếp tục công trình tâm huyết mà cha tôi đã
bỏ dở dang để hoàn tất trường giang tiểu thuyết Xóm Cầu Mới (Bèo giạt).
Đây
là một cuốn tiểu thuyết mang hoài bão lớn nhất của ông cụ tôi. Cuốn
sách theo dự tính sẽ dầy “gần vạn trang” là “một cuốn Đông Chu Liệt Quốc
của những đời sống tầm thường, vui lẫn buồn, những vui buồn nhỏ nhặt
hàng ngày của những nhân vật, những gia đình sinh hoạt ở trong một cái
xóm nhỏ ở đầu một chiếc cầu gỗ từ lúc cầu bắt đầu mọt cho đến khi cầu
gẫy và xóm nhỏ và các gia đình cũng tan tác theo với chiếc cầu gỗ. Những
đời “bèo giạt” đến tụ hội ở xóm nhỏ cũng như những bèo giạt đến, trong
ít lâu, vương bám vào chân cầu, rồi lại trôi đi theo dòng nước, không
biết về đâu” (Nhất Linh).
Hoài bão thực hiện cuốn trường thiên tiểu
thuyết đó, giống như chính cuộc đời ông, bỗng dưng đứt đoạn khi ông đột
ngột qua đời ở tuổi năm mươi bẩy. Cho tới khi nhắm mắt Nhất Linh hoàn
toàn không hay biết là tác phẩm dang dở này của mình sẽ được xuất bản.
Và tôi là người xuất bản cuốn sách đó lần đầu tiên ở Việt Nam năm 1973,
và tái bản lần thứ nhất ở Hoa Kỳ năm 2002.
Viết trong bóng rợp của
người cha là thái độ tôi tự chọn. Không bao giờ tôi có ý muốn thoát ly
khỏi bóng rợp đó, cho dù có nhiều người khuyên tôi (trong số có nhà phê
bình văn học Thụy Khuê) là hãy từ bỏ cái bóng Nhất Linh để trở thành một
nhà văn độc lập.
Hôm nay là ngày hai mươi ba tháng chạp Âm lịch, khi tôi viết những dòng chữ kết thúc bài này thì thiên hạ đang chuẩn bị đón Tết Nhâm Dần. Trong không khí rộn ràng đón Xuân ấy riêng tôi có một niềm vui cuối năm: cuốn tiểu thuyết tâm đắc nhất của cha tôi, cuốn Xóm Cầu Mới (Bèo giạt) vừa in xong và được tái bản lần đầu tiên ở Việt Nam sau năm 1975.
Nguyễn Tường Thiết
Seattle, ngày 25/1/2022
Bạn nào thích đọc truyện dài 'Xóm Cầu Mới' xuất bản năm 2002 của cố nhà văn Nhất Linh, xin vào đây:
- - Sách Truyện Tiểu Thuyết - Thư Viện Việt Nam - Vietnamese Ebooks EPUB PDF. Viet Messenger.
|
No comments:
Post a Comment