Buổi
chiều Sàigòn, một ngày cuối tháng 3 năm 75, sau chuyến công tác miền
Trung dài dằng dặc, tôi rủ Tăng, thằng em trai, đi đánh bida ở bờ sông
Khánh Hội, bên cầu Calmette.
Vừa về tới nhà, thì thấy con nhà Cần đã đứng chờ trước cửa. Cần, cao ốm
với cái lưng tôm quen thuộc, thằng bạn trên chiến hạm, ở cùng phòng, đi
cùng ca, cùng làm những chuyện nhảm nhí của những thằng sĩ quan trẻ
trong thời loạn lạc. Với vẻ mặt nghiêm trọng
ít thấy, Cần bảo Hạm Trưởng cho gọi tất cả nhân viên vào tàu chuẩn bị
đi công tác Đà Nẵng ngay trong đêm. Thông báo xong, Cần vác xe Honda
chạy vội về nhà vớ mấy món đồ cá nhân cần thiết vì đã bị ở lại tàu từ
ngày hôm trước trong nhiệm vụ sĩ quan trực. Tuy
hơi bỡ ngỡ nhưng không ngạc nhiên lắm vì đã quen với những chuyện bất
ngờ của đời nhà binh, tôi hỏi Tăng có muốn đi theo tàu ra ngoài Trung
chơi cho biết. Cậu em tôi đồng ý ngay vì đang nghỉ giữa niên khoá của
trường ĐH Khoa Học, thế là hai anh em tôi vào
nhà sửa soạn hành trang lên đường.
Từ
giã gia đình – lính thời chiến thì mỗi lần đi đều có thể là một lần
vĩnh biệt, tôi và thằng em, bị gậy, nhảy lên chiếc xe Honda S50 cũ trực
chỉ cầu
“C”
của bến Bạch Đằng, nơi mà chiếc LST, Dương Vận Hạm Nha Trang, HQ505
đang nằm bến. Vừa lái xe vừa lầm bầm như đĩ khấn tiên sư, tôi chưa hết
hậm hực vì không được ở lại Sàigòn lâu hơn tí nữa, nhất là rất ít khi
tàu được cặp ở cầu “C”,
cầu tàu
lý tưởng nhất của dân hạm đội. Nằm ngay trung tâm Sàigòn, trước tượng
Trần Hưng Đạo. Đứng trên tàu thì tha hồ ngắm nghiá các tài tử giai nhân
của Sàigòn hoa lệ. Bước xuống khỏi hạm kiều là đầy các xe khô mực, chè,
cháo, tự do hẹn bạn bè, đào địch lai rai.
Cầu tàu lại ở bên ngoài cổng chính của Bộ Tư Lệnh, tức là ngoài vòng
kiềm toả của băng Quét Chợ
(Quân Cảnh)
QC201 Hải Quân, khỏi lo bị hỏi giấy đi bờ, sự vụ lệnh, hoặc bực mình vì
những lời hăm dọa hay móc lò về mái tóc nghệ sĩ nửa mùa, không đúng
tiêu chuẩn trước hai phân sau một phân, mà chẳng ma nào để ý từ lúc ra
khỏi quân trường. Sau buổi
điểm danh, trong một cuộc họp ngắn ngủi, Trung tá Nh., Hạm Trưởng, cho
biết tàu được chỉ định xuống thành Tuy Hạ lấy đạn để tiếp tế gấp cho
miền Trung đang bị áp lực nặng nề. Bơm nước, lấy dầu xong, tàu kéo còi
nhiệm sở hải hành. Những tiếng còi ngắn ngủi
tiếp nối vào nhau như những chiếc hôn tạm biệt vội vàng, HQ505 tháo dây
từ giã Sàigòn giữa lúc không khí hầm hập của ban ngày đang dịu dần và
những cuộc vui về đêm của thành phố bắt đầu hâm nóng. Tàu tách bến, dựa
khung sắt tròn che đạn quanh pháo tháp khẩu
đại bác 40 ly đôi, trong nhiệm sở trưởng sân mũi, tôi nhìn bâng quơ
xuống hai chiếc xuồng LCVP chạy loanh quanh chờ lệnh đẩy phụ tàu mẹ
trong lúc vận chuyển. Chung quanh, nhóm thủy thủ đoàn vừa làm việc vừa
luyến tiếc liếc nhìn về những ánh đèn màu xa dần
với cái nhìn tiếc nuối quen thuộc của mỗi lần công tác.
Tàu
cập cầu thành Tuy Hạ, nhân viên kho đạn đã chờ đợi sẵn với đèn đuốc
sáng choang, gấp rút đóng những dàn gỗ chêm hai bên thành tàu, bên trong
hầm chiến xa, để các thùng đạn được dựa sát vào nhau, khỏi bị lắc gây
chạm nổ khi ra biển. Xe xúc và cần trục hì
hục cả đêm, chuyển xuống hầm tàu hơn 2000 tấn đạn. Nếu không vì thời
hạn cấp bách, tôi và Cần thể nào cũng dọt xuống khu gia binh Tuy Hạ,
đánh bida, uống cà phê, ăn sáng, ăn khuya như những lần trước. Chúng tôi
lê lết đến độ đã có lần Hạm Phó H. cho người
tìm mãi không ra, vừa mò về đến nơi là bị mời ngay lên trình diện. Ngài
HP. mặt mày nhăn nhó như sắp khóc, vừa xỉ vả vừa như năn nỉ, tôi và Cần
thì cứ đứng cười cầu tài (hay theo con nhà Cần là vén môi lên cười tồ tồ)
rồi huề cả làng, mắt trước mắt sau, hở ra là lại dọt tiếp.
Tuy
có quậy chút chút, nhưng vui vẻ và được việc, nên thường cũng chỉ bị
quay cho có lệ. Không biết vì cuộc sống nhà binh, vì xa nhà, vì còn trẻ,
vì ham chơi hay vì tất
cả những cái lăng nhăng này cộng lại, mà cuộc sống chúng tôi thật vô
tư, lúc nào vui được là cứ vui,
“tới luôn đi bác tài”.
Nằm thành Tuy Hạ, nếu tối không trốn đi đâu được, thì giải trí bằng
cách ra lan can tàu ném lựu đạn MK3 xuống sông hay xách súng bắn lục
bình, trôi dập dềnh từng đám đầy sông. Trước là mua vui, sau là … chống
người nhái VC, mấy
anh đặc công này thích chơi cái trò ôm mìn nam châm núp dưới mấy bè lục
bình lặn tới ịn vô lườn tàu. Bắn chán rồi thì lại vào phòng đàn hát ;
Cần đệm guitar rất hay lại thêm vài tay SQ thích rên ư ử nên chúng tôi
có thêm một trò tiêu khiển.
Sáng
hôm sau, đạn đã chất xong, chờ con nước đứng, tàu tháo dây lừ đừ trở
mũi ra cửa Vũng Tàu. Theo lệnh công tác chúng tôi trực chỉ Đà Nẵng. Trên
hai năm đi về, tôi
đã thuộc nằm lòng con đường biển ra Trung, từ những mỏm núi đến các hải
đăng, những điểm chấm tọa độ nằm dọc hải trình. Mỗi lần lên nhận bàn
giao ca, chỉ nhìn vào bờ tìm những dạng quen thuộc của các dãy núi và
những nét cong của bờ biển, tôi đã có thể có
một khái niệm khá rõ ràng về tọa độ của tàu trước khi nhìn đến hải đồ.
Được
bổ sung thêm với số sĩ quan của khoá 26 Nha Trang mới ra trường, mỗi ca
hải hành của HQ505 có đến bốn hay năm sĩ quan, thay vì chỉ có ba như
những năm trước đó.
Ca tôi gồm có tôi làm trưởng phiên, Cần là phụ tá và thêm hai ngài
Thiếu Úy nhí, B. và Tr., đang tập sự rất dễ thương (mới ra trường, còn say sóng, ôm sô ói dài dài như mấy bà ốm nghén mà không dễ thương thì làm gì ai !)
Tôi và Cần tương đối hợp gu
nên đi ca lúc nào cũng có chuyện đấu hót tíu tít, toan tính chuyện lọc
lừa, phá phách, làm vui cuộc sống cho đỡ nhớ nhà, nhớ người.
CHU
LAI
Sau
hai ngày lênh đênh, tàu đang dập dềnh, lừng khừng tiến vào hải phận của
vùng Một thì chúng tôi bỗng nhận được công điện từ Bộ Tư Lệnh Vùng Một
Duyên Hải, chỉ thị
cho tàu nằm lại ở phía ngoài Chu Lai chờ lệnh. Khoảng hơn mười giờ
sáng, một chiếc trực thăng đáp xuống boong tàu. Bước xuống là một sĩ
quan bộ binh với ngôi sao đen trên cổ áo của bộ quân phục thẳng nếp,
theo sau bởi một sĩ quan tùy viên. Vị chuẩn tướng được
hạm trưởng Nh. đón thẳng vào phòng họp sĩ quan.
Hơn
nửa tiếng sau, hạ sĩ B. chạy vội ra tìm tôi mời vào phòng họp. Tôi được
giới thiệu với chuẩn tướng Tư Lệnh Sư Đoàn trấn đóng tại Chu Lai, mà
nếu tôi nhớ không lầm
là sư đoàn 2. Hạm Trưởng Nh. cho biết tôi phải đi với chuẩn tướng H.
vào Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn để nhận chỉ thị thẳng từ BTL Vùng Một Duyên Hải.
Tôi chào tay rồi vội vã quay lưng bước về phòng riêng chuẩn bị ra đi.
Con nhà Cần đã chờ sẵn trong phòng để hỏi tôi
về lý do chuyến đi sắp đến. Vừa mở tủ lấy khẩu súng colt 45 nhét vào
lưng quần, vừa ngập ngừng trả lời là chính tôi cũng chưa rõ lý do. Như
muốn giấu vẻ quan tâm, Cần ra cái điều khôi hài bảo tôi :
“Cẩn thận chứ đi Hải Quân mà lại tịch trên máy bay thì tao chả biết phải nói sao với gia đình mày”. Tôi cười cười bước vội khỏi phòng, theo tướng H. leo lên chiếc trực thăng cánh quạt quay tít đang chờ sẵn.
Sau
khoảng 10 phút bay, những dãy nhà ngói đỏ của BTL Sư Đoàn bên dưới hiện
rõ dần. Sự nôn nao từ lúc leo lên máy bay bắt đầu được thay thế với cái
cảm giác hồi hộp khi
trong mắt tôi, bên dưới, những vỉ sắt lót của bãi đáp trực thăng đang
bị đạn pháo địch rót vào, nổ xoắn lại, bắn tung lên trong cát bụi mịt
mù, theo sau là những tiếng nổ trầm trầm dội lại, bị át đi bởi tiếng
xoành xoạch của cánh quạt máy bay. Từ tiếng báo
cáo của máy liên lạc trực thăng, tôi nghe loáng thoáng là VC. đang liên
tục pháo kích vào căn cứ.
Trong
hơi nóng giữa trưa ngùn ngụt bốc lên từ bờ cát biển, hình ảnh những vỉ
cắt cong queo, tung lên trong đám mây bụi và khói đạn pháo mịt mù, trông
lung linh quái dị
như những ảo giác trên sa mạc. Chờ lúc đạn pháo vừa chậm lại, chiếc
trực thăng chao một vòng rồi lao thẳng xuống bãi đáp như con diều hâu
săn mồi. Cản đáp vừa chạm đất, chiếc xe Jeep của tướng H. đã đến sát bên
cạnh. Tôi tháo vội sợi dây an toàn, nhảy khỏi
trực thăng phóng vào phía sau xe theo sau ông tướng tư lệnh. Chiếc xe
vụt thật nhanh về phía Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn. Bước khỏi xe, tôi theo tướng
H. vào BTL và xuống thẳng hầm chỉ huy. Trong hầm chỉ có khoảng hơn chục
người với những dàn máy truyền tin chồng chất
lên nhau trong những tiếng báo cáo hỗn độn từ các đơn vị đóng ở vòng
đai căn cứ. Đang tò mò, nhìn quanh quan sát, thì tướng H. đưa cho tôi
cái điện thoại đỏ chói. Đầu dây bên kia là tiếng nói của Tư Lệnh Vùng
Một Duyên Hải, Phó Đề Đốc
H.V.Kỳ.Th.
(mà chúng tôi tôi hay gọi đùa với nhau là H.V. Kỳ Cục). Sau khi
tôi tự giới thiệu tên họ, cấp bậc và chức vụ, PĐĐ. Th. cho biết chúng
tôi được chỉ định thay đổi công tác để ủi bãi di tản sư đoàn 2 của Chu
Lai ngay đêm đó. Tôi trình bày với PĐĐ. Th. rằng
chúng tôi đang chở trên 2000 tấn đạn, thêm vào đó, từ mấy năm trước khi
quân đội Mỹ rút khỏi Chu Lai, bãi biển ở đây đã không được vét, cát bồi
của mấy năm liền có thể sẽ làm việc ủi bãi đón quân trở nên rất khó
khăn và nguy hiểm. Tôi còn nhớ mãi câu trả lời
với giọng nói bực bội và mỏi mệt của PĐĐ. Th. : “Các anh có lệnh vào Chu Lai đón lính, các anh làm sao thì làm, không khéo kẹt lại, ráng chịu !”
Hơi
cụt hứng với câu trả lời, nhưng nhà binh mà, thi hành trước khiếu nại
sau quen rồi, chào PĐĐ. Th. trên điện thoại, trả máy cho tướng H., tôi
chào tay, xin phép ông
để ra quan sát bãi biển rồi trở về chiến hạm. Chờ tiếng đạn pháo thưa
bớt, anh tài xế tướng H. chở tôi ra bãi. Nhìn bãi biển chạy dài trước
mặt Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn với một cầu tàu nhỏ nằm tận cánh trái của BTL,
tôi ngao ngán không biết làm sao để đo độ nông
sâu của vùng biển mà chúng tôi được chỉ thị ủi bãi đêm nay. Trở lại
trực thăng, tôi không khỏi ngạc nhiên khi thấy bên trong chiếc máy bay
nhỏ đã có cả chục người đàn bà và trẻ con, bên ngoài lại còn thêm một số
người nữa đang xin được theo lên. Anh Trung
Úy phi công cười cầu tài, giải thích rằng đây là gia đình binh sĩ mà
anh quen, xin được ra tàu trước. Tuy chưa có lệnh, nhưng thấy thật khó
xử vì các bà ôm con nhao nhao năn nỉ, tôi đành để những người đang ở
trên máy bay ngồi lại và yêu cầu anh phi công cất
cánh ngay. Tôi cũng chẳng muốn nhì nhằng giữa vùng khói đạn mịt mù
trong những tiếng nổ lúc xa lúc gần của những trái pháo đang liên tục
rót vào.
Đáp
xuống chiến hạm, sau khi báo cáo những sự việc vừa qua với hạm trưởng,
các sĩ quan được thông báo để chuẩn bị nhân viên, súng đạn và dụng cụ
cho nhiệm sở ủi bãi và
tác chiến vào bất cứ lúc nào.
Chiều
xuống dần, hoàng hôn trên biển vẫn thơ mộng như bao giờ. Trong vùng tối
nhạt nhoà, chân trời mờ dần rồi mất hẳn, biển trời quyện vào nhau thành
một. Trăng trên
biển, trong hơn, to hơn, treo lơ lửng. Ánh sáng bàng bạc êm ái tỏa
xuống mặt nước, làm thắm thiết thêm những nhớ nhung lãng mạng của
“vầng trăng ai chẻ làm đôi, nửa soi gối chiếc nửa soi dặm trường”
trong lòng người đi biển… Hàng ngàn vì tinh tú lần lượt trải dài khắp
bầu trời nhung đen. Hàng triệu đốm lân tinh li ti trong nước chợt thức
giấc, ngời sáng, đuổi bắt, quấn quýt vào nhau
theo từng cơn sóng. Những đợt sóng đem lại cái cảm giác ngầy ngật mà từ
cao độ của đài chỉ huy, khi ngón tay mát lạnh của những cơn gió mặn mơn
trớn trên da thịt, tôi từng chơi vơi, ngỡ ngàng không biết mình đang là
cánh chim dạ hành lẻ loi trên biển, hay
là chú cá cô đơn đang ngơ ngẩn ngắm trời đêm… Nhưng hôm nay, với hình
ảnh, gương mặt thật gần của chiến tranh vừa trực diện và trong cái nôn
nao pha lẫn bồn chồn, hồi hộp của những gì sắp đến, tôi chẳng còn chút
tâm hồn nào để mơ mộng
Càng
vào đêm, những đường đạn lửa bắn lên, đan chéo vào nhau từ phía bờ Chu
Lai càng nhiều, hằn rõ trên nền trời đen thẫm. Những tiếng nổ ầm ì vọng
ra chiến hạm. Hỏa
châu bắn lên mỗi lúc một nhiều. Khoảng chín giờ tối, chúng tôi được
lệnh ủi bãi. Trời bỗng trở gió lớn. Biển động mạnh. Những làn sóng cấp
hai rồi cấp ba liên tiếp bổ vào phía sau lái của con tàu đang tiến vào
bãi biển bên cánh phải, trước Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn.
Nhiệm sở tác chiến, trong vùng tối chập chờn, từ pháo tháp của khẩu 40
đôi sân mũi, tôi thấy những bóng đen hỗn độn kéo ra phía bờ biển. Tàu
vào gần, họ kéo ra càng lúc càng đông. Trong ánh hoả châu từ những cánh
dù trắng, chợt bừng lên, lơ lửng rồi vụt tắt,
những bóng người di động trên bãi biển lúc ẩn lúc hiện như đám ma trơi.
Bỗng nhiên, từ phía sau Bộ Tư Lệnh, một đám lửa khổng lồ chợt bùng lên,
soi sáng cả một góc trời cùng một tiếng nổ vang dội, tiếp theo bởi từng
loạt tiếng nổ, lớn nhỏ, liên tục chồng lên
nhau. Kho đạn sư đoàn phát nổ, không biết là trúng đạn pháo kích hay tự
phá hủy. Hàng ngàn tia lửa đua nhau vụt bắn lên tứ phía trong những
tiếng nổ hãi hùng. Một màng lưới kinh hoàng như bỗng dưng chụp thẳng
xuống đám đông trên bờ biển, lúc này đã lên đến
hàng trăm. Cảnh hỗn loạn bắt đầu diễn ra. Từ trên pháo tháp, tôi nhìn
thấy vài ba chiếc thiết vận xa lội nước M113 hoảng hốt lao từ phía trong
ra bờ biển. Trên nóc xe, những người lính bộ binh bám kín đen, như đám
kiến trên cục đường. Xe nhào ra, nghiêng ngả
như người say, cán càn qua những người phía trước chưa kịp tránh. Tàu
tiến vào gần. Neo sau đã thả. Hai cánh cửa trước mũi tàu vừa được mở ra.
Cửa đổ bộ bên trong đang được chuẩn bị. Cửa đổ bộ hay còn gọi là cửa
ram là một tấm sắt nặng hai tấn, một đầu nối
liền với sàn tàu của hầm chiến xa, đầu kia được treo lên, khi hạ xuống
trông như một cái lưỡi dài thè ra từ cửa miệng chiến hạm. Cách bờ khoảng
hơn trăm thước, tàu chợt đứng sựng lại. Điều chúng tôi hy vọng không
xảy ra, đã xảy ra, bãi biển quá cạn vì cát
bồi, tàu không thể vào gần hơn. Cố gắng nhưng không thể tiến thêm được,
HT. ra lệnh bắn dây mồi. Dây mồi là một sợi dây nhỏ mà một đầu đã được
cột vào cái thòng lọng của sợi dây cáp ny lông lớn gài trước mũi tàu,
đầu kia được bắn lên để người trên bờ có thể
dùng sợi dây mồi kéo đầu sợi cây cáp lớn vào, cột lên một mốc giữ vững
chắc trên bờ. Vất vả lắm chúng tôi mới ra hiệu cho những người đang hốt
hoảng trên bờ để cột được đầu dây cáp ny-lông vào một cái neo thật to,
chôn sẵn trên bãi.
Trên
bãi biển dài hơn hai cây số phía trước Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn người ta ùa
ra như kiến vỡ tổ. Cả lính, cả dân, tay bồng tay bế, họ chạy tất tả, mắt
hướng về chiến hạm.
Trong tiếng sóng vỗ ầm ì, tiếng gió rít lạnh lùng, tôi tưởng như còn
nghe được cả những tiếng thét, tiếng gào thất thanh, lạc lõng trên bờ
biển. Những người lính súng trên tay, dây lưng đầy lựu đạn, ba lô hành
quân nặng chĩu phía sau, là những người đầu tiên
lội ùn xuống biển, mặc cho những đợt sóng lớn vô tình đập liên tục,
không thương tiếc. Ngã xuống, có người chìm hẳn, có người gượng đứng lên
tiếp tục vùng vẫy, tuyệt vọng lội về phía chúng tôi. Cửa đổ bộ được hạ
xuống. Vướng vào cát, cánh cửa chỉ xuống cách
mặt nước hơn một thước thì ngừng lại. Trên cửa đổ bộ, tôi và những anh
em trong ban chuyển vận, súng M16 trên tay, dàn hàng ngang chuẩn bị.
Trước mắt chúng tôi, chỉ khoảng hơn một trăm thước từ tàu đến bờ biển,
đã có cả chục xác người dập dềnh trong sóng biển.
Những người lính hốt hoảng đáng thương, nhào xuống biển với cả mũ sắt,
giày bốt và quân dụng nặng nề, trước những đợt sóng biển tàn nhẫn bất
thường, đã kiệt sức, xuôi tay chấp nhận cái chết đến thật tình cờ. Số
người chạy xuống biển càng lúc càng tăng. Vài
người lính đầu tiên đã lội tới chiến hạm. Tấm sắt cửa đổ bộ hạ xuống
hết vẫn còn cao đến ngực. Chúng tôi quăng dây thừng hay đưa đầu súng cho
họ nắm để kéo lên tàu. Những người mới lên, được yêu cầu bỏ hết quân
dụng, vũ khí vào một góc để phụ kéo những người
khác vừa lội đến. Trong ánh lửa bập bùng, một chiếc thiết vận xa như
một con cá mập khổng lồ bỗng lừ lừ tiến đến, đâm sầm vào cánh cửa đổ bộ
đang nhấp nhô theo từng cơn sóng. Cùng với tiếng va chạm chói tai của
hai tảng sắt là những tiếng thét hãi hùng và
những thân người từ chiến xa bị ném tung lên, người thì rớt xuống biển
ngoi ngóp lội, người thì rơi lên cửa đổ bộ quằn quại đau đớn. Chiếc
thiết vận xa bị vào nước chìm dần, những người bên trong vội vã chui lên
nhảy xuống biển thoát thân, người nọ đè lên
người kia trong hỗn loạn. Một cảm giác lạ lùng ập đến tự lúc nào. Tôi
bỗng thấy như đang đứng trong một cơn mê, thản nhiên nhìn một cảnh tượng
thật quái dị, kinh hoàng và thấy cả chính mình trong đó. Đầu óc tôi như
tê dại đi, dường như tôi không còn nắm được
cảm nghĩ, cảm giác nào. Cái sống, cái chết bỗng không còn một ý nghĩa
gì đặc biệt. Sinh mạng những con người trước mặt tôi bỗng chẳng còn mang
chút giá trị nào, chỉ như những con sâu, con kiến, mà sợi dây xích
khổng lồ, tàn nhẫn, của bánh xe chiến tranh đang
lăn qua một cách thật vô tình.
Sự
hoảng hốt của những người trên bờ biển, cả lính lẫn dân, từ hàng trăm
lúc này có thể lên đến cả ngàn người, dường như đã lên dần đến cực điểm.
Trong những tiếng nổ
của kho đạn lẫn trái pháo càng lúc càng dữ dội cùng tiếng gào của mẹ
lạc con, vợ mất chồng, tôi bỗng nghe vài tiếng súng thật gần. Anh thủy
thủ giữ máy báo cáo là sân mũi cho biết có người ném lựu đạn lên tàu.
Chưa kịp hỏi lại, thì một tiếng nổ chát chúa dội
lên chỉ cách vài thước. Thấy cảm giác là lạ, tôi đưa tay lên vuốt mặt,
giật mình nhìn lại bàn tay đầy mồ hôi và nước biển giò đã pha lẫn màu
máu đỏ. Máu của những nạn nhân qủa lựu đạn vừa nổ giữa đám người đang
chen lấn để vào bên trong. Ngước mắt nhìn, thành
tàu đã dính bầy nhầy những mảnh da thịt tả tơi, những ngón tay lẫn ngón
chân rời rã. Tiếng kêu gào vang dội, bị át dần bởi tiếng sóng lẫn những
tiếng nổ ầm ì. Hình như một mảnh đạn nào đã đi sát qua trán tôi và để
lại một vết xước rịn máu, rát cả một bên mặt
khi chạm phải những giọt nước biển đang bắn lên tung tóe.
Không
tìm được người thủy thủ cầm máy, tôi rời cửa ram chạy trở ngược lên sân
mũi. Leo lên pháo tháp, tôi giật vội chiếc mũ truyền tin trên đầu anh
liên lạc viên để báo
cáo thẳng với hạm trưởng trên đài chỉ huy về tình hình hỗn loạn, không
còn kiểm soát được. Với khoảng cách xa bờ và cơn biển động, sự hiện diện
của tàu tại vị trí này chỉ gây thêm nhiều thương vong, mà số người lên
được không có là bao, tôi đề nghị ông tìm
một giải pháp khác. Đang băn khoăn chờ đợi câu trả lời, thì đầu tàu
bỗng bật tung lên cao theo một cơn sóng lớn. Không chịu nổi những đợt
sóng gió hung hãn, liên tục quật vào hai bên chiến hạm, sợi dây cáp ny
lông to bằng cổ tay cột vào bờ để giữ đầu tàu,
đã bị giật đứt. Với sức đàn hồi khủng khiếp, khúc dây bật lại, uốn éo
phóng ngược trở lên tàu như một con xà vương vĩ đại, thân dây chạm vào
sàn sắt của tàu, nẹt thành những tia lửa ngoằn ngoèo như ánh chớp trong
đêm mưa.
Tôi
bỗng nghe một tiếng nổ thật to và thật gần, từ ngay trong chiếc mũ liên
lạc đang đội rồi mắt tối sầm lại, không còn biết gì nữa. Mở choàng mắt
ra, tôi ngạc nhiên
thấy mình đang nằm trên sàn tàu ướt lạnh, cổ và vai đau như gãy, chiếc
mũ liên lạc lủng lẳng, đu đưa theo sợi dây đen lòng thòng dính vào ổ cắm
của ụ súng cao hơn bốn thước phía trên. Một hạ sĩ quan sân mũi đang đỡ
tôi đứng dậy. Anh nói khúc dây bật lại đã
đánh rớt một nhân viên xuống biển, đầu dây quật trúng, hất tôi từ pháo
tháp văng xuống sàn tàu.
Hạm
Trưởng đã ra lệnh cho hai máy lùi, đóng cửa và kéo neo sau để rút tàu
ra. Tôi ôm đầu trong cái ê ẩm còn sót lại, bùi ngùi nhìn sự tuyệt vọng
của đám người đang tận
lực cố lội đến chiến hạm. Tàu lạnh lùng lùi dần trong những tiếng la
hét, cầu cứu, nguyền rủa. Chỉ còn một biện pháp cuối là cập cầu. Trong
cơn biển động, chúng tôi hướng mũi qua phải, dập dềnh đi về phiá cầu tàu
ở cánh trái BTL Sư Đoàn. Đám người trên bãi
cũng bắt đầu chuyển hướng theo.
Tàu
tiến đến cầu ở một góc 30 độ. Những trái độn bên tả hạm được thả xuống.
Cách cầu khoảng chục thước, chúng tôi ném dây mũi và hai dây tả hạm
đồng thời gọi loa yêu
cầu những người lính đang đứng chật trên cầu để tròng đầu dây vào những
cọc sắt cột tàu, trong lúc anh em sân mũi chuẩn bị để thả hạm kiều, một
chiếc cầu thang sắt với khoảng hơn một thước bề ngang. Trước sự ngạc
nhiên của chúng tôi, người lính nắm được đầu
dây thay vì móc vào cọc sắt cột tàu thì đã phóng xuống, đu mình theo
dây để cố leo lên tàu trước một mình. Hai người lính với hai đầu dây
khác cũng phóng theo. Họ đong đưa trên dây, đạp chân vào thành tàu ngoi
ngóp leo lên. Sóng nhồi, tả hạm của tàu đập từng
hồi vào thành cầu. Những trái độn nhỏ bé không đủ làm giảm sức va chạm
và chẳng mấy phút sau những người lính vội vã này đã tuột tay, rơi thẳng
xuống biển. Tôi không nhìn theo để khỏi phải chứng kiến cảnh tượng các
thân xác người đang bị thành tàu ép nghiến
vào những cây gỗ chân cầu theo từng cơn sóng đẩy đưa.
Cuối
cùng chúng tôi cũng cột được một dây mũi và một dây lái. Biển đang
trong cơn nước lớn, thành tàu cao hơn mặt cầu quá nhiều. Chiếc hạm kiều
(cầu thang) thả
xuống vừa chạm đất thì đám người đã ồ ạt, xô đẩy, giành nhau để lên
tàu. Đầu hạm kiều phía trên chưa kịp cột lại. Một cơn sóng lớn đẩy tàu
nhích ra ngoài, chiếc hạm kiều chỉ mới được đặt ghé hai đầu đã bật ra,
rơi ùm xuống biển, mang
theo một đám người trên đó. Chúng tôi vội vàng đẩy chiếc hạm kiều thứ
hai nhỏ hơn bằng gỗ xuống thay. Với sự chen lấn hỗn loạn, dưới trọng
lượng của số người cố đạp lên nhau để leo lên hạm kiều, chỉ vài phút sau
chiếc cầu thang gỗ cũng lại chung số phận hẩm
hiu, lật theo xuống biển. Chỉ còn lại một chiếc hạm kiều nhỏ xíu cuối
cùng chúng tôi cũng phải mang ra nốt. Hạm kiều quá nhỏ, bề ngang chỉ đủ
cho từng người một, lại gây thêm náo loạn trong đám đông bên dưới, đang
chờ đợi trong cái điên cuồng của những con
thú bị dồn đến chân tường. Chúng tôi phải tung hết những tấm lưới đổ bộ
đan hình mắt cá xuống thành tả hạm để cho họ leo lên. Lưới đổ bộ dành
cho những người lính đã được huấn luyện từ quân trường, chỉ để leo xuống
đã là một việc khó khăn. Nhưng trong lúc
này, dường như sự sợ hãi đã làm mọi người điên dại, họ bất kể sự nguy
hiểm trước mắt, xô đẩy nhau để bám víu lấy bất cứ một cơ hội mong manh
nào có thể đem họ ra khỏi vùng điạ ngục kinh hoàng.
Những
tiếng la hét thất thanh ở phía sau lái làm tôi chạy vội xuống. Một cảnh
tượng khiến tôi lạnh người, sửng sốt. Trên sợi dây cáp ny-lông đong
đưa, nối từ sau lái
xuống cầu tàu, một người con gái với hai chân quặp vào dây, mặt ngửa
lên trời, hai tay cô đang lần từng gang, bò dần về phía chiến hạm. Sau
lưng là một đứa bé nhỏ như trẻ sơ sinh, được quấn chặt vào người cô bằng
một tấm khăn trắng trải giường. Đứa bé không
động đậy, không biết là còn sống hay đã chết. Cô gái chỉ còn cách tàu
chừng ba thước, nhưng phần cuối dây lại là khoảng cách có độ dốc nhiều
nhất, cô ngưng lại thở hổn hển như đã kiệt sức. Một nhân viên sau lái,
nối tay với một nhân viên khác, chân đạp vào
thành tàu chồm hẳn ra phía ngoài chờ đợi. Những nhân viên chung quanh,
đầy vẻ khẩn trương, hoà giọng hô từng hồi khuyến khích :
“Ráng lên … Tới rồi… Ráng lên !!” Như
đáp lại sự khích lệ, cô gái trườn lên, vừa đúng lúc người thủy thủ chờ
đợi chồm tới, chụp được cái cổ tay gầy guộc. Tôi thở ra một hơi thật dài
như không biết đã nín thở từ lúc nào, rồi chạy vội về sân mũi.
Vừa
đúng lúc để nghe lệnh Hâm Trưởng qua anh thủy thủ giữ máy cho rút hạm
kiều và tháo dây rời bến, nhường chỗ cho một chiếc hải vận hạm
(loại 400 nhỏ hơn) vào
thay thế. Trời đã tờ mờ sáng. Trong ánh sáng nhợt nhạt, những nét đau
đớn, tuyệt vọng trên khuôn mặt đám người hốt hoảng còn lại trên cầu tàu
hiện ra thật gần. Ngôn ngữ không còn tác dụng gì với những người đang
chìm sâu trong
nỗi kinh hoàng, chúng tôi phải dành giật để kéo lại chiếc hạm kiều duy
nhất. Nhân viên sân mũi, đã chặt dây cột tàu bằng búa phòng tai để chiến
hạm có thể tách bến. HQ505 chỉ đón được một số nhỏ vì sự hỗn loạn của
cuộc di tản thiếu tổ chức và hoàn toàn vô
trật tự. Quanh tôi, những người vừa leo lên được đang nằm ngồi ngả
nghiêng đầy boong tàu. Anh em thủy thủ đoàn, những gương mặt hốc hác sau
một đêm dài không ngừng nghỉ, tiếp tục làm việc, xếp đặt chỗ ở tạm và
săn sóc những người bị thương. Trong cái đau nhức
và mỏi mệt, với thần kinh căng thẳng của gần suốt 24 tiếng liên tục,
tôi vào phòng ngủ thiếp đi lúc nào không biết, cho đến khi Cần đánh thức
tôi dậy đi ca. Tàu trực chỉ Đà Nẵng theo lệnh của BTL Vùng I Duyên Hải.
ĐÀ NẴNG
Qua
khỏi cù lao Chàm, tàu đổi hướng tiến về phía cửa Đà Nẵng. Chiến hạm bắt
đầu đong đưa như chiếc võng. Những làn sóng ngang, đẩy dài, nhẹ nhàng,
êm ái như ru ngủ, nhưng
cũng chính là những cơn sóng hành hạ các tay đi biển thê thảm nhất (như những cô thiếu nữ mang dáng vẻ dụt dè – dễ làm bé cái nhầm – của miền Trung !). Thêm hai lần đổi cấp, tàu đã nằm trên trục thẳng vào bãi ủi Trịnh Minh Thế, ngang trường trung học
Sao Mai.
Đà
Nẵng với HQ505 có thật nhiều kỷ niệm. Nhiệm sở ủi bãi, từ pháo tháp sân
mũi, những khung cảnh thân thương của dãy phố chợ quen thuộc chạy dần
qua hữu hạm. Bến đò vẫn
tấp nập với những chiếc tam bản, nước ngập gần đến mí, đưa đón khách
sang sông. Với những chiến hạm lớn như 505, vào cửa Đà Nẵng tuy không
khó, nhưng cần phải có một chút kinh nghiệm và chính xác. Ngang bến đò,
gần giữa dòng sông là một cồn cát lớn, nằm chìm
dưới mặt nước. Để tránh mắc cạn, tàu phải đi sát vào bến chợ, chỗ mà
những con đò nhỏ nườm nượp ra vào. HQ505 đã có dịp nằm phơi nắng trên
cồn cát một lần trước đó vì quá cẩn thận, tránh bến đò hơi xa.
Tàu
cập bến, những người di tản đã xuống. Sau khi chia nhiệm sở cho nhân
viên, tôi chở Tăng, cậu em trai, ra thăm ông anh lớn, con nuôi bố mẹ
tôi, ở gần bên chợ Mới.
Bước vào nhà, tôi đã thấy có điều bất thường. Ông anh đầy vẻ khẩn
trương xin tôi đưa gia đình lên tàu để vào SàiGòn trước. Ông ở trong
binh chủng Quân Nhu với cậu con lớn là pilot trực thăng của Không Quân
vùng Một đóng tại Đà Nẵng quyết định ở lại đến giờ
chót ! Tôi chưa kịp có dịp cho cậu em thưởng thức món bún bò giò heo
độc đáo của Đà Nẵng, thì đã phải vội vàng thu xếp để đưa cả bảy người
trong gia đình anh tôi về chiến hạm.
Trở
lại bến, tôi ngạc nhiên trước cảnh huyên náo, đông đúc khác thường của
căn cứ chuyển vận nơi tàu đang đậu vào chiều hôm ấy. Từng nhóm, từng gia
đình đứng ngồi rải
rác khắp nơi, hành trang bên mình như chuẩn bị ra đi. Cửa chiến hạm
đóng kín, hạm kiều để lên xuống đã được cất đi tự lúc nào. Mở hé cánh
cửa đổ bộ cho tôi và gia đình ông anh lên tàu, nhân viên trực phải vất
vả ngăn cản những người khác trên bến đang tấn
lên chen lấn, muốn uà vào theo. Bước vào hành lang carré sĩ quan tôi
ngạc nhiên khi thấy Symi và Duyên, em gái người bạn HQ. Duyên nước mắt
long lanh cho biết tình hình bên ngoài rất nghiêm trọng, mọi người đang
tìm chỗ đi lánh nạn, hai cô vừa được Cần quăng
dây xuống bến kéo lên. Tôi tìm vài câu an ủi rồi đi dọn phòng cho gia
đình ông anh ở tạm.
Tàu
phải rời bến ngay trong đêm để di chuyển ra cửa Đà Nẵng, trước BTL/HQ
Vùng Một Duyên Hải chờ lệnh. Chưa có lệnh cho di tản và tàu còn nguyên
2000 tấn đạn từ lúc ra
đi, chúng tôi chỉ có thể cho một số quân nhân, người quen và thân nhân
của các anh em cơ hữu lên tàu, trước khi rời bến Trịnh Minh Thế, trong
sự ngỡ ngàng, thất vọng của những người đợi chờ trên bến.
Ra
đến cửa Đà Nẵng thì trời đã sáng, tàu thả trôi chờ lệnh. Một chiếc ghe
đầy ắp dân cặp vào bên hữu hạm và có ai vừa quăng chiếc cầu thang dây
xuống cho người trên ghe
leo lên. Lập tức cả hàng chục chiếc ghe khác ùn ùn kéo tới. Hai máy
tiến một, HQ505 chậm chạp dời chỗ để tránh các ghe dân, càng lúc càng
xông đến nhiều hơn, táo bạo hơn. Từ đài chỉ huy, đang bận rộn quan sát
các tàu bè qua lại tới tấp trước mũi, tôi bỗng
nghe tiếng kêu ơi ới: “Cường ơi, thằng em mày kẹt lại dưới ghe đàng sau kìa !”
Bố khỉ, thì ra thằng em tôi đã leo xuống “làm công tác xã hội”
giúp người dưới ghe từ lúc nào. Tàu chạy, Tăng còn kẹt lại, may mà Cần
trông thấy. Tôi phải ra lệnh ngưng máy để chờ cho chiếc ghe cặp trở lại
và cho thằng em tôi leo lên. Đang sỉ vả
cậu em ẩu tả thì một loạt súng đại liên chát chúa từ phía cánh trái của
phòng lái khiến tôi chồm vội ra nhìn xuống. Cần đang đứng bên cạnh khẩu
30 ly nghi ngút khói và phía dưới các chiếc ghe bạo dạn đang dạt ra
ngoài sau loạt đạn cảnh cáo. Chiều xuống, chúng
tôi được lệnh về Cam Ranh.
CAM RANH
Tại
bến quân vận Cam Ranh, bên cạnh HQ505 còn thêm một dương vận hạm và một
hải vận hạm mà tôi không nhớ số. Đám bạn trên chiếc hải vận hạm cho
biết là cả tướng Tr.,
Tư Lệnh Vùng Một, và tướng L., Tư Lệnh Thủy Quân Lục Chiến, cũng có mặt
trên đó. Từ lúc ấy tôi bắt đầu suy tư nhiều về tình hình cuộc chiến và
số phận chung của miền Nam. Càng ưu tư hơn khi nhớ lại mẩu chuyện mà một
người Thiếu Úy trẻ TQLC lên tàu ở Đà Nẵng
đã kể lại rằng đơn vị anh đang hành quân thì có lệnh rút lui, từ đó VC
chỉ bám theo bắn sẻ và pháo kích, gây thật nhiều tổn thất. Anh đã thất
lạc đơn vị, lên tàu chỉ với đôi chân trần và bộ quân phục rách nát dính
trên người khi đến hỏi xin tôi đôi dép đi
tạm. Thêm vào đó, Hiền, cậu con lớn ông anh tôi ở Đà Nẵng, trước khi
gửi vợ con lên tàu đã thủ thỉ rằng hắn chưa đi được vì vừa bị chỉ định
xử lý thường vụ trông coi phi trường Đà Nẵng. Thêm một dấu hỏi thật lớn
với một SQ phi công trực thăng ở cấp bậc Đại
Úy. Chuyện gì đã, đang và sắp xảy ra ??!
Tưởng
được về Sàigòn nhưng chúng tôi lại có chỉ thị đem số đạn dược trở ra
Thuận An, Huế. Trước tin đó, chị dâu tôi và đám cháu quyết định xuống
Cam Ranh để tìm đường
bộ về Sàigòn trước. Một quyết định mà tôi đã đồng ý và ân hận thật
nhiều chỉ một ngày sau đó, ngày mà chúng tôi phải rút khỏi bãi để ra thả
neo ở bên ngoài vì tình hình Cam Ranh bỗng trở nên rối loạn. Quân
trường HQ Cam Ranh có lệnh di tản trong đêm hôm trước.
Từng đoàn dân chúng lại lũ lượt kéo nhau ra bãi biển. Không còn chiến
hạm HQ nào trên bến, họ tìm cách để ra những chiếc xà lan trần trụi cột ở
những chiếc phao nổi bên ngoài với hi vọng là sẽ được những chiếc tàu
kéo của quân vận lôi đi. Trên tàu đã gần hết
thức ăn tươi, tôi theo mấy chú em ẩm thực vào bờ đi chợ bằng chiếc tàu
đổ bộ LCVP nhỏ. Dặn mấy chú ẩm thực cố đi thật nhanh, nếu không tình
hình rối loạn có thể sẽ không cho phép chúng tôi đón họ lên trở lại. Tôi
chờ trên chiếc LCVP với cái hi vọng mong manh
và bất thành là được thấy gia đình chị dâu tôi trở lại bến. Nửa tiếng
sau chúng tôi rời bãi sau khi khổ sở từ chối những lời nải nỉ khẩn khoản
xin theo của những người trên bến dù đã hết sức giải thích rằng chúng
tôi sẽ trở ra vùng địa đầu khói lửa, thay vì
xuôi xuống phía Nam như họ nghĩ. Trên đường trở lại chiến hạm, tôi ngạc
nhiên nhìn thấy vài con cá mập lội lập lờ gần bãi một cách khác thường,
có phải là chúng đã đánh hơi thấy mùi máu người đâu đây hay chăng ?!
HQ505 trở đầu ra cửa Cam Ranh, tiếp tục chuyến
công tác ngược về phía bắc.
PHAN THIẾT
Hai
ngày sau, đang trên hải trình về hướng Thuận An, với Đà Nẵng nằm xa bên
tả hạm, chúng tôi lại được gọi trở ngược về Phan Thiết. Lý do : có tin
máy bay VC từ hướng
Hòn Cọp đã bay vào đột kích ?? Trở về ngang cù lao Chàm, hạm trưởng cho
lệnh thực tập tác xạ, bắn vào những hòn đá nhỏ xa bên ngoài cù lao. Hơn
hai năm đi biển trên LST, mà có lẽ kể cả từ lúc lãnh tàu, lần đầu tiên
những khẩu đại bác 40 ly được sử dụng đến.
Chả trách mà tài thiện xạ của chúng tôi đã rủ nhau đi chơi chỗ nào mất
biệt !
Đến
bên ngoài Phan Thiết, HQ505 thả trôi vài hải lý cách bờ biển. Cuộc điện
đàm với giới chức liên hệ trên bờ về việc đổ đạn không có câu trả lời
dứt khoát. Hạm trưởng
quyết định vào tận nơi thảo luận. Tôi và ba nhân viên nữa tháp tùng
ông, xuống LCVP rời chiến hạm. Hơn nửa giờ luồn lỏi theo con sông nhỏ,
chúng tôi vào tận trung tâm thành phố và cột tàu ở chân cầu đối diện Bộ
Chỉ Huy Tỉnh. Bên trong chúng tôi được tiếp bởi
một ông Thiếu Tá bộ binh, ông cho biết là VC đã xâm nhập vào trong
thành phố, số đạn nếu đổ xuống có thể chỉ để lại cho VC dùng mà thôi.
Với tin này, HT. Nh. và tôi rời BCH trở về nơi ba nhân viên chiến hạm
đang chờ đợi. Ngần ngừ trước khi leo vào LCVP, cả
nhóm đang thèm được một tô mì ở quán chợ ngay bên cạnh, nhưng trong
tiếng súng mỗi lúc càng nhiều và rõ hơn chúng tôi đành vuốt bụng xuống
LCVP trở về chiến hạm.
TUY HÒA
Không
xuống đạn ở Phan Thiết, chúng tôi có chỉ thị đưa vào Tuy Hòa. Một quyết
định quá muộn màng. Từ xa chúng tôi đã quan sát được phi trường Tuy Hoà
vật vã dưới trận
mưa pháo kích. Những trái đạn rót ra tận biển, tuy thưa thớt nhưng đủ
đe dọa để giữ chiến hạm nằm lại ngoài tầm tác xạ, với 2000 tấn đạn chở
trên tàu chỉ cần lãnh một trái pháo, HQ505 sẽ nổ tung thành những mảnh
vụn và biến mất không còn một dấu vết nào. Công
điện đến, chúng tôi được gọi nhập chung với số chiến hạm có mặt trong
vùng để cùng tiến vào Cà Ná, Phan Rang.
PHAN RANG, CÀ NÁ - MŨI SỪNG TRÂU
Điạ
danh có tên trên hải đồ là Mũi Sừng Trâu hay Mũi Dinh. Đúng như tên
đặt, vịnh Cà Ná nằm sâu hẳn vào trong, với những dãy núi thấp xếp thành
vòng cung chạy dài ra
hai bên như hai cái sừng, như hai cánh tay trần ôm hờ hững cả một vùng
nước xanh thơ mộng. Cà Ná là bãi biển nên thơ nhất của vùng Hai duyên
hải. Biển êm, trong xanh với cát trắng nõn nà. Vốc lên, trong lòng bàn
tay, những hạt cát tròn nhỏ theo nhau chảy qua
kẽ hở thành những dòng sữa trắng mịn màng. Chỉ có cái thiên nhiên, thơ
mộng của bãi biển Thuận An ở Huế mới có thể so sánh được với Cà Ná của
Phan Rang.
Buổi
sáng hôm ấy bốn chiến hạm HQVN trong nhiệm sở tác chiến theo hàng một
tiến vào Cà Ná. Đi đầu là hộ tống hạm HQ11, theo sau là dương vận hạm
HQ503, kế đến là chiếc
hải vận hạm HQ402, và sau cùng là HQ505. Trên đường vào, chúng tôi vẫn
duy trì liên lạc truyền tin với các chiến hạm và đơn vị bạn trên bờ. Mọi
việc tiến hành trôi chảy. Trong ống dòm từ chiến hạm, chúng tôi có thể
nhìn thấy những khẩu đại bác 105 ly của pháo
binh bạn đặt trên núi liên tục bắn vào phía trong yểm trợ. Khi chiến
hạm tiên phong, HQ11, vượt qua khỏi Mũi Sừng Trâu trên đường tiến vào
trong vịnh, thì HQ505 mất liên lạc với đơn vị trên bờ.
Khi
chiến hạm thứ ba, HQ402, vừa tiến qua khỏi Mũi Sừng Trâu và HQ505 còn
cách phía sau chừng hai hải lý, thì bỗng nhiên một loạt đại pháo nổ tung
khắp nơi trên vùng
biển trước mặt chúng tôi. Từng cột nước lớn bung lên, theo sau bằng
những tiếng nổ nặng nề. Trên pháo tháp trước mũi tàu, từ chiếc mũ liên
lạc với đài chỉ huy, tôi nghe tiếng HT Nh. vội vã ra lệnh cho hai máy
ngưng, rồi hai máy lùi một. Chiếc 505 vẫn dùng
dằng tiến về phía trước như con ngựa bất kham. Chỉ một vài phút ngắn
ngủi trước khi chiến hạm ngưng hẳn mà tôi tưởng như dài vô tận, như thời
gian đã đứng lại, ngừng trôi. Thân tàu rung bần bật từng hồi như tàu lá
chuối trong cơn mưa lũ. Thần kinh căng thẳng,
các mạch máu trên đầu như đánh nhịp theo từng viên đại pháo nổ tung
trên biển, làm dựng lên những cột nước trắng xóa, đang di chuyển dần về
phiá chiến hạm.
Chiếc
HQ505 ngưng hẳn rồi chậm chạp lùi dần. Thân tàu vẫn rung bần bật với
tiếng máy gầm giận dữ, trong màn khói mịt mù toả ngược lên boong, từ
những ống thoát hai bên
thành chiến hạm phiá sau lái. Tàu ra xa dần, khỏi tầm những viên đại
pháo đang tiếp tục rót xuống. Chúng tôi nghe tin hai chiến hạm HQ11 và
HQ503 trúng đạn. HQ11 đang tập tễnh trở ra nhưng HQ503 thì đã bất khiển
dụng.
Mãi
đến sáng hôm sau, khi bắt đầu quay trở về Vũng Tàu theo chỉ thị, chúng
tôi biết thêm là HQ503 đã được HQ402 dòng ra bên ngoài để kéo về Sàigòn.
Tin sơ khởi cũng cho
biết chúng tôi bị tấn công bởi đại pháo 130 và hoả tiễn 122 ly của VC
từ Quốc Lộ 1 chạy sát bên vịnh, đài chỉ huy 503 trúng đạn, ba SQ và một
Th.S. giám lộ tử thương tại chỗ, hạm trưởng HQ503 bị thương ở đầu. HQ11
cũng có một số thương vong khi đạn đại pháo
trực xạ xuyên từ thành tàu bên này qua hẳn bên kia. Với những biến động
lịch sử liên tiếp xảy ra trong những tuần sau đó, tôi đã không có dịp
để biết thêm và ngay cả đi đưa đám thằng bạn cùng ở trong Cư Xá Đô Thành
đã tử trận trên chiếc 503 ngày hôm đó.
Cặp
cầu Vũng Tàu, những người di tản trên chiến hạm đã xuống hết. Số đạn
lôi đi khắp miền Trung không chỗ thả cũng được cho xuống bến. Tôi để
Tăng đi xe đò trở về Sàigòn. Thằng em chưa hề
biết mùi nhà binh, tưởng được đi du lịch miền Trung, hoá ra chỉ được
nếm mùi bom đạn và chứng kiến những thảm cảnh tàn khốc, phi nhân của
cuộc chiến và thiếu chút nữa thì chính nó cũng trở thành một nạn nhân
chiến cuộc nếu con nhà Cần không nhìn thấy kịp lúc
còn sót lại trên ghe ở cửa Đà Nẵng. Điều an ủi là dường như cậu em tôi
trở về trong mối tình vừa chớm nở với một nàng nữ sinh lên tàu cùng gia
đình từ ĐN.
PHAN
THIẾT
Lấy
thêm dầu nước, đi chợ xong, HQ505 rời Vũng Tàu trong Lực Lượng Giải
Phóng Miền Trung dưới quyền tư lệnh mặt trận của Phó Đề Đốc HCM. HQ505
được lệnh ra Phan Thiết
với nhiệm vụ di tản sư đoàn 22, BCH tại Bình Định (?).
Đến bờ biển Phan Thiết, theo tiêu lệnh hải hành do hạm trưởng viết đêm
hôm trước tôi cho tàu vào cách Hòn Bà hai hải lý về hướng Bắc lúc sáu
giờ sáng và cho nhân viên thông báo với hạm trưởng. Lên
đài chỉ huy, giật mình vì tàu đã ở khá gần bờ biển, ông vội vàng ra
lệnh cho tàu ra xa hơn để tránh khỏi tầm tác xạ từ phía bờ biển. Thì ra
ông muốn vào cách Hòn Bà hai hải lý về hướng Đông, nhưng có lẽ vì mệt
mỏi nên đã viết lầm. May mà ông viết lộn qua hướng
Bắc, chứ nếu thành hướng Tây, tức là ngay sát bờ biển, tôi ở cái tuổi
háo động và hăng tiết vịt ngày ấy, chắc cũng phom phom dắt tàu vô chơi
liền. Tàu ủi bãi còn được mà, sợ đếch gì
Chờ
bên ngoài hơn một tiếng thì một số ghe đánh cá đưa dân từ phía Phan
Thiết cập vào chiến hạm. Chúng tôi thả thang dây cho họ leo lên. Trong
số những người đầu tiên
từ ghe đến, có một Đại Úy bộ binh, ông xin gặp hạm trưởng và yêu cầu
chúng tôi vào đón Chuẩn Tướng Đ.(?),
Tư Lệnh Phó Sư Đoàn, đang chờ trên bãi. Nhìn vào bãi biển bằng ống dòm
chúng tôi nhận ra tín hiệu của tấm gương nhỏ phản chiếu lấp lánh, nơi
chuẩn
tướng Đ. đang đứng cùng khoảng chục quân nhân khác. Không thể vào tận
nơi, chúng tôi điều đình với một chiếc ghe vừa có người lên tàu, để vào
đón, đổi lấy đầy hầm dầu cặn cho ghe khi hoàn tất. Chủ ghe đồng ý và trở
vào phía có tín hiệu. Trong lúc ghe trên
đường vào, thì bãi biển bỗng náo động với những viên đạn đại bác bắn ra
từ phía trong nổ tung trên cát. Người trên bãi chạy toán loạn khắp
phía. Chuẩn tướng Đ. và đoàn tuỳ tùng di chuyển ngược lên phía Bắc,
nhưng chỉ vài phút sau, trên bãi biển, từ sau hàng
dương, đã xuất hiện hai chiếc xe tăng, trông như là loại T54. Một trong
hai chiếc này cùng với đám bộ binh tùng thiết VC chả mấy chốc đã theo
kịp chuẩn tướng Đ, và trong ống dòm, tôi ngậm ngùi quan sát hình ảnh
cuối cùng của vị chuẩn tướng bị địch quân bắt
dẫn đi khuất dần vào bên trong.
Với
sự hiện diện của hai chiếc chiến xa VC, mọi người trên bãi chạy ngược
vào trong, bãi biển vắng hoe. Chúng tôi đã rút ra xa khỏi tầm đạn pháo.
Sau khi báo cáo tình
hình, chúng tôi có lệnh trở về Sàigòn. Một niềm vui bất chợt. Trên
đường trở ra từ Phan Thiết tôi thấy còn một hộ tống hạm, hình như HQ13
với hạm trưởng S., cũng vừa có mặt trong vùng.
SÀIGÒN
Tàu
cập bến Tân Cảng bên cầu xa lộ. Vừa cột dây, thả hạm kiều xong tôi đã
có người thăm ngay. Một người bà con làm việc tại Tân Cảng lên cho biết
là anh tôi, nhà văn
Nguyễn Đình Thiều, mới qua đời trong một cơn đau tim bất chợt. Đang
trong cái hớn hở trở lại Sàigòn tôi bỗng buồn rũ xuống. Chỉ mới ba tuần
của một chuyến công tác, sao quá nhiều biến cố. Tôi không ngờ rằng cuộc
đời của cả hàng triệu người Việt Nam đang đi
vào một giai đoạn khắc nghiệt nhất của khúc quanh lịch sử ngay trong
những ngày sau đó. Trên đường về từ Tân Cảng, thành phố vẫn tưng bừng,
nhộn nhịp một cách thật xa lạ đối với tôi. Anh em tôi về đến, cả nhà ai
cũng mừng. Với tin những chiến hạm bị trúng
đạn, mấy tuần nay, gia đình tôi đã liên tục ra vào BTL/HQ để dò hỏi tin
tức của HQ505.
Chỉ
mấy ngày sau, tin thất thủ của các tỉnh miền Trung, cao nguyên Ban Mê
Thuột với những mẩu chuyện thảm khốc, thương tâm và hình ảnh cuộc di tản
kinh hoàng, được mệnh
danh là di tản chiến thuật, đã liên tiếp dội về. Đài BBC, đài VOA với
những bài bình luận bi quan về tình hình chiến sự, quốc hội Mỹ cắt giảm
ngân sách viện trợ, các cơ quan Mỹ chuẩn bị rời Việt Nam. Sàigòn bỗng
lên cơn sốt. Câu chuyện đầu môi của mọi người
là ra đi. Nhưng đi đâu ?! Đi bằng cách nào ?! Có lẽ ngoại trừ một thiểu
số rất nhỏ, hầu như không ai có câu trả lời !! Trong cơn sốt ấy, HQ505
lại có lệnh đi công tác Phú Quốc.
Với
hình ảnh đau thương của chuyến công tác vừa qua còn hằn rõ trong ký ức.
Tinh thần chung của thủy thủ đoàn xuống thật thấp. Từ lúc nhận lệnh
công tác, chúng tôi đã
đôi lần thảo luận với hạm trưởng Nh. để cho phép anh em được đưa gia
đình đi theo. Với tin một hạm trưởng loại 800 bị an ninh giữ điều tra vì
đưa thân nhân xuống tàu, hạm trưởng do dự nhiều nhưng cuối cùng ông
đồng ý. Chúng tôi thông báo cho tất cả nhân viên
để đưa thân nhân lên chiến hạm. Mỗi người được phát một tờ đơn trống đã
có sẵn chữ ký và dấu mộc chiến hạm để có thể điền tên những người đi
theo với lý do dè dặt là xin quá giang ra Phú Quốc tìm thân nhân thất
lạc. Tờ giấy cần thiết để đưa gia đình vào cổng
Tân Cảng dưới sự kiểm soát của Quân Vận và Quân Cảnh bộ binh.
Đa
số anh em nhà ở Sàigòn đã đưa gia đình lên tàu. Điều không may là ngày
khởi hành của chúng tôi bị hoãn lại bốn hôm. Khi HQ505 rời Sàigòn một số
nhân viên đã đem gia
đình trở về vì sự thiếu thốn phương tiện trên tàu trong những ngày trì
hoãn chờ đợi tại bến, vì những tin lạc quan tếu về giải pháp chính trị
với thành phần thứ ba !! Kể cả những ông anh tôi trong quân đội đã quyết
định ở lại vì không muốn bỏ đơn vị cho đến
“giờ thứ 25”
và tin tưởng vào bộ Tổng Tham Mưu không bỏ rơi chiến sĩ !! Cái lầm lẫn
đáng phục nhưng phải trả bằng hơn mười năm đói khổ lầm than bên cạnh cái
chết trong các trại cải tạo heo hút trên miền thượng du Bắc Việt.
Tàu
rời Tân Cảng trưa ngày 26 tháng Tư. Chúng tôi dàn chào dọc theo hữu
hạm, cũng với hồi còi và tay chào kính thường lệ khi qua trước Bộ Tư
Lệnh Hải Quân. Không ai biết
rằng mình đang chào vĩnh biệt Sàigòn trong bộ quân phục tiểu lễ trắng
nghiêm chỉnh và thân thương, chào lần cuối trong cái kiêu hùng của những
chiến sĩ Hải Quân Việt Nam ra đi thi hành nhiệm vụ.
VŨNG TÀU
Buổi
tối chúng tôi thả neo bên ngoài cửa Vũng Tàu chờ đợi. Cũng vào đêm đó,
kho đạn thành Tuy Hạ trúng pháo kích. Đạn nổ liên tục, cháy sáng rực một
góc trời. Sáng hôm
sau, ngày 27 tháng Tư, hai chiếc tàu quân vận LCM bắt đầu chuyển ra
những máy móc, dụng cụ cùng một số chuyên viên của đài phát thanh Mẹ
Việt Nam đặt tại Vũng Tàu mà chúng tôi có nhiệm vụ đưa về Phú Quốc để
tái phối trí. Đến trưa, tàu HQ từ Vũng Tàu bỗng lũ
lượt kéo ra, duyên đoàn 33 di tản. Một số lên HQ505, một số khác đi
thẳng về Sàigòn. Cần định theo một chiếc tàu dầu về đón thêm gia đình
nhưng lại thôi vì không biết có trở ra được không. Tối đến chúng tôi
nghe tin Sàigòn bị pháo kích.
Sáng
28, từng đoàn trực thăng của Đệ Thất Hạm Đội từ ngoài khơi ào ạt bay
qua, hướng về phía Sàigòn. Ghe chở dân và lính của đủ mọi binh chủng từ
Vũng Tàu tuá ra HQ505
càng lúc càng đông. Một chiếc trực thăng của KQ đáp xuống bong tàu.
Người pilot và gia đình xuống xin đi. Rồi chiếc trực thăng thứ hai đáp
xuống, không còn chỗ đáp cho chiếc thứ ba. Số người chạy ra HQ505 tăng
lên dần. Chiến hạm chỉ khởi hành với 10 ngày lương
thực cho thuỷ thủ đoàn, tôi theo chiếc LCVP vào Vũng Tàu đi mua thêm
thực phẩm. Cách bờ không xa lắm, tiếng súng nổ trên bờ trở nên dữ dội
hơn. Vài viên đạn súng cối rơi ra biển, chúng tôi phải quay trở lại.
Tàu
đánh cá mang cờ Công Giáo từ phía Phước Hải theo nhau kéo từng đoàn ra
khơi, nơi có dáng các chiến hạm thuộc Đệ Thất Hạm Đội. Một số ghe máy
không đủ mạnh cập vào
HQ505, mọi người lên xong, ghe được gài máy thả trôi để nhường chỗ cho
những chiếc khác. Những chiếc ghe mà bình thường là cả một số vốn đầu tư
thật lớn, nuôi sống gia đình ngư dân, giờ bỏ trôi lềnh bềnh đầy biển.
Tôi và Cần với tánh tò mò cố hữu, xin HT cho
xuống một chiếc ghe lớn để tìm thêm thực phẩm. Leo lưới đổ bộ xuống
ghe, nhìn quanh chả còn gì, chỉ vài chai bia lăn lóc trong một góc. Mở
nắp uống một ngụm, bia đắng ngắt, tôi đưa chai lên chọc mấy tên bạn đang
đứng trên đài chỉ huy, rồi quăng xuống biển.
Cần táy máy vô ga cho ghe chạy một vòng nhỏ rồi hai thằng mới chịu leo
lên. Chúng tôi vẫn chưa hết tánh nghịch ngợm trẻ con, nhưng vì lỡ sanh
vào thời loạn nên phải đốt giai đoạn để làm người lớn bất đắc dĩ
(làm SQ nên phải ra cái đều đứng đắn để còn chỉ huy, chỉ hoét mà thôi !!).
Tình
hình thị xã Vũng Tàu càng trở nên hỗn loạn hơn. HQ505 nhận được chỉ thị
ngắn ngủi từ PĐĐ Đ. trên máy truyền tin cho Zulu Tango – vận chuyển tự
do
(đi đâu tùy ý).
Chúng tôi nhìn nhau bỡ ngỡ. Tan hàng rồi sao ?! Trong những băn khoăn,
HQ505 rời Vũng Tàu với cả ngàn người lánh nạn, lên đường đi Phú Quốc như
công tác đã ấn định. Hoàn toàn không biết tình hình bên ngoài, chúng
tôi bàn nhau sẽ lên Phú
Quốc, sát nhập với bất cứ lực lượng nào còn sót lại, tiếp tục nỗ lực
phản công.
Khuya
29 rạng ngày 30 tháng Tư, HQ505 lầm lũi tiến vào Phú Quốc, dự trù ủi
bãi lúc trời sáng. Qua máy phát thanh, tình hình hầu như đã tuyệt vọng.
Trên mọi đài chúng
tôi chỉ còn nghe được lời chiêu dụ của Chuẩn Tướng H. kêu gọi các anh
em binh sĩ buông súng, Hải Quân, Không Quân đem tàu và máy bay về hàng
sẽ được khoan hồng… Có tiếng máy bay văng vẳng trên đầu, chúng tôi vội
vã làm tối chiến hạm vì không còn biết đâu là
bạn, đâu là thù.
Khoảng
1 giờ sáng, một chiếc PCF hấp tấp cặp vào. Gia đình Trung Tá. H. thuộc
căn cứ HQ Phú Quốc và một số anh em Hải Quân lên 505, chiếc PCF qua mũi
chạy trở vào. Vài
phút sau, trên máy truyền tin, ông Tr.Tá H. gọi hỏi thăm gia đình và
cho biết là VC đã liên lạc, yêu cầu bàn giao căn cứ vào sáng hôm sau !
Anh em HQ nào có phương tiện đang tìm cách rời căn cứ, riêng ông Đại Tá
Tư Lệnh đã biến đi từ sớm. Thế là hết, hòn đảo
ở cái chỏm cuối cùng của miền Nam cũng đã mất, chúng tôi không còn đất
dung thân. Trên đường quay ra hải phận quốc tế, HQ505 vớt thêm được một
số dân chúng và anh em binh sĩ ra từ Phú Quốc và các vùng duyên hải.
Trên máy truyền tin chúng tôi được biết một
số chiến hạm hẹn nhau bên ngoài đảo Côn Sơn. HQ505 chuyển hướng đi về
Côn Đảo.
Chiến
hạm lại lâm vào một tình thế nghiêm trọng mới. Một số anh em cơ hữu của
chiến hạm không có gia đình trên tàu, giờ quyết định trở về, và muốn
trở về bằng cả chiếc
HQ505. Có lẽ họ tin vào những lời chiêu dụ khoan hồng đã phát lải nhải
suốt đêm. Tin đồn từ những người tị nạn trên tàu cho biết là một nhóm
anh em cơ hữu bàn việc phá máy và cướp tàu. Không thể không phòng bị, dù
có thể chỉ là tin thất thiệt hay hăm doạ vu
vơ, tôi bàn riêng với vài anh em cơ khí đã cương quyết ra đi để chuẩn
bị, chia phiên canh gác hầm máy. Riêng tôi, Cần và một vài SQ cùng ý
hướng cũng để ý canh chừng cho nhau trong những lúc đi ca, nhất là khi
có vài SQ từ chối lên phiên. Tôi không ngờ rằng
thời thế đã thay đổi cả tình huynh đệ chi binh, cũng may là chưa có
chuyện gì đáng tiếc xảy ra.
Sáng
30 tháng Tư, một chiếc tàu đánh tôm khá lớn với khả năng chở được cả
trăm người cặp vào 505. Sau khi mọi người đã lên hết, chúng tôi thuyết
phục được những người
muốn trở về để sử dụng chiếc tàu này làm phương tiện. Chúng tôi bơm đầy
dầu, tiếp tế nước uống và thực phẩm, cũng như chuyển xuống tàu nhỏ
những bao bố tiền Việt, gồm lương và tiền chợ chiến hạm chưa dùng đến,
cùng với số tiền đóng góp bởi những người tị nạn
trên tàu đã quyết định ra đi và biết rằng những tờ giấy bạc này sẽ
không còn giá trị gì với họ.
Con
tàu nhỏ tháo dây. Những người bạn 505 giờ đứng trên hai chiếc tàu với
hai lộ trình cách biệt, chúng tôi vẫy tay giã từ trong những giòng lệ
ngập ngừng và những miệng
cười gượng gạo. Tôi nhớ mãi hình ảnh Hạ Sĩ Nhất H., chuyên hớt tóc cho
anh em trên chiến hạm. Anh vẫn thỉnh thoảng nấu mì từ những bịch mì vụn
đem theo hay để dành cơm nguội, với những miếng khô cá thiều ngọt bùi
hoặc khô cá sặc đậm đà hương vị miền Tây, mời
tôi ăn những lúc xuống ca vào nửa đêm. Ba bốn đứa chia nhau từng bốc
cơm nguội, khô cá, rồi vấn từng điếu thuốc từ những bánh thuốc rê những
lúc tôi không còn điếu Salem trưởng giả nào sót lại. Anh dơ tay lên mũ
chào tôi bằng cái chào nhà binh với đôi mắt
buồn vời vợi khi hai chiếc tàu từ từ tách ra xa.
Trưa
mùng 2 tháng 5, Côn Sơn đã nằm trong tầm mắt. Từ xa, chúng tôi mừng
khấp khởi khi thấy dáng quen thuộc của cả chục chiến hạm HQVN đủ loại.
Điều quái lạ là các chiến
hạm dường như không di chuyển theo một đội hình nào. Chiếc thả trôi,
chiếc đi ngược, chiếc chạy xuôi. Đến gần hơn chúng tôi mới rõ là những
chiến hạm này đã hoàn toàn bỏ trống. Cùng lúc ấy chúng tôi bắt liên lạc
với một khu trục hạm thuộc Đệ Thất Hạm Đội Hoa
Kỳ, họ cho biết đang trên đường về Subic Bay và sẵn sàng hộ tống chúng
tôi đến nơi. Họ cũng cho biết thêm là một số chiến hạm Hải Quân VN đã
lên đường đi Subic ngày hôm trước sau khi họp nhau bên ngoài Côn Sơn để
dồn người qua những chiến hạm còn trong tình
trạng khả dụng.
Trên
đường đi Subic Bay chúng tôi được tiếp tế thêm thực phẩm nên tình trạng
chung của cả ngàn người trên tàu cũng tương đối thoải mái hơn so với
những ngày trước đó
khi tàu không còn đủ cơm cho tất cả mọi người. Biển lặng, gió êm, cuộc
hành trình đến Phi Luật Tân tương đối ít biến cố, ngoại trừ một cụ già
và một em bé đã qua đời trên chiến hạm vì sưng phổi mà chúng tôi buộc
phải thủy táng. Cái khổ đau của mất mát, chia
ly, cũng xen lẫn với cái vui nho nhỏ của niềm hy vọng mới, sự chào đời
của một em bé gái được bố mẹ đặt tên là Nha Trang, kỷ niệm nơi em sinh
ra trong sự trìu mến đỡ đần của những người lính biển dương vận hạm Nha
Trang HQ505, trong cái nâng niu của những
bàn tay chai lì, gân guốc nhưng tình cảm tràn đầy như biển cả, trầm
lặng nhưng thủy chung và nồng nàn như những dòng nước ấm luân lưu trong
lòng Thái Bình Dương.
oOo
Tháng
4 năm 75 cũng chỉ vỏn vẹn với 30 ngày, nhưng những ấn tượng sâu đậm đến
với tôi trong những ngày công tác đã hằn sâu vào tận cùng tư tưởng, làm
nhạt nhoà hẳn những gì trong ký ức của cả suốt 24 năm
trước đó. Có lẽ chỉ những triết gia mới có thể đem một ý nghĩa, một
triết lý nào đó đến cho những gì chúng tôi đã trải qua trong chuỗi ngày
ngắn ngủi ấy. Những biến cố tháng 4 đã xóa mờ cái vô tư của một thanh
niên, cái nhiệt tình của người Sĩ Quan trẻ, cái
chất lính ở trong tôi. Dù dưới bất cứ một lý tưởng nào, tôi không thể
chỉ nhìn vào chiến tranh với con mắt đơn thuần của một quân nhân. Tôi
tưởng như mình vừa sống qua thêm một đời người, thêm một lần để nhận
thức cái thực chất phù du, bất định của cuộc đời.
Và
một buổi sáng đầu tháng 5 mà tôi không còn nhớ ngày, HQ505 đến Subic
Bay. Trước khi vào vịnh, người Sĩ Quan liên lạc Hoa Kỳ yêu cầu chúng tôi
hạ cờ ! Từ sân sau đài
chỉ huy, với hồi còi lảnh lót, cô đơn, lá cờ vàng ba sọc đỏ được từ từ
kéo xuống. Ngước nhìn lá cờ chậm chậm hạ thấp dần, mắt tôi bỗng mờ đi.
Cúi mặt để giấu những giọt nước mắt đang chảy dài xuống ngực áo nhà binh
bạc màu. Thêm một lần nữa, tôi lại khóc trước
lá quốc kỳ. Trước đây tôi khóc trong cái xúc động nhưng hãnh diện của
lần đầu tiên được nhìn thấy lá cờ vàng kéo lên phất phới, oai hùng trong
tiếng nhạc quốc thiều, trên sân cơ bản thao diễn của quân trường OCS
bên bờ biển Newport. Bây giờ, tôi không biết
vì sao mình đang khóc ! Cho số phận của Việt Nam. Cho những người đã
nằm xuống. Cho những người còn ở lại. Cho chính mình và cho những người
quanh mình vừa chính thức bước vào cuộc đời di tản. Cho ngày hôm qua đã
mất, ngày hôm nay tủi hận và ngày mai mịt mù
như làn sương khói đang vất vưởng che mờ cửa vịnh ?!
Nguyễn Nhật Cường
No comments:
Post a Comment