CÁ HỒI (SALMON).
Trước
hết, để tránh mọi ngộ nhận, xin nói ngay rằng đây là chuyện của cá hồi,
và chỉ riêng có cá hồi mà thôi. Nói theo tiếng Mỹ là cá hồi only. Chớ
còn cá chim, cá chuồn, cá chép, cá chốt, cá lóc, cá lạt, cá lìm kìm, cá
mập, cá mú, cá măng, cá cơm, cá cam, cá cờ, cá trê, cá trích, cá trẻm,
cá heo, cá hương, cá hố, cá lù đù, cá lìm kìm, cá lia thia, cá đổng, cá
đối, cá đèn cầy, cá bè, cá bẹ, cá bống – bất kể là bống kèo hay bống đá –
hoặc bất cứ một loại cá thổ tả nào khác đều hoàn toàn (và tuyệt đối)
không có dính dáng gì tới vụ này.
Cá
hồi sinh ở sông nhưng phần lớn thời gian sống ở biển. Ðặc điểm của loài
cá này là dù có rong chơi phiêu du ở chân trời góc biển nào chăng nữa,
thế nào cũng tìm về nơi chôn nhau cắt rốn để sinh nở.
Cá
hồi Thái Bình Dương (Pacific salmon), sau khi từ giã nếp sống hải hồ,
sẽ không bao giờ trở lại biển cả nữa. Lý do giản dị chỉ vì chúng sẽ chết
sau khi đẻ và cho thụ tinh lứa trứng đầu tiên.
Cá
hồi Đại Tây Dương (Atlantic salmon) thì khác. Chúng có thể đi đi về về
từ sông ra biển và ngược lại nhiều lần mà không hề do dự hay nao núng,
dù khoảng cách phải vượt qua có thể dài đến hàng ngàn dặm, với vô số khó
khăn và chướng ngại. Bản năng về nguồn của cá hồi, tất nhiên, đã được
loài người ghi nhận và khai thác từ lâu. Riêng người Nhật, dân tộc đứng
thứ nhì về kỹ nghệ cá hồi, vẫn đều đặn sản xuất ra thị trường mỗi năm cỡ
một trăm ba mươi ngàn tấn.
Xét
về số lượng, mức sản xuất của người Nhật không hơn người Nga bao nhiêu
và thua xa người Mỹ. Tuy nhiên, cách thức mà dân Nhật bắt cá hồi mới là
điều cần phải được lưu tâm và học hỏi. Họ thiết lập nhà máy đóng hộp cá
hồi ngay ở ven sông. Cũng chính nơi đây cá được nuôi nấng, đẻ trứng, thụ
tinh để mỗi cặp sẽ cho từ hai đến mười ngàn chú cá hồi con ra đời. Sau
đó, chúng sẽ được cho phiêu lưu vào đại dương, để bắt đầu cuộc đời… tha
phương cầu thực. Tùy theo từng loại, cá hồi sẽ sống ở biển từ sáu tháng
đến năm năm.
Nhờ
vào khả năng “cảm” được từ trường của lòng đất và sự chuyển động của
hải lưu, nó sẽ tìm được về chốn cũ. Khi vào gần đến bờ, giác
quan đặc biệt của loài cá này giúp chúng nhớ được đúng hương vị quê nhà
– tức sông xưa bến cũ – và cứ theo đó mà lần về nguồn cội,
đến tận nơi sinh nở. Người ta đặt sẵn nhiều dụng cụ từ cửa sông để giúp
cho cá hồi dễ dàng và mau chóng vào đến nhà máy. Tại đây, họ sẽ tạo ra
một loại chướng ngại vật giả khiến chúng phải phóng lên cao và khi rơi
xuống thì rớt ngay vào một mạng lưới.
Mạng lưới này chuyển động không ngừng, qua nhiều khâu chế biến, để đưa cá từ sông vào… hộp!
Nói
tóm lại là người Nhật thả cá hồi con ra biển, theo kiểu đem con bỏ chợ,
để biển cả nuôi nấng. Rồi khi chúng theo bản năng trở về, họ dụ cho cá
vào nhà máy để đóng hộp và mang bán.
Cách họ kiếm tiền ngó bộ dễ và (chắc) là nhiều. Bởi vậy, có kẻ bắt chước.
Chính phủ Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (tên kêu gọn thường dùng là Việt Cộng) cũng học theo cách làm ăn không vốn gần như vậy. Chỉ khác có 1 chút xíu xiu là họ dùng người để kinh doanh, thay cho cá.
Từ
năm 1978 cho đến năm 1990, bằng hình thức này hay hình thức khác, Việt
Cộng đã “thả” ít nhất là hai triệu người dân ra biển. Người ta ước tính
rằng trên bước đường lưu lạc cứ ba con cá hồi rời bến sông ra đi thì ít
nhất cũng có một con bỏ mạng. Nó trở thành mồi săn cho loài người, cho
loài chim, hoặc những loài cá khác.
Tương tự, trong số hai triệu người Việt phiêu lưu vào biển cả – tối thiểu – cũng phải một phần ba đã vong mạng!
Họ
chết vì bão tố, vì hải tặc, hay vì bị xô đuổi một cách lạnh lùng tàn
nhẫn tại bến bờ của những quốc gia lân cận. Nơi đây thuyền bè của họ
thường bị lôi kéo trở ngược ra khơi. Họ sẽ lênh đênh giữa trời nước bao
la cho đến chết vì không còn tìm được nơi để đến, và cũng không còn đủ
lương thực (cũng như nhiên liệu) để tiếp tục đi. Những kẻ may mắn thoát nạn đều sẽ biến thành cá hồi (theo tinh thần của Nghị quyết 36)
của nhà đương cuộc Hà Nội. Đám dân trôi sông lạc chợ này sẽ bị tận tình
khai thác, và khai thác dài dài, cho đến khi tắt thở, bằng nhiều cách.
Nếu
cá hồi Thái Bình Dương chỉ hồi hương một lần rồi chết thì những thuyền
nhân rời khỏi Việt Nam sau ngày 19 tháng 6 năm 1988 – đã có thời gian
dài sống tạm trú ở những quốc gia Ðông Nam Á – cũng mang số phận y như
vậy. Họ bị cưỡng bách hồi hương và không bao giờ còn có dịp ra đi nữa.
Riêng với những thuyền nhân ở Hồng Kông – khi phần đất này còn thuộc Anh
– Anh Quốc đã thoả thuận trả sáu trăm hai chục Mỹ kim mỗi đầu nguời để
Hà Nội chịu nhận họ trở về, cùng với lời hứa hẹn là họ sẽ không bị hành
hạ hay ngược đãi!
Số
người Việt may mắn hơn, hiện đang phiêu bạt tứ tán khắp bốn phương
trời, có thể được coi như là cá hồi Ðại Tây Dương – giống cá có khả năng
đi đi về về nhiều lần từ sông ra biển và ngược lại. Những kẻ này vẫn
tiếp tục kiếp sống tha phương cầu thực, chăm chỉ cặm cụi kiếm và để dành tiền, rồi hàng năm làm đơn “xin phép” được hồi hương.
*Mỗi “Việt kiều” về thăm quê nhà chắc chắn đều chi trải một số tiền
không phải chỉ là sáu trăm Mỹ kim mà có thể là đến sáu ngàn Ðô la, hay
nhiều hơn nữa.*
Tuổi
Trẻ Online, đọc được vào ngày 7 tháng 1 năm 2010, cho biết: “Theo Ngân
hàng Nhà nước, đến ngày 31-12-2009 kiều hối chuyển về đạt 6.283 tỉ USD,
giảm 12,8% so với năm 2008. Riêng tại TP.HCM, kiều hối năm 2009 đạt 3.2
tỉ USD. Như vậy, kiều hối đã không giảm mạnh do suy thoái kinh tế như dự
báo trước đó.”
Hà
Nội có lý do để hãnh diện về thành quả này – thành quả kinh tế duy
nhất(thực sự) vượt chỉ tiêu – về kỹ nghệ xuất và nhập cảng người, sau
hơn nửa thế kỷ mà họ đã nắm được quyền bính ở Việt Nam. Họ đẩy ra khỏi nước những con nguời cùng quẫn và sôi sục bất mãn, rồi “thu về” những “Việt kiều” yêu nuớc và giàu sang !!
No comments:
Post a Comment