I-Một dân tộc tính của người Việt Nam
Trước
năm 1975, tôi đã được Thẩm phán Huỳnh Khắc Dụng, Chánh Biện Lý Tòa Sơ
thẩm Sài Gòn, chia xẻ một kinh nghiệm bản thân quý báu để cảnh giác tôi
về các trở ngại và hiểm nguy phải đương đầu trong khi làm Giám Sát.
Trong
thời gian du học tại Paris lúc tuổi đôi mươi, chàng thanh niên Huỳnh
Khắc Dụng đã vô cùng tức giận khi đọc một quyển sách của một tác giả
Pháp đã làm việc nhiều năm tại Việt Nam. Ông ta đã viết như sau: người
Việt Nam có nhiều đức tánh tốt như thông minh, siêng năng cần cù làm
việc nhưng cũng có một cố tật mà rất nhiều người Việt mắc phạm: ăn cắp.
Vì tự ái dân tộc, ông Biện lý tương lai đã viết báo phản bác kết luận
có tính cách nhục mạ của tác giả Pháp và thách thức tranh luận công
khai. Ông Pháp “thực dân” đã nhã nhặn mời sinh viên Hùynh Khắc Dụng đến
văn phòng hội kiến nhưng không chấp nhận tranh luận. Ông ta chỉ từ tốn
nói rằng: Thời gian sẽ cho biết ai đúng, ai sai. Ông Chánh Biện Lý Huỳnh
Khắc Dụng đã kết thúc cuộc tiếp kiến tôi với lời thú nhận như sau: Kinh
nghiệm của chức vụ Biện Lý tại Việt Nam đã cho ông ta thấy rõ nhận định
của ông tác giả Pháp “ thực dân” hoàn toàn chính xác.
Nếu bậc đàn anh Huỳnh Khắc Dụng của tôi còn sống đến ngày nay dưới chế độ cộng sản Việt Nam, ông ấy phải bật khóc khi nhận thấy nạn ăn cắp đã lan tràn khắp nước
từ xã ấp đến các doanh nghiệp nhà nước, ngân hàng, phủ bộ, ban Chấp
Hành Trung Ương và bộ Chánh trị đảng Cộng sản Việt Nam. Nạn ăn cắp của
công và của tư đã phát triển có hệ thống dưới ô dù của Đảng và Nhà nước
cộng sản. Hành động tẩu tán mờ ám 16 tấn vàng của Ngân Hàng Quốc Gia
Việt Nam, các hành vi tham nhũng tày trời tại hai tập đoàn Vinashins và
Vinalines cũng như tình trạng nợ xấu không đòi được của các ngân hàng
công và tư là những vụ ăn cắp công quỷ khổng lồ nhưng không ai có trách
nhiệm hình sự và chánh trị, kể cả ông Thủ tướng tên X vẫn ngôi vững như
bàn thạch sau khi triều kiến Phó Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình. Tệ
nạn ăn cắp công quỷ có tổ chức và hệ thống đã trút gánh nặng nợ công lên
đầu đám dân đen và các thế hệ mai sau lãnh trách nhiệm trả các món nợ
khổng lồ vay của các nước ngoài và các định chế tài chánh quốc tế, hiện
đã lên đến trên 120 tỷ USD, trên GDP của cả nước Việt Nam tư bản có cái
đuôi xã hội chủ nghĩa. Quốc nạn tham nhũng trầm trọng đến nỗi bộ Chánh
trị đảng Cộng sản Việt Nam phải kết liểu mạng sống của Thượng tướng Công
An Phạm Quý Ngọ, Thứ trưởng bộ Công An, Ủy viên Ban Chấp Hành Trung
Ương đảng để đóng lại hồ sơ xét xử hai anh em Dương Chí Dũng (Chủ tịch
Tập đoàn Vinalines) và Dương Tự Trọng (Đại tá Công An Thành phố Hải
Phòng) có liên can đến một ủy viên bộ Chánh trị là Bộ trưởng bộ Công An
(Đại tướng Trần Đại Quang). Lợi dụng cố tật ăn cắp của người Việt nam
hiện nay đã phát triển đến mức đáng ngại và xấu hỗ từ trong nước ra đến
các nước ngoài, đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN) đã đưa tham nhũng lên hàng quốc sách
để đảm bảo sự trung thành với Đảng của đại bộ phận cán bộ, đảng viên
cộng sản và tay sai (dân phòng, côn đồ, dư luận viên). Chính Hồ Chí Minh
đã dạy dỗ các đồ đệ: Đạo đức cách mạng là trung thành với Đảng. Đó là
tiêu chuẩn cần phải chứng minh bằng tư tưởng và hành động để được Đảng
trọng dụng và thăng tiến.
Theo các nhà tâm lý học và phạm tội học, tội ăn cắp có nhiều nguyên nhân:
- Nghèo đói thèm ăn, thiếu mặc và vô gia cư;
- Tánh tham lam muốn tích lủy tài sản cho bản thân và con cháu;
- Tánh ích kỹ chỉ biết lo cho bản thân và gia đình, không màng đến sự sống chết, khổ đau của người khác, tình trạng thấp kém của xã hội , đất nước hay dân tộc.
- Tánh khoe khoang, tự phụ, muốn ăn trên ngồi trước, có địa vị cao sang hơn người khác.
Trong
từng giai đoạn, đảng Cộng Sản Việt Nam đã khai thác các nguyên nhân kể
trên để cải tạo nước Việt Nam thành một xã hội ăn cắp, cải biến người
Việt thành những con người vô cảm, không biết thương yêu đồng bào và thờ
ơ với vận mạng của quốc gia dân tộc. Mặt khác, cơ chế và luật pháp của
Cộng sản Việt Nam đã giúp cho cán bộ, đảng viên cộng sản cướp đoạt tài
sản của nhân dân, biển thủ công quỷ, hối lộ và hối mại quyền thế.
Nói
tóm lại, dưới chế độ cộng sản Việt Nam, tánh xấu ăn cắp đã rõ rệt trở
thành một dân tộc tính của người Việt Nam. Dân tộc tính xấu xa nầy đã
nhân lên bội phần trong 40 năm độc tài toàn trị của đảng CSVN trên toàn
cõi nước Việt Nam thống nhứt kể từ ngày Quốc Hận 30 tháng 4 năm 1975.
II - Hướng đi cố định của đảng Cộng Sản Việt Nam
Theo
đuôi Trung Quốc, đảng CSVN đã chuyển đổi từ chủ nghĩa công sản qua chủ
nghĩa tư bản từ năm 1986 với việc áp dụng kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Để khỏi sụp đổ, đảng CSVN bắt buộc phải cởi mở
kinh tế nửa vời nhưng hướng đi của đảng Mafia nầy vẫn không thay đổi: luôn luôn hướng về quyền bính vì quyền làm ra tiền cho Đảng và cán bộ đảng. Từ ngày cướp chánh quyền năm 1945 đến nay, đảng CSVN trước sau như một vẫn bám chặt quyền bính và nắm giữ độc quyền cai trị
trong thời chiến cũng như thời bình, tận dụng đặc quyền chuyên chính
trên cơ sở chủ thuyết Marx-Lenin mặc dầu học thuyết nầy có quá nhiều sai
lầm và đã bị thế giới văn minh vứt bỏ từ thập niên 1990. Vì đặc quyền
đặc lợi, đảng CSVN sẵn sàng hy sinh tất cả, kể cả đất nước và dân tộc Việt Nam.
1-Dưới thời Hồ Chí Minh (1945-1969)
Muốn có quyền bính, đảng CSVN phải tình nguyện làm tay sai cho ngoại bang
từ việc thành lập đảng tại Hong Kong năm 1930 theo chỉ thị của Tổng Bí
thơ đảng Cộng sản Liên Xô Josef Stalin đến việc cầu xin viện trợ quân sự
của Trung Quốc từ năm 1950 để tiến hành hai cuộc chiến tranh nồi da xáo
thịt nhằm mục đích áp đặt chủ nghĩa cộng sản tại Việt Nam và bành
trướng ảnh hưởng của hai đế quốc cộng sản Nga Hoa tại Đông Nam Á trong
thời kỳ Chiến Tranh Lạnh (1948-1991). Lãnh tụ Hồ Chí Minh của đảng CSVN
tức Thiếu tá Hồ Quang của Quân đội Nhân Dân Giải Phóng Trung Quốc là cán
bộ của Đệ tam Quốc tế Cộng sản và đảng viên của đảng Cộng sản Trung
Quốc. Với tư cách cán bộ cộng sản quốc tế, Hồ Chí Minh đã trung kiên
phục vụ hai đế quốc cộng sản Nga Hoa, triệt để thi hành các chủ trương
và đường lối của Josef Stalin và Mao Trạch Đông nhưng chẳng hề quan tâm
gì đến sự sinh tồn của dân tộc Việt và số phận bi đát của Tổ quốc Việt
Nam. Điều nầy rất dễ hiểu. Nhiệm vụ được
đảng Cộng sản Trung Quốc giao
phó cho Hồ Quang là liên tục gây ra chiến tranh và tàn sát thật nhiều
người Việt, nhứt là trí thức, nhân tài và tinh hoa của nước Việt
để áp đặt chế độ cộng sản trên bán đảo Đông Dương và tái lập ảnh hưởng
của nước Tàu đối với Việt Nam đã mất từ khi Pháp quốc xâm chiếm thuộc
địa (Colonie) Nam kỳ (Cochinchine) năm 1962 và đặt nền Bảo Hộ
(Protectorat) đối với An Nam (Trung kỳ) và Bắc kỳ (Tonkin) trên cơ sở
hai hoà ước 1874 và 1884.
Theo
ngôn ngữ của đảng CSVN, Hồ Chí Minh là “Cha Già” của dân tộc Việt Nam,
người sáng lập đảng Cộng sản và rèn luyện cán bộ, đảng viên cộng sản.
Triệt để chấp hành nhiệm vụ do đảng Cộng sản Trung Quốc ủy thác từ năm
1940, Hồ Chí Minh ra lệnh cho bộ máy tuyên truyền bịp bợm của Trần Huy
Liệu kích động lòng yêu nước nhiệt thành của nhân dân Việt Nam để tham
gia cuộc “chiến tranh giải phóng dân tộc” (1945-1954) khỏi ách thống trị
của thực dân Pháp và khởi phát cuộc “chiến tranh chống Mỹ cứu nước”
(1954-1975) với chiêu bài “thống nhứt đất nước”. Thực hiện âm mưu thâm
độc của người Tàu, Thiếu tá Hồ Quang đã tận dụng hai cuộc nội chiến kéo
dài 30 năm (1945-1975) để tàn phá đất nước Việt Nam, giết chết cả chục
triệu quân dân Việt, tiêu diệt trí thức và gây ra hận thù, chia rẽ trong
tâm tư của đồng bào con cháu Âu Cơ và Lạc Long Quân.
Say mê quyền bính, đảng CSVN đã cướp chánh quyền năm 1945 từ Nội các Trần Trọng Kim và Hoàng đế Bảo Đại trong khi nước Việt Nam đã thu hồi độc lập và thống nhứt
từ ngày Hoàng đế Bảo Đại công bố bản Tuyên ngôn Độc lập lần thứ nhứt
(11-3-1945) và tống đạt bản Tuyên ngôn nầy cho Đại sứ Nhựt Yokoyama
Masayuki, nhân vật có thực quyền sau khi Nhựt đảo chánh Pháp ngày
9-3-1945. Nắm giữ quyến bính, đảng CSVN đã ra tay trấn áp và tiêu diệt
lãnh tụ các tôn giáo và chánh đảng, các trí thức không chấp nhận chủ
trương độc tài đảng trị của nhà cầm quyền cộng sản. Vụ Ôn Như Hầu là một
điển hình của hành đông thủ tiêu đối lập của Việt Minh cộng sản tại Hà
Nội mặc dầu ngoài mặt, Hồ Chí Minh vẫn kêu gọi :
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết”
“Thành công, thành công, đại thành công”
Để
chia xẻ quyền bính với Pháp và có chánh danh một phần nào, ngụy quyền
cộng sản đã ký Tạm Ứớc ngày 6-3-1946 rước quân Pháp đổ bộ lên Hải Phòng,
tiến chiếm Hà Nội, Cao Bằng, Lạng Sơn nhằm mục đích tiêu diệt Việt Nam
Quốc Dân đảng và các chánh đảng quốc gia khác (Đại Việt Quốc Dân đảng,
Đại Việt Duy Dân v.v…) sau khi quân đội của Lư Hán rút về Tàu. Năm 1946,
Chủ tịch Hồ Chí Minh giải tán chánh phủ liên hiệp Quốc-Cộng. Võ Nguyên Giáp
với tư cách Bộ trưởng Nội Vụ ban hành nghị định đặt Việt Nam Quốc Dân
Đảng ngoài vòng pháp luật và bí mật chỉ thi cán bộ cộng sản trong toàn
quốc tiến hành chánh sách khủng bố trắng. Vô số tinh hoa của dân tộc và nhân tài của đất nước đã bị Việt Minh cộng sản giết chết.
Trong ba năm đầu của công cuộc toàn dân kháng chiến chống sự trở lại
của quân Pháp, khởi đầu tại Nam kỳ vào tháng 9 năm 1945 với tầm vong vạt
nhọn, Việt Minh đã ra tay sát hại các lãnh tụ và nhân vật có khả năng
qui tụ và thuyết phục quần chúng: Huỳnh Phú Sổ (Giáo chủ Phật Giáo Hòa
Hảo), Phạm Quỳnh (Thượng thơ), Ngô Đình Khôi (Tổng Đốc), Nguyễn văn Sâm
(Khâm sai đại thần), Trương Tử Anh (Đại Việt Quốc Dân đảng), Lý Đông A
(Đại Việt Duy Dân đảng), Khái Hưng Trần Khánh Giư (Việt Nam Quốc Dân
đảng), Nhượng Tống (VN Quốc Dân Đảng), Bùi Quang Chiêu (đảng Lập Hiến),
Hồ văn Ngà (đảng Quốc Gia Độc Lập), Tạ Thu Thâu (Đệ tứ Cộng Sản Quốc
tế), Phan văn Hùm (Đệ tứ Cộng sản quốc tế), Trần văn Thạch (Đệ tứ Cộng
sản quốc tế), Luật sư Huỳnh văn Phương, Luật sư Dương văn Giáo, Giáo sư
Lê Bá Cang,vợ chồng Bác sĩ Hồ Vĩnh Ký, Lê văn Tình, Đào Sanh Long,
Hoàng Thọ v.v…
Lời
nói của một “trí thức” cộng sản trong nước rằng ngay từ đầu đảng Cộng
Sản đã không tranh giành quyền bính với ai là một sự ngụy biện và xuyên
tạc lịch sử một cách trắng trợn. Cái lưỡi gổ ấy có biết rằng ngay từ năm
1946, Việt Minh cộng sản đã cấp tốc gởi từ miền Bắc vào miền Nam Lê Đức
Thọ, Mai Chí Thọ, Nguyễn văn Linh, Hạ Bá Cang (tức Hoàng Quốc Việt,
Nguyễn Bình (tức Nguyễn Phương Thảo) và Trần văn Trà để phối hợp với Lê
Duẫn độc chiếm quyền lãnh đạo kháng chiến tại Nam bộ. Từ 1946 đến 1955,
Lê Duẫn và Lê Đức Thọ là hai hung thần cộng sản có toàn quyền sinh sát tại các vùng kiểm soát của Việt Minh ở miền Nam.
Sự tận dụng bạo lực của Việt Minh cộng sản để chiếm giữ quyền bính bất chấp thủ đoạn đã chia rẻ trầm trọng dân tộc Việt Nam
và là nguyên nhân của cuộc nội chiến lần thứ nhứt (1945-1954) giữa
người Việt quốc gia và người Việt cộng sản, một cuộc đối đầu đầy máu và
nước mắt mà Vua Bảo Đại đã cố tránh khi thoái vị ngày 23-8-1945.
(Xem Wikipedia, Chiếu chỉ thoái vị của Hoàng đế Bảo Đại công bố ngày 25-8-1945)
Sau
ngày 19-12-1946, Việt Minh đã bị quân Pháp đánh đuổi khỏi Hà Nội, chạy
trở về núi rừng Việt Bắc. Ở trong Nam, Việt Minh đã phải co cụm về một
vài mật khu ở vùng rừng núi miền Đông, Đồng Tháp Mười và rừng tràm U
Minh Cà Mau. Mặc dầu nước Pháp trao trả độc lập cho Quốc gia Việt Nam
(État du Vietnam) dưới quyền lãnh đạo của cựu Hoàng Bảo Đại căn cứ theo
Hiệp ước Vịnh Hạ Long ký kết năm 1948 được bổ túc bởi Hiệp ước Điện
Élysée ký kết năm 1949, Hồ Chí Minh vẫn tiếp tục chiến tranh. Để thực
hiện giấc mơ quyền bính, Hồ Chí Minh đã đi sang
Trung Quốc và Liên Xô cầu viện năm 1950 và 1951. Đáp ứng thỉnh cầu của
Hồ Chí Minh, Josef Stalin đã giao cho Trung Quốc “phụ trách Việt Nam” để
tiếp tục chiến tranh. Phụ trách (in charge) nghĩa là lãnh đạo. Nhờ viện
trợ quân sự của Trung Quốc, sự tham chiến của quân Tàu dưới quyền chỉ
huy của Đại tướng Trần Canh và Thượng tướng Vi Quốc Thanh và chiến thuật
biển người, Việt Minh đã chiến thắng liên quân Pháp-Việt tại Cao Bằng
(1950) và Điện Biên Phủ (1954), kết thúc cuộc nội chiến lần thứ nhứt mà
đảng CSVN khoe là chiến tranh giành độc lập và giải phóng dân tộc do
đảng tài tình lãnh đạo dưới ánh sáng của chủ nghĩa Marx-Lenin. Căn cứ
hiệp định đình chiến ký kết tại Geneve ngày 20-7-1954, nước Việt Nam được phân chia ra hai nước độc lập
với hai chánh thể khác nhau tại vĩ tuyến 17 theo quyết định của Thủ
tướng Trung Quốc Chu Ân Lai. Hồ Chí Minh được trở về Bắc bộ phủ ngự trị
miền Bắc và thành lập chế độ độc tài chuyên chế xã hội chủ nghĩa trước
khi ban hành hiến pháp 1959. Chưa thỏa mãn với độc quyền cai trị miền
Bắc, Hồ Chí Minh còn muốn áp đặt quyền bính trên cả nước Việt Nam. Với
sự cấu kết của Lê Duẫn, Lê Đức Thọ và Nguyễn Chí Thanh, Hồ Chí Minh đã
phát động cuộc nội chiến lần thứ hai (1954-1975) dưới chiêu bài giả dối
“thống nhứt đất nước”. Thất vọng ê chề vì thất bại trong trận Tổng Công
kích Tết Mậu Thân (1968), Hồ Chí Minh đã đi xuống tuyền đài ngày
2-9-1969 trong khi chưa được ngồi chểm chệ trên ngôi vua của cả nước
Việt Nam.
- Dưới thời Lê Duẫn (1969-1986)
Lê
Duẫn là một công nhân Hỏa Xa, học lực lớp Tư (Cours Élémentaire) trường
sơ cấp thời Pháp thuộc. Học trò của Lê Hồng Phong, Lê Duẫn nắm được các
nhược điểm và bí mật của Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp. Trình độ văn
hóa hạn chế nhưng Lê Duẫn là một người cộng sản cuồng tín có nhiều thủ
đoạn và rất tàn nhẫn. Quyền bính và quyền lợi cũng là mục tiêu tối hậu của nhân vật nầy. Thật vậy, Lê Duẫn đã cùng Lê Đức Thọ và Nguyễn Chí Thanh chủ trương xâm lăng Việt Nam Cộng Hòa để chiếm đoạt các tài nguyên dồi dào của miền Nam
vì ông ta biết rõ miền đất tự do ở phía Nam của Tổ quốc rất phồn vinh.
Không khác Hồ Chí Minh, Lê Duẫn cũng có tham vọng trở thành ông vua của
một nước Việt Nam thống nhứt bằng bạo lực để tận hưởng uy quyền vô đối
và quyền lợi không ai sánh bằng, trong đó có năm thê bảy thiếp và một
đứa con mọn khi đi chữa bịnh trên bờ biển Sochi của Hắc Hải.Tinh thần
giáo điều và vô tổ quốc của Lê Duẫn đã thể hiện rõ rệt qua lời tuyên bố
trắng trợn như sau:
“
Chúng ta đánh Mỹ không phải đánh cho chúng ta mà đánh cho Trung Quốc,
cho Liên Xô và cho cả hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa”.
( Xem Vũ Thư Hiên, Đêm Giữa Ban Ngày, Nhà Xuất bản Văn Nghệ, California,USA)
Qua lời tuyên bố kể trên của Lê Duẫn, cuộc xâm lăng Việt Nam Cộng Hòa không phải nhằm mục đích thống nhứt đất nước và giải phóng nhân dân miền Nam khỏi “ách thống trị của đế quốc Mỹ”.
Võ
Nguyên Giáp cũng đã viết hồi ký tố cáo sự vô cảm của Lê Duẫn đối với số
tổn thất binh sĩ to lớn trong trận Cổ Thành Quảng Trị năm 1972 khi ông
ta đập bàn ra lịnh phải tiếp tục đánh bất chấp số thương vong của bộ đội
Bắc Việt.
Giống
như Minh Thái tổ Chu Nguyên Chương, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân vật
tiểu thuyết Xuân tóc Đỏ, Lê Duẫn có số đỏ. Sự thay đổi chiến lược toàn
cầu của Hoa Ký trong thập niên 1970 đã chuyển giao miền Nam Việt Nam cho
Bắc Việt cộng sản và đặt Lê Duẫn lên ngai vàng của nước Viêt Nam thống
nhứt dưới chế độ xã hội chủ nghĩa toàn trị độc đảng.
Sau
khi chiếm đóng miền Nam ngày 30-4- 1975, Lê Duẫn đã không có thái độ
cao thượng như Đại tướng chiến thắng Ulysses Grant (1822-1885) tôn trọng
Đại tướng chiến bại Robert Lee (1807-1870) và tạo điều kiện thuận lợi
cho hòa giải dân tộc Mỹ sau cuộc nội chiến. Trái lại, với thái độ huênh
hoang tự đắc của kẻ tiểu nhơn, Lê Duẫn đã xem Việt Nam Cộng Hòa là một
nước chiến bại, tài sản của Nhà nước, các ngân hàng công và tư, xí
nghiệp quốc doanh, công ty hợp doanh, sĩ quan, viên chức, cán bộ của
chánh quyền miền Nam là chiến lợi phẩm của kẻ thắng trận. Không khác các chiến binh trong thời thượng cổ, cán bộ, đảng viên cộng sản đã tham lam cướp đoạt tài sản của
Nhà nước và quân, cán, chánh Việt Nam Cộng Hòa để nhanh chóng trở thành
những nhà tư sản. Riêng Lê Duẫn và bộ Chánh trị đảng CSVN đã được
Nguyễn văn Hảo, cựu Phó Thủ tướng VNCH, dâng lên 16 tấn vàng của Ngân
Hàng Quốc Gia Việt Nam. Số trử kim nầy do “thực dân” Pháp chuyển giao
cho chánh phủ Quốc Gia Việt Nam khi thành lập Ngân hàng Quốc Gia năm
1948 để đảm bảo gíá trị của đồng bạc Việt Nam. Sau 40 năm giấu diếm và
đổ tội cho cố Tổng Thống VNCH Nguyễn văn Thiệu, nhà cầm quyền cộng sản
năm 2015 đã công khai thú nhận đã chở qua Liên Xô 40 tấn vàng (gồm có 16
tấn vàng của Ngân hang Quốc Gia Việt Nam và 24 tấn vàng của tư nhân
miền Nam bị cộng sản tịch thâu năm 1975) để trả nợ cho Liên Xô một phần
và bán ra thị trường quốc tế phần còn lại. Nhờ vậy, con của Lê Duẫn đã
trở thành đại gia số 1 của thành phố Sài Gòn hiện nay.
Của
công đã trở thành của tư dưới thời cộng sản! Một sớm một chiều, những
người cộng sản chủ trương vô sản hóa nhân dân đã trở thành những nhà tư
sản có tài sản kếch xù. Người cộng sản, nhà giàu mới xã hội chủ nghĩa
(les nouveaux riches socialistes) không còn xem nhà giàu là kẻ thù của
dân tộc như trước khi đánh chiếm Sài Gòn. Chiến tranh đã giúp cho người
cộng sản Việt Nam thực hiên được một thành quả cướp bóc trong bản “Quốc
tế ca” : “Tất cả lợi quyền ắt thuộc về Ta”
Sau
“chiến dịch”cướp đoạt chiến lợi phẩm, nhà cầm quyền cộng sản lập tức tù
đày không bản án cả triệu quân, cán, chánh VNCH, tiến hành các biện
pháp đổi tiến, đánh tư sản mại bản, cải tạo công thương nghiệp, hợp tác
hóa nông nghiệp, xây dựng vùng kinh tế mới để vô sản hóa “ngụy dân” miền
Nam, đánh sập nền kinh tế thị trường của Việt Nam Cộng Hòa và đuổi các
nhà tư sản đi vùng Kinh tế mới để cướp đoạt tài sản, xe cộ, nhà cửa. Các
biện pháp thất nhân tâm nầy đã gây vô vàn khó khăn cho đời sống nhân
dân miền Nam nhưng đã tăng thêm bội phần tài sản của cán bộ đảng viên
cộng sản. Ngoài ra, việc tổ chức vượt biên bán chánh thức và lén lút để
bán người ra ngoại quốc đã đem lại cho bộ Chánh trị đảng CSVN và cán bộ
đảng viên vô số vàng khối, quý kim và đô la.
Che đậy dưới các mỹ từ “thống nhứt đất nước” và “đánh Mỹ cứu nước”, việc thôn tính miền Nam đã gia tăng quyền bính của các lãnh tụ, cán bộ cộng sản trên cả nước và biến cải họ trở thành những nhà đại tư sản trong khi quảng đại quần chúng nghèo đói và hoàn toàn mất tư do.
GDP của Việt Nam dưới thời Lê Duẫn chỉ là một tỷ USD. Tỷ lệ lạm phát lên đến 1000%.
3- Dưới thời các Tổng Bí thơ Nguyễn văn Linh, Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh và Nguyễn Phú Trọng (từ 1986 đến nay)
Trước
sự sụp đổ tất yếu của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, đảng CSVN đã bắt
chước Trung Cộng đổi mới kinh tế một cách nửa vời để cứu đảng: áp dụng
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nói cách khác,
thông qua các doanh nghiệp nhà nước và các ngân hàng do cán bộ, đảng
viên điều khiển, đảng CSVN kiểm soát tất cả các ngành hoạt động kinh tế chủ yếu có nhiều lợi nhuận trong khi vẫn nắm giữ chặt độc quyền lãnh đạo chánh trị.
So với khu vực quốc doanh khổng lồ và đầy thế lực, khu vực tư doanh rất
nhỏ bé và không được sự nâng đỡ từ Nhà nước và các ngân hàng công, tư.
Trong
nền kinh tế tư bản lai căn xã hội chủ nghĩa, quyền bính đã tạo ra quá
nhiều đặc lợi vô cùng to lớn cho cán bộ đảng viên cộng sản. Chính nền
kinh tế tư bản nửa vời nầy đã sản sanh ra các đại gia và giai cấp tư bản đỏ
tại Việt Nam. Hai đại gia có máu mặt tại Sài Gòn hiện nay là một người
con cả của cố Tổng Bí thơ Lê Duẫn và một người con rơi của cố Thủ tướng
Võ văn Kiệt. Tại tỉnh Bình Dương, đại gia Dũng Lò Vôi, chủ nhân của Đại
Nam Quốc Tự, đã phất lên từ nghèo đói nhờ có liên hệ với Nguyễn Minh
Triết, cựu Bí thư Tỉnh ủy Bình Dương và Thành ủy Sài Gòn, cựu Chủ tịch
nước. Mọi cư dân tỉnh Bình Dương đều biết ông Sáu Phong hiện nay là một
đại địa chủ và ông cựu Chủ tịch Ủy Ban Nhân dân tỉnh nhà có vài trăm mẫu
cao su. Vì vậy, đảng CSVN phải luôn luônbám chặt quyền bính với bất cứ giá nào để bảo vệ quyền lợi riêng của tổ chức và đảng viên. Khi còn làm Chủ tịch nước, Nguyễn Minh Triết đã thành thật nói rằng “bỏ điều 4 hiến pháp là tự sát” .
Muốn đảm bảo sự trung thành của cán bộ đảng viên, đảng CSVN thường dùng món mồi quyền lợigiống
như Hồ Chí Minh nuôi cá và cán bộ theo thí nghiệm của khoa học gia Nga
Ivan Pavlov (1849-1936) đối với các loài vật. Quyền lợi có thể là chức
quyền, tiền bạc, sổ hưu v.v…Nhằm mục đích nầy, Tổng Bí thư Đỗ Mười, một
người cộng sản cuồng tín hai lần chỉ huy đánh tư sản, đã chánh thức đưa
ra hai khẩu hiệu khác lạ sau khi công du Đại Hàn và được Tổng Thống nước
tư bản nầy tặng cho một triệu USD:
“ Tất cả để làm giàu” (thay vì làm giàu là bóc lột người nghèo, là có tội với nhân dân)
“ Làm giàu là vinh quang (thay vì lao động là vinh quang)
Xuất
thân thợ thiến heo, Tổng Bí thơ cộng sản giáo điều và cực đoan Đỗ Mười
đã không còn hò hét đánh tư sản nữa vì ông ta đã có một chuổi khách sạn 5
sao từ Nam chí Bắc.
Để
giúp cán bộ đảng viên cộng sản làm giàu nhanh chóng, đảng CSVN đã công
khai ra quyết nghị cho phép đảng viên kinh doanh và mời các doanh nhân
giàu có gia nhập đảng Cộng sản giống như Trung Cộng. Hơn thế nữa, đảng
CSVN còn cho phép cán bộ ở các địa phương cướp ruộng đất của dân đen
bằng biện pháp cưỡng chế thu hồi đất, vận dụng bộ đội, Cảnh sát Cơ động
võ trang tận răng và băng đảng xã hội đen.
Theo đuổi mục đích quyền bính và quyền lợi,
các Tổng Bí thơ đảng CSVN sau năm 1986 đã kế tiếp nhau lợi dụng các
hiến pháp 1980,1992 và 2013 cũng như cả rừng luật pháp xã hội chủ nghĩa
để ngày càng củng cố quyền lãnh đạo độc tài toàn trị của đảng trong thời
bình, bóp nghẹt các quyền tự do dân chủ của nhân dân, chà đạp nhân
quyền, dìm cả nước trong tình trạng nghèo nàn chậm tiến so với các nước
tự do dân chủ trong vùng Đông Nam Á. Để nhận được sự hậu thuẫn của Trung
Cộng, đảng CSVN đã chuyển nhượng một phần đáng kể lãnh thổ cho đế quốc
Đại Hán và âm thầm tiếp tay với thiên triều Bắc kinh cải biến nước Việt
Nam thành một tỉnh hoặc một khu tự trị của Trung Cộng.
III - Cái giá phải trả cho hướng đi cố định của đảng CSVN
Dân tộc Việt Nam đã, đang và sẽ phải trả một cái giá quá đắt cho hướng đi cố định của đảng CSVN:vĩnh viễn chiếm giữ quyền bính để tích lủy lợi ích càng nhiều càng tốt cho bản thân, con cháu và gia tộc của họ.
1-Dưới
thời Hồ Chí Minh (1945-1969), đảng CSVN bắt đầu bán nước lần thứ nhứt:
công nhận chủ quyền của Trung Quốc trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa.
Thật
vậy, ngày 4-9-1958, Quốc Vụ Viện Trung Quốc tuyên bố lãnh hải của Trung
Quốc là 12 hải lý bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Thủ
tướng Phạm văn Đồng, một phụ tá tâm phúc của Hồ Chí Minh, lập tức gởi
công hàm đề ngày 14-9-1958 công nhận quyết định của Trung Quốc.
Trước đó, ngày 9-5-1955, Ung văn Khiêm, Thứ trướng bộ Ngoại Giao của
miền Bắc cộng sản đã tuyên bố rằng theo các tài liệu của Việt Nam, quần
đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Trung Quốc.
Trong 40 năm làm Thủ tướng, Phạm văn Đồng đã giấu kín công hàm đề ngày
14-9-1958 và không chuyển văn kiện nầy đến Quốc Hội của miền Bắc. Công
hàm bán nước của Thủ tướng Phạm văn Đồng nhằm mục đích trả món nợ viện trợ quân sự
từ 1950 của Trung Cộng đã giúp đưa Hồ Quang, một đảng viên của đảng
Cộng Sản Tàu, trở về ngôi Chủ tịch Bắc bộ phủ năm 1954. Công hàm nầy đã
chuyển nhượng cho Trung Quốc tất cả tài nguyên của Biển Đông bao gồm hải
sản, rong biển, dầu khí và khoáng sản dưới đáy biển và ngăn chận quyền
đi ra hải phận quốc tế của tàu thuyền Việt Nam, đồng thời khước từ lợi
thế và lợi lộc của một quốc gia có trên 3,000 kí lô mét bờ biển. Hành
động bán nước nầy của Phạm văn Đồng và đảng CSVN đã để lại một di hại
trầm trọng cho đất nước Việt Nam.
Quyền
lợi tối cao của Tổ quốc đã bị hy sinh vì quyền lợi riêng tư ích kỷ của
Hồ Chí Minh và đảng CSVN! Do đó, đại bộ phận người Việt ở trong và ngoài
nước nghĩ rằng Hồ Chí Minh thật sự là Hồ Tập Chương,
một người Hoa đã tham dự vào việc thành lập đảng Cộng Sản Việt Nam năm
1930 tại Hong Kong theo lịnh của Josef Stalin cùng với 6,7 người Việt
trong số đó có Nguyễn Ái Quốc (tức Nguyễn Tất Thành).
2-Dưới thời Tổng Bí
thơ Nguyễn văn Linh
(1986-1991), Nguyễn văn Linh (Tổng Bí thơ), Đỗ Mười (Thủ tướng) và Phạm
văn Đồng (Cố vấn) đã đi Thành Đô (Tứ Xuyên) năm 1990 thần phục Trung
Quốc và cam kết chấp nhận các điều kiện của Chủ tịch Trung Quốc Giang
Trạch Dân để chống lưng cho đảng CSVN tiếp tục cầm quyền: Sát nhập Việt
Nam vào Trung Quốc với cương vị một Tỉnh hoặc một Khu Tư trị trong thời
hạn 30 năm kể từ năm 1990.
(Xem
Vikileaks tiết lộ một bản văn của Tòa Đại sứ Hoa Kỳ tại Hà Nội, biên
bản một buổi họp của Tổng Cục Tình Báo Hoa Nam đăng trên Nhụt báo Sài
Gòn Nhỏ số 226 ngày 3-7-2009 và sách Việt Nam Ngày Mai của tác giả Phạm
Đình Hưng xuất bản năm 2009)
Quyền
bính và quyền lợi đã sai khiến đảng CSVN lần lượt dâng cho Trung Cộng
toàn bộ Tổ quốc thân yêu đã được tiền nhân gầy dựng và bảo vệ bằng xương
máu của biết bao thê hệ. Như vậy, các lãnh tụ của đảng CSVN là người
yêu nước hay bán nước?
2-Duới thời Tổng Bí thơ Lê Khả Phiêu
(1997-2001), Việt Nam cộng sản đã ký kết với Trung Quốc hai hiệp ước
bất bình đẳng theo chỉ thị của ông lãnh tụ đảng CSVN đã bị Trung Quốc
gài bẫy có con với cô xẩm chân dài Trương Mỹ Vân:
-
Hiệp ước Biên giới ký ngày 31-12-1999 chuyển nhượng cho Trung Quốc gần
1,000 kí lô mét vuông đất liền dọc theo biên giới Việt-Hoa, trong đó có
Ãi Nam Quan, thác Bãn Giốc, suối Phi Khanh, bãi Tục Lãm, cao điểm Lão
Sơn trong tỉnh Hà Giang;
-
Hiệp ước Vịnh Bắc Việt (Gulf of Tonkin) ký kết ngày 25-12-2000 chuyển
nhượng thêm cho Trung Quốc trên 12,000 kí lô mét vuông biển trong Vịnh
Bắc Việt so với hiệp ước Pháp-Thanh ký kết năm 1887 giữa Patenôtre, đại
diện Pháp quốc và Lý Hồng Chương, đại diện Đại Thanh.
Cả hai hiệp ước nầy đều đã được Quốc Hội bù nhìn của nước Việt Nam cộng sản phê chuẫn.
Ngoài
hai hiệp ước kể trên, Việt Nam cộng sản còn ký kết với Trung Quốc một
hiệp ước hợp tác đánh cá nhưng đã xem hiệp ước nầy là một hợp đồng không
cần được Quốc Hội duyệt xét. Hiệp ước hợp tác đánh cá cho phép tàu
thuyền Trung Quốc đánh cá trong lãnh hải 12 hải lý và vùng đặc quyền
kinh tế 200 hải lý của Việt Nam.
Sau
khi hiệp ước Vịnh Bắc Việt được ký kết, Thủ tướng Trung Quốc Chu Dung
Cơ đã thưởng bộ Chánh trị đảng CSVN 2 tỷ USD, xem như mua một diện tích
biển quan trọng của Việt Nam trong Vịnh Bắc Việt có nhiều cá và dầu khí.
Nội số tiền thưởng nầy của Chu Dung Cơ đủ đảm bảo cho Thượng tướng Lê
Khả Phiêu một cuộc sống vương giả hiện nay tại Hà Nội sau khi mất chức
Tổng Bí thơ đảng Cộng Sản. Trung Quốc đã bắt đầu khai thác khai thác một
số mõ dầu khí quan trong trong Vịnh Bắc Việt.
Nói tóm lại, lãnh thổ Việt Nam trên đất liền, trong Vịnh Bắc Việt (Gulf of Tonkin) và ngoài Biển Đông (South China Sea) đã bị thu hẹp trong thời kỳ gọi là độc lập và dân chủ dưới
quyền thống trị chuyên chế của đảng CSVN. Sự toàn vẹn lãnh thổ của nước
Việt Nam đã bị đảng Cộng sản hy sinh không chối cải.
3-Dưới thời Tổng Bí thơ Nông Đức Mạnh (2001-2011),
con tư sinh của Hố Chí Minh, lãnh thổ Việt Nam trên đất liền lại bị thu
hẹp thêm bởi các hợp đồng trá hình của hiệp ước:
-
Hợp đồng khai thác bauxite tại Tân Rai (tỉnh Lâm Đồng) và Nhân Cơ (tỉnh
Dak Nong) với chuyên viên và công nhân Tàu đem từ Trung Quốc qua Cao
nguyên Trung phần;
-
Hợp đồng cho thuê các rừng đầu nguồn tại nhiều tỉnh để cho phép người
Tàu đến Việt Nam trồng rừng, lập làng và định cư vĩnh viễn;
-
Hợp đồng cho thuê đất để thành lập các thành phố Tàu trên khắp nước
Việt Nam như Đông Đô Đại Phố tại tỉnh Bình Dương, Khu tự trị Formosa ở
Hà Tỉnh. Các thành phố Tàu nầy sẽ là đất tự trị của người Tàu hay là tô
giới Tàu trên đất nước Việt Nam.
Trong
tương lai, các làng xã, thành phố Tàu thành lập tại Việt Nam từ Bắc chí
Nam và các nhượng địa (concessions) cho Trung Quốc khai thác bauxite
trên Cao nguyên Trung phần (Lâm Đồng và Dak Nông) có thể được sách động
đòi sát nhập vào mẫu quốc Trung Hoa với hậu thuẫn của chánh quyền Trung
Cộng giống như nước Nga thôn tính bán đảo Crimea của Ukraina, thực hiện
tham vọng bành trướng đế quốc Nga của Tổng Thống Nga Vladimir Putin vào
đầu năm 2014.
- Hợp đồng thực hiện các dự án đầu tư lớn của Việt Nam với chuyên viên và công nhân Tàu.
Để
ký kết hợp đồng khai thác bauxite trên Cao nguyên Trung phần, Trung
Quốc đã tặng 300 triệu USD cho Tổng Bí thơ Nông Đức Mạnh. Nhờ sự “hào
phóng” của Trung Quốc, người dân tộc thiểu số Choang trong tỉnh Quảng
Tây, con tư sinh của Hồ Chí Minh và Nông thị Ngác đã không quan tâm đến vị trí chiến lược của Cao nguyên Trung phần
và không cần biết đến sự ô nhiễm môi sinh cũng như các đe dọa của bùn
đỏ đến sức khoẻ của cư dân miền Đông Nam phần và thành phố Sài Gòn.
Quyền
bính và quyền lợi riêng của đảng và cán bộ đảng viên đã giữ vững hướng
đi cố định của Nhà nước và đảng CSVN trong thập niên đầu của thế kỷ 21,
bất chấp sự mất còn của Tổ quốc.
4-Dưới thời Tổng Bí Thơ Nguyễn Phú Trọng (từ 2011 đến nay), mục tiêu đặc quyền đặc lợi của đảng CSVN vẫn không thay đổi.
Tiến
sĩ xây dựng đảng Nguyễn Phú Trong có trình độ về chủ thuyết cộng sản
cao hơn các người tiền nhiệm nhưng ông ta vẫn nhắm mắt không thấy những
biến chuyển trọng đại trên thê giới từ năm 1989. Giống như một người bị
kềm chế bởi thần chú từ phương Bắc, Tổng Bí thơ Nguyễn Phú Trọng đã
không quan tâm đến các hệ lụy của chủ nghĩa công sản và không thay đổi
hướng đi của đảng CSVN: đặt nặng quyền bính và quyền lợi của đảng và cán bộ đảng viên cộng sản
trên quyền lợi tối cao của Tổ Quốc Việt Nam. Thật vậy, ông Nguyễn Phú
Trọng là một người cộng sản cực đoan thân Tàu. Về chánh trị, Tổng Bí thơ
Nguyễn Phú Trong cuồng tín duy trì độc quyền lãnh đạo của đảng CSVN để tóm thâu quyền bính trong tay.
Tổng Bí thơ Nguyễn Phú Trọng đã công khai bày tỏ mong muốn đảng CSVN sẽ
tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội đến cuối thế kỷ 21 và đảng của ông
ta sẽ tồn tại lâu dài, đồng hành cùng dân tộc.Ông ta không bao giờ muốn
bỏ đìều 4 hiến pháp 1992. Trái lại, ông Trọng Lú còn tăng thêm nhiều quyền hiến định cho đảng CSVN khi
chỉ thị Quốc Hội bù nhìn sửa đổi Hiến pháp 1992 trong năm 2013.Thêm một
bước lùi trong tiến trình dân chủ hóa: Hiến pháp tu chính có một điều
khoản kỳ lạ bắt buộc Quân Đội phải trung thành với đảng Cộng Sản thay vì trung thành với quốc gia dân tộc Việt Nam. Hiến
pháp 1992 đã được Quốc Hội bù nhìn sửa đổi đúng theo ý muốn của Tổng Bí
thơ Nguyễn Phú Trọng. Không ai quan tâm đến trò sửa đổi hiến pháp của
đảng Cộng Sản Việt Nam!
Trò hề nầy còn nhằm mục đích chuẩn bị việc sát nhập nước Việt Nam vào “mẫu quốc” Hán tộc,
thực hiện lời cam kết của ba lãnh tụ đảng CSVN Nguyễn văn Linh, Đỗ Mười
và Phạm văn Đồng tại hội nghị Thành Đô năm 1990. Thật vậy, từ 2011 đến
nay, nhân dân trong nước đã phát hiện nhiều “hiện tượng” kỳ lạ sau đây:
1)
Trước khi Tổng Bí thơ Nguyễn Phú Trọng đi Tàu triều kiến Chủ tịch Hồ
Cẩm Đào và Phó Chủ tịchTập Cận Bình, đài truyền hình VTV1 đã nhiều lần
chiếu trên màn ảnh một lá cờ khác lạ của Trung Quốc:: cờ đỏ với một ngôi
sao vàng lớn tượng trưng Hán tộc và 5 ngôi sao vàng nhỏ tượng trưng
Mông, Mãn, Tạng, Hồi và Việt tộc (?).
2)
Khi Phó Chủ tịchTập Cận Bình sang thăm Việt Nam, nhiều em nhỏ đã được
nhà cầm quyền Hà Nội phát lá cờ 6 sao kể trên để phất phất chào đón ông
Hoàng đế sắp lên ngôi cữu ngũ bên Tàu trong khi cờ chánh thức của Trung
Quốc chỉ có 5 sao (một sao lớn và 4 sao nhỏ).
Phải chăng nước Việt Nam cộng sản muốn được làm ngôi sao nhỏ thứ năm trong quốc kỳ Tàu?
3) Sách giáo khoa của học sinh lớp 1 đã in hình cờ Trung Quốc dưới chữ C.
4) Các hộp nho của tỉnh Ninh Thuận sản xuất bày bán trong các siêu thị lớn đã dán cờ Tàu !
5)
Bộ Giáo Dục đã soạn thảo chương trình dạy tiếng Tàu cho học sinh tiểu
học Việt Nam. Phải chăng đảng CSVN muốn Hán hóa dần dần trẻ em ngay từ
bậc Tiểu học?
Về
việc học tiếng Tàu, Trường Chinh, Tổng Thơ Ký đảng Lao Động (Cộng Sản)
ngay từ năm 1951 đã hiệu triệu đồng bào phải bỏ chũ quốc ngữ do tên
“thực dân” Alexandre De Rhodes đặt ra để học tiếng Hán trong tinh thần
thần phục kẻ thù phương bắc.
6) Học Viện Chánh Trị Quốc Gia trực thuộc bộ Quốc Phòng đã sai khiến Đại tá Trần Đăng Thanhđến
thuyết giảng trước một cử tọa chọn loc gồm có các Tiến sĩ, Giáo sư đại
học và cán bộ giáo dục cấp cao. Sau khi cảnh cáo cử tọa phải cố gắng
giữ sổ hưu , “Tiến sĩ, Phó Giáo sư” Trần Đăng Thanh đã nhấn mạnh mọi
người Việt Nam phải đời đời nhớ ơn Trung Quốc.
7) Chấp hành lịnh truyền của thiên triều Bắc kinh do Thứ trưởng bộ Ngoại Giao Hồ Xuân Sơn và Thứ trưởng bộ Quốc Phòng Nguyễn Chí Vịnh
chuyển đạt, đảng CSVN đã cấm biểu tình chống Trung Quốc xâm lăng Biển
Đông, chỉ thị Công An phải thẳng tay đàn áp các người biểu tình yêu
nước, ra lịnh cho Tòa án phải phạt tù tối đa những người tích cực vận
động đồng bào bảo vệ biển đảo của Việt Nam như Điếu Cày Nguyễn văn Hải,
cựu Đại úy Công An Tạ Phong Tần. Một bài thơ ngắn chống Trung Quốc của
nũ sinh viên mãnh mai 20 tuổi Nguyễn Phương Uyên và một bản nhạc yêu
nước “Việt Nam Tôi Đâu” của nhạc sĩ trẻ tuổi Việt Khang cũng đã đưa hai
em nầy vào tù.
8)
Nhà cầm quyền CSVN đã khiếp nhược không dám lên tiếng hoặc có hành động
bảo vệ ngư dân bị tàu Trung Quốc húc chìm tàu, bắn giết hoặc bắt giữ
đòi tiên chuộc.
9) Khi tàu Bình Minh dò tìm dầu hỏa trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam bị tàu Trung Quốc cắt cáp,
Trưởng ban Biên Giới Nguyễn Duy Chiến, Bí thư đảng ủy bộ Ngoại Giao lại
tuyên bố rằng Trung Quốc làm như vậy giống như cha thương con cho roi
cho vọt!!!
Các
hành động mờ ám của đảng và nhà nước CSVN đã nói lên một cách rõ ràng ý
muốn làm Thái thú cho thiên triều Bắc kinh sau khi nước Việt Nam bị sát
nhập vào lãnh thổ Trung Quốc.
Trung
thành với chủ trương cố hữu của đảng CSVN từ thời Hồ Chí Minh, Tổng Bí
thơ Nguyễn Phú Trong và các ủy viên bộ Chánh trị hiện nay muốn chứng
minh với quan thầy Trung Quốc rằng đảng CSVN sẽ triệt để tôn trọng những
cam kết của các lãnh tụ tiền nhiệm. Bằng chứng là Nhà nước CSVN không
dám kiện Trung Quốc trước Tòa Án Quốc Tế ở La Haye hoặc Tòa án Trọng Tài
quốc tế của Liên Hiệp Quốc về luật biển (UNCLOS) để xét xử hành vi
chiếm đoạt biển Đông của Việt Nam.
Mới
đây, trong hạ tuần tháng 4 năm 2015, Tổng Bí thơ Nguyễn Phú Trọng của
đảng CSVN được gọi sang Bắc kinh chầu Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình
để ký kết ngay một số thỏa ước về hợp tác giữa hai đảng Cộng sản
Việt-Trung và ba mật ước nội dung được giấu kín. Theo một nguồn tin đáng
tin cậy, một trong ba mật ước nầy liên quan đến việc sử dụng hải cảng
Hải Phòng của Việt Nam làm điểm xuất phát Con Đường Tơ Lụa Trên Biển của
Tập Cân Bình.
Cũng
như Kỹ Yếu Thành Đô năm 1990, các mật ước vừa ký kết sẽ được Nguyễn Phú
Trọng giấu kín thay vì trình Quốc Hội bù nhìn duyệt xét trước khi phê
chuẩn.
Nói
tóm lại, sau 70 năm thống trị nước Việt Nam với bàn tay sắt, đảng Cộng
sản vẫn còn muốn vĩnh viễn ngồi trên đầu cổ 90 triệu dân đen và đối xử
họ như người nô lệ bị thống trị và bóc lột thậm tệ. Nhưng ngày nước Việt Nam bị xóa tên trên bản đồ thế giới không còn xa.
Vì vậy, các lãnh tụ và cán bộ cộng sản Việt Nam đang ra sức vơ vét tiền
bạc chuyển ra nước ngoài để hưởng thụ lâu dài giàu sang phú quý. Họ đã
có sẵn thông hành ngoại giao (diplomatic passports) và chiếu khán nhập
cảnh (entry visas) của nhiều quốc gia để đào tẩu dễ dàng khỏi Việt Nam
khi chế độ cộng sản sụp đổ.! Trương mục ngân hàng đầy ắp Mỹ kim và
euros, nhà cửa cao sang, xe hơi đắt tiền và cơ sở thương mại “hoành
tráng” đang chờ đón các lãnh tụ và cán bộ cộng sản Việt Nam sang tị nạn
chánh trị tại các nước tư bản cựu thù của họ, nhứt là tại Hoa Kỳ.
Cập nhựt và bổ túc ngày 30-4-2015
Thẩm phán Phạm Đình Hưng
No comments:
Post a Comment