CHUYỆN TÌNH NGƯỜI DI TẢN
(Cứ mỗi dịp Tháng Tư Đen về, lòng chúng ta không khỏi bùi ngùi xúc động
về những biến cố đau thương trong những ngày tàn cuộc chiến. Bài thơ
này cảm tác theo một câu chuyện thực, rất thương tâm : " Rừng Khóc Giữa
Mùa Xuân " của tác giả Phạm Tín An Ninh.
Chúng ta cùng nhau chia sẻ nỗi mất mát to lớn nầy của người vợ Lính)
* * *
Sau ngày hợp hôn ...
Tôi theo chồng lên Phố Núi
Phố Núi Pleiku bụi đò, sương mù
Chồng tôi là lính Biệt Động Quân, Sát !
Những bước chân anh đã từng dẫm nát ...
Trên khắp chiến trường Ben Het, Pleime
Một sáng mùa Xuân bầu trời u ám
Tôi cùng chồng rời bỏ Phố Núi cao
Trên con đường số bảy của ngày nào ...
Trời đổ lệ tiếc thương người di tản !
Đường số bảy - Đường oan khiên nghiệt ngã
Bao oan hồn nằm lại chốn hoang vu !
Bao anh hùng không khuất phục quân thù
Đã chiến đấu oai hùng đến phút cuối
Đường di tản biến tôi thành góa phụ
Một nỗi đau chất chứa mãi trong lòng
Thất lạc con trai, thất lạc người chồng
Tôi đã khóc nhiều ... đến khi khô cạn
Theo giòng đời , tôi thành người tị nạn
Hai mươi năm vẫn canh cánh bên lòng
Hình ảnh Cao Nguyên, hình ảnh người chồng
Của một thưở cho tôi nhiều kỷ niệm...
Tôi trở về với bao điều tâm niệm !
Hy vọng rằng sẽ tìm được chồng con
Để
thỏa mong điều ấp ủ trong hồn
Và tôi đã gặp ......................................
.............................................................
Nhưng hiện thực làm tim tôi tan nát !
Cao Nguyên bây giờ nói tiếng Tây Nguyên
Mẹ con gặp nhau sao lắm ưu phiền !
Nó hôm nay, đã trở thành người Thượng
" Chồng tôi mang nó giao cho người Thượng
Trước khi lìa đời xin được cưu mang "
Nghe xong, lệ tôi ràn rụa hai hàng
Và thương tiếc cho người chồng xấu số ...
Tôi vẫn tin con người có mệnh số
Lê Cao Nguyên - Người cùa rừng núi cao nguyên !
LV
Hơn hai mươi năm nay, từ ngày đến định cư tại
Na-Uy, một nước Bắc Âu nổi tiếng với những mùa đông dài băng giá, nhưng
lại rất đẹp vào ngày hè và lãng mạn vào thu, tôi vẫn giữ thói quen đi
len lỏi trong rừng, không chỉ vào những ngày nghỉ cuối tuần mà bất cứ
lúc nào thấy lòng mình trăn trở.
Không
phải tò mò vì những cuộc tình cháy bỏng trong "Rừng Na-Uy", cuốn tiểu
thuyết nổi tiếng mới đây của một ông nhà văn Nhật Bản, nhưng để được
lắng nghe những tiếng khóc. Tiếng khóc của cây lá, của gỗ đá trong rừng.
Tiếng khóc có mãnh lực quyến dụ tôi, thúc bách tôi, cho dù nó đã làm
tôi đau đớn, khốn khổ gần cả một đời.
Tôi sinh ra ở Huế, nhưng lớn lên ở thành phố Nha Trang, sau khi cùng cả
nhà theo cha tôi vào đây nhận nhiệm sở mới. Có lẽ ngày ấy tôi là một cô
gái khá xinh. Ngay từ năm tôi học lớp đệ lục trường Nữ Trung Học, cũng
đã có vài chàng học trò khờ khạo si tình,đạp xe theo sau tôi những buổi
học tan trường. Lên năm đệ tam, cũng có vài chàng SVSQHải
Quân, Không Quân chờ trước cổng trường tán tỉnh. Nhưng như là số trời,
trái tim tôi chỉ rung động trước một người. Anh là bạn chí thân với ông
anh cả của tôi, hai người học cùng lớp thời còn ở trường Võ Tánh. Tháng
tư năm 68, chúng tôi làm đám cưới, kết thúc một cuộc tình đầu thật dễ
thương, không có nhiều lãng mạn, cũng chẳng có điều gì trắc trở.
Ông xã tôi là lính Biệt Động Quân. Hậu cứ đóng ở Pleiku. Ngày về làm
đám cưới, đôi giầy saut của anh còn bám đầy đất đỏ hành quân. Đám cưới
của chúng tôi được tổ chức tại một nhà hàng nằm gần bờ biển, không xa
tòa tỉnh, nơi vừa trải qua khói lửa Mậu Thân.
Sau đám cưới, cha mẹ chồng cho tôi theo anh lên Pleiku một tháng, rồi
phải trở về sống ở nhà chồng, bởi anh đi hành quân liên miên, không an
toàn khi tôi phải sống một mình. Chỉ khi nào tiểu đoàn về hậu cứ dưỡng
quân, anh đánh điện tín để tôi lên với anh.
Mãi đến ba năm sau, tôi mới sinh cho anh đứa con đầu lòng. Một đứa con
trai bụ bẫm. Có lẽ vì nặng nợ với núi rừng, anh đề nghị tôi đặt tên cho
con là Cao Nguyên. Lê Cao Nguyên.
Anh về
thăm con khi cháu vừa đầy tháng. Càng lớn Cao Nguyên càng giống cha.
Đôi mắt to, sóng mũi cao, đặc biệt là trên đầu mỗi vành tai đều có một
"lỗ tai nhỏ" như ba nó.
Chỉ đúng một tuần
sau khi chia tay vợ con về với đơn vị, anh bị thương nặng trong lúc đơn
vị hành quân giải vây căn cứ Pleime. Tôi bồng con lên Pleiku. Hậu cứ lo
cho mẹ con tôi nơi ăn chốn ở và có xe đưa đón mỗi ngày để tôi thăm và
săn sóc anh mỗi ngày trong quân y viện.
Sau khi xuất viện, đôi chân còn đi khập khiễng, nên anh được chuyển về
Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn đảm trách một công tác tham mưu ở hậu cứ. Mẹ con
tôi ở lại Biển Hồ với Anh kể từngày ấy.
Mẹ chồng tôi rất nhân từ, thường xuyên lên thăm chúng tôi và thuê cho
tôi một người giúp việc. Cuối năm 1973, trong một lần pháo kích vào trại
gia binh làm một số đàn bà con nít bị thương, trong đó có cháu Cao
Nguyên. Rất may, mảnh đạn gây một vết thương khá lớn ở cánh tay, nhưng
không vào xương. Sau hôm ấy, chúng tôi ra thuê một căn nhà bên ngoài
doanh trại để ở. Năm sau khi Cao Nguyên vừa tròn hai tuổi, tôi sinh đứa
con thứ nhì. Lần này là con gái. Con bé giống mẹ, được chúng tôi đặt tên
Thùy Dương để nhớ thành phố biển Nha Trang, nơi hai chúng tôi lớn lên
và yêu nhau.
Mấy năm sống ở Pleiku, cái
thành phố "đi dăm phút trở về chốn cũ" ấy, những ngày nắng chỉ thấy toàn
bụi đỏ, còn những ngày mưa bùn bám dính gót chân. Pleiku đúng là một
thành phố lính. Những người vợ lính sống ở đây dường như chỉ để chờ
chồng trở về sau những cuộc hành quân, hoặc để chăm sóc chồng những ngày
bị thương nằm trong quân y viện. Với họ thì đúng là "may mà có anh đời
còn dễ thương". Trong số ấy đã có biết bao người trở thành góaphụ!
Giữa tháng 3/75, sau đúng một tuần Ban Mê Thuột mất vào tay giặc. Một
buổi sáng, từ bản doanh Liên Đoàn về, anh hối hả bảo mẹ con tôi và chị
giúp việc thu dọn đồ đạc gấp, bỏ lại mọi thứ,chỉ mang những gì cần
thiết, nhất là thức ăn và sữa cho các con, theo anh vào hậu cứ.
Khi vừa đến cổng trại, tôi ngạc nhiên khi thấy tất cả mọi người đều đã
ngồi sẵn trên xe. Chúng tôi rời khỏi doanh trại. Thành phố Pleiku như
đang ngơ ngác trước những người từng bao năm sống chết với mình nay vội
vàng bỏ đi không một tiếng gĩa từ. Đang giữa mùa xuân mà cả một bầu trời
u ám. Pleiku tiễn chúng tôi bằng một cơn mưa đổ xuống khi đoàn xe vừa
ra khỏi thành phố. Đến ngã ba Mỹ Thạnh, đoàn xe dừng lại. Phía trước
chúng tôi dày đặc xe và người, vừa dân vừa lính, đủ các binh chủng, đủ
các loại xe, kể cả xe gắn máy. Tôi nghe chồng tôi và bạn bè nói là ngoài
lực lượng xung kích mở đường, một số đơn vị Biệt Động Quân còn được chỉ
định đi sau, ngăn chặn địch quân tập hậu để bảo vệ cho đoàn quân di
tản! Đây là trách nhiệm nguy hiểm và nặng nề nhất trong một cuộc hành
quân triệt thoái.
Hơn một ngày mò mẫm
trên Tỉnh Lộ 7, chúng tôi đến thị xã Hậu Bổn vào lúc trời sắp tối. Vừa
dừng lại chưa kịp ăn cơm thì bị pháo kích và súng nổ khắp nơi. Xe và
người dẫm lên nhau trong cơn hốt hoảng. Địch đã bao vây. Các đơn vị BĐQ
chống trả kiên cường, nhưng địch quá đông, mà bên ta thì vừa quân vừa
dân chen chúc nhau hỗn độn. Trong lúc nguy nan này trời lại giáng xuống
cho bên ta thêm một điều bất hạnh: Một chiếc phản lực cơ dội bom nhầm
vào quân bạn. Đoàn xe vội vã rời Hậu Bổn, di chuyển đến gần Phú Túc thì
lại bị địch tấn công từ khắp hướng. Nhiều xe bốc cháy và nhiều người
chết hoặc bị thương. Cả đoàn xe không nhúc nhích được. Chúng tôi có lệnh
bỏ lại tất cả xe cộ, băng rừng tìm đường về Củng Sơn.
Chồng tôi, vừa chiến đấu vừa dẫn đường chúng tôi cùng một số binh sĩ,
vợ con. Tôi dắt theo Cao Nguyên còn chị giúp việc bồng cháu Thùy Dương.
Chúng tôi lầm lũi trong rừng. Tiếng súng vẫn còn ầm ĩ, những viên đạn
lửa như muốn xé màn đêm. Khi chúng tôi mệt lả cũng là lúc đến bờ một con
suối nhỏ. Chồng tôi lo chỗ ngủ cho mẹ con tôi dưới một gốc cây, rồi
cùng một số đồng đội chia nhau canh gác. Mệt qúa, tôi ngủ vùi một giấc,
thức giấc thì trời vừa sáng..... Chúng tôi lại tiếp tục lên đường. Tôi
không còn đủ sức để bồng Cao Nguyên, nên chồng tôi phải dùng cái võng
nilong gùi cháu sau lưng, bên ngoài được phủ bằng cái áo giáp.
Vừa ra khỏi bìa rừng tôi ngạc nhiên khi thấy từng đoàn người lũ lượt
kéo nhau đi cùng hướng chúng tôi, trong đó có nhiều người vừa bị thương,
mình đầy máu. Tôi nghĩ họ cũng là những vợ chồng, con cái, cha mẹ dắt
dìu nhau đi tìm sự sống. Hình như họ không còn mang theo bất cứ thứ gì.
Nhìn nét mặt ai nấy cũng kinh hoàng. Chồng tôi bàn bạc cùng một số bạn
bè trong đơn vị, chúng tôi lại tách khỏi đám đông này, tìm một lộ trình
khác mà đi, để tránh sự phát hiện của địch.
Vừa rời đoàn người chừng vài phút thì đạn pháo thi nhau rớt xuống.
Tiếng la khóc thất thanh cộng với tiếng súng nổ khắp nơi làm cho cả một
khu rừng như trải qua một cơn địa chấn. Trong nhóm chúng tôi cũng có một
số người đã chết. Đến lúc này thì mạnh ai nấy tìm đường sống. Gia đình
tôi cùng gia đình vài người bạn nữa chạy vào khu rừng phía trước, nơi
không nghe tiếng súng. Kinh nghiệm bao nhiêu năm chiến trận, bây giờ
chồng tôi chỉ còndùng để mong cứu được vợ
con mình. Địch quân tràn ngập. Một số đơn vị tan rã. Đồng đội kẻ chết
người bị thương. Có thể một số đã bị bắt. Tôi không thể tưởng tượng được
số mệnh bi thảm của những người lính Biệt Động Quân một thời oanh liệt
trên khắp chiến trường, giờ này lại tan tác trong bất ngờ, tức tưởi!
Chồng tôi suýt bật khóc, khi nghe cấp chỉ huy truyền lệnh từ ông tướng
tư lệnh Quân Đoàn: "Đạp lên mà đi!". Trong cả đời binh nghiệp, chắc
những ngườilính không còn nhận được cái lệnh nào đau đớn hơn thế nữa.
Sau chừng một tiếng đồng hồ băng rừng, chúng tôi bất ngờ gặp một toán
lính hơn 20 người thuộc tiểu đoàn cũ của chồng tôi..... Thầy trò chưa
kịp nắm tay mừng rỡ thì súng nổ. Địch quân phía trước mặt.. Trở lại
cương vị chỉ huy, chồng tôi lưng mang con, điều động anh em xông vào
trận mạc. Một cuộc đánh tốc chiến, toán địch quân bị tiêu diệt. Chồng tôi quay lại tìm và hướng dẫn đám đàn bà con nít chúng tôi đi tiếp.
Trong núi rừng đêm xuống thật nhanh. Cái bóng tối bây giờ thật rợn
người. Tôi hình dung cái bóng của tử thần. Chúng tôi dừng lại trên một
ngọn đồi thấp. Tôi nghiệp cho những người lính trung thành. Đáng lẽ họ
lợi dụng bóng đêm để đi tiếp, vì đó là sở trường của họ, nhưng thấy một
số vợ con bạn bè cùng vài anh em bị thương không thể đi nổi, nghe lời
chồng tôi, tất cả cùng ở lại qua đêm. Sau khi sắp xếp anh em phòng thủ,
chồng tôi trở lại phụ lo chỗ nằm cho mẹ con tôi. Tối hôm ấy, dù mệt,
nhưng sao tôi cứ trằn trọc, không ngủ được. Chồng tôi ôm tôi dựa vào một
gốc cây. Anh ôm tôi thật chặt vào lòng, thỉnh thoảng hôn nhẹ tôi, trênmôi,
trên tóc. Trong hoàn cảnh này chẳng ai còn lòng dạ nào để lãng mạn yêu
thương, nhưng có lẽ anh tội nghiệp cho một người con gái đã trót chọn
chồng là lính chiến. Vàcũng không ngờ đó là những nụ hôn cuối cùng anh dành cho tôi.
Buổi sáng sớm khi vừa xuống chân đồi, chúng tôi chạm súng với địch.
Cũng là lần cuối tôi chứng kiến những người lính Biệt Động can trường.
Các anh phân tán từng toán nhỏ, xông vào lòng địch mà đánh, tiếng thét
"Biệt Động Quân Sát" vang dội cả một vùng. Nghe súng nổ, tôi đoán lực
lượng địch đông lắm. Một anh trung sĩ bị thương ở cánh tay trong trận
đánh hôm qua, được chỉ định dắt tất cả đám đàn bà con nít chúng tôi ra
khỏi vùng giao chiến. Đã vậy anh còn phải dìu theo một người lính bị
thương khác. Vợ chồng tôi thất lạc nhau kể từ phút ấy. Tôi còn lạc mất
cả cháu Cao Nguyên, được ba nó gùi theo phía sau lưng ngay cả nhữngkhi
lâm trận. Không biết chiếc áo giáp có đủ để che chắn hình hài bé nhỏ
của con tôi. Hình ảnh này trước đây tôi nghĩ chỉ có diễn ra trong mấy
cuốn truyện Tàu mà tôi đã đọc.
Tiếp tục
di chuyển từng vài giờ đồng hồ nữa, khi tới một con đường mòn, chúng tôi
lại nghe súng nổ. Anh trung sĩ dẫn đường chúng tôi nhận ra từng loạt
lựu đạn nổ, bảo chúng tôi nằm rạp xuống. Chờ im tiếng súng, đám chúng
tôi rời con đường mòn, chạy về bên hướng rừng bên phải, mà theo anh
trung sĩ, có thể an toàn hơn. Khi đến bìa rừng, tôi thấy mấy người lính
BĐQ nằm chết bên cạnh xác quân thù, máu me lai láng. Sau này tôi được
biết những ngườilính này bị địch bao vây, đã tự sát để cùng chết chung với giặc.
Đi vào cánh rừng bên phải chỉ vài trăm mét nửa thì chúng tôi bị một đám
khá đông VC chặn lại. Anh trung sĩ bị tước hết vũ khí. Tất cả chúng tôi
bị lùa vào bên bờ suối nhỏ. Ở đây tôi gặp một số sĩ quan, binh sĩ của
ta bị bắt, nhiều người tay bị trói ngược ra sau, ngồi theo hàng dọcquay
lưng ra suối, trước họng súng sẵn sàng nhả đạn của kẻ thù. Tôi cố ý tìm
xem, nhưng không thấy chồng tôi trong số người bị bắt. Lòng tôi lo âu
vô hạn. Từ lúc ấy, tiếng súng tạm im, chỉ còn tiếng quát tháo và tiếng
nói rất khó nghe của đám người thắng trận. Tất cả chúng tôi bị lùa về
địa điểm tập trung, một ngôi trường nằm trong huyện Củng Sơn (Sơn Hòa).
Trong cảnh khốn cùng này, tôi chỉ còn lại một điều may mắn: Chị giúp
việc rất tốt bụng và trung thành. Vừa bồng bế, bảo bọc cho cháu Thùy
Dương, vừa lo lắng cho tôi. Chị đi đâu đó xin cho tôi nửa bát cơm, nhưng
tôi không nuốt nổi, mặc dù đã trải qua hai ngày đói khát. Nhìn đứa con
gái vừa mới lên hai lây lất bên cạnh và nghĩ tới chồng tôi và đứa con
trai giờ này không biết sống chết ra sao, lần đầu tiên tôi bật khóc.
Cuối cùng thì tôi cũng lần mò về đến Nha Trang, khi thành phố này cũng vừa lọt vào tay giặc.
Khi nhận ra tôi, mẹ tôi ôm tôi vào lòng và khóc như mưa. Tôi không đủ
can đảm để mang tin buồn đến nhà chồng, nhờ cha tôi sang báo tin tôi và
cháu Thùy Dương vừa mới về nhà, chồng tôi và cháu Cao Nguyên còn đang
mất tích. Cả nhà chồng kéo sang thăm tôi, bồng cháu Thùy Dương về nhà
chăm sóc. Mẹ chồng tôi thẫn thờ cả mấy ngày liền khi nhận được tin này.
Nằm nhà hơn một tuần, nhờ mẹ tận tình chăm lo, sức khỏe tôi đã gần bình
phục, tôi xin được trở lại Phú Bổn tìm chồng và cháu Cao Nguyên. Cả nhà
tôi và cha mẹ chồng đều ái ngại, âu lo. Nhưng qua sự nài nỉ của tôi,
cuối cùng cha mẹ chồng cho đứa em trai út củachồng tôi, dùng xe honda chở tôi ngược đường lên Tỉnh Lộ 7.
Mặc dù đã chứng kiến bao nhiêu máu lửa tang tóc, cũng như đã chuẩn bị
tinh thần, nhưng tôi thực sự kinh hãi những gì trước mắt, khi nhìn thấy
ngổn ngang bao nhiêu xe cộ bị đốt cháy, những bộ xương người còn vương
vãi đó đây, bao nhiêu nấm mộ bị lấp vội bên đường. Cả một vùng xông mùi
tử khí. Chiếc khăn bịt miệng tẩm ướt dầu Nhị Thiên Đường đã giúp tôi và
cậu em vượt qua chặng đường gần 100 cây số. Đến Cheo Reo, hỏi thăm một
vài người dân, được biết một số sĩ quan bị bắt làm tù binh, đang còn
giam ở Thuần Mẫn. Chúng tôi đến đó, trình giấy phép đi tìm chồng của Ủy
Ban Quân Quản mới được cho vào trại... Sau khi tên VC trực ban cho biết
không có tên chồng tôi trong danh sách tù binh, tôi xin được gặp bất cứ
sĩ quan nào cùng đơn vị với chồng tôi. Rất may, tôi gặp được anh đại đội
phó lúc chồng tôi còn ở tiểu đoàn. Anh cho biết là có gặp một số binh
sĩ cùng chồng tôi chiến đấu dưới ngọn đồi gần đèo Tu Na. Họ cho biết
chồng tôi bị thương, nhưng cố tìm cách đưa cháu Cao Nguyên đến một nơi
nào đó. Tôi sáng lên niềm hy vọng. Ngay hôm ấy tôi thuê năm người
thượng, theo tôi lần theo con đường dọc bờ sông mà tôi còn nhớ, trở lại
khu đồi thấp, rồi bung ra xa đi tìm. Liên tục trong một tuần, chúng tôi
chỉ tìm được mấy bộ xương người, một số mộ vô danh,nhưng không thấy dấu vết của chồng tôi. Tôi trở về mang theo niềm tuyệt vọng, không chỉ cho tôi, mà cho cả nhà chồng.
Cha mẹ chồng tôi lập bàn thờ cho chồng tôi và Cao Nguyên, đứa cháu đích tôn của ông bà.
Ngày 19 tháng 3 là ngày giỗ của hai cha con.
Hàng năm, cứ đến ngày này, tôi và Thùy Dương đều trở lại Phú Bổn, tìm
đến chân đồi, dưới gốc cây nằm giữa đỉnh đồi, mà đêm cuối cùng chồng tôi
ôm tôi vào lòng, thắp hương tưởng niệm anh và cháu Cao Nguyên.. Tôi đã
dùng dao khắc đậm tên anh và cháu Cao Nguyê vào thân cây. Lần nào, khi
nước mắt ràn rụa, trong tiếng gió rừng, tôi mơ hồ như có tiếng khóc từ
gốc cây này, rồi văng vẳng bao nhiêu tiếng khóc từ những thân cây khác,
từ những khúc gỗnằm vương vãi do bom đạn hôm nào, tạo thành những âm thanh não nùng, xé ruột.
Tôi đã mang dư âm của tiếng khóc ấy đến tận Bắc Âu, nơi mẹ con tôi định
cư sau chuyến vượt biển được một chiếc tàu của vương quốc Na Uy cứu
vớt. Tháng 5 năm 1985, cha mẹchồng tôi
góp vàng cùng một người bạn ở vùng biển Lương Sơn đóng ghe vượt biển.
Tôi, cháu Thùy Dương, và một đứa em trai của tôi đi cùng với gia đình
chồng. Tôi cũng xin đượcmột chỗ cho chị
giúp việc lúc trước (chị đã về quê trên vùng quê Diên Khánh, sau ngày
cùng tôi thoát chết trở về), nhưng chị chối từ. Tôi âm thầm gom nhặt tài
sản của nhà chồng và của tôi mang lên biếu chị trước khi rời khỏi quê
nhà.
Hai mươi năm sau, khi Thùy Dương vừa
làm đám cưới, tôi muốn đưa vợ chồng cháu về lại Việt Nam trình diện ông
bà ngoại, và đến địa điểm cuối cùng khi chồng tôi và Cao Nguyên còn
sống, như là một nghĩa cử để cháu tưởng nhớ đến cha và anh mình. Chúng
tôi đến đây vào giữa mùa xuân, một ngày trước ngày giỗ chồng và đứa con
trai.
Con đường Tỉnh Lộ 7 ngày xưa bây giờ đã được tráng nhựa và đổi tên thành Quốc Lộ 25.
Chúng tôi thuê bao một chiếc xe tám chỗ ngồi. Ngoài tôi và vợ chồng
cháu Thùy Dương ,còn có vợ chồng cậu em trai út của tôi và vợ chồng chị
giúp việc ngày xưa. Chúng tôi đến Cheo Reo, bây giờ có tên mới là A Yun
Pa thuộc tỉnh Gia Lai. Tất cả không còn gì dấu vết của chiến tranh.
Người ta đã cố tình trát phấn tô son lên thành phố núi này để có dáng
dấp của thời kỳ đổi mới. Màu sắc lòe loẹt, vài ngôi nhà cao tầng quê mùa
kệch cỡm, những ngôi nhà sàn "cải biên" thành những biệt thự của các
ông quan lớn, nằm chơ vơ giữa một vùng nghèo nàn mang tên "thị xã". Nhìn
dãy núi Hàm Rồng từ xa, ẩn hiện trong những đám mây mù, lòng tôi chùng
xuống. Nơi ấy, đã bao lần tôi đến thăm chồng, để được hòa mình vào đơn
vị với những người lính trẻ, sẵn sàng chết cho quê hương. Cũng ở nơi ấy
tôi đã vinh dự chứng kiến chồng tôi cùng nhiều anh em đồng đội được ông
tướng Vùng gắn huy chương lên ngực áo khi ban nhạc trổi khúc quân hành.
Tất cả bây giờ đã trở thành huyền thoại.
Sau khi thuê phòng trọ, tắm rửa và cơm nước xong, chúng tôi hỏi đường
đến tháp Yang Mun và tháp Drang Lai. Vì nghe dân ở đây bảo các vị thần
Chàm trong hai ngôi tháp này linh thiêng ghê lắm. Tôi khấn vái và xin
xăm. Tôi ngạc nhiên vô cùng khi lá xăm tôi bốc trúng lại làbốn câu Kiều của ông Nguyễn Du:
Từ phen chiếc lá lìa rừngThăm tìm luống những liệu chừng nước mâyRõ ràng hoa rụng hương bayKiếp sau họa thấy kiếp này hẳn thôi.
Tôi bán tín bán nghi, vì nghe nhiều người nói ở Việt Nam, chuyện cúng
bái, mê tín dị đoan, bây giờ là một business. Chẳng lẽ ông thần Chàm này
lại thuộc cả truyện Kiều. Nghĩ như vậy, nhưng thấy bốn câu thơ lại đúng
vào trường hợp của mình, tôi cũng thấy lòng buồn vô hạn. Trở về phòng
trọ, bà chủ nhà cho biết ngày mai có chợ phiên của người dân tộc, vừa
đông vui vừa có thể mua nhiều thứ thổ sản, gia cầm với gía rất rẻ. Tôi
cũng muốn mua mấy con gà, để cúng chồng tôi. Khi còn sống anh thích ăn
gà luộc. Bà còn cho biết thêm dân chúng ở vùng này đa số là người Thượng
thuộc các sắc tộc Djarai, Bahnar, Hroi và M'dhur. Có một số sống trong các bản rất xa, cách thị xã này từ 10 tới 20 cây số.
Sau một đêm trằn trọc với những cơn ác mộng, vừa mới chợp mắt tôi đã
nghe tiếng người réo gọi nhau. Ngôn ngữ của các sắc tộc, tôi không hiểu
họ nói gì. Chợ phiên nhóm rất sớm.
Chúng
tôi vội vàng ăn sáng rồi kéo nhau ra khu chợ, nằm không xa trước nhà
trọ. Tôi có cảm giác lạ lẫm vì đây là lần đầu tiên tôi đến một buổi chợ
phiên của người sắc tộc. Đã vậy vợ chồng cháu Thùy Dương cứ theo hỏi tôi
điều này điều nọ. Khi đang cố giải thích về nguồn gốc người Thượng,
chúng tôi đến một quày gà. Những con gà tre nhỏ xíu được nhốt trong mấy
cái lồng đan bằng tre. Tôi ngồi xuống lựa hai con gà béo nhất, bảo người
chủ bắt hộ hai con gà này ra khỏi lồng. Người chủ là anh đàn ông người
Thượng vừa đen vừa ốm, nói tiếng Việt chưa sõi... Khi Anh xăn tay áo lên
và thò tay vào lồng gà, tôi bỗng giật mình khi phát hiện vết sẹo trên
cánh tay trái. Vết sẹo có hình dáng đầu một con cọp. Tôi nhớ tới Cao
Nguyên, đứa con trai ba tuổi, bị thương trong trận pháo kích của VC vào
trại gia binhở Biển Hồ. Vết thương trên
cánh tay cháu sau khi chữa lành cũng để lại một vết sẹo có hình ảnh đầu
một con cọp. Biểu tượng binh chủng BĐQ mà chồng tôi luôn mang trên vai
áo.
Tôi
biến sắc, nắm chặt cánh tay anh người Thượng và nhìn vào mặt anh ta.
Cũng hai con mắt khá to, cũng cái sống mũi cao, nhưng khuôn mặt cháy
nắng, mái tóc mầu nâu sậm như mầu đất đỏ Pleiku. Không có nét đẹp của
Cao Nguyên ngày trước. Anh người Thượng ngượng ngùng, cúi mặt xuống,
khựng lại. Nhưng tôi chợt nhớ ra trên vành tai của CaoNguyên
có một lỗ tai nhỏ, giống như ba của nó, tôi cúi xuống để nhìn kỹ vào
tai anh người thượng. Tôi bàng hoàng khi nhận ra hai cái lỗ tai nhỏ trên
hai vành tai. Bất giác, tôi ôm chầm lấy anh và nước mắt trào ra. Nhưng
anh bán gà đẩy mạnh tôi ra và nói một tràng tiếng Thượng. Vợ chồng cháu
Thùy Dương ngơ ngác nhìn tôi, không biết xảy ra điều gì. Nghĩ tới chị
giúp việc ngày trước có thể xác nhận cùng tôi đôi điều kỳ lạ, tôi báo
cháu Thùy Dương đi gọi chị từ gian hàng hoa lan phía trước. Tôi kéo chị ra xa và nói vào tai chị:
- Chị nhìn kỹ anh người Thượng này xem có giống ai không?
Sau một lúc nhìn không chớp mắt, mặt chị biến sắc, rồi không trả lời tôi mà thì thầm một mình:
- Thằng Nguyên? Chả lẽ là thằng cu Nguyên?
Rồi chị nhìn thẳng vào mặt anh ta hỏi:
- Mày có phải là thằng Nguyên, Lê Cao Nguyên không?
Anh người Thượng lắc đầu.
- Tao là thằng Ksor Tlang.
Tôi mua hết những lồng gà hôm ấy và và đưa cho anh một nắm tiền. Sau
khi đếm xong anh trả lại cho tôi hơn một nửa, rồi buột miệng:
- Mày bắt cái con gà nhiều tiền quá!
Tôi mất hết bình tĩnh, bảo vợ chồng chị giúp việc đứng giữ anh ta, rồi
chạy vào phòng trọ tìm bà chủ nhà. Tôi kể rất vắn tắt những gì đã xảy
ra. Có lẽ bà ta là người có tai mắt ờ đây, nhưng là một người tốt bụng,
nhấc điện thoại gọi công an. Chưa đầy ba phút hai gã công an chạy tới
bằng xe gắn máy, một Kinh một Thượng, cúi đầu chào bà chủ. Chưa kịp nói
gì, bà chủ kéo tay hai gã công an ra chợ. Vừa đi bà vừa giải thích. Đến
nơi, gã công an nói một tràng tiếng Thượng. Tôi không hiểu gì nhưng thấy
anh bán gà gân cổ cãi lại. Cuối cùng hai người công an kéo anh đi, mặc
dù anh cố tình chống lại. Chúng tôi đi theo phía sau trở về phòng trọ.
Qua trung gian của bà chủ nhà trọ, tôi nhờ gã công an giúp tôi, dịch
lại các điều trao đổi giữa tôi và anh bán gà, và cố gắng bằng mọi cách
tìm ra tông tích của anh ta. Tôi nhét vào tay bà chủ nhà trọ hai tờ giấy
bạc 100 đô la..
- Em có cha mẹ không? Tên ông bà là gì?- Tôi có cha mẹ. Cha tôi tên Ksor H'lum, mẹ tôi tên H'Nu- Có anh em không?- Không.- Anh có nhớ ngày sinh không?- Không. (Gã công an nhìn sang tôi, bảo là sẽ đi tìm khai sinh sau)- Anh có nhớ lúc còn nhỏ, khi ba, bốn tuổi anh ở đâu không?- Không! Thì chắc tôi ở với cha mẹ tôi mà.- Cái sẹo trên cánh tay trái, anh biết vì sao mà có cái sẹo này không?(Gã công an bảo anh xăn tay áo lên và chỉ vào vết sẹo)- Không! Chắc là bị cành cây đâm trúng.
Tôi thở ra thất vọng. Nhưng vừa chợt nghĩ ra điều gì, tôi lại hỏi:
- Cha mẹ anh đang ở đâu?- Buôn Ban Ma Dek.(Gã công an nhìn tôi, bảo buôn Ban Ma Dek cách đây hơn 10 cây số)- Anh ở chung với cha mẹ anh?- Không, ở bên cạnh, với vợ và hai đứa con.- Đã có vợ con rồi à! Tôi buột miệng.
Tôi đề nghị hai gã công an cùng đi với chúng tôi và anh bán gà về buôn
Ban Ma Dek. Sau khi hỏi nhỏ bà chủ nhà trọ, hai gã công an gật đầu.
Nhưng bảo chúng tôi phải thuê xe ôm, vì về buôn Ban Ma Dek chỉ có đường
rừng, xe ô tô không chạy được. Bà chủ nhà trọ gọi giùm chúng tôi bảy cái
xe ôm.
Cha mẹ của anh bán gà đã khá giả,
trước đây chỉ sống lẻ loi trong núi nên không nói được tiếng Việt.
Chúng tôi lại trao đổi qua sự thông dịch của gã công an người Thượng. Vợ
và hai con của Ksor Tlang thấy có nhiều người cũng chạy sang nhìn.
Lúc đầu, ông bà cứ nhất quyết Ksor Tlang là con đẻ của ông bà. Nhưng
thấy tôi khóc lóc, năn nỉ và nhờ gã công an gạn hỏi, cuối cùng ông cha
mới kể lại sự thực.
- Năm ấy, lâu rồi, sau
mấy ngày chiến trận ác liệt, mà vợ chồng tôi phải nằm suốt sau tảng đá
to trước nhà để tránh đạn. Bỗng một buổi chiều có người lính mặc áo rằn
ri, bị thương nặng lắm, nhưng cố lết vào dưới căn nhà sàn của tôi rồi
gục chết, trên lưng có mang một đứa bé. Nó là thằng Ksor Tlang bây giờ.- Rồi xác của người lính đó ở đâu? Tôi hỏi.
Ông chỉ tay ra rừng cây phía trước:
- Tôi đã chôn ông ta dưới gốc cây ấy, rồi rào lại, sợ thú rừng bới lên ăn thịt.
Chúng tôi theo sau hai người công an dìu ông gìa đi về phía khu rừng.
Tôi khóc ngất khi nhìn thấy ngôi mộ lè tè nằm dưới tàng cây, được rào
lại bằng những que gỗ nhỏ. Vợ chồng cháu Thùy Dương cũng qùy xuống ôm
vai tôi mà khóc. Tôi ngước lên dáo dác tìm Ksor Tlang, thằng Cao Nguyên,
đứa con trai duy nhất của vợ chồng tôi. Nó đang đứng bất động, hai tay
đang nắm chặt hai đứa con đang trần truồng, đen đúa. Tôi chạy lại ôm hai
đứa nhỏ vào lòng, nhưng cả hai đứa trố mắt nhìn tôi dửng dưng, xa lạ.
Tôi khóc lóc, năn nỉ lắm, ông già mới cùng vợ chồng và hai đứa con
thằng Ksor Tlang về nhà trọ với tôi. Nhờ bà chủ thuê một cậu học trò
thông dịch. Suốt một đêm, tôi, cháu Thùy Dương và vợ chồng chị vú giúp
việc ngày xưa, giải thích, khóc hết nước mắt, xin vợ chồng Ksor Tlang và
hai đứa con theo chúng tôi về Nha Trang ở với ông bà ngoại, rồi tôi sẽ
tìm cách đưa sang Na Uy. Cả hai ông bà già, nếu muốn, chúng tôi sẽ mua
nhà cửa ở Nha Trang và chu cấp choông bà
sống gần Ksor Tlang. Nhưng cả Ksor Tlang và ông gìa một mực chối từ, bảo
là họ không thể nào bỏ bản mà đi. Núi rừng mãi mãi là nhà của họ. Họ
không thể nào sống xarừng cũng như loài cá không thể nào sống mà không có nước.
Dự trù lên đây ba ngày. Vậy mà chúng tôi đã ở lại đây hơn hai tuần rồi.
Ban đầu tôi tính xin phép cha mẹ nuôi của Ksor Tlang cho tôi cải táng
phần mộ của chồng tôi, mang về an táng ở nghĩa trang gia tộc ở Nha
Trang, nhưng rồi tôi đã đổi ý. Bởi anh phải nằm ở đây, bên cạnh đứa con
trai và hai đứa cháu nội của anh, mặc dù bây giờ tất cả đã trở thành
người Thượng và chắc không biết gì về anh. Và chắc có lẽ anh cũng muốn
nằm lại với bao đồng đội, một thời cùng anh vào sinh ra tử, mà linh hồn
chắc đang còn phảng phất quanh đây. Tôi mướn thợ xây lại ngôi mộ. Trên
tấm bia không có hình chân dung của anh, mà có tấm ảnh anh chụpchung
với tôi và hai cháu Cao Nguyên và Thùy Dương trong ngày sinh nhật bốn
tuổi của Cao Nguyên, chỉ hơn một tháng trước ngày anh mất. Tấm ảnh này
lúc nào tôi cũng mang theo.
Tôi cũng không thể bắt Cao Nguyên và vợ con phải rời khỏi núi rừng, nơi đã cưu mang nó.
Có lẽ cái tên Cao Nguyên mà ngày xưa chồng tôi đề nghị đặt cho nó đã
vận vào cuộc đời của nó. Điều làm tôi đau đớn hơn là tôi chẳng làm được
điều gì cho đứa con trai ruột thịt máu mủ của mình, ngoài việc nhờ bà
chủ nhà trọ thuê người dựng cho vợ chồng nó và ông bà cha mẹ nuôi một
ngôi nhà sàn chắc chắn và rộng rãi hơn, sắm cho vợ chồng nó và hai đứa
con một số quần áo mới. Nhưng phải năn nỉ khóc lóc mãi nó mới chịu nhận,
cùng số tiền 200 đô la. Bằng đúng số tiền mà tôi trả công cho hai gã công an!
Ngày cuối cùng, chúng tôi ở lại với với vợ chồng Cao Nguyên trên ngôi
nhà sàn mới. Buổi chiều tôi bảo Cao Nguyên và vợ con nó, thay quần áo
mới, cùng với tôi và vợ chồng Thùy Dương ra thắp hương trước mộ ba nó.
Nó qùy bên cạnh tôi, cúi đầu nói điều gì lầm thầm trong miệng và khi
ngước lên, đôi mắt đỏ hoe. Suốt đêm hôm ấy, tôi ngồi khóc một mình. Tôi
nghĩ tình mẫu tử thật thiêng liêng, nhưng có lẽ ông trời đã phạt tôi.
Tôi sinh ra Cao Nguyên, nhưng không bảo vệ được con mình, để mất nó
trong núi rừng này từ ngày nó mới lên bốn tuổi.
Tôi rời khỏi Cheo Reo, chạy ngược về cầu sông Ba theo Tỉnh Lộ 7 ngày
xưa, mang theo trong lòng nỗi đau đứt ruột. Đang giữa mùa xuân nhưng cả
bầu trời nhuộm màu ảm đạm. Nhìnnúi rừng
hai bên đường, trong ràn rụa nước mắt, tôi mơ hồ như cây lá không còn
nữa, mà tất cả đều mang hình dáng của những bộ xương người nối tiếp
nhau, trùng điệp. Tai tôi nghe trăm ngàn tiếng khóc quyện vào trong gió.
Không biết đó là tiếng khóc của người hay tiếngkhóc của cây?
Phạm Tín An Ninh
(Phỏng theo lời kể của một người vợ lính BĐQ)
No comments:
Post a Comment