“Hoàng tử” Bảo Ân
Nhiều người Việt Nam sống ở quận Cam nhiều năm nay nhưng ít người biết có một người con trai của Cựu Hoàng Bảo Ðại đang sinh sống tại nơi này.
Ðó là ông
Nguyễn Phước Bảo Ân, con trai của bà Lê Phi Ánh, người vợ không hôn thú
của cựu hoàng trong thời gian ở Ðà Lạt. Bà Phi Ánh có hai người con với
cựu hoàng là bà Nguyễn Phúc Phương Minh sinh năm 1950 đã qua đời tại Mỹ
cách đây vài năm và ông Bảo Ân, sinh năm 1951, đang sống tại thủ phủ tỵ
nạn, Westminster.
Chúng tôi không
gọi ông Bảo Ân bằng hoàng tử như trong văn bản triều đình mà gọi bằng
“Mệ” theo lối xưng hô trong hoàng tộc: Con gái, con trai của vua được
gọi bằng Mệ, hàng cháu là “Mụ” chứ không phải ai là Tôn Thất, Bửu, Vĩnh…
đều được gọi bằng Mệ như nhiều người đã lầm tưởng (1).
Ðiều đặc biệt
không phải vì ông là một hoàng tử lưu lạc, mà vì chính ông là người con
nối dõi nhà Nguyễn. Cựu hoàng có tất cả 5 người con trai: Con Hoàng Hậu
Nam Phương là Bảo Long không có vợ chính thức, Bảo Thăng không có con;
con của Thứ Phi Mộng Ðiệp là Bảo Hoàng chết khi mới 1 tuổi, Bảo Sơn mất
khi ông 30 tuổi không có con.
Bảo Ân có hai con,
gái là Nguyễn Phước Thụy Sĩ, sinh năm 1976 và trai là Nguyễn Phước Quý
Khang sinh năm 1977. Như vậy, Nguyễn Phước Quý Khang là cháu đích tôn
của Cựu Hoàng Bảo Ðại và chắt của ngài là một cặp trai song sinh có tên
là Nguyễn Phước Ðịnh Lai, Nguyễn Phước Ðịnh Luân ra đời năm 2012.
“Mệ” Bảo Ân sinh
năm 1951 tại Ðà Lạt. Năm 1953, khi cựu hoàng sang Pháp, bà Phi Ánh đem
hai con về sinh sống trong một biệt thự trên đường Phùng Khắc Khoan tại
Sài Gòn. Ông theo học trường Saint Paul rồi Taberd.
Ngày 4 tháng 10
năm 1955, Thủ Tướng Ngô Ðình Diệm lập ủy ban trưng cầu dân ý truất phế
Quốc Trưởng Bảo Ðại, và trở thành quốc trưởng. Theo lời kể của ông Bảo
Ân, sau ngày đó, nhiều biệt thự ở Sài Gòn, Ðà Lạt và Pháp của bà Phi Ánh
đều bị tịch thu, bà và người nhà được lệnh ra khỏi nhà trong vòng 24
tiếng đồng hồ. Nhiều người đã đến đục tường ngôi nhà vì nghi có của cải
cải cất giấu. Tài sản này là của tư hữu của bà Phi Ánh, vì chúng ta cũng
biết bà Phi Ánh là em vợ của Thủ Hiến Trung Phần Phan Văn Giáo, sinh ra
trong một gia đình giàu có, trong khi Cựu Hoàng Bảo Ðại rất nghèo,
trong thời gian sống rất khó khăn ở Pháp, phải nhờ sự yểm trợ của thân
mẫu là bà Từ Cung. Ðức Từ Cung
đã phải bán nhiều cổ vật của Vua Khải Ðịnh để lấy tiền gửi sang cho cựu
hoàng.
Sau ngày cựu hoàng
bị truất phế, bà con, ngay cả bên gia đình của bà Phi Ánh cũng không ai
muốn chứa chấp mẹ con bà, ba mẹ con phải ở nhà thuê, rày đây mai đó.
Trong hoàn cảnh này, bà Phi Ánh đành phải bước thêm bước nữa.
Khi nghe bà Phi Ánh đi lấy chồng, theo đề nghị của nhiều người thân thuộc trong Hoàng Tộc, bà Từ Cung đem Bảo Ân về Huế ăn học.
Chúng ta cũng biết
thêm rằng, ngày 25 tháng 8 năm 1945, khi thoái vị làm dân, Cựu Hoàng
Bảo Ðại đã giao tất cả cung điện như là tài sản của quốc gia, trừ Cung
An Ðịnh tại làng An Cựu, nơi bà Từ Cung sinh sống, là tài sản riêng, do
lương bổng của Vua Khải Ðịnh xây dựng nên. Sau đó, chính “công dân” Vĩnh
Thụy, bà Nam Phương và các con đã về ở đó một thời gian, trước gia đình
tan rã, mỗi người một phương.
Cũng theo lời ông
Bảo Ân, sau khi truất phế Bảo Ðại, Cung An Ðịnh bị chính quyền tịch thu,
bà Từ Cung trong lúc đó đang đau yếu phải dọn ra một ngôi nhà nhỏ trong
khuôn viên của cung. Tuy vậy trong cuốn hồi ký của Vua Bảo Ðại, ông
không hề có một lời trách móc oán hận về chuyện bị đối xử tệ bạc này.
Tại Huế, ông Bảo
Ân theo học tại trường Thiên Hựu (Providence) do các linh mục quản
nhiệm. Ông tâm sự rằng, tuy sống trong một gia đình Phật Giáo thuần
thành, ông lại phải theo học từ nhỏ đến lớn tại các trường nhà dòng, nên
ông còn thông thuộc kinh Thiên Chúa Giáo hơn một người theo đạo Chúa
khác.
Bà Phi Ánh thời xuân sắc. (Hình: Tài liệu của ông Bảo Ân)
Sau thời gian ở
Huế, Bảo Ân trở lên Ðà Lạt rồi về Sài Gòn. Tới tuổi quân dịch, năm 1970,
chỉ mới có bằng trung học, ông vào quân trường Quang Trung, rồi phục vụ
tại Trung Tâm 3-Tuyển Mộ Nhập Ngũ Sài Gòn. Không hiểu vì lý do gì, năm
1972, ông Bảo Ân bị thuyên chuyển ra SÐ3 tại Quảng Trị, nhưng khi ra đến
nơi, sư đoàn đã tan hàng nên ông được trở về đơn vị gốc.
Cố gắng đến
trường, và cuối cùng, trước khi Sài Gòn thất thủ, ông Bảo Ân là sinh
viên năm thứ hai phân khoa Thương Mại tại Ðại Học Vạn Hạnh, Sài Gòn.
Sau năm 1975, bà
Phi Ánh sống trong cô đơn tại Sài Gòn và qua đời vào năm 1984, ở tuổi
62. Cô Phương Minh, chị ruột của ông Bảo Ân, lấy chồng và lập nghiệp ở
Pháp, ly dị, trước tháng 4 năm 1975 về Sài Gòn thăm thân mẫu và bị kẹt
lại đây, sau đó được bảo lãnh sang Hoa Kỳ lập nghiệp và qua đời vào năm
2012. Phần ông Bảo Ân, lúc đó đã có gia đình nên phải sống dưới chế độ
cộng sản thêm nhiều năm nữa, cho đến 1992 mới được gia đình bên vợ bảo
lãnh sang Mỹ.
Hai
nhân vật cuối cùng của giòng Vua Bảo Ðại: Nguyễn Phước Ðịnh Lai và Ðịnh
Luân (cháu nội của Bảo Ân). (Hình: Tài liệu của ông Bảo Ân)
Cựu Hoàng Bảo Ðại có gồm cả vợ và tình nhân là 8 người với 13 người con (tài liệu đã được ông Bảo Ân hiệu đính):Vợ:1. Nam Phương Hoàng Hậu. Có hôn thú, 5 con.2. Bùi Mộng Ðiệp. Không hôn thú, 3 con.3. Lý Lệ Hà. Không hôn thú, không con.4. Hoàng Tiểu Lan. Không hôn thú, 1 con gái.5. Lê Thị Phi Ánh. Không hôn thú, 2 con.6. Vicky (Pháp). Không hôn thú, 1 con gái.7. Clément. Không hôn thú.8. Monique Marie Eugene Baudot. Có hôn thú, không con.Con:* Với Nam Phương Hoàng Hậu:1. Thái Tử Nguyễn Phúc Bảo Long (4-1-1936/28-7-2007)2. Công Chúa Nguyễn Phúc Phương Mai (1-8-1937).3. Công Chúa Nguyễn Phúc Phương Liên (3-11-1938).4. Công Chúa Nguyễn Phúc Phương Dung (5-2-1942).5. Hoàng Tử Nguyễn Phúc Bảo Thăng (9-12-1943).(Bốn người con còn lại của Bà Nam Phương hiện sống ở Pháp.)*Với Thứ Phi Mộng Ðiệp, hai người con đầu hiện ở Pháp:1. Nguyễn Phúc Phương Thảo (1946).2. Nguyễn Phúc Bảo Hoàng (1954-1955).3. Nguyễn Phúc Bảo Sơn (1957-1987), tử nạn tại Nhật.*Với Hoàng Tiểu Lan:1. Nguyễn Phúc Phương Anh, hiện sống ở Hawaii.* Với Lê Thị Phi Ánh:1. Nguyễn Phúc Phương Minh (1950-2012).2. Nguyễn Phúc Bảo Ân (1951).* Với bà Vicky1. Nguyễn Phúc Phương Từ (Pháp).
“Họa vô đơn chí!”
Bảo Ân đã trao cho chúng tôi những trang nhật ký viết về cuộc sống của ông sau ngày 30 Tháng Tư 1975:
Ngày 30 Tháng Tư, nóng lòng vì không có tin tức gì của Ðức Bà Từ Cung ở Huế, tôi ở lại Sài Gòn để ngóng tin nên đã bỏ lỡ chuyến bay ra Hạm Ðội 7. Sau vài tuần đi ‘học tập cải tạo’ trở về, Ủy Ban Quân Quản đến nhà tôi ở 213 Công Lý Q.1 yêu cầu chị Phương Minh và tôi phải dọn ra trong vòng 24 tiếng đồng hồ vì họ nói nhà này của tướng cảnh sát ‘ngụy’ Nguyễn Ngọc Loan.
Bức hình giống phụ hoàng nhất của “Mệ Bửu Ân”. (Hình: Tư liệu của gia đình)
Tôi không biết Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan có ở đây không? Thật ra biệt thự này ngày xưa là của Ðức Bà Từ Cung (mẹ Vua Bảo Ðại), ngài mua để khi vào Sài Gòn có nơi trú ngụ. Năm 1957 sau khi truất phế Vua Bảo Ðại, chánh quyền Ðệ Nhất Cộng Hòa đã tịch thu và sau này được Quốc Hội Ðệ Nhị Cộng Hòa với sự vận động tích cực của Trung Tướng TNS. Tôn Thất Ðính, chính quyền đã giao trả lại cho Ðức Bà Từ Cung và ngài ra lệnh lấy căn nhà trước lập bàn thờ Ðức Gia Long và văn phòng liên lạc bà con Nguyễn Phước Tộc, còn căn phía sau thì cho chị em chúng tôi ở.Giấy tờ nhà đất chưa hoàn tất thì biến cố 1975 xảy ra nên không có cái gì để chứng minh là nhà này của gia đình chúng tôi. Vậy là hai chị em mau mau thu xếp đồ đạc, những gì có thể mang được gì thì mang, còn những gì nặng nề không thể mang được thì bỏ lại như tủ lạnh, bàn ghế tủ giường và nhiều thứ khác. Chị em chúng tôi về nhà Me chúng tôi ở nhờ.Vào một buổi sáng thức dậy xuống nhà lấy vài vật dụng để xài, tôi không thấy cái vali quần áo mà tôi đã đem ra được khỏi nhà 213 Công Lý để về đây, đó là cái vali độc nhất của tôi còn lại, nay không cánh mà bay. Cuối cùng tôi tìm thấy một cái thư của chị giúp việc cho Me tôi để lại, đại ý trong thư chị ta viết, trong hoàn cảnh này, chị cần một số vốn để buôn bán nuôi con nên đã lấy cái vali trốn đi, và mong tôi tha thứ cho chị. Thế là tay trắng hoàn trắng tay, đành phải đi mua thêm quần áo để mặc.Sống ở nhà Me tôi cho đến năm 1978 thì Me tôi bị quy vào diện tư sản, bị cưỡng chế ra khỏi nhà và buộc phải đi kinh tế mới trên cao nguyên. Vì không thể sống ở nơi rừng thiêng nước độc nên cả nhà đều bỏ trốn về Sài Gòn, mỗi người đi mỗi nơi, trốn chui trốn nhủi, không hộ khẩu, không chứng minh nhân dân, sống như những kẻ bất hợp pháp. Me và chị Phương Minh thì sống lén lút trong nhà dì Phi Hoa (vợ ông cựu Thủ Hiến Phan Văn Giáo), còn tôi thì ở nhờ nhà mẹ vợ, mỗi tháng đều phải chi tiền cho công an khu vực nhưng vẫn lo sợ bị bắt, nên ban ngày thì ngủ còn ban đêm thì mở mắt trao tráo để canh chừng công an gõ cửa xét hộ khẩu thì lo leo sang nhà bên cạnh trốn cho mau.Me tôi rất lo lắng sợ tôi bị bắt, bà nói “Me và chị Phương Minh là đàn bà con gái, chắc không ai bắt đâu, còn con là con trai, mà là con Vua Bảo Ðại nữa, ở đây nguy hiểm lắm.” (Lúc đó chánh quyền đang tuyên truyền nói xấu nhà Nguyễn.) Me tôi ép tôi phải ra đi, bà gom góp, vay mượn cho chúng tôi vàng để tìm đường vượt biên.Tôi đi vượt biên tổng cộng ba lần, cả ba lần đều bị lừa, hai lần vợ chồng con cái cùng đi, sau cùng hết tiền, Me tôi chỉ còn đủ cho một mình tôi đi thôi, nhưng cũng bị lừa luôn, tuy nhiên cũng còn may mắn vì chỉ bị mất vàng chứ không bị bắt vào tù.Hết tiền, bà và chị Phương Minh đem nhẫn kim cương đi bán thì bị cướp lấy mất, chúng còn xô chị Minh té trầy cả mình mẩy. Tôi không dám làm phiền Me tôi nữa, vợ chồng tôi bàn với nhau coi ra chợ trời xem thử có thể buôn bán gì được không? Thế là tôi bán luôn hai chiếc nhẫn vàng, đó là quà kỷ niệm của Me tôi tặng khi tôi tốt nghiệp trung học và một chiếc khi tôi vào đại học.Gian nan chốn chợ TrờiVợ chồng tôi bắt đầu ra chợ trời kiếm sống bằng cách mua đi bán lại, các bạn hàng ngoài chợ trời thấy hai khuôn mặt ngơ ngơ ngác ngác, họ biết hai con nai này mới ra giàn, nên họ có những món hàng mua cả năm rồi mà không bán được, dân Chợ Trời gọi là “hàng ngậm,” họ giả dạng cho người khác đem đến bán cho chúng tôi, ham rẻ chúng tôi mua vô và sau đó có những món hàng chúng tôi “ngậm” cho đến ngày đi Mỹ vẫn còn trong nhà.
Gia đình “Mệ” Bảo Ân trong thời gian lăn lóc Chợ Trời. (Hình: Tư liệu của gia đình)
Thấy coi bộ bán Chợ Trời không khá, một dịp đi thăm người bà con ở Q.11, được biết người bà con này có phần hùn trong một xưởng sản xuất nước tương, vợ tôi mới bàn với tôi đổi cách làm bằng nghề đi bỏ mối ở chợ Bến Thành. Thế là vợ chồng tôi lại chuyển qua nghề bỏ mối nước tương, chúng tôi mua nước tương rồi thuê xe ba bánh chở từ Phú Thọ Hòa đến chợ Bến Thành.Tôi đứng ở ngoài giữ hàng, còn vợ tôi thì đẩy hàng vào chợ giao cho khách hàng, cô ấy không cho tôi vô chợ vì sợ gặp người quen. Bỏ mối nước tương một thời gian, chính quyền không cho xe ba bánh lưu thông những con đường chính trong trung tâm thành phố, vả lại tôi thấy vợ tôi khiêng nặng và cực nhọc quá mà chẳng kiếm được bao nhiêu nên vợ chồng tôi bàn nhau đổi nghề một lần nữa.Số là khi đi lấy nước tương bỏ mối, chúng tôi thấy trong khu vực này có vài xưởng làm dép cao su, bỏ mối dép cao su nhẹ nhàng hơn, thế là vợ chồng tôi đến nói chuyện và xin mua về để bán. Lúc đầu họ bảo chúng tôi phải đợi đến khi nào họ giao cho khách hàng cũ của họ xong, nếu còn dư họ sẽ bán cho chúng tôi. Cả tháng trời, mỗi ngày chúng tôi phải chờ đợi 3-4 tiếng đồng hồ mà chỉ lấy được vài lố (12 đôi) dép, rồi chúng tôi đem những lố dép đó giao lại cho các tiệm bán dép ở chợ Ðại Quang Minh, Chợ lớn.Sau một thời gian quen rồi, chủ hãng giao cho chúng tôi nhiều hơn và bạn hàng ở chợ, họ cũng đặt hàng nhiều hơn. Có hôm chúng tôi bán được hơn năm mươi lố dép. Những người lấy mối dép như chúng tôi thấy chúng tôi được chủ hãng giao cho một số lớn, họ ganh tỵ, kiếm chuyện gây sự và dọa đánh chúng tôi, bọn họ thì đông, còn chúng tôi chỉ có hai vợ chồng. Bán dép thì nhẹ nhàng hơn nước tương, cũng kiếm tiền khá hơn nhưng bây giờ chúng tôi cảm thấy không còn an toàn nữa, mỗi lần đi lấy hàng phải nhìn trước ngó sau xem có ai phục kích mình không?Tôi thì lo cho vợ tôi, nhưng ngược lại nàng nói nàng không sợ mà chỉ sợ cho tôi. Cô ấy nói nếu tôi có mệnh hệ nào thì Me tôi sẽ oán trách cô ấy, vì ngay cả chuyện đi bán Chợ Trời, bỏ mối nước tương hay dép chúng tôi đều giấu mẹ tôi. Nghĩ mình đang sống bất hợp pháp, không có một tờ giấy lận lưng, nay đi gây chuyện với người ta, công an mà bắt được thì đi tù là cái chắc, nên vẫn trông có dịp kiếm cách khác làm ăn.Trong một dịp tình cờ đi ngang qua đường Nguyễn Thái Bình, Q.1, tôi gặp lại anh bạn thương phế binh tên Quân, con Ðại Úy Hải, trưởng ban an ninh trong Quân Trấn, mà chúng tôi quen nhau trước 1975. Nhà anh ở trong Quân Trấn, Sài Gòn-Chợ Lớn, nơi trước kia tôi làm việc. Hiện nay, anh đang mua bán đĩa nhạc trên lề đường Nguyễn Thái Bình. Kỳ này tôi nói vợ tôi ở nhà chăm sóc con cái, để tôi ra gặp và hùn vốn với Quân.Sáng chúng tôi đứng ở Nguyễn Thái Bình để thu mua đĩa, chúng tôi chỉ mua nhạc hòa tấu thôi, buổi chiều thì chúng tôi đi xe bus đến các quán cafe nhạc ở Sài Gòn-Chợ Lớn-Gia Ðịnh để bán. Thời gian này, nhà nước chỉ cho phép các quán cafe mở nhạc không lời mà thôi, nên các đĩa nhạc hòa tấu càng ngày càng khan hiếm khó mua. Chúng tôi lại xoay qua buôn bán đủ thứ, cái gì có lời là chúng tôi mua vào.
“Công Chúa” Phương Minh và “Hoàng Tử” Bảo Ân bên cạnh mẹ trong thời gian thơ ấu ở Ðà Lạt. (Hình: Gia đình cung cấp)
Tôi có một kỷ niệm không bao giờ quên được là, có một lần con trai tôi là Quý Khang đòi theo cha ra chợ Trời chơi, lúc đó Quý Khang mới ba tuổi, đến trưa Quý Khang buồn ngủ, tôi đang bận coi hàng nên không thể chở Khang về, nên trải tạm tờ báo ra lề đường cạnh chỗ tôi ngồi bán hàng để cháu nằm ngủ. Nhưng xui xẻo làm sao, đúng lúc đó công an và quản lý thị trường đem xe đến hốt những người chiếm lòng lề đường để buôn bán, thương binh Quân thì tàn tật không chạy nhanh được nên tôi phải phụ Quân gom hàng chạy cho nhanh, nếu họ bắt được thì hàng mất, còn tôi chắc cuộc sống của tôi cũng bi đát luôn, quýnh quáng quá lo chạy, nên bỏ quên thằng con đang nằm ngủ ngon lành trên lề đường. Lúc đó đường Nguyễn Thái Bình vắng tanh không còn một bóng người, chỉ còn Quý Khang đang nằm ngủ trên tờ báo, đúng như thành ngữ “đem con bỏ chợ!”Quân theo gia đình đi Mỹ theo diện H.O. trước chúng tôi. Sau này qua Mỹ gặp lại anh ở Garden Grove, Quân nhỏ tuổi hơn tôi, chưa lập gia đình vẫn ở với cha mẹ, anh bị tàn tật nên cũng khó lấy vợ, còn gia đình tôi ở Westminster, lâu lâu Quân đến nhà tôi ăn cơm, ngồi ôn lại những ngày tháng vui buồn chợ Trời. Tiếc là ngày nay Quân đã ra người thiên cổ.
Gian nan những chuyến đi
Khoảng cuối năm
1975, bà Phi Ánh vào Tòa Ðại Sứ Pháp tại Sài Gòn, yêu cầu xin cho toàn
gia đình (gồm cả chồng, con riêng và con của cựu hoàng) được đi Pháp. Ít
lâu sau, qua ông đại sứ Pháp, Cựu Hoàng Bảo Ðại chỉ chấp thuận cho bà
Phi Ánh và hai con sang đoàn tụ và tòa đại sứ đã nhanh chóng cấp
Laissez-Passer cho bà Phi Ánh, Phương Minh và Bảo Ân. Tuy nhiên, Phương
Minh đã có thời gian sống ở Pháp, nói rằng đời sống ở Pháp rất khó khăn,
và tuy vì tình thương con, cựu hoàng thật ra không đủ khả năng bảo trợ
nuôi dưỡng ba người. Mặt khác gia đình của bà Phi Ánh không thể chia cắt
như thế, và Bảo Ân cũng không thể bỏ vợ con ở lại, nên chuyện ra đi
không thành.
Ông Bảo Ân và Thứ Phi Mộng Ðiệp trước tranh vẽ Cựu Hoàng Bảo Ðại (Paris 2004)
Năm 1978, người
chồng sau của bà Phi Ánh vượt biên sang Mỹ thành công, gửi giấy bảo lãnh
về, nhưng lúc ấy Bảo Ân đã có gia đình, không đủ điều kiện ra đi. Trong
khi chờ đợi đi Mỹ, bà Phi Ánh mắc bệnh ung thư và qua đời năm 1984.
Năm 1985, bà Phương Minh và các con riêng của bà Phi Ánh đi định cư ở Mỹ.
Năm 1985, bà Phương Minh và các con riêng của bà Phi Ánh đi định cư ở Mỹ.
Mãi đến năm 1992,
gia đình ông Bảo Ân được gia đình bên vợ bảo lãnh, sang Mỹ và định cư
tại quận Cam từ đó đến nay. Những năm đầu tiên, cũng như bao nhiêu người
mới sang khác, bà Bảo Ân phải ngồi shop may suốt ngày, ông làm trong
một hãng in áo T-shirt và về sau sang làm cho một hãng Nhật chuyên sản
xuất CD tại Garden Grove.
Con trai ông Bảo
Ân, cháu đích tôn của Cựu Hoàng Bảo Ðại, Nguyễn Phước Quý Khang tốt
nghiệp UCI về ngành thương mãi và hiện làm cho một công ty ngoại quốc ở
Sài Gòn.
Xây mộ cho phụ hoàng
Gia đình Bảo Ân
đến Mỹ năm 1992 nhưng vì thất lạc hồ sơ nên đến năm 2005 gia đình mới có
quyền công dân. Cầm passport trong tay, quốc gia đầu tiên mà ông muốn
đến là Pháp, để thăm mộ cha, điều mà ông mơ ước từ lâu, nhưng chưa có cơ
hội thực hiện. Ông Bảo Ân đã liên lạc với một người bạn ở Paris là Ðặng
Văn Phụng, nhờ vợ chồng người này đi xem thử tình trạng ngôi mộ của Vua
Bảo Ðại hiện nay tại nghĩa trang Passy thuộc hạt Trocadero Paris 16e ra
sao. Theo lời kể của ông Bảo Ân, người bạn này suốt một ngày đi tìm,
đọc hết các tấm bia mộ mà không không thấy, nghi ngờ rằng cựu hoàng
không được chôn cất tại đây. Ông Bảo Ân gợi ý cho người bạn là nên đi
tìm người gác nghĩa trang để hỏi,
mặc dầu với bản sơ đồ trong tay, cuộc tìm kiếm cũng không kết quả. Một
lần khác, trong khi đang đứng gần ngôi mộ của cựu hoàng, người bạn này
tình cờ gặp và hỏi một người cảnh sát già về ngôi mộ của “Sa Majesté Bảo
Ðại,” thì ông này chỉ ngay vào ngôi mộ gần đó. Ðó là một ngôi mộ không
có bia, không khắc tên, chỉ trơ trọi hai tấm “đan” xi măng sần sùi, với
mấy chậu hoa đã quá cũ kỹ qua thời gian. Người bạn của anh nhìn xuống
ngôi mộ mà bật khóc. Nơi yên nghỉ của một ông vua mà như thế này sao?
Ông Bảo Ân hồi
tưởng: “Nghe anh kể mà tôi khóc nức nở, thật là tội nghiệp cho cha tôi,
cha nằm đó lạnh lẽo như một kẻ vô danh đã 8 năm rồi, không ai biết để
thắp một nén nhang cho cha ấm lòng.”
Ông Bảo Ân ngậm ngùi trước ngôi mộ đơn sơ của cha
Nghĩa trang Passy ở
Paris là một nghĩa trang nổi tiếng được xây dựng từ đầu thế kỷ XIX, nơi
chôn cất nhiều nhân vật lừng danh của thế giới như tài tử phim hài
Fernandel (1903-1971,) nhà văn Virgil Gheorghiu (1916-1992,) họa sĩ
Edouard Manet (1832-1883,) người sáng lập công ty xe hơi Marcel Renault
(1872-1903,) Tổng Thống Pháp Alexandria Millerand (1859-1943)… Cũng theo
lời kể của ông Bảo Ân, Vua Bảo Ðại không tiền và cũng không có thế lực
để được chôn cất tại đây, đây là phần mộ của một thương gia giàu có ở
Paris, rất kính trọng cựu hoàng, khi nghe ông qua đời đã hiến phần đất
này cho ngài.
Về việc xây mộ cho Cựu Hoàng Bảo Ðại, khi ông từ trần ở Paris, chỉ có người vợ cuối cùng của ông là bà Monique Baudot, người Pháp ở bên cạnh, và trên pháp lý, chỉ có bà Monique, người vợ có hôn thú còn sống mới có quyền xây mộ cho ngài.
Theo sự hiểu biết của ông Bảo Ân, bà Thứ Phi Mộng Ðiệp và các con tuy có tiền nhưng lại không muốn giao cho bà Monique xây mộ. Lúc sinh thời, Thái Tử Bảo Long không làm được, gia đình bên các công chúa không làm được, phía Nguyễn Phước Tộc cũng không làm được vì không có sự đồng ý của bà Monique, thậm chí hội này có quyên góp và giao lại cho bà Monique một số tiền để xây mộ nhưng không có kết quả… Nhiều người giàu có muốn xây mộ cho Vua Bảo Ðại để lấy tiếng cũng bị bà Monique cản trở.
Về việc xây mộ cho Cựu Hoàng Bảo Ðại, khi ông từ trần ở Paris, chỉ có người vợ cuối cùng của ông là bà Monique Baudot, người Pháp ở bên cạnh, và trên pháp lý, chỉ có bà Monique, người vợ có hôn thú còn sống mới có quyền xây mộ cho ngài.
Theo sự hiểu biết của ông Bảo Ân, bà Thứ Phi Mộng Ðiệp và các con tuy có tiền nhưng lại không muốn giao cho bà Monique xây mộ. Lúc sinh thời, Thái Tử Bảo Long không làm được, gia đình bên các công chúa không làm được, phía Nguyễn Phước Tộc cũng không làm được vì không có sự đồng ý của bà Monique, thậm chí hội này có quyên góp và giao lại cho bà Monique một số tiền để xây mộ nhưng không có kết quả… Nhiều người giàu có muốn xây mộ cho Vua Bảo Ðại để lấy tiếng cũng bị bà Monique cản trở.
Ông Bảo Ân rất xúc
động và đau lòng khi nghe người bạn từ Paris mô tả những gì về ngôi mộ
này, nên muốn nhờ người bạn đi kiếm người làm một tấm plaque khắc tên
Vua Bảo Ðại đặt trên ngôi mộ và sau này có thể xúc tiến việc xây mộ cho
ngài. Người bạn tìm đến ông Nguyễn Duy Hiệp, một người Việt, có dịch vụ
chuyên lo về thủ tục mai táng của thành phố Paris. Ông này khi nghe nói
đến có một người con cựu hoàng hiện ở Mỹ có quan tâm đến ngôi mộ, ông
rất cảm kích và ngỏ ý ông sẽ liên lạc với bà Monique để có thể tiến hành
việc xây mộ. Ông Nguyễn Duy Hiệp giải thích là bà Monique có nhờ ông
quyên tiền để xây mộ cho cựu hoàng, nhưng trong ba năm, ông chỉ nới
quyên được 1,200 Euros, vậy nếu
“Mệ” Bảo Ân có khả năng làm được, “thì mời sang Paris, chúng ta sẽ bàn
tiếp”.
Một chủ công ty mộ
bia ở Paris là ông Cridel thấy hoàn cảnh của Cựu Hoàng Bảo Ðại đáng
thương nên đã gặp bà Monique, và điều đình với bà, nếu bà bằng lòng thì
ông sẽ thực hiện bản vẽ và ông sẽ giúp 50% phí tổn xây cất. Ông Nguyễn
Duy Hiệp cũng góp lời thuyết phục, cuối cùng bà Monique đồng ý và giao
cho ông Hiệp gây quỹ trong bà con cộng đồng Việt Nam.
Ông Bảo Ân và con trai, Quý Khang, cháu đích tôn của Cựu Hoàng Bảo Ðại bên ngôi mộ mới vừa hoàn thành.
Gây quỹ
Tốn phí cho công
trình xây mộ ước tính ban đầu là khoảng 25,000 Euros. Công ty Cridel
chịu 50%, ông Nguyễn Duy Hiệp quyên được 3,000 và cá nhân ông đóng thêm
1,000, chùa Tịnh Ðộ đóng góp 1,000, các vị đạo hữu Cao Ðài cho được 400.
Số tiền còn lại do các vị trong cộng đồng Việt Nam đóng góp. Xúc động
nhất là có 1 cháu gái gởi tới 5 Euros kèm theo bức thư đại ý là cháu còn
đi học không có nhiều tiền nhưng thấy thương ông vua của mình quá nên
xin được đóng góp để xây mộ cho ngài. Như vậy còn thiếu khoảng 9,000
Euros cho nên việc xây mộ đã chờ đợi hơn 3 năm nay rồi mà không thực
hiện được.
Sau sự tường trình của ông Nguyễn Duy Hiệp, ông Bảo Ân hứa sẽ cung cấp số tiền còn lại. Ông Bảo Ân cũng cho chúng tôi biết, qua Mỹ phải làm ăn vất vả, không có tiền, tuy vậy ông đã “cà” tất cả thẻ “credit” ông có mới có đủ tiền xây mộ cũng như trang trải tốn phí cho những chuyến đi sang Pháp.
Sau sự tường trình của ông Nguyễn Duy Hiệp, ông Bảo Ân hứa sẽ cung cấp số tiền còn lại. Ông Bảo Ân cũng cho chúng tôi biết, qua Mỹ phải làm ăn vất vả, không có tiền, tuy vậy ông đã “cà” tất cả thẻ “credit” ông có mới có đủ tiền xây mộ cũng như trang trải tốn phí cho những chuyến đi sang Pháp.
Năm 2005, ông Bảo
Ân qua đến Pháp, việc đầu tiên là đến gặp ông Cridel để xem bản vẽ, để
xem có cần sửa chữa gì không? Ghi khắc tên tuổi của cựu hoàng trên bia
đá như thế nào? Ðể khắc chữ bằng vàng trên bia mộ, phải tốn thêm 2,200
Euros. Sau khi bà Monique chấp thuận, ông Cridel sẽ cho xúc tiến xây mộ
ngay lập tức, và khi nào hoàn tất, ông sẽ báo cho ông Bảo Ân trở qua
Pháp để tổ chức lễ tưởng niệm và cầu siêu cho cựu hoàng.
Khi được thông báo
công việc êm xuôi, cuối năm 2006, ông Bảo Ân trở lại Paris. Ông “chạm
trán” bà Monique tại phần mộ của cựu hoàng. Bà Monique nổi tiếng là khó
khăn, câu nói đầu tiên của bà Monique khi nhận ra Bảo Ân là “mắng” ông
sao sang Paris mà không đến thăm viếng bà theo phép lịch sự, trong khi
đó lại đến thăm bà Mộng Ðiệp. Ông Bảo Ân đành lấy lý do ông không rành
tiếng Pháp và không biết đường sá.
Bà Monique cũng than phiền là các con Vua Bảo Ðại “làm phiền bà quá nhiều!”
Việc ông Bảo Ân
xây được mộ cho cựu hoàng cũng là do duyên định, hình như vua cha dành
cho ông vinh dự này vì gần 10 năm nay, không ai có thể thuyết phục được
bà Monique để cho họ xây mộ của Vua Bảo Ðại, trong khi chính bà lại
không có tiền hay không muốn xây mộ.
Bốn chữ “Bảo Ðại Sắc Tứ” được khắc trên đầu bia mộ.
Ngoài các dòng chữ
do ông Bảo Ân soạn khắc trên bia mộ, bà Monique đã quyết định là khắc
thêm hình ảnh kim khánh bốn chữ “Bảo Ðại Sắc Tứ”(*) khắc trên tấm bia,
mà có lẽ những người làm bia mộ, không ai biết ý nghĩa của nó.
Trước ngày khánh thành, ông Bảo Ân cho bà Monique hay là ông sẽ đem lá cờ vàng ba sọc đỏ vào treo trước ngôi mộ, vì đây là lá cờ ngày 2 Tháng Sáu năm 1948, chính phủ của Quốc Trưởng Bảo Ðại (với Thủ Tướng Nguyễn Văn Xuân) đã chính thức dùng làm quốc kỳ của quốc gia Việt Nam. Cuộc thương thảo bất thành vì bà Monique không bằng lòng và de dọa sẽ gọi cảnh sát can thiệp nếu ông Bảo Ân đem lá cờ VNCH vào lễ khánh thành.
Trước ngày khánh thành, ông Bảo Ân cho bà Monique hay là ông sẽ đem lá cờ vàng ba sọc đỏ vào treo trước ngôi mộ, vì đây là lá cờ ngày 2 Tháng Sáu năm 1948, chính phủ của Quốc Trưởng Bảo Ðại (với Thủ Tướng Nguyễn Văn Xuân) đã chính thức dùng làm quốc kỳ của quốc gia Việt Nam. Cuộc thương thảo bất thành vì bà Monique không bằng lòng và de dọa sẽ gọi cảnh sát can thiệp nếu ông Bảo Ân đem lá cờ VNCH vào lễ khánh thành.
Con trai của cựu
hoàng phản đối bằng cách không đến tham dự lễ khánh thành ngôi mộ của
cha, và bài diễn văn soạn sẵn, với tư cách là đại diện của gia đình Vua
Bảo Ðại, để cám ơn các quan khách và hội đoàn người Việt tại Paris, sẽ
không bao giờ còn cơ hội để đọc nữa.
Ngày khánh thành
mộ cựu hoàng có đủ các chức sắc thành phố, các hội đoàn người Việt ở
Paris, nhưng lại vắng bóng các “Mệ” con của Vua Bảo Ðại, ngoài lý do
trên của Bảo Ân, không ai muốn gặp mặt bà Monique. Ông Bảo Ân cho biết
lý do, nếu ai đến, tức là đã công nhận bà Monique trong vai trò người vợ
chính thức của nhà vua, đó lại là điều tất cả mọi người không ai muốn.
Ghi chú:
(*) Theo nhà biên
khảo Võ Hương An, 4 chữ “Bảo Ðại Sắc Tứ” khắc trong kim khánh trên bia
của lăng Vua Bảo Ðại tại nghĩa trang ở Paris, nhìn thì đẹp nhưng không
có nghĩa. Hai chữ sắc tứ (hay có khi là ân tứ) được dùng khi vua ban
thưởng một vật gì đó cho bầy tôi; ở đây, Vua Bảo Ðại đã là vua rồi thì
không viết “Bảo Ðại Sắc Tứ” được. Nếu muốn trang trí thì nên ghi “Bảo
Ðại Hoàng Ðế”.
Trong bài báo này
chúng tôi dùng tiếng “mộ” để chỉ nơi an nghỉ của Cựu Hoàng Bảo Ðại.
Nhưng theo sách vở triều Nguyễn, mộ của Hoàng Ðế, Hoàng Hậu, Thái Hậu
được gọi là “lăng,” còn ngoài ra, dân thường và quan lại, dù đến nhất
phẩm triều đình cũng chỉ được gọi là “mộ.”
Những đoạn đời gian truân
Ông Bảo Ân nhớ
lại: Nếu không có chuyện tịch thu tài sản và nhà cửa của bà Phi Ánh, mẹ
ông, thì không có cảnh gia đình tan tác, mẹ con mỗi người mỗi ngả và lâm
cảnh túng bấn.
“Cuộc đời đôi khi
giống như một vở kịch.” Ông Bảo Ân tâm sự: “Ngày hôm đó thật là một ngày
buồn thảm đáng ghi nhớ, trời đã tối rồi mà ba mẹ con chúng tôi vẫn chưa
tìm ra chỗ để dung thân, đi tới đâu ai cũng khéo léo từ chối, không ai
còn muốn dính dáng tới chúng tôi nữa. Ông ngoại nói với dì Phi Hoa để
cho chúng tôi tạm trú, mặc dầu gia đình bà cũng đang lâm vào hoàn cảnh
khó khăn vì có liên hệ đến Quốc Trưởng Bảo Ðại như chúng tôi.
Một thời gian khi
thấy tình hình bên ngoài tạm yên, Me tôi quyết định cho chúng tôi đi học
lại. Me tôi nhờ ông ngoại đến trường ghi danh cho chúng tôi, nhưng ông
ngoại tới đâu, sau khi xem ‘lý lịch’ họ đều khéo léo từ chối, mà không
nói lý do. Chị em chúng tôi đành phải ở nhà chơi một năm không đến
trường. Sau đó chúng tôi phải tìm giải pháp là làm lại giấy khai sinh,
lấy họ mẹ, từ dòng dõi nhà Nguyễn đổi thành con cháu họ Lê. Chúng tôi đã
trở thành con người mới, không còn dính líu gì đến chế độ cũ nữa, có
thể gọi là ‘chối bỏ nguồn gốc để tồn tại!’”
Trong thời gian
này, bà Phi Ánh cũng không dám liên lạc với Ðức Từ Cung vì sợ bị lộ tung
tích, vì dầu sao Bảo Ân cũng là giọt máu của cựu Hoàng Bảo Ðại duy nhất
đang sống tại Việt Nam.
Ông Bảo Ân tiết
lộ, tên thật của ông do bà Từ Cung đặt cho ông khi mới sinh ra đời là
Bảo Khương. Khi làm lại giấy khai sinh, ông đã đổi tên Bảo Ân và lấy họ
mẹ. Sau này khi bà Từ Cung và cựu Hoàng Bảo Ðại biết chuyện này, cũng đã
rất thông cảm.
Năm 1964, bà Từ
Cung đem Bảo Ân ra Huế ở với bà để đi học, cho đến năm 1968, khi biến cố
Mậu Thân xảy ra, sau khi Việt Cộng rút ra khỏi Huế, bà Phi Ánh lo sợ
cho con, nên đã nhờ một người trong Nguyễn Phước Tộc là ông Bửu Nghi,
xin với Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ một chiếc trực thăng để đưa Bảo Ân từ
sân Phú Văn Lâu lên phi trường Phú Bài, và từ đây ông đi theo máy bay
C.130 chở tử sĩ và thương binh về Sài Gòn. Mười hai năm sau, 1980, “Mệ”
Bảo Ân và chị là Phương Minh đã trở lại Huế để thọ tang bà nội là Ðoan
Huy Hoàng Thái Hậu, tức là Ðức Bà Từ Cung
.
Việc tịch thu tài sản của gia đình Quốc Trưởng Bảo Ðại
Nhiều người biết
chuyện Quốc Trưởng Bảo Ðại bị ông Ngô Ðình Diệm truất phế trong cuộc
“trưng cầu dân ý” vào ngày 23 Tháng Mười năm 1955, nhưng ít ai biết đến
việc tài sản của toàn gia đình những người liên hệ với Quốc Trưởng Bảo
Ðại (kể cả vợ không hôn thú) và của các ông Vĩnh Cẩn, Nguyễn Ðệ đều bị
tịch thu. Thân mẫu của Quốc Trưởng Bảo Ðại, Ðức Từ Cung phải dọn ra khỏi
Cung An Ðịnh.
Câu hỏi của chúng
tôi đối với ông Bảo Ân là, phải chăng việc tịch thu tài sản này là do
cấp dưới, tùy tiện, “lấy điểm” mà không phải do chủ trương, chính sách
của cấp trên?
Công báo VNCH ngày 22 Tháng Ba 1958.
Ông Bảo Ân đã cho
chúng tôi xem một tài liệu cũ mà ông đã lưu giữ từ 56 năm qua, tờ Công
Báo Việt Nam Cộng Hòa ngày Thứ Bảy 22 Tháng Ba 1958, ấn hành bởi tòa
tổng thư ký Phủ Tổng Thống, “bảng phụ đính vào quyết định số 400.BTC/DC
ngày 14 Tháng Ba 1958 của ông bộ trưởng tài chánh chỉ định những tài sản
của Bảo Ðại và bộ-hạ đặt dưới đạo luật số 17/57 và 16-2-1957 và sắc
lệnh số 122-TC ngày 27-02-1958 chỉ định tài sản tịch thu” của:
- Vĩnh Thụy tức Bảo Ðại.
- Marie Jean Nguyễn Hữu Hào, tức Nguyễn Thị Lan, tức Nam Phương Hoàng Hậu, vợ chính thức của Bảo Ðại.
– Bùi Thị Mông Ðiệp hay Bùi Mộng Ðiệp, vợ không chính thức của Bảo Ðại.
– Bùi Thị Mông Ðiệp hay Bùi Mộng Ðiệp, vợ không chính thức của Bảo Ðại.
- Lê Thị Phi Ánh hay Lê Phi Ánh, vợ không chính thức của Bảo Ðại.
- Hoàng Thị Lang (hay Lan) tức Wong Y Lang, tức Jenny, vợ không chính thức của Bảo Ðại.
- Vĩnh Cẩn (anh em
chú bác và là người thân cận với cựu hoàng, thường được gọi là Hoàng
Tùng Ðệ) và vợ chính thức là Nguyễn Hữu Thị Bích Tiên.
- Nguyễn Ðệ (đổng lý văn phòng quốc trưởng ở Paris) và vợ là Bùi Thị Mão.
Tài sản bị chỉ
định tịch thu gồm có bất động sản như nhà cửa, lâu đài, biệt điện, đồn
điền, các sở đất, các kho chứa hàng, tất cả khí mãnh, dụng cụ trang bị
cho các cơ sở trên, số tồn khoản tại các nhà băng, các cổ phần trong các
công ty, các số nợ cho người khác vay, các loại xe hơi…
Chúng ta cũng biết
là sau khi Quốc Trưởng Bảo Ðại bị truất phế, An Ðịnh Cung, diện tích
16,584 m2, tọa lạc tại bờ sông An Cựu Huế, tư sản của Vua Khải Ðịnh,
không phải của triều đình nhà Nguyễn, đã bị chỉ định là tài sản tịch thu
của “Vĩnh Thụy tức Bảo Ðại”. Thoạt đầu Ðức Từ Cung phải dọn qua tạm trú
tại nhà thờ Kiên Thái Vương, trong khuôn viên Cung An Ðịnh Cung, và sau
đó ra ở tại ngôi nhà ở địa chỉ 79D Phan Ðình Phùng, gần chợ An Cựu cho
đến khi bà qua đời.
Sống lưu vong, chết nghèo khó
Theo lời kể của
thứ phi Mộng Ðiệp với ông Bảo Ân, cuối năm 1955, sau khi bị truất phế,
bề ngoài không ai biết cựu hoàng nghĩ gì, nhưng theo bà, ông đã có một
thời gian bị trầm uất, mất ngủ và phải dùng thuốc an thần. Ông nói là
ông rất lo cho Ðức Từ Cung. Sau này nghe tin Ðức Từ Cung bị đuổi ra khỏi
Cung An Ðịnh, cựu Hoàng Bảo Ðại lại càng lo hơn, tối không ngủ được.
Cựu hoàng hút thuốc lá liên miên, và thường bỏ nhà đi “bụi đời” (nguyên
văn), không biết đi đâu, chỉ những lúc đau ốm hay cạn tiền mới trở về
với bà Mộng Ðiệp.
Cũng theo lời
tường thuật của ông Bảo Ân: “Sau cú ‘sốc’ đó cựu hoàng không muốn tin ai
nữa, không muốn tiếp xúc với ai, ông bảo bà Mộng Ðiệp đưa tiền rồi đeo
cái túi xách lên vai đi 3-4 ngày, đôi khi đi cả tuần đến khi đau ốm hoặc
hết tiền mới trở về. Khi hết bệnh ông lại đi tiếp, hỏi ông đi đâu thì
ông nói đi loanh quanh đây thôi. Có khi bà Mộng Ðiệp phải bảo Hoàng Tử
Bảo Sơn và anh Jean Bui (con riêng của bà) theo dõi cựu hoàng, thì ông
giận bà suốt hai tuần. Có lần cựu hoàng lên cơn sốt rét nằm trên băng
ghế, dưới hầm metro, cảnh sát đem ông về đồn và gọi điện thoại cho Hoàng
Tử Bảo Long đến bảo lãnh ông về, rồi khi hết bệnh ông lại đi nữa.”
Thứ Phi Mộng Ðiệp
nói với Bảo Ân: “Nhà dì giống như cái trạm, hết tiền hay đau bệnh thì
ngài mới về. Vì vậy khi Hoàng Hậu Nam Phương qua đời năm 1963, ở
Chabrignac, không ai biết ngài ở đâu để thông báo. Ðiều này làm ngài rất
buồn và cứ băn khoăn trách móc dì mãi!”
Nghèo khổ và cô đơn
Năm 1967, Công
Chúa Phương Minh sang Pháp theo sự sắp xếp hôn nhân của gia đình nhưng
không thành, thấy hoàn cảnh của vua cha cô đơn và tội nghiệp, nên cô
tình nguyện ở lại để săn sóc cha.
Lúc này cựu hoàng
đã dùng thuốc ngủ rất nặng, có lần uống thuốc xong, nằm vắt tay lên
trán, vừa suy nghĩ vừa hút thuốc. Khi thuốc ngấm, ông ngủ hồi nào không
biết, điếu thuốc trên tay rơi xuống áo cháy phỏng cả ngực, nên lần sau
mỗi lần ông dùng thuốc ngủ, cô Phương Minh đứng đó canh chừng đến khi
ông ngủ rồi mới dám đi làm công việc. Tuy ở Paris, Phương Minh cũng chỉ
gặp Hoàng Tử Bảo Long một lần và chưa hề giáp mặt Bảo Thăng và các công
chúa Phương Mai, Phương Liên và Phương Dung. Quốc Trưởng Bảo Ðại có
nhiều vợ và nhiều dòng con, khi Nam Phương Hoàng Hậu qua đời, ông cũng
không hay biết, điều đó đã tạo thêm sứt mẻ trong gia đình.
Từ trái sang phải: Bà Ưng Thi, cựu Hoàng Bảo Ðại, bà Monique Baudot, ông Ưng Thi (Paris 1995). (Hình: Tài liệu của gia đình ông Bảo Ân)
Ðời sống ở Paris
cũng khó khăn, vất vả, cô con gái của cựu hoàng, phải đi làm tiếp viên
trong một nhà hàng Trung Hoa để có phương tiện để sống gần cha và chính
cô, cũng phải nhận sự trợ giúp từ mẹ ở Sài Gòn. Trong thời gian này, hầu
hết sự chi dùng của ngài là do tiền của Ðức Bà Từ Cung gởi qua. Mặc dầu
các con cũng thường hay lui tới thăm ngài, nhưng ngài không bao giờ đề
cập đến vấn đề tiền bạc, và cũng không ai nghĩ đến chuyện giúp đỡ ngài.
Theo lời cô Phương Minh kể lại, khi có tiền thì hai cha con rủ nhau đi
nhà hàng, khi hết tiền thì nhiều ngày chỉ có một bữa ăn.
Nhiều khi cạn tiền, túng thế, cựu hoàng phải bảo Phương Minh chạy đi “vay mượn” những người quen biết.
Cho mãi đến năm 1971, Phương Minh hay tin mẹ đau nặng, cô trở về Sài Gòn và bị kẹt lại sau khi cộng sản chiếm miền Nam.
Cũng năm này, Bảo Ðại kết hôn với Monique Baudot, một phụ nữ Pháp kém hơn 30 tuổi (Monique Baudot sinh năm 1946.) Bảo Ðại vào đạo Thiên Chúa, có tên thánh là Jean-Robert.
Cũng năm này, Bảo Ðại kết hôn với Monique Baudot, một phụ nữ Pháp kém hơn 30 tuổi (Monique Baudot sinh năm 1946.) Bảo Ðại vào đạo Thiên Chúa, có tên thánh là Jean-Robert.
Ở Paris, cựu Hoàng
Bảo Ðại không có nổi một căn nhà, nơi mà cựu hoàng ở với bà Monique
trong những ngày cuối đời là do một người Pháp yêu mến để cho cựu hoàng ở
không lấy tiền. Có lần, theo lời kể của bà Mộng Ðiệp, bà Monique đã xúi
nhà vua kiện ra tòa án để lấy các tài sản của bà thứ phi, nhưng nhà vua
đã không bằng lòng. Cuộc hôn nhân cuối cùng với bà Monique đã đưa đến
chia rẽ trong gia đình cựu hoàng, từ đó không ai đến thăm viếng ông nữa
và gần như vị vua cuối cùng của triều Nguyễn sống trong cảnh nghèo khó
và cô đơn. Năm 1982, nhân khai trương Hội Hoàng Tộc ở hải ngoại, Bảo Ðại
lần đầu tiên sang thăm Mỹ với tư cách cá nhân, cùng đi với cựu hoàng có
bà Monique.
Sau khi cựu Hoàng
Bảo Ðại kết hôn với bà Monique thì các con đều xa lánh không lui tới,
thăm viếng. Ông mất ngày 31 Tháng Bảy 1997 tại Quân Y Viện Val-de-Grâce,
Paris, hưởng thọ 85 tuổi. Ðám tang Bảo Ðại được tổ chức một cách lặng
lẽ vào lúc 11 giờ ngày 6 Tháng Tám năm 1997 tại nhà thờ Saint-Pierre de
Chaillot số 35 đại lộ Marceau, quận 16 Paris và linh cữu được mai táng
tại nghĩa địa Passy trên đồi Trocadero, không hề thấy sự hiện diện của
thân thích gia đình, trừ bà Monique, người vợ cuối cùng ở bên cạnh, với
cờ tam tài của Pháp Quốc và Hội Cựu Quân Nhân Pháp.
‘Hoàng Tử’ Bảo Ân xin hai chữ ‘công bình’
Ðể kết thúc 5 kỳ
báo viết về cựu Hoàng Bảo Ðại và tấm lòng của đứa con trai lưu lạc Bảo
Ân, không có gì hơn là mời bạn đọc hiểu nỗi lòng của ông, được ghi lại
trong bài diễn văn thay mặt gia đình, dự định đọc trong lễ khánh thành
lăng mộ cựu Hoàng Bảo Ðại năm 2006 không thành.
Hoàng Tử Bảo Ân đã biện bạch nỗi lòng của một đứa con “bất hiếu” và xin hai chữ “công bình” cho phụ hoàng:
“Năm 1980 tại Huế, tôi đã từng khóc để tiễn biệt Ðức Bà Nội tôn kính của chúng tôi là Ðoan Huy Hoàng Thái Hậu Từ Cung về với tổ tiên, liệt thánh nhà Nguyễn. Một lần nữa, 1986, tôi lại khóc để vĩnh biệt mẹ thân yêu của chúng tôi là bà thứ phi Lê Phi Ánh, và bây giờ, mặc dầu trễ chín năm do hoàn cảnh, cuối cùng tôi cũng đến được nơi đây để mong một phần nào làm tròn bổn phận của một đứa con hơn 50 năm qua, ao ước được gặp lại cha mình, nhưng rồi mãi mãi niềm ao ước đó chẳng bao giờ thành hiện thực. Ngày nay đứng bên mộ phần của cha, xin cúi đầu kính cẩn dâng lên ngài lời cầu xin được tha tội!”
“Năm 1980 tại Huế, tôi đã từng khóc để tiễn biệt Ðức Bà Nội tôn kính của chúng tôi là Ðoan Huy Hoàng Thái Hậu Từ Cung về với tổ tiên, liệt thánh nhà Nguyễn. Một lần nữa, 1986, tôi lại khóc để vĩnh biệt mẹ thân yêu của chúng tôi là bà thứ phi Lê Phi Ánh, và bây giờ, mặc dầu trễ chín năm do hoàn cảnh, cuối cùng tôi cũng đến được nơi đây để mong một phần nào làm tròn bổn phận của một đứa con hơn 50 năm qua, ao ước được gặp lại cha mình, nhưng rồi mãi mãi niềm ao ước đó chẳng bao giờ thành hiện thực. Ngày nay đứng bên mộ phần của cha, xin cúi đầu kính cẩn dâng lên ngài lời cầu xin được tha tội!”
“Nói về cuộc đời của Cha tôi, lâu nay có nhiều dư luận trái ngược nhau. Ngày hôm nay, bên mộ phần ngài, tôi không muốn biện minh những gì ngài đã làm cho dân tộc của ngài, mà chỉ xin quý vị, cùng tất cả những người Việt Nam khác, hãy bỏ qua những khác biệt chính trị mà chỉ xét vấn đề trên từng bối cảnh lịch sử của đất nước, xin vui lòng nhìn vào lương tâm mình, không phải để tìm trong đó lòng bác ái hay một tình cảm riêng tư, bởi vì cha tôi, không muốn và cũng không chờ đợi sự rộng lượng đó của quý vị, mà chỉ xin quý vị tìm trong đó một đức tính cao thượng và lòng trung thực để trả lại cho ngài hai chữ ‘công bình’ trong lịch sử.” (Bảo Ân)
Video
Video 2
Rong ruổi cùng xe ôm là cháu nội Vua Thành Thái
Không phải rong ruổi bằng xe song mã của thời vua chúa, hay xe hơi lộng lẫy của bậc vương giả, mà là đi xe ôm. Có một người cháu nội vua đang sống bằng nghề chạy xe ôm bằng chiếc xe gắn máy cũ kỹ.
Bảo Tài chở tác giả đi công tác.
Tôi đã có một ngày được
hoàng tôn Nguyễn Phước Bảo Tài - cháu nội Vua Thành Thái - chạy xe ôm
đưa đi rong ruổi khắp miền sông nước Hậu Giang.
Hoàng tôn nhọc nhằn mưu sinh
Biết Nguyễn Phước Bảo
Tài hành nghề chạy xe ôm, tôi đã “cắc cớ” thuê anh chở đi công tác ở Hậu
Giang, một tỉnh giáp với TP.Cần Thơ. Bảo Tài cho biết, anh đã từng chở
khách đi xa hàng trăm cây số, vì vậy chở tôi đi Hậu Giang (cách TP.Cần
Thơ khoảng 50 cây số) là “chuyện nhỏ”. Đúng hẹn, tôi đến “bến xe” của
anh - một quán cơm nhỏ dưới chân cầu Nguyễn Việt Dũng, phường Thường
Thạnh, quận Cái Răng, TP.Cần Thơ. Bảo Tài đang tất bật “bưng bê” trong
quán cơm không tên. Ngoài nghề chạy xe ôm, vợ chồng anh còn thuê một
khoảnh đất nhỏ cất “chòi” mở quán cơm.
Bảo Tài bảo tôi ngồi
đợi anh cho qua giờ “cao điểm” rồi đi. Quán cơm nằm giữa khu lao động,
cạnh Trường Đại học Tây Đô, vì vậy mà toàn khách bình dân, rất đông lúc
sáng sớm, nhưng chỉ sau 7 giờ là vắng tanh. Nhà vợ chồng Bảo Tài ở xã
Nhơn Nghĩa (huyện Phong Điền, TP.Cần Thơ), cách đó cả chục cây số. Hằng
ngày, cứ khoảng 3 giờ sáng, vợ chồng anh rời khỏi nhà, đến quán. Trong
khi vợ anh - chị Nguyễn Bích Thủy - lo “nổi lửa” nấu cơm thì Bảo Tài
xuống chợ nổi Cái Răng mua rau cải, rồi ghé các lò mổ mua thịt đem về
làm thức ăn. Xong anh quay về nhà chở đứa con gái nhỏ (đứa con duy nhất,
bị bệnh thiểu năng) đến trường, rồi quay trở lại quán phụ vợ giờ cao
điểm. Quá 7 giờ sáng mới là lúc anh bắt đầu 1 ngày chạy xe ôm.
Chuyện kể trên đường đi
Khi khách đến ăn cơm đã
ngớt, Bảo Tài giao quán cho vợ, cùng tôi lên đường. Hành trang của anh
cho một chuyến đi xa thật đơn giản: Chiếc giỏ nhỏ đựng chai nước, hộp
cơm, chiếc võng, cái áo mưa và một ít thuốc (anh bị bệnh cao huyết áp).
Anh cho biết, chạy xe ôm không được bao nhiêu tiền, nếu ăn uống dọc
đường sẽ chẳng còn gì đem về gia đình, vì vậy phải mang cơm, nước uống
theo.
Con đường mới mở nối
thẳng TP.Cần Thơ với TP.Vị Thanh (tỉnh Hậu Giang) thật thoáng đãng, mặt
nhựa phẳng lỳ, xe các loại chạy như bay. Chỉ có Bảo Tài là chạy từ từ,
tốc độ khoảng 40 – 50km/h. Anh cho biết, từ sau cái lần bị té xe, rồi
thêm chứng bệnh cao huyết áp, anh luôn chạy xe chậm, đề phòng tai nạn.
“Hầu hết khách đi xe đều hài lòng chuyện chạy chậm của tôi. Chỉ thỉnh
thoảng mới có khách trẻ tuổi thúc tôi chạy nhanh. Bây giờ, ai cũng thấy
tai nạn giao thông luôn rình rập, cẩn thận vẫn hơn” - Bảo Tài nói. Cũng
nhờ xe chạy chậm mà tôi và anh có thể trò chuyện trên đường đi, những
câu chuyện về một thời chưa xa mà ngỡ như là cổ tích.
Anh là 1 trong 7 người
con của hoàng tử Nguyễn Phước Vĩnh Giu – 1 trong 9 người con của Vua
Thành Thái và hoàng phi Chí Lạc. Sau 31 năm bị lưu đày trên đảo Reunion,
năm 1947 Vua Thành Thái và gia đình được thực dân Pháp cho về nước.
Nhưng gia đình “nhà vua” không được sống bên nhau, cựu hoàng bị quản
thúc ở Vũng Tàu, còn các “hoàng tử” thì phiêu bạt mỗi người một nơi, bị
thực dân Pháp theo dõi gắt gao. Năm 1949, hoàng tử Vĩnh Giu bị đưa xuống
Cần Thơ làm cầu đường. Năm 1951, ông kết hôn với bà Lý Ngọc Hóa (người
Cần Thơ) và sinh được 7 người con.
Ông Vĩnh Giu phải làm
nhiều nghề để nuôi con, trong khi chính quyền thuộc địa luôn gây khó
khăn, vì vậy mà các con ông không ai được học hành lên cao. Sau năm
1975, ông Vĩnh Giu làm nghề sửa xe đạp để sống, cả nhà ông sống nương
nhờ nhà mẹ vợ trong một con hẻm trên đường Phan Đình Phùng. Bảo Tài sinh
năm 1964, từng làm nhiều nghề, kể cả bán vé số, trước khi cố định với
nghề chạy xe ôm. Mãi đến năm 40 tuổi anh mới lấy vợ, sinh được bé gái
Nguyễn Phước Thanh Tuyền, nay được 7 tuổi. Cô bé có khuôn mặt “hoàng
tộc” thật đẹp, nhưng bị “suy não” từ khi mới sinh ra. Tất cả những người
con của “hoàng tử” Vĩnh Giu đều nghèo, trong đó Bảo Tài là nghèo nhất.
Cách đây vài năm, vợ chồng anh còn sống trong chòi lá tạm bợ, nhờ những
nhà hảo tâm giúp xây tặng nhà tình nghĩa, nay nhà cửa đàng hoàng hơn.
Ước nguyện đơn sơ
Đến Vị Thanh, trong khi
tôi “tác nghiệp” nghề báo, Bảo Tài chọn một gốc cây có bóng mát để
giăng võng nằm nghỉ. Xong chuyện, tôi kêu anh chở tiếp đến một quán cơm
để ăn trưa. Tôi định kêu cơm cho cả anh, nhưng Bảo Tài đã ngăn lại, rồi
lấy trong giỏ ra hộp cơm đem từ nhà. Ăn cơm xong, anh uống viên thuốc
trị cao huyết áp bằng chính chai nước chín đem theo từ nhà. Chúng tôi
lại đi, anh lại kể về gia đình mình.
Bảo Tài (thứ 2 từ trái sang) cùng gia đình trong ngày giỗ cha là hoàng tử Vĩnh Giu. Ảnh: Kỳ Quan
Hoàng tử Vĩnh Giu và
gia đình sống nghèo khó, chen chúc trong con hẻm nhỏ ở TP.Cần Thơ suốt
thời gian dài mà không ai biết. Đến năm 2005, báo chí phát hiện, đăng
tin. Mấy hôm sau, ông Vĩnh Giu bất ngờ đón một vị khách đặc biệt: Nguyên
Thủ tướng Võ Văn Kiệt. Ông Sáu Dân rất xúc động trước cảnh sống nghèo
khó của gia đình hoàng tử Vĩnh Giu. Ông đã vận động địa phương Cần Thơ
tặng nhà cho Vĩnh Giu, đồng thời giúp công ăn việc làm cho các con ông,
Bảo Tài được tặng chiếc xe gắn máy để mưu sinh. Nhờ đó mà năm 2007, khi
ông Vĩnh Giu qua đời, các con mới có chỗ làm đám tang cho cha.
Xế chiều, khi xong công
việc ở Hậu Giang, tôi cùng Bảo Tài trở về Cần Thơ. Dọc đường, trời đổ
mưa như trút nước, sấm chớp liên hồi. Chúng tôi trở nên thật nhỏ bé, yếu
đuối giữa cánh đồng Bảy Ngàn mênh mông. Bảo Tài tấp vào một cây xăng,
vừa tháo nón bảo hiểm vừa nhỏ nhẹ nói với tôi: “Mưa lớn như vầy, có áo
mưa cũng ướt hết, lại nguy hiểm. Mình đụt mưa chừng nào tạnh rồi đi”.
Cả 2 chúng tôi đều co
ro vì lạnh. Trong tiếng sấm ì ầm từ xa vọng lại, trong tiếng mưa rì rào,
Bảo Tài cho tôi biết anh có một ước nguyện đơn sơ: Được “mạnh giỏi”
chạy xe ôm, mỗi ngày để dành ít tiền, để khi kha khá sẽ làm chuyến “hành
hương” về Huế thăm mộ cha ông và ngắm nhìn những vết tích một thời huy
hoàng của họ... Từ ngày hoàng tử Vĩnh Giu qua đời được đưa về Huế an
táng, tới nay Bảo Tài chưa lần nào đi Huế viếng mộ cha, lăng mộ của tổ
tiên.
Cơn mưa đầu mùa đến
nhanh mà đi cũng nhanh. Bảo Tài chở tôi đi tiếp, về tới Cần Thơ cũng vừa
lên đèn. Tôi định trả cho anh số tiền nhiều hơn một chút, để anh sớm
đạt ước nguyện đơn sơ của mình, nhưng Bảo Tài kiên quyết từ chối, anh
chỉ nhận đúng giá, một cái giá rất bình dân ở vùng nông thôn miền tây.
Anh cho biết, vợ anh đã đón con về nhà, đang chờ chồng về ăn cơm chiều.
Với một người cháu nội nhà vua nhà Nguyễn dòng dõi cao sang sao mà niềm
hạnh phúc thật đơn sơ, ước nguyện cũng đơn sơ đến thế!
No comments:
Post a Comment