Năm
em lên ba, bố
tôi bỏ lại
người vợ trẻ
và hai đứa con
thơ lên đường
tập kết.
Tôi
hơn em sáu
tuổi. Chín
tuổi con nhà
nghèo khôn
lắm, tôi đủ
khôn để thấy
khuôn mặt mẹ
buồn hiu hắt,
những tiếng
thở dài và
những giọt
nước mắt âm
thầm của mẹ
trong đêm.
Chín tuổi, tôi
đã biết mình
là người nam
độc nhất trong
gia đình, đã
biết ẩm bồng
đút cơm cho em
và vỗ về em
mỗi khi em
khóc. Chín
tuổi, tôi đã
biết tắm rửa,
thay áo thay
quần cho em,
cõng em đi
chơi và dỗ cho
em ngủ. Mỗi
ngày, trời sập
tối mẹ mới
gánh hàng về,
ba mẹ con ngôì
ăn cơm bên
ngọn đèn dầu ,
tôi và em hỏi
han, an ủi mẹ.
Mẹ kể cho
chúng tôi nghe
chuyện chợ búa
như đang nói
chuyện với
người lớn, tôi
ngồi nghe,
nhìn đôi vai
gầy của mẹ,
nhìn mái tóc
và đôi bàn tay
khô của mẹ, mà
thấy thương mẹ
vô cùng.
Tôi
phải bỏ học ở
nhà hai năm để
trông chừng
em. Mẹ có một
sạp bán rau
cải ở chợ Cồn.
Gọi là sạp chứ
thực ra chỉ là
một ô đất nhỏ,
sáng mẹ ra đi
thật sớm, lúc
trời còn mờ
sương, buổi
trưa mẹ về nhà
lo cho chúng
tôi ăn, nằm
nghỉ ít phút
rồi trở dậy
sửa soạn cho
chuyến chợ
chiều. Một
tuần bảy ngày,
mẹ đi đi về về
trong nỗi cô
đơn.
Năm
em vừa tròn
năm tuổi thì
mẹ cho em vào
mẫu giáo, tôi
cũng trở lại
trường, đám
bạn cũ của tôi
nay đã hơn tôi
hai lớp, ngồi
xung quanh tôi
bây giờ là
những khuôn
mặt lạ, kém
tôi hai, ba
tuổi. Tôi là
học trò lớn
nhất và học
khá nên được
làm trưởng
lớp. Gần cuối
năm học lớp
nhì, tôi nói
với mẹ lên xin
thầy Hiệu
trưởng cho tôi
được thi nhảy
tiểu học. Thầy
bằng lòng. Tôi
cắm cúi học
luyện thi và
kết quả là tôi
đã đỗ được
bằng Tiểu Học
năm đó.
Vào
lớp đệ thất
trường Trần
quốc Tuấn, tôi
tiếp tục học
ngày, học đêm,
năm Đệ Ngũ tôi
thi nhảy một
lần nữa lấy
bằng Trung
Học. Đến niên
học Đệ Tam thì
tôi đã bắt kịp
đám bạn cũ,
tôi hân hoan
nhập bầy chung
với đám bạn
ngày xưa. Đây
là giai đoạn
mà tôi cần
tiền để mua
sách học và
may thêm quần
áo, thời tiểu
học và trung
học Đệ Nhất
Cấp thì mặc
sao cũng được,
nhưng bây giờ
đã lên Đệ Nhị
Cấp rồi, đã
bắt đầu biết
đỏ mặt khi
nhìn những đứa
con gái trường
nữ, thỉnh
thoảng đã biết
theo bạn tập
uống cà phê,
phì phà điếu
thuốc. Tiền mẹ
cho không đủ,
tôi bắt đầu
công việc kèm
trẻ tư gia để
kiếm thêm
tiền. Học trò
của tôi là mấy
cô cậu đệ thất
đệ lục, nghĩa
là cũng chỉ bé
thua tôi vài
tuổi .
Ba mẹ
con tôi vẫn
ngày ngày đi
về căn nhà
nhỏ, căn nhà
vẫn không thay
đổi một chút
nào từ ngày bố
bỏ mấy mẹ con
để ra đi.
Hết
năm Đệ Tam,
tôi nộp đơn
thi Tú Tài
phần nhất. Tôi
đậu bình thứ.
Một lần nữa,
mọi người ngạc
nhiên, nhưng
tôi biết sức
học của mình.
Tôi biết mẹ
buôn bán tảo
tần, tôi thấy
những năm
tháng gần đây
mẹ trở bệnh
hoài, mỗi sáng
mẹ lục đục dậy
thật sớm nấu
cơm để dành
cho anh em
tôi, rồi lặng
lẽ mang đôi
quang gánh lên
vai, những tối
ngồi trâm ngâm
bên ánh đèn
dầu nhìn anh
em tôi học bài
và những đêm
khuya mẹ trở
mình húng hắng
ho. Tôi thương
mẹ và em đến
ứa nước mắt,
và càng thương
mẹ thương em,
tôi càng học
như điên, như
cuồng. Tôi ước
gì Bộ Giáo dục
cho tôi thi
hai bằng Tú
Tài cùng một
lúc. Nhìn mái
tóc mẹ đã lớm
chớm sợi bạc,
nhìn lưng mẹ
mỗi ngày mỗi
như còng
xuống, nhìn
hai vai gầy
của mẹ mà lòng
quặn đau, và
cứ thế, tôi
vùi đầu vào
sách vở ..
Em đã
bắt đầu tuổi
lớn, đã bắt
đầu tuổi mộng
mơ con gái, đã
bắt đầu bước
vào “tuổi
ngọc”. Nhưng
tội nghiệp,
biết nhà mình
nghèo, biết mẹ
mình buôn
thúng bán
bưng, biết anh
mình vẫn chiều
chiều đi kèm
trẻ kiếm thêm
tiền và cặm
cụi học đốt
giai đoạn cho
chóng thành
tài. Biết thế
nên em ít khi
nào xin mẹ,
xin anh tiền
may áo mới,
hai chiếc áo
dài trắng đủ
cho em thay
đổi. Em lớn
lên thiếu tình
của bố, nên
tôi “quyền
huynh thế
phụ”.. Nhiều
lúc nhìn mẹ,
nhìn em, tôi
vẫn không hiểu
tại sao bố lại
đành đoạn dứt
áo ra đi.
Tôi
thi đỗ Tú Tài
toàn phần năm
18 tuổi, và ra
Huế học Đại
học Văn khoa.
Mẹ ở một mình
với em ở Đà
Nẵng. Mỗi cuối
tuần, tôi theo
xe đò về thăm
mẹ và em, đến
sáng thứ hai
trở lại
trường. Ở Huế,
tôi tiếp tục
công việc kèm
trẻ tư gia.
Với số tiền
nhỏ nhoi kiếm
đuợc, tôi phụ
mẹ một ít nuôi
em.
Qua
sinh nhật thứ
13 của em mấy
tháng, một
chiều mẹ bỏ
buổi chợ, về
nhà than nhức
đầu, tưởng là
cảm nhẹ, mẹ
sai em cạo gió
và nấu cho mẹ
bát cháo hành.
Khuya đó mẹ
lên cơn sốt,
lảm nhảm nói
mê, sáng hôm
sau em nghỉ
học chở mẹ vào
nhà thương và
nhờ người nhắn
tin ra cho tôi
ở Huế.
Lật
đật trở vào Đà
Nẵng bằng
chuyến xe đò
chót. Trời tối
đã lâu, không
kịp ăn uống,
từ bến xe tôi
đi thẳng đến
bệnh viện.
Trong căn
phòng nhỏ,
dưới ánh đèn
vàng mờ đục,
mẹ nằm thiêm
thiếp trên
giường bệnh,
còn em đang
ngồi ngủ gà
ngủ gật cạnh
giường. Đứng
yên lặng nhìn
mẹ xanh xao
bất động, và
khuôn mặt thơ
dại của em,
trong giấc ngủ
hai khoé mắt
vẫn còn long
lanh giọt lệ,
tôi nghe lòng
mình quặn thắt
.
Đánh
thức em dậy,
em ngơ ngác
dụi mắt vài
giây. Nhận ra
tôi, em nhào
tới ôm chầm và
oà lên khóc,
em cho hay là
từ lúc đưa mẹ
vào đây, mẹ
chỉ tỉnh lại
một vài phút
vào khoảng
giữa trưa, sau
đó mẹ hôn mê
trở lại. Tôi
an ủi em, rồi
cùng em ra văn
phòng bệnh
viện. Cô y tá
trực cho hay
mẹ bị đứt một
tĩnh mạch ở
đầu. Tôi bàng
hoàng như bị
ai nện một
nhát búa vào
ngực. Cô y tá
bùi ngùi nhìn
em, đôi mắt
xót xa ..
Tối
đó, anh em tôi
cùng ở lại với
mẹ, em mệt
mỏi, nên chỉ
một thoáng là
đã ngủ say.
Trong giấc ngủ
mệt nhọc,
thỉnh thoảng
em ú ớ mẹ ơi,
mẹ ơi rồi nức
lên mấy tiếng.
Tôi nghe như
dao cắt trong
lòng. Suốt đêm
không ngủ, tôi
cứ ngồi nhìn
mẹ nằm im lìm
và bên chân mẹ
em ngủ chập
chờn. Tôi tự
nhủ thầm với
mình đừng
khóc, đừng
khóc .. nhưng
sao nước mắt
vẫn cứ trào
ra, một tay ve
vuốt bàn tay
xanh xao của
mẹ, một tay
nắm lấy bàn
tay nhỏ bé của
em, tôi để mặc
cho hai giòng
nước mắt chảy
nhạt nhoà trên
má.
Mẹ
thở hơi cuối
cùng lúc năm
giờ sáng, mẹ
không tỉnh lại
để trăn trối
với hai con
một lời gì. Mẹ
đi trong yên
lặng. Tôi nắm
bàn tay mẹ và
thấy tay mẹ
lạnh dần. Tôi
đánh thức em
dậy. Hai anh
em hôn lên
trán mẹ giã
từ. Em vuốt
mắt mẹ. Mắt mẹ
nhắm hờ. Em ôm
chặt hai tay
mẹ, ủ vào lòng
mình miệng kêu
lên nho nhỏ:
mẹ ơi, mẹ ơi
.. Em khóc
lặng lẽ, áp
mình vào ngực
mẹ nước mắt em
tuôn ràn rụa
làm ướt đẫm cả
vạt áo mẹ bạc
màu . Những
tiếng kêu
nghẹn ngào của
em như những
viên đạn bắn
thẳng vào tim.
Tôi ngồi bất
động nhìn mẹ,
nhìn em, lòng
đau như muối
xát. Tội
nghiệp mẹ tôi,
tội nghiệp em
tôi. Em mới
mười ba tuổi
..
Chôn
mẹ xong, tôi
bỏ học. Còn
lòng dạ nào mà
học nữa. Nhưng
em thì phải
trở lại
trường.
Bán
đi căn nhà nhỏ
xiêu vẹo và
gom tóm tất cả
vốn liếng của
mẹ để lại, tôi
đưa hết số
tiền cho mẹ
của Minh (một
người bạn thân
tôi). Minh có
Hân, cô em gái
cùng tuổi ,
cùng lớp với
em. Tôi gửi em
đến đó ở và đi
học với Hân,
cũng may, bố
mẹ Minh coi
anh em tôi như
con. Tôi dặn
dò em đủ điều
. Số tiền tôi
gởi cho mẹ
Minh đủ để trả
tiền ăn ở của
em trong hai
ba năm. Tôi
còn đưa thêm
cho em một ít
để em mua sách
vở, may áo
quần, tiêu
vặt. Tôi ôm em
và hứa với
lòng, hứa với
vong hồn mẹ là
sẽ lo lắng, sẽ
bảo bọc em cho
đến trọn đời .
Tôi vào trường
Võ Bị Đà Lạt
năm 20 tuổi,
lương sinh
viên sĩ quan
ít ỏi, tôi
tiết kiệm
không dám xài
nhiều, để dành
gởi về cho em
mỗi tháng. Tôi
dặn em viết
thư mỗi tuần
kể cho tôi
nghe chuyện
học hành. Tôi
bắt em hứa là
không bao giờ
dấu tôi một
điều gì dù nhỏ
bé. Em ngoan
ngoãn vâng
lời. Mỗi năm
tôi được về
phép một lần,
hai anh em
quấn quýt
không rời. Tôi
đưa em đi thăm
mẹ. Chúng tôi
lặng yên cầm
tay nhau quỳ
bên mộ mẹ,
nước mắt lưng
tròng.
Em
lớn lên và
ngày càng
giống mẹ. Cũng
khuôn mặt và
cái nhìn nhẫn
nhục, cũng đôi
mắt xa xăm
buồn hiu hắt.
Bình thường em
rất ít nói, có
lẽ không cha,
mồ côi mẹ quá
sớm và anh lại
ở xa đã làm em
rụt rè. Cũng
may, bên cạnh
em vẫn còn có
Hân. Lễ mãn
khoá của tôi,
em và Hân cùng
lên tham dự,
lúc này, em đã
thi đỗ vào
trường Sư phạm
Qui Nhơn, hai
năm nửa em sẽ
trở thành cô
giáo, tôi hãnh
diện giới
thiệu em và
Hân với các
bạn mình. Nhìn
dáng em thẹn
thùng e ấp,
tôi thấy lòng
mình rạt rào
thương em. Tôi
thầm gọi mẹ,
mẹ ơi, hai con
của mẹ đã
trưởng thành
và đã nên
người .
Ra
trường, tôi
chọn binh
chủng Nhảy Dù,
có lẽ cũng chỉ
vì tôi thích
màu mũ đỏ. Em
vào học và ở
nội trú trong
trường Sư
Phạm. Tôi thấy
mình yên tâm
hơn. Mỗi
tháng, tôi vẫn
gửi về cho em
một nửa tiền
lương lính của
mình để trả
tiền phòng,
tiền ăn. Tôi
biết con gái
cần nhiều thứ
hơn con trai,
như áo quần,
son phấn .. Em
vẫn viết thư
cho tôi mỗi
tuần như em đã
làm trong mấy
năm qua. Em kể
chuyện học
hành, chuyện
bạn bè, em lo
sợ là tôi đi
tác chiến nhỡ
có ngày bố con
gặp nhau ở
chiến trường,
làm sao nhận
ra nhau, em
không nói
thêm, nhưng
tôi cũng hiểu,
tên đạn vô
tình, nếu nhỡ
..
Hai
năm em học Sư
Phạm trôi qua
thật nhanh. Em
bây giờ đã là
một cô giáo
trẻ. Em được
đổi về dạy tại
một trường
tiểu học gần
thị xã Phan
Rang. Em thuê
nhà chung với
hai cô giáo
khác. Mỗi ngày
ba cô giáo
ngồi xe lam đi
đến lớp, chiều
về cả ba cùng
quây quần nấu
nướng . Em
viết thư cho
tôi và khoe có
quen với Tuấn,
một Sĩ Quan
Hải Quân đồn
trú ở Phan
Rang. Em khen
Tuấn hiền
lành, ít nói.
Em kể thêm là
Tuấn chỉ còn
có mỗi một mẹ
già.
Chiến
tranh ngày
thêm khốc
liệt, đơn vị
tôi hành quân
liên miên, có
khi cả năm
chúng tôi mới
được về hậu cứ
một lần. Tôi
bị thương hai
lần trong cùng
một năm. Tôi
dấu em, không
cho em biết sợ
em lo lắng.
Trong những
tuần lễ nằm
bệnh viện và ở
hậu cứ dưỡng
thương, tôi
bắt đầu viết
bài đăng trên
các báo và tạp
chí. Tôi kể
lại những trận
đụng độ kinh
hoàng giữa đơn
vị tôi và giặc
Cộng, tôi kể
lại những “kỳ
tích” của bạn
tôi, của Mễ,
của Lô ..
Sau
một lần bị
thương nhẹ ở
tay, tôi lấy
mấy ngày phép
ra Phan Rang
thăm em. Em
mừng rỡ ôm lấy
anh, nhưng khi
thấy cánh tay
băng bột em
xót xa bật
khóc. Tôi an
ủi em là biết
đâu sau chuyến
bị thương này
tôi sẽ được về
làm việc hậu
cứ. Ngày hôm
sau, nghe tin,
Tuấn đến thăm
. Thoạt nhìn,
tôi đã có cảm
tình với Tuấn,
đúng như em
nói, Tuấn
trông rất hiền
lành. Trong
suốt tuần lễ ở
Phan Rang, em
vẫn phải đi
dạy, nhưng may
là có Tuấn,
mỗi ngày Tuấn
tới chở tôi đi
ăn sáng , trưa
Tuấn và tôi
lang thang ra
chợ bạ gì ăn
đó đợi giờ ba
cô giáo đi dạy
học về. Buổi
tối, em đi ngủ
sớm, Tuấn ngồi
lại nói chuyện
với tôi cho
tới khuya. Bên
ly cà phê, tôi
kể cho Tuấn
nghe chuyện
của mình.
Những hình ảnh
yêu dấu, xót
xa như một
cuộn phim cũ
quay chầm
chậm.. Tôi
rưng rưng kể
lại ngày mẹ
mất. Tuấn lấy
tay chùi mắt,
trong đêm tối,
tôi thấy mắt
Tuấn long lanh
..
Bảy
ngày phép cũng
trôi nhanh.
Tôi trở về Sài
Gòn, lòng cảm
thấy vui và
nhẹ nhàng vì
đã có dịp gặp
Tuấn. Tôi tin
Tuấn sẽ không
làm khổ em. Ba
tuần sau, tôi
nhận được thư
Tuấn, trong
thư Tuấn kể về
gia đình (mặc
dù tôi đã nghe
em kể trong
các lá thư).
Tuấn muốn tiến
tới với em.
Tuấn xin phép
được đưa mẹ
Tuấn đến gặp
tôi. Tuấn hứa
là sẽ săn sóc
và thương yêu
em. Đọc thư
Tuấn tôi ứa
nước mắt vì
mừng. Mừng cho
em may mắn
không gặp
những trắc trở
trên đường
tình ái, mừng
cho em gặp
được một người
chồng hiền
hậu. Tôi viết
thư cho em và
Tuấn, bảo hai
em lo thế nào
cho tiện, chỉ
cố làm sao cho
giản đơn vì cả
hai đứa cùng
nghèo . Bốn
tháng sau,
Tuấn và em làm
đám cưới, nhà
gái ngoài tôi
còn có thêm
mấy thằng bạn
trong đơn vị,
ông hiệu
trưởng, thầy
cô giáo và rất
đông học trò.
Nhà trai ngoài
mẹ Tuấn, mấy
gia đình anh
chị họ còn
thêm một số
bạn bè Hải
Quân cùng đơn
vị. Nhìn em
súng sính
trong bộ đồ
cưới , tươi
cười đứng bên
cạnh Tuấn, tôi
gọi thầm mẹ
ơi, mẹ ơi, về
đây dự đám
cưới của em.
Tôi theo đơn
vị lội thêm
hai năm nữa ở
vùng giới
tuyến, thì
“tai nạn” xảy
ra. Trong một
lúc nóng giận
vì thấy ông
xếp của mình
sao ngu và bẩn
quá, tôi không
giữ được lời
và đã xúc phạm
đến ông, kết
quả là tôi bị
đưa ra hội
đồng kỷ luật
và tống ra
khỏi binh
chủng Nhảy Dù.
Sau
một thời gian
ba chìm bảy
nổi, tôi đổi
về cục Tâm lý
Chiến, thời
gian này tôi
đã khá nổi
tiếng , những
bút ký chiến
trường về Tết
Mậu Thân, Bình
Long, An Lộc
.. đã làm vinh
danh binh
chủng cũ của
tôi. Tôi được
giải thưởng
văn học với
bút ký “Mùa hè
đỏ lửa”. Tiền
thưởng và tiền
bán sách tôi
gửi hết cho
em. Tuấn và em
dùng tiền này
mua được một
căn nhà nhỏ ở
ngoại ô Phan
Rang, gần
trường em dạy.
Mới
ngày nào đó
còn thẹn thùng
nấp bên vai
Tuấn mà bây
giờ em đã mấy
con. Mỗi dịp
rảnh rỗi tôi
lại ra Phan
Rang ở chơi
với em, với
cháu. Tôi ôm
cháu, hôn vào
hai má phúng
phính, hít vào
phổi mùi thơm
của trẻ thơ mà
thấy lòng mình
dịu lại, những
cay đắng, cực
nhọc của đời
theo tiếng
cười lanh lảnh
dòn tan của
cháu mà bay
xa, bay xa.
Tôi nhìn hai
vợ chồng em,
nhìn bầy cháu
nhỏ lẫm chẫm
quây quần bên
chân mẹ mà
lòng vừa vui
mừng vừa hãnh
diện. Tôi ao
uớc mẹ tôi
nhìn thấy được
cảnh này.
Biến
cố tháng 4/75
tới như một
định mệnh oan
nghiệt, cả
Tuấn và tôi
đều phải ra
trình diện cải
tạo. Em ở lại
một mình với
một bầy con
nhỏ, đứa lớn
nhất chưa đầy
sáu tuổi và
đứa nhỏ nhất
còn nằm trong
bụng mẹ. Trong
trại, tôi cứ
đứt ruột nghĩ
về em và bầy
cháu nhỏ. Mẹ
của Tuấn đã
quá già, làm
sao lo phụ với
em đây. Rồi em
còn phải lo
lắng về số
phận chồng, số
phận anh. Tôi
quay quắt như
ngồi trên đống
lửa, tôi nghĩ
đến lời hứa
với vong hồn
mẹ hôm nào mà
lòng đau như
xé, con đã
thất hứa với
mẹ, mẹ ơi, con
đang ở đây tù
tội thì làm
sao lo được
cho em ..
Năm
76 tôi bị đưa
ra Bắc. Tôi
mất liên lạc
với em và Tuấn
từ tháng 5/75.
Làm sao em
biết tôi ở đâu
mà thư từ thăm
gửi.. Không
biết em có
biết Tuấn ở
đâu không,
trại tù mọc
lên như nấm từ
Nam ra Bắc.
Hồi còn ở
trong Nam, từ
Trảng Lớn, qua
Suối Máu , đâu
đâu tôi cũng
cố dò hỏi tin
Tuấn nhưng vô
hiệu. Tù nhân
đông quá ..
Trại
cải tạo Sơn
La, sau đợt
cho viết thư
về gia đình
đầu tiên, ba
tháng sau tôi
nhận được thư
em.Thư em đến
tay tôi vào
giữa năm 77.
Hơn 2 năm 1
tháng tôi mới
nhìn lại nét
chữ của em.
Run run bóc
thư, mắt tôi
cay nồng, nhạt
nhòa. Em cho
hay là Tuấn
đang cải tạo ở
Long Thành,
Tuấn có thư về
và cho biết
vẫn bình an,
mẹ Tuấn dạo
này yếu lắm vì
cụ đã quá già,
em vẫn đi dạy,
hai cháu nhỏ ở
nhà với bà
nội, hai cháu
lớn theo mẹ
vào trường, em
cho hay đứa
con gái út em
đặt tên Tâm,
Trần thị Minh
Tâm, cháu sinh
ngày 12 tháng
9 năm 75, gần
4 tháng sau
ngày bố cháu
và bác cháu
vào tù.
Gần
cuối thư, em
báo tin là bố
còn sống và
hồi đầu năm 76
có tìm đến gặp
em, làm sao bố
tìm ra địa chỉ
thì em không
biết, nhưng
hôm ấy bố đến,
bố tự giới
thiệu tên
mình. Em ngỡ
ngàng, ngày bố
ra đi em mới
tròn ba tuổi,
hơn hai mươi
năm sau gặp
lại làm sao em
nhận được , bố
xoa đầu đám
cháu ngoại
đang trố mắt
nhìn nguời đàn
ông lạ, bố hỏi
về anh, về
Tuấn, khi em
hỏi lại bố là
làm sao để
biết anh và
Tuấn đang bị
giam giữ ở
trại cải tạo
nào, bố lắc
đầu không nói
gì. Bố cho hay
là bố đang có
gia đình ở
Bắc, ngoài ấy
bố có thêm hai
trai và hai
gái. Đứa trai
lớn nhất thua
em bốn tuổi.
Bố
mang vào cho
em hai mươi ký
gạo và một
chục cam. Bố ở
chơi một ngày
rồi bố trở về
Hà nội. Lúc bố
về em có tặng
bố cái
radio-cassette
của anh cho
ngày nào. Bố
thích lắm, bố
hứa sẽ đến
thăm anh trong
trại tù. Từ
hồi trở ra Bắc
dến giờ bố
chưa liên lạc
lại với em, và
em cũng không
có địa chỉ của
bố ở ngoài ấy.
Tôi đọc thư
lòng thấy phân
vân, tôi cũng
như em, không
hình dung ra
nổi bố tôi
hình dáng mặt
mũi ra sao,
hai mươi mấy
năm, tôi tưởng
bố tôi đã
chết.
Tháng
12 năm 77, tại
trại cải tạo
Sơn La, bố đến
thăm tôi .
Đứng
trong văn
phòng viên sĩ
quan trưởng
trại một người
đàn ông trung
niên, tóc muối
tiêu và gương
mặt xương. Bộ
áo quần dân sự
khá thẳng
thớm, và sự lễ
phép của tên
đại úy truởng
trại tiết lộ
về địa vị
không nhỏ của
người này.
Thấy tôi vào,
viên trưởng
trại quay qua
nói nhỏ một
câu gì đó rồi
bước ra ngoài.
Tôi im lặng
đứng nhìn
người đàn ông
xa lạ ..
Bố
đến bắt tay
tôi, tự xưng
tên mình, bố
gọi tôi bằng
anh, bố kể là
đã gặp em ở
Phan Rang, bố
hỏi tôi học
tập thế nào,
bố không hề
nhắc đến mẹ,
có lẽ ông đã
biết về cái
chết của mẹ.
Bố nói là có
đọc văn tôi..
Tôi ngồi yên
nghe bố nói,
sau cùng , bố
đứng dậy, móc
trong xách ra
một gói nhỏ
bảo đó là
đường và thuốc
lá, trao cho
tôi, khuyên
tôi cố gắng
học tập tốt để
sớm được khoan
hồng. Tôi nhìn
vào mắt bố,
lòng thấy dửng
dưng. Tôi bắt
tay bố rồi về
lại lán mình.
Đó, cuộc hội
ngộ của bố con
tôi sau hơn
hai mươi năm
là thế đấy.
Chắc cuộc tái
ngộ giữa bố
với em cũng tẻ
nhạt như thế.
Có cái gì đó
ngăn cách, có
cái gì đó phân
chia, có cái
gì đó tôi
không hiểu và
không diễn tả
được. Bây gi
tôi hiểu vì
sao cái tin
quan trọng đến
thế mà em lại
chỉ đề cập một
cách ngắn ngủi
ở cuối thư.
Lần
đó là lần đầu
và cũng là lần
duy nhất tôi
gặp bố trong
suốt 13 năm
lang thang
trong các trại
tù biệt giam
miền Bắc.
Tháng
12/78, chuyển
trại lên Yên
Bái, tôi nhận
thêm được hai
lá thư của em,
trong bức thư
gần nhất, em
viết vào tháng
8/78. Em cho
hay tình trạng
rất khó khăn,
phụ cấp đi dạy
không đủ nuôi
một mẹ già và
bốn con thơ,
em đã bán lần
mòn hết những
đồ trang sức
và luôn cả
những đồ vật
trong nhà. Em
vẫn chưa đi
thăm nuôi Tuấn
được một lần
nào. Không thể
để bốn cháu
nhỏ ở nhà cho
bà Nội vì cụ
bây giờđã quá
yếu, mỗi buổi
ăn, Uyên, cháu
lớn phải đút
cho bà. Ngoài
ra, mỗi tối,
từ lúc chạng
vạng em và
Hoàng, hai mẹ
con phải ra
đầu ngõ, ngồi
bán bắp nướng
đến khuya để
kiếm thêm tiền
đong gạọ Em
than là dạo
này mất ngủ,
sức khoẻ yếu
lắm, em sợ nhỡ
có mệnh hệ nào
..
Tôi
thẫn thờ cả
buổi vì bức
thư em, ngày
xưa tôi chỉ lo
cho có mỗi
mình em, còn
bây giờ em
phải lo cho
bốn đứa con
thơ và một mẹ
già, kể luôn
người chồng và
ông anh đang
tù tội là bảy,
bảy cây thập
giá đời đang
đè nặng lên
đôi vai gầy
guộc, nhỏ bé
của em. Tôi
viết thư về an
ủi , khuyên em
cố gắng, tôi
vỗ về em là có
thể Tuấn sẽ
được tha về
sớm với em,
với cháu, vì
Tuấn đi hải
quân và lon
còn thấp,
không có tội
với cách mạng
nhiều. Rồi tôi
viết thêm cho
em hai ba lá
thư nữa mà vẫn
không thấy hồi
âm. Lòng tôi
cồn cào, nóng
như lửa đốt,
những ngày dài
tù tội, tôi
không nghĩ đến
cái đói, cái
khổ của mình
mà chỉ nghĩ
đến em và mấy
cháu, không
biết giờ này,
em và bốn cháu
thơ dại đang
có gì ăn ?
Tháng
6/79, một sáng
trên đường lên
rừng đốn nứa,
tôi nghe loáng
thoáng câu
chuyện giữa
các bạn tù. Họ
nghe từ các bà
vợ đi thăm
nuôi kể lại,
rằng ở Phan
Rang có một
chị có chồng
đang đi cải
tạo, chị chết
đi, để lại bốn
con thơ, đứa
bé nhất mới
lên ba, còn
đứa lớn nhất
chưa đầy chín
tuổi. Tội
nghiệp, họ
hàng nội ngoại
không có một
ai. Tôi bỗng
dưng thấy lạnh
toát cả sống
lưng, lại gần
hỏi thêm thì
người bạn tù
cho hay là
nghe nói chị
ấy làm nghề cô
giáo, có chồng
sĩ quan hải
quân đang đi
tù cải tạo ở
đâu đó trong
Nam. Nguời
chồng, trung
úy hải quân
trước cũng
đóng ở Phan
Rang. Trần
Nguyên Tuấn,
Hải Quân Trung
Úy Trần nguyên
Tuấn . Tôi
thấy đất trời
đảo lộn, tôi
thấy mặt trời
nổ tung trong
óc, tôi hụt
hơi, miệng há
hốc đứng như
trời trồng
giữa núi rừng
Yên Bái, bên
cạnh tôi tiếng
nguời nói lao
xao. Tôi không
nghe gì hết,
tai tôi lùng
bùng, mắt tôi
mờ đi, tôi
đang nhìn thấy
xác em nằm co
quắp trên manh
chiếu, bốn đứa
cháu của tôi,
cháu Minh Tâm
chưa đầy ba
tuổi đang lấy
tay lay lay
xác mẹ, cháu
lớn Thu Uyên
chưa đủ chín
tuổi đang ôm
chân mẹ khóc
lóc ủ ê, hai
đứa kia, Hoàng
và Châu ngơ
ngác đứng
nhìn. Trời
tháng 6 mùa hè
Yên bái mà sao
tôi thấy thân
mình lạnh
buốt. Tôi tê
dại, tôi hoá
đá, tôi không
còn cảm xúc,
tôi muốn hét
lên cho tan vỡ
cả vũ trụ này.
Trong lung
linh màu nắng
vàng buổi trưa
Yên Bái, tôi
thấy bóng em
nhập nhoà,
chập chờn. Em
của tôi, đứa
em côi cút của
tôi .. Mũi
súng AK thúc
vào cạnh sườn,
người vệ binh
chắc cũng ngạc
nhiên không
hiểu sao bỗng
dưng tôi đứng
như trời trồng
giữa lộ. Anh
quắc mắt nhìn
tôi dò hỏi,
tôi không nói
gì, im lặng
nhập vào dòng
tù. Nước mắt
chảy dài trên
hai má hóp,
tôi bước đi
như kẻ mộng du
..
PHAN NHẬT NAM
No comments:
Post a Comment