30 tháng Tư 1975 ai rời khỏi Việt Nam, ai còn ở lại. Đọc "Tổ Hợp Mì Sợi" để thấy lại những tháng năm ngậm ngùi cay đắng, những gian nan vất vả của người thân, bạn bè hay của chính mình khi miền Nam VN rơi vào tay cộng sản.
TỔ HỢP
MÌ SỢI.
Nguyễn Thị Thanh Dương.
Sáng thứ bảy tôi nấu
món mì đồ biển thập cẩm. Những nguyên liệu, gia vị đã đấy đủ nào tôm tươi, mực
tươi, cá viên chiên, gìo sống, cần Tàu và gói mì sợi Canada
quen thuôc tôi vẫn hay dùng.
Vừa ninh nồi xương tôi vừa vui vẻ làm việc và lắng nghe tin
từ đài ti vi Việt Nam .
Thì ra chỉ còn 3 ngày nữa là kỷ niệm 30 tháng Tư, ngày miền Nam Việt Nam rơi vào
tay cộng sản vào năm 1975.
Tôi bỗng thẫn thờ và chạnh buồn, ngẩn ngơ mất mấy phút mà hộp
mì tươi vẫn còn cầm trên tay, nhìn hộp mì sợi, bỗng gợi tôi nhớ ngay đến tổ hợp
mì sợi của thời kỳ sau biến cố 1975. Hồn
tôi như dòng sông chảy miệt mài về miền qúa khứ.
**********************
Sau khi công sản chiếm miền Nam Việt Nam
họ chủ trương lùa dân thành phố đi kinh tế mới, một đề án to lớn mà rỗng tuếch
vì không hề được đầu tư chuẩn bị. Bao nhiêu gia đình đã phải ra đi dù họ không
hề mong muốn. Họ đập phá nhà cửa để lấy tôn, lấy gỗ hoặc là mang đến vùng kinh
tế mới để cất lại nhà cửa, hoặc bán lấy tiền, nhà gỗ nhà tôn trở thành có gía
trị hơn nhà xây gạch kiên cố vì còn lấy được những vật liệu .
Nhưng dù là nhà loại
nào cũng để lại thảm cảnh, người đi rồi bỏ trơ lại căn nhà bị đập phá nham nhở,
vách tường chênh vênh, nền hoang, sân lạnh. Trông thật đau lòng.
Người mừng vui chiến thắng!! Người nhà cửa tan hoang !!!
Tại phường tôi cư ngụ hai cán bộ tuyên truyền đi đến từng hộ
nhà dân để khuyến khích và thúc đẩy dân đi kinh tế mới.
Hai cán bộ, một nam một nữ này đến nhà ai thì chủ nhà thường
tìm cách lánh mặt không tiếp nên họ cứ đến rồi đi, rồi đến nữa, nên hầu như ai
cũng quen mặt và gọi mỉa mai họ là “Hai vợ chồng kinh tế mới”
Tôi cũng một lần phải tiếp khách không mời này. Họ là cán bộ
kinh tế của phường, hai người thay phiên nhau ca ngợi về vùng kinh tế mới ở rừng
lá Thuận Hải, sẽ có chuyến xe đưa đồng bào đi về vùng đất mới, đến đó lập nghiệp
chúng ta sẽ khai hoang rừng thành ruộng đất tha hồ mà trồng lúa ngô, khoai, sắn
hay rau qủa, rồi nuôi thêm gà, vịt, dần dần tiến lên heo, bò, chẳng bao lâu chúng
ta sẽ làm giàu từ hai bàn tay trắng.
Anh cán bộ kết luận:
-
Có sức người sỏi đá cũng thành cơm.
Tôi ngoan ngoãn lắng nghe họ thao thao nói những điều tốt đẹp
về vùng đất mới, cứ nghĩ đến chuyện đốn cây rừng, phá bụi rậm gai góc, xẻ đất,
cuốc xới trồng trọt là tôi đã kinh hồn hoảng vía, nhưng tôi không có công ăn việc
làm, chồng lại là “lính nguỵ” đang đi “học tập cải tạo” thì họ chỉ muốn tống ra
khỏi thành phố thôi. Tôi coi như số phận mình không thoát khỏi kinh tế mới nên
tôi cố vớt vát may ra đời có chút gì vui. Kiên nhẫn đợi họ nói xong tôi mới e dè
hỏi:
-
Thế rừng lá có…đẹp không ạ?
Chị cán bộ tưởng cá đã cắn câu, chị ta vẽ vời thêm:
-
Rừng lá đẹp lắm, có suối reo, có chim hót, nhà chị ở sẽ
trồng giàn bầu, giàn bí…đời sống sẽ thanh thản êm đềm hơn hẳn ở thành phố.
Anh cán bộ nhấn mạnh:
-
Chị đưa các con đi kinh tế mới thì chồng chị đang học tập
cải tạo sẽ chóng về.
Tôi hứa liều:
-
Vâng, để tôi suy nghĩ..
Tôi đã nghĩ về rừng đẹp như chị cán bộ diễn tả và như tôi từng
mộng mơ thời con gái, nào biết rằng trong rừng ngoài suối reo chim hót còn có rắn
rít muỗi mòng, có vắt, và các loại côn trùng độc hại khác ..
Nhưng tôi biết làm gì trong khu rừng lá xa lạ ấy? chưa kể cái
tội sợ ma nữa. Làm sao mà tôi sống ở trong rừng với 2 đứa con thơ được!!.
May qúa đúng lúc này thì tôi nghe tin từ người bạn quen có một
nhóm người ở Xóm Mới đang thành lập tổ hợp mì sợi tại phường tôi, họ đã đăng ký
và xin được giấy phép rồi, chỉ cần thêm vài hội viên góp vốn để trả chi phí lắp
đặt máy móc và thành hình.
Tôi đã liên lạc được với anh Tình trưởng nhóm xin “một chân”
trong tổ hợp và đồng ý góp cổ phần..
Thế là khi 2 cán bộ kinh tế mới ghé nhà tôi lần nữa để thúc
giục tôi đăng ký đi kinh tế mới, tôi đã tự tin trả lời:
-
Tôi sắp đi làm trong tổ hợp mì sợi, cũng là góp sức lao
động sản xuất thực phẩm phục vụ đồng bào, xã hội. Bao giờ chồng tôi đi học tập
về thì sẽ tính chuyện đi kinh tế mới sau.
Đó là năm 1978.
Hai tháng sau thì tổ hợp mì sợi bắt đầu hoạt động, địa điểm họ
thuê là 2 căn nhà tôn trong khu gia binh
cũ phá các vách ngăn ra cho rộng để làm nơi sản xuất, rất gần nhà tôi, đi bộ chừng
10 phút là tới.
Tuy là từ căn nhà ở như hộ dân nhưng ở mặt tiền đường, treo
bảng hiệu lên cũng đập vào mắt người ta “ Tổ Hợp Mì Sợi gia công phường10 Gò Vấp”.
Bên trong tiếng máy chạy ầm ĩ ( chắc vì máy cũ, phụ tùng rổm mới kêu to đến thế?)
và tiếng nói cười của mười mấy công nhân mỗi ca cũng làm khối người mơ ước được
vào làm tổ hợp như tôi.
Từ một cỗ máy cũ và mớ sắt hư vụn nào đó, anh Tình đã cải tiến
thành cỗ máy làm mì sợi liên hoàn, trông cũng oai lắm, đầu máy là thùng trộn bột,
đoạn giữa máy là cán bột và cuối cùng là máy cắt thành sợi mì.
Nhân viên tổ hợp đa số là cư dân trong xóm chúng tôi, chưa
bao giờ biết làm mì sợi là gì.
Khi thì tôi đứng chỗ máy cán bột khi thì tôi cắt mì, và khi
thì tôi vắt mì, hai bàn tay lả lướt đưa những vạt mì sợi chảy từ máy xuống nia
xuống mẹt sao cho không bị rối, để chốc nữa sẽ cho vào lò hấp, khi mì chín hoặc
là sẽ giao mì sợi tươi hoặc là nắm thành từng vắt phơi khô giao cho tổ lương thực
của phường tùy theo hợp đồng gia công.
Làm vài ngày quen tay, quen việc nên chẳng bao lâu ai cũng
thành thạo dù đứng ở khâu nào.
Tổ hợp mì sợi có 2 ca, ca sáng sớm đến chiều và ca chiều đến
khuya. Ai cũng phải làm 2 ca, thay qua đổi lại cho công bằng.
Hồi ấy tôi còn trẻ, vẫn còn mê ngủ, nếu tôi làm ca sáng thì có
bác Mộc cùng làm và nhà bác gần nhà tôi, là người đến gọi tôi dậy. Mỗi buổi sáng tờ mờ, bác đứng trước cổng rào
và gọi to mấy lần:
-
Bông ơi là Bông…dậy chưa?
Khi tôi giật mình thức giấc thì chắc rằng mấy nhà hàng xóm bên
cạnh nhà tôi cũng thức giấc theo vì bác Mộc gào to qúa. May là hàng xóm Việt Nam
dễ tính và thông cảm không ai khiếu nại gì cả.
Lần nào tôi ra đến cổng cũng bị bác Mộc trách:
-
Tao gọi mày như gọi đò sang sông!
Bác Mộc gốc dân Hà Nội, di cư từ 1954, trước 1975 gia đình bác
là gia đình sang cả trong xóm, hai vợ chồng phong lưu như cậu mợ và đứa con gái
duy nhất của bác từ bé đã hay diện áo đầm đi giày màu hồng xinh xắn thường làm
tôi lúc bé đã ước ao và ghen tị. Tôi và con gái bác bằng tuổi nhau, nên bác Mộc
xem tôi như hàng con cái.
Từ khi bác trai mất đi
gia đình bác sa sút, rồi biến cố 1975 lại càng thêm sa sút, bác Mộc phải ra chợ
bán hàng, nhưng bác vẫn “qúy phái” kiểu Hà Thành, tóc vấn trần cài lược, áo trắng
nõn, cổ đeo chuỗi hạt ngọc màu xanh dù bác Mộc ngồi bán xôi vò, chè, bánh trôi,
bánh chay chình ình giữa chợ, kẻ qua người lại và bụi rác ngổn ngang.
Hôm nào hàng ế, bác bưng cả rổ bánh chay hay xôi vò đến nhà
tôi bán tống bán táng giá “mão” rẻ bèo bắt
tôi mua bằng được. Bác bảo nhà mày em đông, mua cho chúng nó ăn.
Bác cũng đóng tiền vào tổ hợp mì sợi cho yên thân, khỏi phải
mỗi ngày nấu nướng chè bánh và bưng ra chợ bán nữa.
Có bác Mộc ca chúng tôi vui nhộn hẳn lên vì bác hay thơ phú
và kể chuyện tiếu lâm, chuyện tiếu lâm của bác thanh mà tục, tục mà thanh, ai cũng
thích nghe.
Có hôm bác ngâm thơ “Đồi thông hai mộ” :
-
“Anh Đinh Lăng giờ đây đâu nhỉ?
Anh của em yêu qúy nhất đời.”
Có hôm bác trải chiếc chiếu xuống đất để mọi người ngồi vắt
mì sợi thành từng nắm đem phơi khô bác liền ngâm nga hai câu thơ, không biết là
cao dao tục ngữ của dân gian hay do bác sáng chế ra:
-
“Trải chiếu ra đôi ta nằm xuống,
Xong cuộc rồi ta cuộn chiếu lên…”
Một bác gái khác vội phản đối:
-
Ấy chết bác Mộc đừng ngâm thơ loại này nữa, ở đây có mấy
đứa xa chồng, đừng làm hư chúng nó…
Khi tôi đổi sang làm ca tối, tôi vốn nhát gan sợ ma thì có cô
Tỵ làm cùng ca đưa về tận nhà vì nhà cô phải đi ngang nhà tôi.
Một đêm khuya khi tôi và cô Tỵ đang đi trong khu xóm, đến nhà thờ tôi trông thấy 1 bóng người mặc áo khoác dài
như áo mưa đang đứng nép mình vào góc cổng nhà thờ. Tôi sợ hãi vừa chạy nhanh vừa
la to:
-
Cô Tỵ ơi, có người! có người !
Cô Tỵ cũng sợ vội chạy theo cho kịp tôi, khi hoàn hồn cô Tỵ
nói:
-
Bông ơi là Bông, sao em dại thế, bóng người ấy là kẻ
gian đấy, đang đêm mà mặc áo khoác dài tới chân đi lang bang trong xóm là để rình
mò nhà người ta thôi. Nó thấy mình nó sợ phải ẩn mình trong góc cổng nhà thờ mà
Bông lại sợ nó thế mới ngược đời. Thằng kẻ cắp ấy được một phen tha hồ mà cười.
-
Nhưng nó việc gì phải mặc áo khóac hay áo mưa thế hả cô
Tỵ?
-
Để không ai đoán ra hình dạng nó đấy mà
-
Lần sau em sẽ rút kinh nghiệm, nếu gặp nó chúng mình cứ
hiên ngang đi qua mặt nó nhé
Tuy nói thế nhưng trong thâm tâm tôi
vẫn nghĩ cứ …chạy là tốt nhất, còn cô Tỵ có chạy hay không thì mặc cô ấy..
Nghe chuyện này bác Mộc lại thân mến
mắng tôi:
-
Bông ơi, mày đi làm mà như công chúa đi chơi, sáng có
người đến gọi đi, khuya có người đưa về tận nhà.
Tôi đi làm thì nhởn nhơ như vậy,
em và con tôi lại hay đến tổ mì tìm tôi vì đủ những lý do. Chưa có ai đi làm mà
thoải mái và “tiện nghi” như tôi.
Cũng may vì từ tổ trưởng đến tổ viên của tổ hợp
mì sợi toàn là người cùng chế độ cũ, cùng hoàn cảnh nên gần gũi và thông cảm
nhau lắm.
Cô em gái áp úp tên Thoa lúc ấy trông
coi thằng Bí con tôi mới lên 3 tuổi những khi tôi đi làm. Thằng Bí sinh tháng 8
năm 1975 vào cái năm lịch sử buồn của miền Nam Việt Nam ..
Mẹ tôi mới mất nên chị em tôi ở chung một nhà. Tôi là chị cả đầu đàn.
Dì mới 12 tuổi đầu bế cháu vẹo cả
sườn vì thằng bé mập mạp, đi bộ từ nhà đến tổ mì.
Hai dì cháu nó đứng ngoài cửa sổ tổ
mì nhìn vào trong, hễ thấy bóng tôi là cùng reo lên mừng rỡ rối rít như bắt gặp
được vàng hoặc như ngàn trùng xa cách, lâu lắm mới gặp lại nhau:
-
Chị Bông ơi.. chị ơi…chị ơi…
-
Mẹ Bông ơi…mẹ ơi…mẹ
ơi…
Tôi cũng mừng vui không kém nhưng phải
tất tả chạy ra bên cửa sổ và gỉa bộ mắng em gái:
-
Mày bế cháu đến đây làm gì?
- Thằng Bí khóc đòi gặp mẹ, em bế nó đến đây chơi
cho nó vui.
- Chỗ người
ta làm việc chứ có phải công viên đâu mà chơi cho vui, hả? hả?
Thằng Bí nào hiểu chỗ làm việc là gì, cứ đòi hỏi:
-
Mẹ về nhà đi, mẹ bế con đi…
-
Còn lâu mẹ mới về.
Thoa nhanh nhẩu:
-
Em với thằng Bí chơi ở ngoài sân đợi chị về luôn.
Thế là tôi vừa làm việc vừa thỉnh thoảng trông thấy con và
em mình lấp ló ở khung cửa sổ. Khi nào rảnh tay tôi lại chạy ra cửa sổ để…mỉm cười
với chúng nó, như muốn nói với thằng con bé bỏng rằng “Con ơi, mẹ vẫn ở bên
con, đừng khóc nhè nhé”
Thoa bế thằng Bí đến tổ mì thường xuyên như cơm bữa, đến chơi
vớ vẩn hoặc có lý do đàng hoàng.
Có hôm Thoa bế cháu đến, tôi lại hiện ra ở khung cửa sổ tổ mì
để “giao lưu” với em mình, chưa kịp hỏi thì Thoa đã nghiêm trọng nói
- Chị Bông ơi, thằng phường đội vừa đến nhà mình hỏi anh Thủy
đâu? Em nói là đi học lâu lắm mới về.
Con bé thông minh và khôn ngoan lắm dù chỉ là nghe hóng mà đã
hiểu chuyện, nó biết là thằng phường đội đến nhà nào là đưa giấy báo “trúng tuyển
nghĩa vụ quân sự” cho nhà nấy, nên nhà nào có con trai đến tuổi lính rất lo sợ
thằng phường đội ghé nhà. Tôi dặn Thoa:
- Trưa nay Thủy về thì em nói Thủy ăn cơm xong đạp xe lên Hàng
Xanh nhà bác Châu tạm trú vài ngày nhé, thằng phường đội sẽ đến vài lần nữa không
gặp Thủy để giao giấy báo “trúng tuyển” thì cũng qua đợt giao quân nghĩa vụ quân
sự, là Thủy sẽ thoát được đợt này.
Thế là tuy tôi đi làm nhưng vẫn “chỉ huy” và “điều hành” được
công việc ở nhà.
Thời sau 1975 nhà nào có con em bị nhận giấy “trúng tuyển
nghĩa vụ quân sự” cũng đau khổ như nhận giấy báo tử. Tôi quen một gia đình ở Xóm
Mới, bà cho thằng con trai và đứa cháu ngoại đi vượt biên bị chết biển mà bà khóc thương thằng cháu ngoại vật vã hơn là thương
thằng con trai. Hỏi ra thì bà giải thích:
-
Thằng con trai tôi bị gọi đi “nghĩa vụ quân sự” thì coi
như trước sau gì cũng chết, chỉ thương thằng cháu ngoại ngây thơ vô tội…
Rồi bà Bắc kỳ di cư ở Xóm Mới đay nghiến :
- Tiên sư cha chúng nó, chúng bắt buộc thanh niên đi bộ đội
mà còn gỉa nhân gỉa nghĩa, láo khoét và mồm mép gọi là “Trúng tuyển” làm như khó khăn lắm, cạnh tranh
lắm và vinh dự lắm mới được đi. Con ông cháu cha chúng nó chẳng đứa nào được
“trúng tuyển ” cả, mà toàn đi du học hay lao động Đông Âu, Liên Sô đua nhau gởi
hàng hóa về Việt Nam
như đi buôn. Hay chúng nó làm việc trong nước thì cũng là ăn trên ngồi chốc thiên
hạ, nhà cửa mình chúng chiếm, công việc ngon chúng hưởng.
Có hôm thì Thoa có lý do khác khi bồng bế cháu đến tổ mì gặp
tôi:
- Chị Bông ơi, sổ mua chất đốt để ở đâu để em nộp cho tổ trưởng
tổ dân phố ngày mai mua dầu hôi.
- Trong ngăn kéo bàn trong phòng ngủ đấy.
- Em tìm rồi mà không thấy…
Tôi ngẫm nghĩ một lúc và nhớ ra:
-
À , hôm nọ chị mang ra hợp tác xã mua củi còn để ở kệ sách thì phải…
Cái kệ sách màu nâu yêu qúy của tôi, cái kệ sách mà tôi đã
thuê bác Tùng thợ mộc trong xóm đóng theo đúng kiểu tôi vẽ ra, kê ngoài phòng
khách không còn thuần túy là sách nữa vì tôi đã phải đốt hay vứt đi khá nhiều
những cuốn không thích hợp với chế độ mới nếu không muốn bị kết tội “tàng trữ văn
hóa phẩm phản động và đồi truỵ”, nên kệ sách lỏng le, đựng đủ thứ lặt vặt trời ơi
đất hỡi, không biết Thoa có bới tìm ra cuốn sổ chất đốt không? hay lại chạy ra
tổ mì hỏi tôi lần nữa.
Tôi đi mua củi về lười biếng để cuốn sổ chất đốt ở đấy rồi
quên phéng đi không cất trở lại chỗ cũ .
Hôm thì Thoa đến để bàn
chuyện ăn uống:
- Sáng mai đến lượt tổ mình được mua bánh mì tổ. Mai chị đừng
làm món mì sợi hấp chấm xì dầu nữa nhé, em ngán lắm.
- Chị cũng ngán nữa đây, nói chi em. Thôi để hôm nào lãnh lương
chị sẽ nấu một nồi xúp xương chan mì sợi rắc hành ngò tiêu ớt vào ăn ngon lắm.
Thoa tươi nét mặt, háo hức nhưng thắc mắc:
-
Em cũng thích ăn mì sợi có chan nước lèo như thế, nhưng
mà có thịt không?
Tôi trả lời nước đôi, nó muốn hiểu sao thì hiểu:
-
Chị không chắc là xếp hàng chen lấn nổi với người ta để
mua thịt heo theo sổ đâu, mà mua thịt chợ đen thì đắt lắm…
Ôi, tôi chán làm sao cảnh xếp hàng mua thịt ở ngoài chợ, cả
một đám đông các bà các cô dù ở nhà thanh lịch cỡ nào đến đây cũng hơn thua, xô
đẩy chen lấn, cũng bu đen bu đỏ quanh phản thịt như đàn kiến bu quanh hũ đường,
nhưng tay vẫn cầm chặt cuốn “Sổ thực phẩm” như cầm một báu vật không thể đánh rơi
đánh mất, người đứng vòng ngoài không thể nào nhìn thấy mặt mũi miếng thịt. Thấy
mặt mũi cô bán thịt cũng khó như thấy dung nhan thủ trưởng cơ quan nào đó.
Cô hàng thịt cắt thịt thoăn thoắt và cũng thoăn thoắt thảy
miếng thịt lên bàn cân, cái cân còn nghiêng ngửa, chông chênh chưa ồn định thì cô
đã nhanh tay lấy thịt ra đưa cho khách hàng, mà ai cũng hiểu là miếng thịt ấy cân
non chưa đủ số lượng, nhưng vẫn “hồ hởi” nhận miếng thịt để thoát ra khỏi vòng
vây, còn hơn là khiếu nại đã không được giải quyết còn bị cô hàng thịt sưng xỉa,
cửa quyền và chảnh chọe: “Nếu không muốn thì trả lại thịt đây”.Hoặc cô lườm nguýt
mắng cho: “ Chỉ làm mất thì giờ của đám đông tập thể bà con”.
Cô đã lấy danh nghĩa “tập thể” ra đe dọa là quan trọng lắm,
không ai dám giằng co với cô thêm nữa.
Mỗi ngày bán hàng xong
ít ra cô hàng thịt cũng kiếm được mấy ký thịt “thặng dư” mang về nhà.
Đấy là cảnh chợ búa, tại các cơ quan cũng “phàm phu tục tử”
chẳng kém. Khi mà Việt cộng chơi trò quản lý bao tử, làm con người thiếu thốn đói
khát thì con người bỗng trở nên thực tế, tầm thường và có cả hèn mọn. Bạn tôi là
giáo viên kể rằng mỗi khi mua thịt heo định kỳ, các giáo viên lên văn phòng để
chia chác mỗi người nửa ký, có những ganh tị, bất đồng và tranh dành vì miếng
thịt này không ngon bằng miếng thịt kia.
Nếu các học trò mà chứng kiến được cảnh này thì không biết hình
ảnh thầy cô giáo của chúng có còn đáng trân trọng nữa không?
Tan trường giáo viên ra về với miếng thịt heo buộc dây treo
lủng lẳng ở tay lái xe đạp đã là một ngày hoan hỉ.
Nét mặt Thoa lại ỉu xìu với thực tế:
-
Nhưng chị ơi…ngày mai món bánh mì tổ ăn với chuối hay hấp
mỡ hành ăn với rau sống chấm nước mắm em cũng ngán luôn. Chị mua trứng về tráng
ăn với bánh mì nhé?
“Bánh mì tổ” khác với bánh mì ngoài chợ đen, vì vừa cứng vừa
dở, bánh để nguội, để cũ là cứng như đá, ném ai chắc cũng chảy máu đầu hay gây
thương tích…trầm trọng !
Tôi gắt lên:
- Chưa biết, mai ăn thì mai tính.
Thời buổi xã hội chủ nghĩa, thực phẩm bán theo quy chế, hạn
chế mỗi đầu người, ngoài phần gạo ít ỏi theo tiêu chuẩn mà gạo thì đầy bông cỏ
và sạn, họ còn bán kèm theo mì sợi, bột mì, hay khoai lang, khoai mì, hạt bo
bo.
Đến nhà nào cũng thấy ông già bà cả hay trẻ con ngồi trước cái
mâm trải gạo mỏng ra để nhặt sạn hay bông cỏ trước khi nấu cơm. Thế mà có khi vẫn
còn sót, nhiều người đang nhai cơm vấp phải hạt sạn tế tái cả răng và tê tái cả
cõi lòng.
Thoa nhà tôi thích công việc nhàn hạ này, nó thường ao ước:
-
Cầu trời khi lớn lên ai thuê em làm công việc nhặt bông
cỏ và sạn gạo.
Tôi rên rỉ:
- Thoa ơi, tới lúc ấy mà vẫn phải ăn loại gạo xấu kém chất lượng
này sao! Em phải cầu trời là mai mốt không phải làm công việc nhặt sạn và bông
cỏ gạo nữa nhé.
Ngoài ra còn những “công việc” như nay đi xếp hàng mua nước
mắm hay mớ cá ươn ở “Cửa hàng thủy hải sản”, mai xếp hàng mua bó rau gìa quả héo
từ “Cửa hàng rau qủa”. Biết là hàng không ngon, kém chất lượng nhưng vì gía rẻ
hơn gía chợ đen.nên người ta vẫn chen lấn chờ đợi để mua cho bằng được. Mốt lại
cũng xếp hàng, mua nhu yếu phẩm tại “Cửa hàng bách hóa tổng hợp”, gồm mấy gói
thuốc lá Hoa Mai hay Đà Lạt ( dù nhà có
hút hay không họ vẫn cứ bán theo tiêu chuẩn) một dúm bột ngọt, nửa ký đường
v.v....
Thế là phát sinh ra “nghề” mua đi bán lại hàng nhu yếu phẩm.
Người mua đứng xếp hàng trước cửa hàng bách hóa thì mấy con buôn đứng luẩn quẩn
gần đó, mua hàng ra bán ngay tại chỗ, tiền trao cháo múc vô cùng nhanh chóng và
thuận lợi.
Đã gọi là “nhu yếu phẩm” thì nhà nào chẳng cần dùng, tiêu
chuẩn ít ỏi chưa đủ dùng, nhưng vì thiếu thốn, vì cần tiền nên phải nhịn dùng để
bán đi lấy tiền chi tiêu cho chuyện khác cần kíp hơn.
“Cửa hàng bách hóa tổng hợp” cái tên nghe to lớn và lộng lẫy
thế mà hàng hoá chỉ lèo tèo và đơn điệu bày trên kệ, những món mà không ai muốn
mua vì vừa đắt vừa không cần thiết, món nào có giá thì các cô nhân viên bán hàng
chỉ bán ra một ít lấy lệ, còn thì các cô chia nhau mua và tuồn ra chợ đen kiếm
lời. Tóm lại các nhân viên bán hàng cho các cửa hàng nhà nước vừa ăn chận của dân
vừa ăn hiếp dân, không cần biết lịch sự là gì. Xã hội chủ nghĩa đã tạo ra những
loại người ấy.
Ấy là chưa kể thỉnh thoảng còn phải đi họp tổ dân phố, nhiều
nhà “phái” cha mẹ gìa, tai điếc, mắt mờ hay con trẻ, tuổi vị thành niên đi họp,
hiểu được nội dung cuộc họp hay không? Không thành vấn đề, miễn là …có mặt., để
khỏi bị tổ dân phố phê bình kiểm điểm.
Ông già bà cả và trẻ con thật là hữu ích.
Thành ra sống dưới xã hội chủ nghĩa ai cũng bận rộn và có việc
làm cả ngày.
Ban đầu nghe danh từ “hạt bo bo” tôi hí hửng tưởng hạt bo bo
tôi thường ăn trong ly sâm bổ lượng ngày xưa, vừa trắng vừa mềm vừa bùi bùi. Nhưng
hoá ra là hạt bo bo khác, bo bo màu vàng ngà ngà, nếu chà vỏ rồi còn đỡ cứng,
chưa chà vỏ thì hạt bo bo vừa dai vừa cứng là nguyên nhân chính đưa đến sau này
nhiều người dân thành phố miền Nam
bị bệnh đau bao tử.
Nhưng cũng…nhờ hạt bo bo mà dân chúng có thêm nghề mới nữa là
máy chà vỏ hạt bo bo và máy xay hạt bo
bo cho vỡ nhỏ ra. Trong cái khó ló ra cái khôn để mà sống.
Nghe đồn món bo bo này của đất nước xã hội chủ nghĩa anh em
nào đó vốn là thực phẩm nuôi ngựa, trâu, bò của nước họ, viện trợ cho Việt Nam
dùng làm thực phẩm cho con người.
Hàng xóm đua nhau chế biến các sản phẩm thay cho lương thực
lúa gạo ấy, nhà nọ bắt chước nhà kia
Món bột mì tôi cũng chế biến thành bánh canh nước dừa, nhồi
bột, cán mỏng cắt sợi làm bánh canh và nấu với nước cốt dừa nêm mắm muối bột ngọt.
Món mì sợi thì hấp vào nồi cơm mang ra chấm xì dầu hay nước
mắm tỏi ớt.
Khoai lang, khoai mì thì luộc ăn chơi ngao ngán đến điêu đứng,
ăn không hết, khoai lang bị sùng thì đem gọt vỏ phơi khô bán cho mấy người nuôi
heo vớt vát được đồng nào hay đồng ấy.
Còn món bo bo chỉ có nước chà vỏ, xay nhỏ rồi độn vào gạo nấu
thành cơm.
Một hôm tổ hợp mì sợi long trọng tổ chức liên hoan để đón tiếp
ông phó chủ tịch đặc trách kinh tế của phường đến tham quan và có buổi họp cực
kỳ quan trọng, tất cả công nhân không làm việc để tham dự buổi họp này.
Ông phó chủ tịch diễn thuyết một hồi lâu và đưa ra những ý tưởng
mà ông hớn hở cho là sẽ thành hiện thực không xa:
-
Nay mai tổ hợp mì sợi của chúng ta sẽ tiến xa hơn, sẽ
phục vụ nhu cầu của nhân dân nhiều hơn, thành nhà máy sản xuất mì sợi chứ không
phải trong căn nhà tuyềnh toàng như thế này, sẽ có nhà ăn cho công nhân viên, sẽ
có nhà trẻ cho con em công nhân viên và những quy chế phúc lợi khác nữa.
Sau buổi họp của ông phó phường ai cũng phấn khởi. Tôi thì lo
xa nếu tổ hợp mì sợi biến thành nhà máy thì 2 dì cháu Thoa và thằng Bí hết còn
chỗ đến đây chơi và gặp tôi, vì nhà máy sẽ có cổng rào, có nhân viên bảo vệ, ai
cho dì cháu nó bồng bế nhau vào được?
Một chị bạn hiểu ý tôi, an ủi:
- Đừng lo nhé Bông, lúc ấy mày sẽ gởi thằng Bí vào nhà trẻ
trong khu nhà máy, càng gần con chứ sao.
Nghĩ tới điều đó tôi mừng vui hết lo buồn nữa, tôi tưởng tượng
giờ nghỉ trưa sẽ sang khu nhà trẻ thăm con, chiều tan ca tôi bế nó về.
Nhưng bác Mộc đã thức tỉnh giấc mơ của tôi:
-
Bông ơi, mày tin gì lũ Việt cộng hả? chúng nó nói thì
như thánh như thần. Đơn gỉan ai cũng hiểu là bột mì ở đâu ra để nhà máy sản xuất
mì sợi chứ? nước Việt Nam mình đâu có trồng lúa mì, chỉ đang nhận viện trợ lúa
mì khẩn cấp từ nước Nga trong thời gian khó khăn này thôi, mai kia mốt nọ Nga sô
hết viện trợ thì tổ hợp mì sợi cũng đóng cửa chứ đừng nói nhà máy to tướng
trong tương lai.. Với lại dân mình dùng lương thực chủ yếu là gạo chứ có phải mì
sợi đâu. Chúng ta cứ làm việc, được tới đâu
hay tới đó, còn hơn là ngồi không ở nhà bị gọi đi làm thủy lợi không công cho
nhà nước, để chúng nó bóc lột sức lao động của mình..
Mỗi lần họp tổ dân phố mà phổ biến tin đi làm thủy lợi, ai rảnh
rang không có công ăn việc làm như tôi là lo âu hồi hộp vì mình sẽ được “ưu tiên” đi trước. Làm thủy lợi là đào đất
ven bờ hay đào vét trong lòng kinh, lòng rạch cho kinh rạch thông thương xuôi
chảy. Công việc bẩn thỉu, nặng nhọc và vất vả vì tất cả công đoạn đều làm bằng
tay chân cuốc xẻng, bằng sức người, nên chẳng ai muốn đi.
Tôi đã một lần đi làm thủy lợi tại xã Bình Mỹ A thuộc Củ Chi
ráp ranh với Hốc Môn, quần sắn cao lên, lội xuống con kinh đầy bùn rác hôi hám.
Một dãy người cũng tư thế như tôi đứng xếp hàng cạnh nhau để chuyền tay nhau những
cục đất vừa đào xới lên ở đầu kia. Tôi là người đứng cuối cùng ở đầu này.
Khi cục đất đến tay tôi, thay vì phải chụp nhanh và quăng lên
bờ thì tôi chợt rụng rời khi nhìn thấy mấy đầu con giun đang lòng thòng ngọ nguậy
nên không đỡ cục đất mà họ đã tốn bao công phu từ người đào lên đến qua tay hơn
chục người. Cục đất rơi xuống lòng kinh, thế là toi công, còn tôi thì vẫn bàng
hoàng sợ hãi mấy con giun đất và tủi thân đứng khóc giữa lòng con kinh dơ bẩn của
xứ Củ Chi.
Tôi cũng mấy lần nghe tin đồn là bột mì viện trợ đến từ nước
Nga, chẳng biết họ lấy thông tin từ đâu, nhưng 1 cô bạn tôi là nhân viên cửa hàng lương thực quận đã cả quyết
thế vì cô thấy bao đựng bột mì ghi chữ Nga ở bên ngoài.
Tôi vặn vẹo hỏi bạn:
-
Mày có biết chữ Nga bao giờ đâu. Đoán mò hả?
-
Thì cứ thấy dòng chữ có mẫu tự nào viết ngược là tiếng
Nga , cần gì phải đoán cho mất công
Đúng thế, người ta kể rằng những người đi vượt biển ra khơi
thấy tàu có chữ nào ngược là tàu Nga thì tránh cho xa., không đến gần, nó không
cứu mà còn bắt giao cho đàn em xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nó.
Lời bác Mộc thật có lý, một người lớn tuổi giàu kinh nghiệm đời
và nhất là kinh nghiệm cộng sản từ ngày xưa ngoài Bắc. Bác Mộc đã than thở :
- Tôi phải bỏ “bác Hồ” từ Bắc chạy vào Nam mà “bác” không
tha còn đuổi theo.
Tôi lại có cái lo khác, sợ tổ hợp mì sợi hết bột làm và đóng
cửa ngang xương khi tôi lãnh lương chưa đủ gỡ lại vốn liếng đã đóng góp cổ phần.
Ở xóm tôi cũng như nhiều xóm khác mấy đàn bà con gái loại vô
công rỗi nghề đang lao động làm công việc đan mây tre lá mà họ đùa vui gọi vắn tắt
là nghề “Xỏ lá”.
Ngồi gù lưng cả ngày, nhà cửa bề bộn mây tre để đan thành những
cái rổ, cái khay v.v… gia công cho tổ hợp, món hàng rẻ tiền nên công cán chẳng
là bao.
Chị hàng xóm khoe với tôi:
-
Nay mai tổ hợp mây tre lá sẽ xuất khẩu hàng thủ công ra
nước ngoài mang lại công ăn việc làm dồi dào cho chị em, làm không hết việc, nâng
cao thu nhập.
Trời ! chắc tổ hợp mây tre lá này cũng đã được ông phó chủ tịch
phường đến tham quan và hứa hẹn những lời bay bổng như ông đã nói với tổ hợp mì
sợi chúng tôi sau khi đã nhận những phong bì và ăn uống liên hoan chiêu đãi..
Tính tôi không kiên nhẫn, ngồi xỏ lá thì thế nào lá cũng đâm
vào tay làm đứt tay chảy máu.
Hay là tôi sẽ mua 1 cái máy se cói về se cói gia công? Không
xong, món này cũng bừa bộn nhà cửa lắm, con tôi đi qua đi lại thế nào cũng vấp
ngã, tội nghiệp nó !
Hay là mua cái máy chà gạo gia công cho hàng xóm vì nhà cha
mẹ tôi ngay mặt tiền đường dễ mở tiệm ? Cũng không thích, vì bụi cám làm bẩn nhà
và hít bụi vào làm hại phổi, tôi chết sớm ai nuôi con tôi trong khi chồng đi tù
tội chưa biết ngày về.?
Tôi thật sự chán nản khi nghĩ đến những “ngành nghề” ấy.
Sự lo xa của tôi không vô lý và lời phán đoán của bác Mộc càng
có lý. Tổ hợp mì sợi của tôi làm việc được hơn 1 năm thì bắt đầu sa sút vì thiếu
bột mì, tổ lương thực phường không có bột để nhờ tổ mì chế biến gia công nữa.
Bác Mộc thở dài dạy cho tôi một bài học:
- Mày thấy chưa? chớ bao giờ tin lũ chúng nó. Thử hỏi bột mì
ở đâu ra mà chúng nó cấp giấy phép lu bù cho người ta đua nhau mở tổ hợp sản xuất
mì sợi khắp quận Gò Vấp này và những quận huyện khác trong thành phố để bây giờ
cùng chết yểu, chết chùm cả lũ ??
Tôi thật sự ngưỡng mộ sự hiểu biết khôn ngoan của bác Mộc nên
lo lắng hỏi sang chuyện khác với vẻ tin cậy hết lòng:
- Bác Mộc ơi, thế họ nói mấy ông sĩ quan đi trình diện “học
tập cải tạo” 10 ngày sẽ về mà nay đã hơn 4 năm rồi. Vậy bác biết bao giờ về không?
- Mày đã trồng cây mít bao giờ chưa? 3 năm mít mới có qủa,
thì cứ từ hai lần cái 3 năm ấy trở lên may ra chồng mày mới được tha về.
Tôi chán nản:
- Nghĩa là bình quân từ 6 năm và hơn nữa hở bác? hở trời??
Cuối cùng thì tổ hợp mì sợi chính thức đóng cửa khi tôi chưa
thu hồi đủ vốn đã đóng góp đúng như tôi đã
lo ngại. Anh Tình tổ trưởng chỉ biết hứa hẹn an ủi mọi người:
- Bao giờ tôi bán được cái máy làm mì sợi liên hoàn kia sẽ bồi
thường lại các tổ viên mỗi người một ít.
- Nhưng thời buổi này bột mì khan hiếm ai mua máy về làm gì hở anh?
Anh Tình chán nản:
- Thì đành bán đống sắt vụn như từ lúc nó chưa thành hình cái
máy liên hoàn mì sợi này.
Ối giời ôi, không biết lúc này ông phó phường đặc trách về
kinh tế, người đã nhận mấy lần phong bì của anh Tình tổ trưởng từ lúc bắt đầu đăng
ký xin thành lập tổ mì đến khi đi vào hoạt động, người đã mấy lần ăn liên hoan
phủ phê với tổ mì, đã đến tham quan và tổ chức buổi họp quan trọng với tổ mì sợi
của chúng tôi có còn nhớ những lời phát biểu vàng ngọc “vô gía” của ông không? Tổ
hợp mì sợi sẽ tiến lên thành nhà máy mì sợi.
Bây giờ cái máy liên hoàn làm mì sợi cũng đang thành đống sắt
vụn “vô giá” nằm chơ vơ chờ rỉ sét kia kìa
Nhà máy sản xuất mì sợi trong tương lai của ông phó phường chỉ
là một hồn ma bóng quế không bao giờ là thật.
Những ngày nghỉ ở nhà tôi chưa biết làm gì vì vẫn thấp thỏm
“canh chừng” tổ hợp mì sợi với hi vọng biết đâu nước Nga lại thương tình mà viện
trợ bột mì cho Việt Nam
một lần nữa thì tôi lại có công ăn việc làm.
Hoặc là cái máy làm mì sợi liên hoàn kia bán được thì tôi cũng
sẽ được chia ít tiền.
Tình trạng tổ mì của tôi sống dở chết dở chỉ là chuyện nhỏ.
Nông trường Lê Minh Xuân huyện Bình Chánh trồng trái thơm do thanh niên xung
phong đổ bao nhiêu mồ hôi công sức cuốc đất
và trồng trọt mới là chuyện lớn. Kế hoạch nhà nước đưa ra hô hào thanh niên
xung phong trồng thơm để sản xuất đã thất bại não nề.
Thơm tới mùa thu hoạch, cả nông trường thơm chín vàng mà không
có nơi tiêu thụ, đóng hộp xuất khẩu thì còn non kém làm sao kiếm ra khách hàng,
bán trong nội địa càng ế ẩm vì thơm tươi ngon đầy rẫy, người ta mắc mớ gì phải
mua thơm đóng hộp vừa kém phẩm chất vừa đắt tiền.
Thế là trái thơm tuôn ào ào ra khắp các chợ búa lớn nhỏ trong
thành phố, đi đâu cũng thấy một trời màu vàng của trái thơm đập vào mắt. Loại
thơm trái nhỏ tròn này mùi thơm và ngọt rất xứng đáng mang tên “Thơm”, thơm bán
trên quầy, bên lề đường, hè phố, và vỏ thơm thì ngập ngụa trương sình khắp các chợ
tha hồ cho ruồi bu kiến đậu.
Chưa hết, chắc thơm thu hoạch còn ứ đọng nhiều tại nông trường
Lê Minh Xuân nếu không mau thanh toán thì sẽ hư thối nên các anh em thanh niên
xung phong mặc đồng phục, đội mũ tai bèo, chân đi dép râu cũng rời nông trường
về phố xá đẩy những xe ba gác đi bán thơm, vào tận hang cùng ngõ hẻm trong các
xóm lao động. Chưa bao giờ dân thành phố được ăn trái thơm với gía rẻ bèo đến
thế.
Tôi mua thơm và hỏi chuyện hai thanh niên xung phong rất trẻ.
Hào khí tuổi trẻ của bao nhiêu thanh niên nam nữ đã bị người ta bóc lột và tận
dụng không thương tiếc tại những nông trường và những lâm trường hoang vu cách xa
thành phố, thiếu thốn ngay cả những tiện nghi tối thiểu nhất của đời thường.
Nhiều người bị bệnh tiêu chảy, nhiễm trùng, vàng da sốt rét kinh niên.
Ở xóm tôi có một anh đi thanh niên xung phong bị chết thảm
khốc tại một lâm trường khi đang đốn chặt tre nứa. Thay vì phạt con dao vào gốc
nứa sao cho phần gốc chặt ra ngã đổ về phía trước thì anh đã vụng về hay sơ ý làm
phần gốc cây nứa ngã ngược lại, đầu nứa vừa chặt nhọn hoắt đã theo đà đổ nhào thật mạnh của thân cây đâm phập
vào bụng anh lòi cả ruột gan.
Một hôm tôi gặp chị Đình gánh nước mắm đi bán ngang nhà liền
gọi vào mua nước mắm và hỏi chuyện, vì Đình là em ruột anh Tình tổ trưởng tổ hợp
mì sợi của tôi.
Trong thời gian đầu thành lập tổ hợp mì sợi Đình đã theo phụ
tá ông anh rất đắc lực nên chúng tôi đều quen biết Đình. Chị chạc bằng tuổi tôi.
Đình vừa đong nước mắm cho tôi vừa khoe:
-
Tớ bán nước mắm mà sắm được xe gắn máy cho chồng dễ như
chơi, đằng ấy muốn vào nghề không tớ bỏ mối nước mắm cho?
Mắt tôi sáng lên vì ham lời:
-
Muốn chứ, bán nước mắm dễ không Đình?
-
Thì chịu khó gánh đi rong phắp nơi thôi, tớ gánh từ Xóm
Mới qua An Nhơn, xuống vùng Hạnh Thông Tây rồi vòng về Xóm Mới là hết vèo 2 can
nước mắm, tiền nhét đầy túi.
Tôi than thở:
-
Sao gánh đi xa thế! Mà tôi chưa biết gánh bao giờ…
-
Chứ ngồi một chỗ thì bán cho ai? Mình đi tìm khách hàng
chứ khách hàng nào đi tìm mình.
-
Nước mắm Đình lấy từ hãng nào?
Đình thuộc loại người vừa láu táu vừa thật thà, chị nhìn tôi
ngạc nhiên và …thương hại:
-
Cần gì hãng nào hả giời! sao đằng ấy ngây ngô thế !.Tớ
chế ra đấy, chỉ cần một ít nước mắm thật còn bao nhiêu là nước muối và nước…lã
nấu với lá chuối khô cho có màu đẹp như màu nước mắm là thành sản phẩm..
Tôi thảng thốt kêu lên:
-
Người ta ăn vào ngộ độc hay đau bụng thì sao??
Đình thản nhiên:
-
Đã có “Xuyên tâm liên” trị đủ thứ bệnh mà. Nhưng đằng ấy
đừng lo, lá chuối khô lành lắm, gói bánh gai thơm ngon đến nỗi chỉ ngửi mùi lá
chuối khô đã thèm ăn bánh gai rồi, tớ chưa nghe ai ăn nước mắm của tớ than đau
bệnh gì cả.
Tôi hiểu ý Đình, đi khám bệnh ở phường ở quận thì dù bệnh gì
người ta cũng bán cho bằng được loại thuốc dân tộc tên “Xuyên Tâm Liên” kèm vào,
nên ai cũng thuộc tên, cũng biết mặt loại thuốc này. Viên thuốc thô sơ màu xanh
xám như màu rêu cũ trông nghèo nàn buồn tẻ làm sao, nhưng vẫn cần thiết vì không
phải ai cũng có tiền mua thuốc tây ngoài chợ đen và không phải thuốc ngoài chợ đen
đều bảo đảm là thuốc thật.
Mỗi lần đi khám bệnh là mỗi lần cơ cực, sau khi nộp sổ khám
sức khỏe vào chồng sổ cao ngất ngưỡng nơi bàn làm việc của phòng khám ở phường là
sự chờ đợi dài lâu đến mỏi mòn và khi gặp được cô y sĩ để khai bệnh, tùy theo cô
buồn vui mà nghe cô gắt gỏng nhiều hay ít.
Có lần tôi dẫn đứa em đi nhổ răng ở phòng y tế quận Gò Vấp,
cấp quận cao hơn cấp phường, nhưng dù quận hay phường cũng chờ đợi dài lâu như
nhau. Khi ông nha sĩ hay nha tá gì đó xuất hiện ai cũng mừng rỡ, thì ông dõng dạc
tuyện bố:
-
Hôm nay hết thuốc gây tê rồi, ai chịu nhổ răng với điều
kiện tự nhiên thì chúng tôi sẽ sẵn sáng phục vụ.tới cùng.
Ông nha sĩ tưởng mình là hiệp sĩ Don Quixote ra tay cứu nhân
độ thế chắc? Ai mà chịu đau cho nổi hỡi nha sĩ
kiêm hiệp sĩ hoang tưởng kia..
Tôi thò tay chấm vào nước mắm trong can của Đình và nếm thử
vẫn có mùi nước mắm mặn mà, không cố tâm để ý thì khó mà biết là nước mắm gỉa được.
Đình chua thêm vào:
-
Thời buổi nghèo đói lại nhiễu nhương này ai dỗi hơi mà để
ý mà phân tích từng mùi vị nước mắm gỉa hay thật miễn là gía rẻ, cứ nghe lời tớ
đi bán nước mắm lấy tiền nuôi con. Sĩ diện là chết trước đấy.
Thấy mặt tôi còn ngơ ngẩn, Đình tiếp:
- Hàng ngày đằng ấy
mua hàng gỉa mà không biết đấy, thí dụ cái món mỡ nước từ chợ Đồng Xuân Hà Nội do
con buôn tuyến đường xe lửa Nam Bắc tuôn vào trong Nam người ta đã trộn thêm cả
bí đao hầm nhừ vào, cặn bí đao trông như cặn mỡ thịt đọng lại, vừa hấp dẫn ngon
mắt vừa nặng ký, chứ làm gì có mỡ nước nguyên chất thắng từ mỡ thịt ra đâu. Món
này con buôn Xóm Mới cũng bắt chước con buôn thủ đô Hà Nội làm rồi, một vốn bốn
lời.
Đúng là thời thế tạo con người, thời thế xấu thì một số con
người cũng dễ dàng xấu theo.
Dân Xóm Mới xông xáo và gan dạ thật, nghề gì cũng làm được,
từ mổ heo lậu, làm pháo lậu. Thỉnh thoảng lại có vụ thuốc pháo nổ làm chết người
mà họ vẫn không ngán, chỉ vì sức mạnh của
đồng tiền.
Không biết ngoài vụ nước mắm gỉa, mỡ nước gỉa, còn những món
gì giả nũa? Có trời mà biết…
Tôi cầm chừng:
-
Để tôi đợi tổ hợp mì sợi ngã ngũ ra sao đã…
Đình gạt đi:
-
Khỏi đợi, tớ là em anh Tình thì lạ gì, anh ấy đang tính
chuyện làm ăn khác rồi, cỗ máy sắt vụn kia bao giờ bán được thì bán chứ ngồi mà
đợi nó ngã ngũ thì chết đói.
Tôi tò mò:
-
Anh Tình tính làm ăn gì cho tôi theo với?
Đình ghé tai tôi thì thầm:
-
Tổ chức vượt biên, anh ấy sẽ mua tàu….kín mồm miệng giùm
nhé, tớ thương hoàn cảnh đằng ấy nên mới nói trước để mà lo liệu, ở lại vừa đói
khổ vừa bị đối xử phân biệt lý lịch bao giờ con em mình mới ngóc đầu lên nổi? nếu
muốn đi thì cứ 3 cây một đầu người đóng cọc trước, tới ngày sẽ lên đường. Thôi,
tớ đi bán hàng tiếp đây..
Chuyện phân biệt lý lịch lắm đắng cay, ai đi xin việc làm
hay con em đi học cũng phải nộp kèm theo giấy chứng nhận lý lịch của địa phương.
Nhà nào nghèo mạt rệp, bần cố nông mấy đời đi ở đợ thế mà sướng, lý lịch “sạch
sẽ” . Nhà nào có người làm việc cho chế độ cũ “nguỵ quân ngụy quyền” hay giàu có
“tư sản mại bản” thì tờ giấy chứng nhận lý lịch tối đen như đêm 30 Tết.
Tôi nghĩ đến tương lai của hai con mình mà thương !!!.
Sau đó tôi không gặp lại Đình nữa, tôi nghe tin cả nhà anh Tình
đã đi vượt biên tới đảo Mã Lai. Chắc là Đình đã cùng đi với anh Tình rồi.
Bấy giờ tôi mới hiểu vì sao nhóm anh Tình cư ngụ ở Xóm Mới mà
lại xuống Hạnh Thông Tây mở tổ hợp mì sợi, anh
tạo cớ vắng mặt thường xuyên tại địa phương để dễ dàng khi đi vượt biên
không bị ai nghi ngờ.
Chuyện đại sự của anh là tổ chức đi vượt biên tìm tự do chứ
không phải chuyện làm ăn sản xuất mì sợi kia.
May cho Đình và cũng may cho tôi, tôi khỏi phải trả lời Đình
tôi không thể bán món nước mắm gỉa này được. Vì ngay hôm vừa mua nước mắm của Đình
xong tôi đã đổ đi hết không dám ăn thì làm sao tôi dám bán cho người khác ăn?
Chuyện ông tổ trưởng tổ sản xuất mì sợi đi vượt biên cũng đến
tai địa phương tôi, người ta niêm phong tổ mì trong đó có cái máy liên hoàn cà
rịch cà tàng và những đồ dùng không đáng gía khác như bộ bàn ghế cũ, những cái
mẹt, cái nia để hấp mì, v..v…
Chỉ tội chủ nhân cho thuê hai căn nhà chắc đang mong chính
quyền địa phương thanh lý dứt điểm vụ tổ hợp mì sợi để họ lấy lại căn nhà thân
yêu đang bị vạ lây niêm phong khóa kín lại.
Tôi không còn trông mong gì lấy lại được đồng xu nào từ tổ hợp
mì sợi nữa.
*****************
-
Em ơi!
-
Ơi.. ơi…
Chồng tôi từ ngoài vườn sau bước vào bếp, vui vẻ và tò mò :
-
Anh dọn vườn xong rồi. Trưa thứ bảy em cho anh ăn món gì
đây?
-
Anh thử đoán xem…
-
Bún riêu hả?
Tôi âu yếm “ chì chiết” chồng:
-
Anh cứ thích món bún riêu là thế nào!
Chồng cũng âu yếm “mắng” vợ:
- Em đành hanh vừa vừa chứ, là những món em nấu làm
anh yêu thích đấy.
Tôi khoe:
-
Hôm nay là món mì đồ biển thập cẩm. Chúng ta vừa ăn mì
vừa…tưởng nhớ nhé anh..
-
Món này anh cũng thích luôn. Mà em nói gì lạ thế?
Giọng tôi trở lại thoáng buồn như
lúc chợt nghe đài ti vi làm gợi lại một thời kỳ gian nan vất vả:
-
Thì ăn mì và nhớ lại tổ hợp mì sợi của em
Chồng tôi bật cười:
- Tưởng gì, anh đã chẳng cùng em
nhớ lại tổ hợp mì sợi cả …triệu lần rồi sao, vì em đã kể cho anh nghe cả…triệu
lần về cái tổ hợp mì sợi ấy mà.. Cái ngày mà em phải ăn mì sợi hấp chấm với nước
mắm hay xì dầu ngao ngán thì anh đang ở trong tù ước mơ cũng không tìm đâu ra một
vắt mì dù chỉ để chấm với muối trắng ăn cho no bụng.
-
Anh ơi , em nhớ đến tổ hợp mì sợi không phải để so sánh
món mì sợi hấp chấm xì dầu ngày xưa với tô mì đồ biển thập cẩm hôm nay, cái tổ
hợp mì sợi ấy chẳng là gì cả với thế giới này nhưng với em nó là tất cả. Đó là kỷ
niệm, là hình ảnh một đoạn cuộc đời em đã đi qua giữa thời cuộc thăng trầm dâu
bể của vận nước, của chúng ta từ năm 1975 .
-
Ừ, anh biết rồi, hiểu rồi. Chẳng phải mình em mà bao
nhiêu người miền Nam Việt Nam, ai cũng có những hình ảnh, những kỷ niệm riêng tư
nào đó nhưng cùng giống nhau, cùng chung một nỗi bất hạnh, nỗi buồn khi ngày ấy
miền Nam tự do rơi vào tay cộng sản.
Tôi đã nấu xong hai tô mì và bày
ra bàn.
-
Bây giờ mời anh ra ăn tô mì thập cẩm đồ biển của em.
Chúng tôi ngồi vào bàn, chồng tôi
múc thìa súp nước lèo nếm thử và hài lòng khen:
-
Cám ơn cô công nhân tổ hợp mì sợi năm xưa đã nấu tô mì
ngon lành này nhé, và cám ơn cuộc đời đã đưa đẩy chúng ta đến bến bờ tự do này.
.
Nguyễn Thị Thanh Dương.
( Tháng Tư
2013)
No comments:
Post a Comment