SHEPARD C. LOWMAN (1926-2013)
Nguyễn Ngọc Bích
Sinh ngày 21/9/1926, Shepard Lowman có một cuộc đời dài và tràn đầy ý nghĩa như một nhà ngoại giao, một nhà từ thiện và nhất là như một người bạn thiết thân của Việt-nam và cộng-đồng Việt-nam.
Sau khi tốt nghiệp Trường Luật Harvard ra, Shep (tên gọi thân thuộc giữa bạn bè và gia đình) đã đi vào ngành ngoại giao và, sau khi phục vụ ở một số nhiệm sở, đã được gởi đến Việt-nam vào năm 1966. Gần như tức khắc, Shep đã yêu Việt-nam và dân-tộc VN. Tết Mậu-thân Shep đang làm việc ở Châu-đốc, nơi mà ông đã gặp bà Hiệp, vợ ông.
Năm 1974 Shep lại có dịp trở sang Việt-nam và thời gian này ông phục vụ trong ban chính trị của Tòa Đại sứ Mỹ ở Sài-gòn. Với chức vụ này, ông được giao trọng trách lo đưa cả ngàn thân nhân gia đình Mỹ và những quan chức VN có thể gặp nạn nếu CS vào–trong những ngày hỗn độn vào cuối tháng Tư năm 1975. Đa phần những người này sau đó đã đi định cư ở Hoa-kỳ.
Lúc đầu, Mỹ chỉ có ý định đón nhận 37.000 người Việt mà thôi. Sau, Tổng thống Gerald Ford đã quyết định nâng con số đó lên 137.000 và chỉ định bà Julia Vadala Taft cai quản luôn chiến dịch đưa những người này vào nước Mỹ. Thật may mắn là bà Taft đã được sự phụ giúp của ba người được thiên hạ gọi đùa là “ba anh cao-bồi Saigon” ở Bộ Ngoại giao: Shep Lowman, Lionel Rosenblatt và Hank Cushing. Ba anh vật lộn với hệ thống quan liêu ở Washington để có được đủ ngân sách lo cho bốn trại tỵ nạn đầu tiên trên lục địa Hoa-kỳ (Pendleton ở California, Ft. Chaffee ở Arkansas, Indiantown Gap ở Pennsylvania, và căn cứ không quân Eglin ở Florida) cũng như lo chi trả cho các cơ quan thiện nguyện (gọi tắt là Volags, voluntary agencies) làm trung gian trong việc tái định cư người tỵ nạn mà lúc bấy giờ còn gọi là “thành phần tạm dung.”
Tháng 3/1978 nhà cầm quyền CS ở VN quyết định “đánh tư sản” nên chỉ trong một ngày họ niêm phong và tịch thu gần 35 nghìn doanh nghiệp lớn nhỏ trên khắp nước, dưới vĩ tuyến thứ 17. Chỉ trong chớp mắt toàn bộ lớp người ưu tú trong kinh tế miền Nam bị loại ra vòng chơi. Chuyện này đã dẫn đến một vụ ra đi không tiền khoáng hậu bằng đường biển được biết như phong trào “thuyền nhân” (về sau còn có thêm cả “bộ nhân”). Chả mấy lúc phong trào này đã trở thành một cuộc khủng hoảng tỵ nạn đòi hỏi cả thế giới phải chú ý và chăm sóc. Một hội nghị quốc tế được nhóm họp ở Geneva (tháng 6/1979) để san sẻ gánh nặng này giữa các nước, lo cho hàng trăm nghìn người rời bỏ VN mỗi năm.
Trong vòng 10 năm sau đó, khoảng một triệu rưởi người “thuyền nhân” đã được nhận và tái định cư ở Mỹ, Canada, Tây Âu và Úc châu. Người ta cũng tính ra là có khoảng 400.000 người bị chết chìm dưới lòng biển cả. Một số biện pháp đã được nghĩ ra để giúp những ai cần ra đi được đón nhận an toàn hơn như: chương trình ra đi trật tự (ODP), chương trình đón cựu tù nhân chính trị (thường được gọi là “H.O”), rồi chương trình đón nhận con lai (Amerasian Homecoming Act). Nhưng đến tháng 6/1989 thì một hội nghị thứ hai phải nhóm họp, cũng ở Geneva, để chấm dứt phong trào “thuyền nhân” bằng cách cho phép các nước cưỡng bách hồi hương người tỵ nạn VN từ các trại Hồng Kông và Đông Nam Á.
Việc tái định cư người tỵ nạn, theo lời ông Lacy Wright, “đâu phải là một việc oai hay hách gì đâu nhưng chính Shep lại tìm thấy lẽ sống của mình trong công việc này.” Đến năm 1981 thì Shep đã lên tới chức Phó trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao đặc trách các chương trình tỵ nạn và trong tư cách này ông “không chỉ lo việc tái định cư người tỵ nạn VN ở Mỹ, ông còn phải lo những khủng hoảng về tỵ nạn ở những nơi khác như số người Miên đổ ào ạt sang Thái, trên 300.000 người sang trại Khao-i-Dang và một số trại lớn khác. Người Hmong ở Lào sang cũng là một mối lo lớn khi họ chạy sang miền bắc Thái-lan và cần sự giúp đỡ của chúng ta. Trong tất cả thời gian này, Shep trở thành tiếng nói chính kêu gọi sự đón nhận người tỵ nạn VN sang các đệ tam quốc gia, chủ yếu là vào Mỹ. Shep giúp thay đổi các chính sách trong chương trình tỵ nạn của Mỹ để cho hợp thời hơn và làm việc không mệt mỏi nhằm đưa những người đã từng là đồng minh của Mỹ trong một cuộc chiến bạo tàn tìm được nơi trú ẩn ở Mỹ–ngay cả nhiều năm sau khi ‘từ thiện mệt mỏi’ đã làm cho nhiều người tự hỏi không hiểu có nên ủng hộ anh không.”
Trong mọi vai trò ở Bộ Ngoại giao Mỹ, Shep đã có dịp làm việc với nhiều tổ chức của người Mỹ gốc Việt để cho họ có thể tham gia giúp đỡ chính đồng bào của họ, trong đó phải kể Ủy Ban Báo Nguy Giúp Người Vượt Biển (khi Ủy Ban này đóng cửa vào năm 1990 thì Ủy Ban Cứu Người Vượt Biển BPSOS ở Virginia đã thay thế), Hội Gia Đình Tù Nhân Việt Nam (của bà Khúc Minh Thơ), Ủy Ban Liên Tôn về Tỵ Nạn và Nhân Quyền, Project Ngọc, và sau khi người tỵ nạn VN bị cưỡng bách hồi hương từ các trại Hồng Kông và Đông Nam Á, phải kể các chương trình LAVAS (Trợ Giúp Pháp Lý cho Người Tỵ Nạn VN), ROVR (Cơ Hội Tái Định Cư cho Người Hồi Hương), v.v.
Một nguyên tắc làm việc của Shep Lowman là ông tìm cách động viên người đi trước giúp người đi sau. Nói chuyện ở Đại Hội Thể Thao Bắc Mỹ vào mùa Hè 1987 ở Đại Học Maryland, ông nói: “Trong khi các bạn đang vui chơi và tranh tài, xin hãy nhớ là có hàng ngàn thanh niên thanh nữ ở trong các trại tỵ nạn cũng đang mơ tới ngày được tranh tài và vui chơi như các bạn.” Bài nói chuyện này sau đó đã được hương ứng bởi nhiều thanh niên sinh viên đi về từ Đại Hội để ra tay giúp đồng bào trong các trại.
Riêng ở vùng Washington DC, Shep đã giúp Công Đồng Giáo Hội Phật Giáo VN lấy một giao kèo với ACNS (Hội Đồng Hoa Kỳ về các Dịch vụ cho người thiểu số) để thành lập BSS (tổ chức Phật giáo Phụng sự Xã hội), cơ quan đã giúp tái định cư 3.000 người tỵ nạn Đông Dương trong vùng Maryland-DC-Virginia.
Khi Shep về hưu ở Bộ Ngoại giao, ông vẫn tiếp tục giúp người tỵ nạn. Giữ một số chức vụ ở U.S. Conference of Catholic Bishops, Jesuit Refugee Service, và Refugees International, ông tiếp tục kêu gọi tiếp nhận người tỵ nạn Đông Dương. Ông thỉnh thoảng còn đụng chạm với những người kế tiếp chức vụ của ông ở Bộ Ngoại giao. Họ bắt buộc phải tiếp ông vì không thể từ chối gặp ông được nhưng họ cũng rất sợ gặp ông vì họ biết lập trường của ông và cũng biết là ông hiểu vấn đề hơn họ nhiều.
Ngày nay, có không biết bao nhiêu người gốc Việt, Miên, Lào đón tiếp được gia đình đoàn tụ là nhờ Shep. Sự thành công của họ chính là bia công đức của ông.
“Shep không phải là người thích hô hào suông,” ông Lacy Wright kết luận, “anh là một người khiêm tốn không thích khoe khoang. Anh cũng biết cười nhưng chính là cười anh. Bạn bè sẽ nhớ anh mãi với nét trung thành vô biên với gia đình, tính nghiêm chỉnh, và lòng chính trực không bao giờ thay đổi. Anh ra đi để lại một nỗi buồn cho mọi người.”
Bắt đầu từ 1991-92, Shep đã ở trong ban Quản trị tổ chức Vietnam Aid to the Handicapped (VNAH), do anh Trần Văn Ca làm Chủ-tịch. Shep do đó đã đi giám sát việc trao xe lăn cho hàng ngàn thương binh người Việt ở khắp hai miền Nam Bắc, ông cũng đã giúp nhà cầm quyền VN thảo ra luật và xây dựng những lối đi cho người dùng xe lăn.
Trong cộng đồng VN, Shep sẽ được nhớ như một người rộng lòng từ bi–săn sóc cho cả những em như Tuấn Võ, một em bị bệnh hoại huyết ở Mỹ, và cùng với bà Hiệp đỡ đầu cho 60 em nhỏ bị bệnh HIV ở VN. Với những ai đã biết Shep thì thế nào cũng sẽ nhớ anh, nhớ tình thân ái và tấm lòng lúc nào cũng chăm lo cho mọi người chung quanh.
Ông Shepard Lowman vừa qua đời hôm nay, thứ Bảy 2/3/2013, ở tuổi 86. Ông để lại người vợ thân thương, bà Hiệp Lowman, bốn người con trai (Thomas Trịnh, Nguyễn Phúc Định , John Trịnh, Mark Nguyễn) bốn người con gái (Kate, Mary, Lina và Lisa) và mười chín cháu và hai chắt .
GS Nguyễn Ngọc Bích
No comments:
Post a Comment