Hà Nội gió
Theo Trần-Mộng-Tú
Gió mùa đông bắc làm em khóc
Hà Nội, anh ơi phố rất gầy!
(tmt)
Tôi
trở về nhà sau một chuyến bay dài đỏ mắt. Không biết ai là người đầu
tiên đặt tên cho những chuyến bay đêm là 'đỏ mắt' thật là hay. Chập chờn
giữa thức và ngủ cả mười ba, mười bốn tiếng thì chắc chắn mắt xanh như
cô Kiều của cụ Nguyễn Du cũng thành mắt đỏ. Chữ nghĩa mang ảnh hưởng đến
đời sống tình cảm của ta rất nhiều, có những chữ mình không thể nào
thay bằng chữ khác được.
Chúng
tôi đi trong một Hà Nội đầy gió, người Hà Nội đặt tên cho gió này là
Gió Mùa Ðông Bắc. Có không biết bao nhiêu thi sĩ, bao nhiêu nhạc sĩ đã
xúc động về những cơn gió này và viết ra bao nhiêu tác phẩm làm thăng
hoa đời sống con người để ngay cả khi đang sống trong một hoàn cảnh khó
khăn nhất, con người vẫn tìm ra cái đẹp của nơi mình đang sống. Khí hậu
của tháng Mười Một và tháng Chạp âm lịch là khí hậu lạnh và đẹp nhất
trong năm của miền Bắc.
Gió hay
trở lạnh đột ngột như một người đi xa bỗng trở về không báo trước. Có
thể mới buổi sáng trời còn rất ấm không có gì báo hiệu là một ngày lạnh,
nhưng đến trưa gió ở đâu bỗng kéo về chật phố. Gió chen chúc vào đám
đông đang đi trên đường, gõ cửa những ngôi nhà, hàng quán, ngồi sát vào
những người buôn bán hai bên vỉa hè rất là hồn nhiên. Chẳng cần nói năng
gì cả. Chỉ cần có mặt, tôi đến, tôi ngồi xuống và tôi ở lại. Giống như
Caesar ngày trước, I came, I saw, I conquered. Thế là mọi người
chạy ùa đi mua áo ấm để ngồi chung với gió. Chúng tôi đã được đi, được
ngồi chung với Gió Mùa Ðông Bắc trong suốt mười ngày ở Hà Nội.
Bây giờ
ngồi đây nhớ Gió Mùa Ðông Bắc, muốn khóc. Suốt từ Sài Gòn, đi xe ca
theo tour Tiền Giang, Hậu Giang, Phan Thiết, Nha Trang, Hà Nội rồi bay
ra Phú Quốc, ta nhìn thấy sự phồn thịnh luôn luôn đi bên cạnh nghèo đói
một cách rất rõ ràng. Miền Bắc, miền Trung ở quê vẫn còn khổ và nhiều
người rất nghèo trong khi ở thành phố Sài Gòn, Hà Nội, hàng đêm người ta
đổ xô ra phố tiêu tiền (không biết tiền ở đâu ra mà nhiều thế!) Ở những
nhà hàng, những quán ăn thì người trong nước tiêu phung phí hơn Việt
Kiều.
Thử vào
một chỗ ăn chơi như vào bar chẳng hạn, thì có thể chỉ nhìn chai rượu
gọi sẽ nhận ngay ra ai là Việt Kiều ai là Việt Việt (chữ một cậu cháu
tôi dùng để gọi người trong nước). Việt Kiều xài sang gọi chai rượu 150
mỹ kim, trong khi đó Việt Việt gọi chai rượu 1.500 mỹ kim. Tôi quê mùa,
hỏi cháu: - Chai rượu gì mà đắt vậy? - Con không biết, nhưng thấy họ
trả 1.500 mỹ kim cho chai rượu; họ đi năm, sáu người tiêu một buổi tối
năm ngàn đô là chuyện nhỏ. Nghe nói một tối tiêu năm ngàn đô là chuyện nhỏ thì chắc ai cũng biết cái xuất xứ của những số tiền nhỏ đó thật là mù mịt.
Ăn
uống ở các tiệm bây giờ cũng đắt hơn gấp năm sáu lần của ba năm trước
và không ngon. Trung bình chúng tôi ăn một bữa cho một người là từ ba
cho đến bẩy mỹ kim. So với ở Mỹ thì rẻ, nhưng với tiền lương của một
người trung bình là 700.000 đồng Việt - khoảng hơn 40.00 mỹ kim một
tháng- thì làm sao trả được. Tôi tự hỏi, Sài Gòn bây giờ hình như không
ai nấu ăn trong nhà hay sao mà tối nào các tiệm, các quán cũng tấp nập
khách ăn? Bao giờ nhìn chung quanh các bàn cũng rất nhiều người địa
phương ngồi ăn, phần đông là giới trẻ, và trung niên. Trên bàn đầy ắp
thức ăn và bia, nước ngọt.
Lương
của một công chức không biết con số thật là bao nhiêu? Tôi có một người
em họ xa ở Hà Nội, làm phó giám đốc một công ty nhà nước gì không rõ mà
anh đi xe BMW, khi chúng tôi tới thì vợ đang du lịch ở Singapore, con
thì đi du học ở Mỹ, một năm hết ba mươi ngàn Mỹ Kim tiền học, chưa kể
chi phí ăn ở. Nghe mà giật mình. Theo cách anh nói chuyện thì ở Việt Nam
bây giờ du học tự túc ở Pháp và Ðức như một phong trào cho các con ông
lớn. Học giỏi hay không thì chưa rõ, nhưng mà đã là con của những ông
lớn thì phải xuất ngoại, phải du học. Sang bên đó không học được thì ở
chơi một thời gian, may mắn kiếm được người lấy thì ở lại, không thì về.
Nghe
anh nói, tôi nhớ đến một ca làm việc của mình ở Mỹ. Khi tôi đến thăm tại
gia cho một sản phụ được hưởng Phiếu Y Tế (Medical Coupon) tôi mới biết
đó là một sinh viên Việt Nam du học tự túc, có bầu và ở lại. Cô là sinh
viên du học mà không nói được một câu Anh Ngữ nào. Căn nhà cô ở thuê là
một apartment water front. Tôi hỏi tiền đâu mà cô trả tiền nhà thì được
cô ạ cho biết căn apt. này cha mẹ cô chuyển tiền sang mua, trả bằng
tiền mặt, cho một người bà con có quốc tịch Mỹ đứng tên. Nghe mà giật
mình, vì tôi biết căn apartermen đó ở Seattle ít nhất là 400.000 Mỹ kim,
bởi gần sát mặt hồ.
Khi có
những người giầu không rõ xuất xứ lợi tức như thế thì người nghèo có
xuất xứ rất rõ ràng. Họ sống bằng những món tiền kiếm được hàng ngày rất
khiêm tốn. Nếu đi dọc theo bờ hồ Hoàn Kiếm ta sẽ luôn luôn bắt gặp
những người (một cụ già, hay một đứa trẻ đang tuổi đi học) bán vé số,
hoặc nước trà. Bán vé số thì lấy vé của nhà nước đi bán lại mỗi vé số
giá có hai ngàn, không biết lời được bao nhiêu? Trong khi đó giá một gói
xôi khoảng bốn ngàn đồng - một Mỹ kim bằng 15.900 đồng- Vốn liếng của
người bán nước trà tất cả chắc chưa đến ba Mỹ kim: Một cái ấm ủ trong
cái khăn cũ kỹ, vài cái ly thủy tinh nhỏ, năm ba cái kẹo lạc, kẹo vừng.
Họ ôm cái gia sản bán buôn
đó
trong vòng tay gầy guộc, mời khách bên hồ. Hy vọng họ kiếm đủ cơm ăn
cho một ngày hôm đó.
Ngay ở
trong khu phố có tấp nập khách du lịch, thỉnh thoảng ta vẫn thấy một
người gánh hai cái thúng hầu như chẳng có gì trong đó, chỉ có vài ba mớ
hành, mấy củ su-hào, mấy quả chanh đem đi bán. Chắc đây là những thứ
kiếm được trong vườn nhà. Tiền thu về may ra đủ cho một gói xôi, hay hai
chiếc bánh mì không nhân. Có cô bé lên năm cầm từng chiếc kẹo cao su lẻ
bán cho du khách, cô bé nhỏ xíu, đen thui, ốm nhách mà cái mặt tươi như
một bông hoa mười giờ chạy theo con gái tôi, đưa cái kẹo ra mặc cả bằng
thứ tiếng Mỹ ngô ngọng, thấy vừa buồn cười, vừa tội nghiệp. Cô con gái
tôi trêu cho em cười bằng cách nói tiếng Việt cũng ngô ngọng với em và
gần như muốn bế em lên, vì em bé xinh quá! Ôi
tuổi
thơ Việt Nam ! Khi em lớn lên, em sẽ có ước vọng gì?
Ði càng
về miền quê càng thấy những người nghèo. Ở những nơi ruộng nước như lối
vào Tam Cốc, Bích Ðộng ở Ninh Bình hay Suối Trong, Suối Ðục ở Chùa
Hương thì những người dân quê vẫn ngâm một nửa người trong nước nguyên
ngày mò ốc, lưới tép kiếm ăn. Một kí tép khoảng hai chục ngàn, ngâm nước
nguyên ngày được khoảng ba đến năm kí, kiếm được 60.000 -100.000 đồng
cho nguyên một gia đình bốn năm người, trong đó có cả tiền học cho con.
Trẻ con đi học cho biết đọc, biết viết rồi nghỉ vì không có tiền trả
tiếp, lại đi ngâm mình dưới nước giống cha mẹ thôi. Suốt một đời họ ngâm
dưới nước. Người chèo thuyền chỉ cho chúng tôi xem một vài nấm mộ chôn
một nửa chìm dưới nước, nói
là
mộ của những ông bà cụ già suốt đời mò cua, xúc tép ở đây, họ muốn con
cháu họ chôn mình như thế, vì họ đã có câu: 'Sống ngâm da, chết ngâm xương' để chỉ đời sống gắn liền với nỗi vất vả này.
Du
khách Âu Châu đổ vào Việt Nam một ngày một đông hơn, sau sau vụ khủng
bố11/9/2001. Cả nước sống về nguồn lợi thu nhập được của du khách. Du
khách nước ngoài vào, mang theo bao sự thay đổi. Việt Kiều đóng một vai
trò không nhỏ trong môi trường này. Mỗi người đem một ít về cho thân
nhân, giúp vốn buôn bán, xây lại nhà cửa, mai mối cho lấy chồng nước
ngoài. Cho nên ta thấy có những con hẻm lầy lội, nghèo nàn tự nhiên mọc
lên một cái nhà hai ba, thậm chí bốn từng. Cửa kính, cửa sắt đứng cô đơn
như một anh hề sau khi vãn hát. Những cô gái được tân trang từ đầu đến
chân để lấy chồng nước ngoài, trông như những con búp bế vô hồn. Ðã có
một số cô bằng lòng lấy bất cứ ai, dù đó là
anh
cắt cỏ hay rửa chén bên Mỹ, bên Úc. Ngay cả một anh ăn tiền tàn tật
cũng vẫn lấy. Cứ lấy để đi đã, sang đó không ở được thì bỏ. Những câu
chuyện đó bây giờ không có gì là mới lạ nữa, chỉ có sang bên đó mà sau
năm năm không bỏ chồng thì mới gọi là 'lạ'.
Người
không có thân nhân lo cho thì sẽ rơi vào bất cứ một bàn tay không lương
thiện nào đó, và đã xẩy ra bao nhiêu thảm kịch. Ban đầu thì còn là
chuyện thương tâm, sau đi đến nỗi quốc nhục. Nhiều cô gái quê lớn lên
trong cảnh nghèo sẽ làm bất cứ điều gì, không đắn đo để được thoát ra
cảnh mò ốc, bắt cua, làm ruộng. Cô ở tỉnh thì chạy theo những nhu cầu
vật chất và cũng một phần muốn có một cuộc sống nhàn nhã, không phải vật
lộn với đời sống xã hội khó khăn hiện tại, nên họ không ngần ngại làm
gái bao cho những người nước ngoài.
Chúng
tôi đã gặp trên con đường từ Bắc vào Trung, ra Nam một vài cô rất trẻ,
khoảng 17 đến 22 đi cặp đôi với những người đàn ông luống tuổi nước
ngoài như Thụy Sĩ, Ðức, Pháp, Ðại Hàn, Ðài Loan, v.v. Trên bãi biển Phú
Quốc nơi chúng tôi tắm, một lúc chúng tôi gặp ba người Ðức độ ngoài sáu
mươi tuổi cùng tắm với ba cô gái Việt rất trẻ. Họ ngồi ngay ở mấy cái
võng, và bàn ăn dưới gốc dừa cạnh chúng tôi. Họ nói tiếng Anh với mấy
cô, mấy cô nói rất ít, ngoài lắc, gật và cười ròn rã. Một lúc sau có
thêm một người nữa dắt một cô đến, họ làm quen và nhập bọn với nhau. Họ
ngồi ngay cạnh chúng tôi, nên dù không chú ý cũng nghe rõ tiếng những
người đàn ông nói với nhau: - Gái
ở
đây hiền và dễ bảo hơn gái Sàigòn - Sống ở đây, cần bao nhiêu một
tháng, kể cả tiền trả cho mấy cô này? - Rẻ lắm, chỉ độ năm trăm mỹ kim
thôi.
Hình
ảnh mấy ông già da nhăn nheo đó đùa rỡn dưới biển với mấy cô má hồng còn
lấm tấm mấy cái mụn dậy thì, trông chẳng khác gì cảnh ông nội, ông
ngoại ra bơi với cháu. Thật đáng buồn! Tôi nhìn sang con gái tôi, cô
đang nằm phơi nắng trong bộ áo tắm, cuốn tiểu thuyết The Memoirs of a Geisha
úp trên mặt, tôi thấy cô thật là may mắn biết bao! Cô được đi học, cô
có việc làm tử tế, cô kiếm sống được bằng kiến thức và lòng tự trọng.
Nếu cô chẳng may sinh ra và lớn lên trong một cái làng, cái tỉnh nghèo
nàn nào đó Việt Nam, không được đi học đến nơi, đến chốn, thì có gì bảo
đảm cô sẽ không là một trong những cô gái đang bơi lội dưới kia?
Cái
nghèo khó luôn luôn kéo theo cái bất hạnh. Giữa mênh mông sóng biển,
nhìn những cô gái trẻ đang bơi trong nước, bỗng những cành đào Nhật Tân
hiện ra trong trí tôi. Những cành đào hiếm hoi còn sót lại năm nay ở
làng này vì người ta đang cào xới đất để xây những cao ốc trên đó. Rồi
những cô gái làng này không còn hoa đào để bán, không còn đất để trồng
cúc, trồng lay-ơn, trồng hoa hồng nữa. Họ sẽ đi đâu và sẽ làm gì để
sống? Họ sẽ lại ra những bãi biển với những người đàn ông già như ông
nội hay sao? Khu đất cổ truyền trồng hoa, nổi tiếng về hoa đào Nhật Tân
còn không cứu được, còn bị san bằng để xây cao ốc thì những cô gái Nhật
Tân có ai cần để ý tới là họ sẽ trôi ra
biển hay đi về đâu!
Người thanh niên hai mươi tám hướng dẫn tour cho chúng tôi than: - Tụi con bây giờ, những người lợi tức thấp, khó kiếm vợ và kiếm bồ lắm. Họ cặp với người nước ngoài hết rồi cô ơi!'
Tôi hỏi:
-
Nhưng các cô ở miền quê như Phú Quốc này, thì làm sao gặp được những
người du khác ở xa đến, trong khi họ lại không biết ngoại ngữ? - Dễ lắm
cô ạ. Cứ cô nào đi trước kiếm được một người thì lại chỉ dẫn giới thiệu
cho cô sau. Mấy ông du khách đó lại giới thiệu cho nhau. Cứ cái đà này
thì con gái Phú Quốc chẳng còn ai cho tụi thanh niên chúng con ở đây
nữa. Mấy tỉnh miền Tây bây giờ cũng thế hết, con gái họ bỏ đi Sàigòn
kiếm sống bằng cách làm gái bao cả.
Anh ta nói như một tiếng than. Tôi ngồi im nghe không biết nên an ủi thế nào.
Ở Sàigòn thì gặp mấy người chạy taxi kể lể:
-
Cô ơi! Mấy thằng cha Ðại Hàn bây giờ nó khôn lắm. Nó sang đây giành
giật của Việt Nam vừa đàn bà vừa tiền. Nó không cần biết tiếngViệt, nó
bỏ tiền ra thuê một cái mặt bằng, thuê bao luôn một cô vợ ở đây đứng
trông tiệm (bán đồ cho khách du lịch) làm người ở và làm vợ tạm thời cho
nó. Cô ta được trả vài ba trăm đô một tháng là mừng lắm rồi. Làm ăn một
thời gian vài ba năm thôi, hết hạn, nó trả tiệm lại, trả cô nhà quê ra
đường, ôm tiền về nước. Mấy thằng Ðài Loan cũng vậy.
-
Còn mấy ông già Việt Kiều nữa cô ơi! Ðến tuổi hưu trí rồi, về Việt Nam
kiếm một cô bồ chỉ bằng tuổi con gái, con dâu mình. Giữ đấy, như một thứ
vợ nhỏ, cho một tháng hai ba trăm đô la. Mỗi năm đi, về hai, ba lần
hưởng thụ. Cơm bưng, tình bưng đến tận miệng. Trong khi ổng không có ở
đây thì các cô muốn làm gì thì làm, khi ổng qua thì các cô phải hoàn
toàn phụng sự ổng là được rồi. Anh nói thêm: -
Chuyện này đều đều từ nhiều năm nay rồi. Các cô rủ nhau, dắt mối cho
nhau, Ðại Hàn giới thiệu cho Ðại Hàn, Ðài Loan giới thiệu cho Ðài
Loan,Việt Kiều giới thiệu cho Việt Kiều. Mỗi người một tiêu chuẩn, một
dịch vụ khác nhau. Ai cũng vui vẻ hài lòng
cả.
Tôi
nghe, mà lòng buồn ruời ruợi. Có lẽ những phụ nữ chọn cuộc sống này họ
thấy còn hơn là phải sang Ðài Loan làm nô lệ cho cả một gia đình, hay bị
bán vào những nơi họ không hề lựa chọn.
Tôi nhớ
đến một bản tin đọc được ở báo trong nước về một người đàn bà Việt Nam
muốn sang Ðài Loan kiếm tiền giúp gia đình. Hai vợ chồng vay mượn một số
tiền mười ngàn mỹ kim để được sang bên đó làm công nhân, hay ở mướn gì
đó qua trung gian môi giới. Không biết vì một lý do đau thương, tủi nhục
nào, người vợ đã không cho chồng biết, âm thầm chịu đựng rồi đi đến chỗ
tự tử chết. Người chồng vừa đau đớn vừa bị món nợ mười ngàn mỹ kim hối
thúc, tự tử chết theo vợ, để lại mấy đứa con thơ. Thử hỏi có bản tin nào
đau thương hơn bản tin này!
Trong
khi đó thì ở một mặt khác của xã hội, những cô gái của cả Sài Gòn, Hà
Nội bây giờ sống rất là thời thượng. Họ đi làm những công việc văn phòng
chỉ để lấy danh nghĩa đi làm, họ có một nguồn lợi tức ở đâu đó cung cấp
chuyện tiêu pha ăn, mặc hàng ngày cho họ mình không biết. Họ rất giỏi
về lãnh vực tìm bạn Việt Kiều trên mạng. Mỗi tối ngồi hàng giờ để chat
với một ai đó, rồi đưa đến hò hẹn. Một cậu Việt Kiều ở Mỹ hay Úc, trước
khi về Việt Nam, có thể tìm trên mạng cho mình một cô bồ ra tận phi
trường đón. Cô ta nói tiếng Anh tương đối, hướng dẫn các dịch vụ ăn
chơi, cô chỉ bảo tận tình và cho cậu cái cảm tưởng là cô không đến vì
tiền của cậu (cô có tiền
rồi!) cô sẵn sàng mời cậu về nơi cô ở thay vì ở khách sạn (tình cho
không, biếu không), cô hiền lành, chiều chuông hết mình, rồi cô cho cậu
biết cha mẹ cô là những người có địa vị trong xã hội, cô mời cậu ra Bắc
hay lên Ðà Lạt, hoặc Nha Trang gặp họ.
Trong khi chuyện trò, cô thường nói là 'Em không thích sống ở Mỹ',
cô cho cậu cái cảm tưởng cậu là người may mắn, gặp được một cô không
giống những cô mà trước đây cậu thường nghe tả. Có thể cậu Việt Kiều này
sẽ gặp ông bố của cô bồ là một Kỹ Sư nhà nước hay một ông bác sĩ thật
(Một bác sĩ xuất thân là y tá và được thăng bác sĩ nhờ tuổi đảng thâm
niên). Và cô 'không thích sống ở Mỹ đâu' chỉ có nghĩa là cậu lấy
cô rồi cậu sẽ ở lại Việt Nam , và cô có cơ hội vào quốc tịch Mỹ. Có trời
mà biết những gì sẽ sẩy ra sau tấm màn sân khấu này. Những vở kịch này
hiện nay đang diễn ra thường xuyên ở Việt Nam.
Những người thân quen ở Việt Nam chỉ biết dặn dò:
- Cháu coi chừng đấy, gái Việt bây giờ có cả ngàn chiêu, không biết đường nào mà đỡ đâu.
Tôi
được nghe kể, còn một phương cách kiếm chồng nước ngoài cao hơn thế nữa
là các cô con ông lớn thứ thiệt, có đăng ký tên trong những cái bar sang
trọng. Khi chủ nhân thấy có một đám khách Việt Kiều trẻ nào, thuộc loại
mặt mũi sáng sủa, lịch sự, học thức, ăn xài sang vào bar là lập tức họ
thu dọn chiến trường, dẹp hết những cô tầm thường đang làm việc ở đó,
gọi những cô gái con các ông lớn trong danh sách đến. Các cô ăn nói lịch
sự, có học đến làm quen chuyện trò với khách, và sau một buổi tối,
nhiều cậu đã được mời về nhà, giới thiệu với gia đình. Nhà sang trọng,
có xe hơi, và tài xế riêng, cha mẹ niềm nở đón tiếp. Hỏi ra thì được
biết cha mẹ các cô toàn là những nhân
viên cao cấp của chính quyền cả. Những cậu được mời này, chắc chắn sẽ
quay lại và kết thân cùng cô gái. Mọi việc kế tiếp thì chỉ có Trời mới
biết là sẽ được xếp đặt như thế nào.
Ôi!
Những chuyện quê nhà thì nói sao cho hết. Chuyện vui thì qua mau, chuyện
buồn thì ở lại. Mỗi lần về là một lần xót xa. Cứ nhủ lòng thôi không về
nữa. Thế mà một hai năm sau, nguôi ngoai một chút lại thu xếp quay về.
Hà Nội bỗng dung nhan đổi khác nhờ những cơn Gió Mùa Ðông Bắc. Thanh
niên, thiếu nữ giấu trong chiếc áo len, áo dạ, những mơ ước lãng mạn của
mình. Họ khoác tay nhau ngồi xuống những quán ăn đơn sơ ngay ở vỉa hè.
Chuyền tay nhau những chén lục tào xá, bánh trôi, bánh chay. Họ ăn bằng
mơ mộng của tuổi trẻ, ăn bằng hoang mang của những ngày cuối năm, ăn
bằng nôn nao của mùa xuân đang tới.
Gió
lãng mạn, gió phiêu du, gió làm gầy những con phố, làm trái tim đập dịu
dàng và làm những bài thơ bỗng nghiêng xuống, nằm sát vào những chiếc lá
cuối đông. Bây giờ ngồi đây nhớ Gió Mùa Ðông Bắc, muốn khóc. Về Sài Gòn
để được chen lách giữa những đám xe cộ, nhất là xe gắn máy. Ðể nhìn
khói bụi mù đường, nghe những tiếng gọi nhau ơi ới, những tiếng rao
hàng, hòa vào giữa tiếng xe nổ, tiếng còi xe inh ỏi. Ðể trong lúc chen
lấn giữa dòng người, dòng xe, thỉnh thoảng lại nhìn cái bảng tên đường
lạ hoắc, cố đoán ra trước đây là đường gì?
Rồi
chợt nghe đau nhói trong ngực về một kỷ niệạm thân yêu cũ ở con đường
mình đang đi. Nước mắt ứa ra, hình dung lại một buổi chiều êm ả đã xa
lắm rồi. Tình đã quan san từ đáy mắt (Ðinh Hùng) Về để lại đi
xuồng máy nguyên ngày trên Tiền Giang, ghé vào những rạch, chỗ người dân
làm bánh tráng, làm kẹo dừa, đan võng, đan giỏ, để được ngắm những
người dân miềm Nam giản dị, chất phác, nhìn những vất vả của người mẹ,
người cha:
Quê hương là cây cầu khỉ
khẳng khiu như cánh tay cha
quê hương gánh hàng nặng trĩu
mẹ về tất tả chợ xa
quê hương áo bà ba trắng
khăn lau lệ mẹ vắt vai
quê hương mồ hôi cha đổ
cho con miếng ngọt miếng bùi.
quê hương gánh hàng nặng trĩu
mẹ về tất tả chợ xa
quê hương áo bà ba trắng
khăn lau lệ mẹ vắt vai
quê hương mồ hôi cha đổ
cho con miếng ngọt miếng bùi.
(tmt)
Về để
đi ra Bắc, lên tận Yên Bái, đến ngôi nhà sát bên sông Hồng của người anh
họ, được soi mặt trong thau nước múc lên ở lòng sông, có phù sa lắng
hồng đáy chậu. Ðược ngồi trong một cái bếp còn đun củi, bám đầy bồ hóng,
được dùng gáo múc nước, được ăn măng trúc, măng mai. Nhớ về câu thơ cũ
trong bài Trấn Thủ Lưu Ðồn:
Chém tre đẵn gỗ trên ngàn
Hữu thân hữu khổ phàn nàn cùng ai
Miệng ăn măng trúc, măng mai
Những giang cùng nứa lấy ai bạn cùng
Hữu thân hữu khổ phàn nàn cùng ai
Miệng ăn măng trúc, măng mai
Những giang cùng nứa lấy ai bạn cùng
Về để
được chen chân đi trong phố cổ Hà Nội nhỏ hẹp, có rác và cống trên từng
bước đi, được đi trong nắng, trong gió Hà Nội nhớ lại thủa ấu thơ, ngơ
ngác đi qua nhà thờ xưa như đứa bé tan lễ ra, lạc mẹ:
Lâu lắm em mới về Hà Nội
đi trên viên gạch tuổi thơ ngây
gió mùa đông bắc làm em khóc
Hà Nội, anh ơi phố rất gầy!
đi trên viên gạch tuổi thơ ngây
gió mùa đông bắc làm em khóc
Hà Nội, anh ơi phố rất gầy!
(tmt)
Mấy
ngày hôm nay Hà Nội lạnh, Hà Nội vào Tết, Hà Nội chạy ùa ra phố mua áo
ấm, gió mùa đông bắc thổi vạt áo bay tung, hai mẹ con đi sát vào nhau,
chen chân trong khu chợ đêm trong phố cổ. Cảm tưởng hương vị của một
ngày cuối đông đang tan trong cổ mình như những câu thơ:
Hà Nội rủ nhau mua áo ấm
gió mùa đông bắc thổi qua len
khăn san quàng vội vào cổ gió
trên vai một chiếc lá rơi nghiêng
gió mùa đông bắc thổi qua len
khăn san quàng vội vào cổ gió
trên vai một chiếc lá rơi nghiêng
(tmt)
Người,
xe, hàng quà hai bên vệ đường cùng đan vào nhau, gần như dẫm lên chân
nhau. Hàng Ðào với những cửa tiệm sang trọng bán quần áo tơ lụa cho du
khách, Hàng Bạc lấp lánh những vòng vàng những xuyến bạc, và kiềng trạm,
Hàng Mã một mầu đỏ đến căng từng mạch máu của đèn lồng, giây pháo giả,
vàng mã. Người ta đổ xô đi mua về để đốt cho ông Táo lên trời. Cứ thế đi
theo dòng người, hai mẹ con bập bềnh trôi. Xin chào nhau giữa con
đường.
Mùa xuân phía trước miên trường phía sau
(Bùi Giáng)
Tiểu Sử:
Sinh ngày 19.12.1943 tại Hà Ðông Bắc Việt.
Lớn lên ở Hà Nội, Hải Phòng.
Vào Sài Gòn năm 1954.
Thư Ký cho Hãng Thông Tấn The Associated Press ở Sàigon 1968-1975).
Sang Mỹ tháng Tư năm 1975.
Ðịnh cư tại tiểu bang Washington USA từ 1975. Khởi viết từ 1975.
Hiện sống ở Seattle, Washington với gia đình.
Thường xuyên cộng tác với các tạp chí văn học ở Mỹ và các nước khác.
Viết truyện nhi đồng cho báo Los Angeles Times từ năm 2000, có thơ Anh Ngữ trong sách giáo khoa Mỹ cho chương trình trung học (American Literature- Glencoe-1999) Đoạt giải về bình luận (Commentary) của The New California Media (NCM) “Ethnic Pulitzers” năm 2003.
Chủ Bút cho Nguyệt San Phụ Nữ Gia Đình Người Việt ở California (Oct.2002 -Oct.2005)
Tác phẩm:
Đã xuất bản:
Thơ Trần Mộng Tú (Tập Thơ-1990) NXB-Người-Việt.
Câu Chuyện Của Lá Phong( Tập Truyện Ngắn-1994) NXB-Người-Việt
Để Em Làm Gió (Tập Thơ-1996) NXB-Thế-Kỷ
Cô Rơm và Những Truyện Ngắn Khác (Tập Truyện Ngắn-1999) NXB-Văn Nghệ
Ngọn Nến Muộn Màng ( Tập Thơ-2005)NXB-Thư-Hương
Mưa Sài Gòn Mưa Seattle (Tạp Văn-2006) NXB-Văn Mới
No comments:
Post a Comment