Lời nói đầu
Nghĩa tử là nghĩa tận. Trước một “nhân vật của quần chúng” (a person of the public) vừa nằm xuống, giữ im lặng là thái độ nghiêm chỉnh nhất. Nhưng sự ra đi của Phạm Duy là một ngoại lệ. Nhiều người khen qúa độ. Nhiều người chê qúa lời. Nhiều người muốn khen, chê đúng mức mà không lên tiếng vì e ngại phản ứng của cả đôi bên. Đài BBC cũng tường thuật rất tỉ mỉ về đám tang của ông.
Hãy thử tìm con người đích thực của PD qua tác phẫm, hành động và lời nói của ông để biêt nguyên do của cái dư luận ồn ào sau tin ông qua đời.
A / NHỮNG LÝ DO KHIẾN PD ĐƯỢC NHIỀU NGƯỜI NHẮC TỚI
1/ Ông là một nhạc sĩ được ngưỡng mộ bởi hàng triệu người Việt từ thế hệ trẻ tới thế hệ gìa, từ giới bình dân tới giới trí thức, từ thời chiến tới thời bình, từ chủ nghĩa Cộng Sản tới chủ nghĩa Tự Do, từ chính quyền độc tài tới chính quyền dân chủ, từ trong nước tới hải ngoại.
2/ Cảm tình của quần chúng đối với ông rất phức tạp. Nhiều người khen. Nhiều người chê. Nhiều người vừa khen vừa chê. Nhiều người trước khen nay chê. Nhiều người trước chê nay khen.
Phe Việt Cộng, sau nửa thế kỷ căm thù ông, nay mua chuộc ông để làm mồi cho chiêu bài “Hòa Giải Dân Tộc”.
Phe Tự Do, qua nửa thế kỷ qúy mến ông, nay ruồng bỏ ông vì nghĩ rằng ông bị kẻ thù mua chuộc.
Những biểu lộ ấy (khen-chê, yêu-ghét, mua chuộc-ruồng bỏ) rất thường tình. Thiên hạ không ngẫu nhiên ( mà có lý do thầm kín) gán ghép cho ông. Ông cũng không cố ý gây ra. Lối phát ngôn vụng về và nếp sống buông thả của ông đóng một vai trò quan trọng trong sự phán xét của họ.
3/ Những tác phẩm của ông, từ dân ca, tình ca, quân ca, đạo ca, nhi ca v. v.. đều có gía trị độc đáo: mang âm giai ngủ cung hài hòa của dân tộc và lời ca truyền cảm của ca dao.
2
4/ Nhạc phổ thơ của ông là một tuyệt kỹ. Giới truyền thông đã liệt ông vào hàng “phù thủy” của loại nhạc này. Dù phổ nguyên văn bài thơ (như Ngậm Ngùi của Huy Cận..) hoặc chỉ lấy ý thơ (như Tiếng Sáo Thiên Thai của Thế Lữ..) ông cũng làm cho thơ tăng thêm gía trị.
5/ Đời tư của ông có một vài tì vết. Ông sống buông thả theo thú vui xác thịt, bất chấp hậu qủa (vụ Khánh Ngọc và Julie Quang) khiến những người đạo đức khinh bỉ và những người đối lập khai thác.
6/ Lòng yêu dân, yêu quê, yêu nước trong những tác phẩm của ông rất hiển hiện. Một người có tình yêu gỉa tạo không thể nào làm được những bài Tình Ca, Tình Hoài Hương, Quê nghèo, Về Miền Trung, Bà Mẹ Gio Linh, Nhớ Người Thương Binh, Vợ Chồng Quê, Em Bé Quê, Ngày Trờ Về, Con Đường Cái Quan, Mẹ Việt Nam, v.v…
B/ KIỂM ĐIỂM NHỮNG LỜI KHEN
Hầu hết những người khen đều công nhận rằng ông là một “đại thụ” của nền tân nhạc Việt và là một nhạc sĩ có thiên tài, có lòng yêu dân, yêu quê, yêu nước chân thành. Có người đã tặng ông những đức tính mà thực sự ông không có (như khiêm nhượng, cao siêu). Thậm chí, có người còn vinh danh ông là chiến sĩ chống Cộng hoặc nhà tư tưởng thâm thúy. Những nhận xét như vậy chỉ đúng nửa vời:
1/ Qủa thực ông là một đại thụ của nền tân nhạc Việt. Nhưng đại thụ ấy có tỳ vết: ông đã 2 lần vi phạm luân ký Việt ( vụ Khánh Ngọc và Julie Quang).
2/ Ông không khiêm nhượng mà còn háo danh. Một thí dụ: Trong cuốn video Paris By Night 19, ông trả lời ký gỉa Lê Văn của đài BBC: “ Tôi muốn hậu thế nhắc đến tôi như một người Việt Nam”. Khiêm nhượng thay câu trả lời! Nhưng cũng trong cuốn video ấy ông nói: “ Tôi sẽ làm trường ca Hàn Mặc Tử bởi vì tôi đã có 10 bài Đạo Ca cho Phật giáo thì tôi cũng phải có một bài cho Công giáo mới công bằng”. Thế ra ông là người ban phát ân huệ cho 2 tôn giáo này! Nét háo danh đã lộ liễu trong lời nói vụng về ấy.
3/ Ông không phải là một chiến sĩ chống Cộng mà chỉ là một nhạc sĩ muốn được sinh hoạt văn nghệ mà không bị chỉ đạo bởi chính quyền. Ông bỏ Kháng Chiến về Thành không phải vì muốn xả thân cho lý tưởng chống Cộng mà vì muốn gia đình
3
được sống thoải mái trong chính thể Dân Chủ và bản thân được tự do sắng tác theo tiếng nói của con tim.
Ông đã hưởng trọn vẹn ân huệ của những người đã hy sinh để bảo vệ chế độ dân chủ tự do cho gia đình ông sống yên vui. Bù lại, ông đã đền đáp công ơn của họ bằng vài trăm bài ca bất hủ xưng tụng những thứ cao đẹp mà họ trân qúy. Tuy ông không hy sinh xương máu cho chính nghĩa tự do nhưng ông đã góp phần không ít vào việc tô điểm nó. Tuy ông có nhiều điểm đáng khen nhưng không nên tặng ông cái vinh dự mà ông không xứng (chiến sĩ chống Cộng).
4/ Ông không phải là một nhân vật thâm thúy. Suốt đời, ông chưa nói được một câu nào xứng đáng cho danh hiệu ấy. Một bài nhạc của ông có câu: “Đừng cho không gian đụng thời gian”. Ông mượn ý đó trong thuyết Tương Đối của Albert Einstein (Einstein cho rằng chỉ có không gian, không có thời gian vì thời gian chỉ là phương tiện để đo lường không gian; thí dụ: hai thiên hà cách xa nhau một tỷ năm ánh sáng). Có người đã xin ông giải thích câu đó nhưng ông chỉ trả lời loanh quanh, vô nghĩa, chứng tỏ ông đã không hiểu ông muốn nói gì.
Thật là khôi hài khi một anh chàng văn sĩ VC nói câu này trong đám tang của ông: “ Nhạc PD còn thì tiếng ta còn, tiếng ta còn thì nước ta còn ”. Hắn nhái câu thậm xưng của Phạm Quỳnh trong thập niên 1930: “ Chuyện Kiều còn thì tiếng ta còn, tiếng ta còn thì nước ta còn”.
(Cũng nên mở một dấu ngoặc ở đây để nói rằng đừng vì một câu của một lãnh tụ CS ca ngợi ông mà chụp cái mũ “thân Cộng” cho ông).
C/ KIỂM ĐIỂM NHỮNG LỜI CHÊ
Những lời chê ông nở rộ trong 2 thời kỳ:
1/ Thời kỳ thứ nhất từ năm 1950 tới 2005:
Khi ông bỏ Kháng Chiến về Thành, VC đã chê ông là phản động.
Ông đã không phản động mà chỉ phản Cộng.
Phản Cộng vì Cộng không thể cung cấp những nhu cầu căn bản (cơm ăn, áo mặc) cho gia đình ông và không cho phép ông phục vụ văn nghệ theo sở trường mà còn buộc ông phải khai tử một bài hát vô tội (innocent): bài Bên Cầu Biên Giới. Giản dị thế thôi.
4
2/ Thời kỳ thứ hai từ 2005 cho tới nay:
Khi ông quyết định trở về VN để sống nốt tuổi gìa, một số nạn nhân bị CS đày đọa đã chê ông là phản bội những anh hùng chống Cộng.
Công bằng mà xét thì ông không phản bội ai cả. Lý do ông trở về quê bây giờ cũng giản dị như lý do ông về Thành thuở xưa.
Ở Hoa Kỳ, các con của ông không có nghề ngỗng gì ngoài nghề ca hát mà nghề này thì không cung ứng đủ những nhu cầu vật chất cho chúng. Cộng đồng người Mỹ gốc Việt không bao bọc nổi vài trăm ca nhạc sĩ Việt. Những người lớn tuổi, đã về hưu, gắng gượng mới có tiền dự những buổi đại nhạc hội được tổ chức xuân thu nhị kỳ vì. Giới trẻ trung thì thích nhạc Mỹ vì nó phong phú hơn, sống động hơn, giật gân hơn, hợp nhĩ hơn. Bản quyền sáng tác nhạc không được tôn trọng. Đĩa nhạc được sao chép và bán rẻ rúng công khai trong mọi tiệm nhạc. Sống nhờ trợ cấp xã hội thì không cam lòng. Chìa tay nhận 2000$ để phổ nhạc vài bài thơ “con cóc” của “vô thượng thiền sư” Thanh Hải thì tủi thân cho một nhạc sĩ tài danh như ông.
Giữa lúc nghèo túng thì cơ hội chợt tới: một khế ước trị gía 400 ngàn đô-la trong 4 năm để sưu tầm, hòa âm, trình diễn tất cả những bài ca do ông sáng tác tại VN từ 1945 tới 1975. Khế ước đó không buộc ông phải hòa âm những bản nhạc của VC hoặc sáng tác những bài ca mới cho VC. Thính gỉa của ông sẽ chỉ là những người thích nghe nhạc Phạm Duy bất kể chính kiến. Có thể ông đã biết một cái bẫy vô hình ẩn sau khế ước đó: sách lược“Hòa Giải Dân Tộc” của VC đang ở cao điểm trong thời gian này. Một người có “khí tiết” ắt không chấp thuận. Nhưng Phạm Duy không phải hạng người có khí tiết. Ông không thích sống “gương mẫu” mà thích sống thoải mái, buông thả, sung túc như thường tình.
Thế là ông đưa gia đình về quê hương sống ung dung trong 8 năm cho tới khi ông từ trần. Ông rất thích câu của ai đó nói rằng: “ Về đi thôi! Kiếp sau biết có hay không?”. Tính tình của ông khác đời ở chỗ: rất thích thú khi được khen và rất ít phiền hà khi bị chửi.
Trong 8 năm ấy ông đã gặp đủ hạng người, trong mọi lứa tuổi: ca nhạc sĩ đã quen hoặc chưa quen, thính gỉa yêu nhạc của ông dù đã biết hoặc chưa hề biết tên ông, lãnh tụ CS kể cả những người đã từng cấm hát nhạc của ông như Võ Văn Kiệt, Tố Hữu và Trần Bạch Đằng, người đã tuyên bố một câu vô liêm sỉ năm 1989: “ PD
5
hãy tự sát đi, chúng tôi sẽ cho phổ biến nhạc của ông ta”. Dĩ nhiên ông không thể từ chối gặp mặt những lãnh tụ CS đã mở đường cho ông trở về. Cũng không đáng phàn nàn nếu ông muốn gặp một vài lãnh tụ CS đã chơi thân với ông trong thời kháng chiến chống Pháp. Ông rất dễ tính và vô tư trong việc gặp bạn cũ, chuyện làm qùa chỉ là chuyện tếu hoặc kỷ niệm xưa, không bàn về chính trị. Chả có gì đáng trách cho những cuộc gặp gỡ lấy lệ hoặc xã giao như vậy.
Có một điểm son đáng ghi nhận: ông không hề bợ đỡ một lãnh tụ CS nào và cũng không hề nói súc phạm tới bất cứ ai của chính thể VNCH trong suốt thời gian 8 năm ấy (cựu phó tổng thống Nguyễn Cao Kỳ đã phạm lỗi này).
Tôi muốn tóm tắt thái độ của Phạm Duy trong một câu sơ sài: Khi sáng tác thì tận tình, khi vui chơi thì tận hưởng, khi nói năng thì thì tận tục. Duyên Anh đã thuật lại rằng PD, trong lúc đùa rỡn với bạn bè, đã nói trong hơi men: “ Ai ngu mới thích nghe nhạc của tôi. Chúng đã được làm trong cầu tiêu”. Có lẽ ông đã làm những bài Tục Ca trong cầu tiêu.
D/ KẾT LUẬN:
Nhạc sĩ tài danh Phạm Duy là một người đáng thương hại nhiều hơn là đáng trách cứ. Cuộc đời của ông trôi nổi qua nhiều vinh nhục, thăng trầm. Ông thích sống buông thả và chỉ có một tham vọng tích cực (productive): sáng tác những bản nhạc có gía trị.
Lối phát ngôn của ông thuộc loại Tú Xương (“Một thày, một cô một chó cái” hoặc “Cao lâu thường ăn quịt, gái đĩ lại chơi lường”). Từ 50 năm nay, chả có ai coi ông như một “qúy nhân”. Họ mến ông vì ông đã cống hiến cho họ nhiều bài ca bất hủ, và đi chung với họ trên một đoạn đường dài nhất của cuôc đời để cùng nhau “khóc cười theo mệnh nước nổi trôi”.
Ông chưa bao giờ là công cụ của CS. Trong 5 năm theo Kháng Chiến chống Pháp, ông chưa hề làm một khúc ca xưng tụng một lãnh tụ CS nào mà chỉ xưng tụng những anh hùng, liệt sĩ chống ngoại xâm. Tới khi cáo hồ ló đuôi thì ông bỏ chúng về Thành.
Ông cũng chưa bao giờ là công cụ của chính quyền độc tài. Trong 25 năm sống trong chính thể Quốc gia, ông chưa hề làm một ca khúc suy tôn lãnh tụ nào. Những
6
bài hát “xây dựng nông thôn” là những bài làm ra bởi một tác gỉa công chức hơn là bởi một nhạc sĩ chuyên nghiệp; chúng đã không thọ lâu.
Khoảng 100 bài ca bất hủ của ông đã đi sâu vào mọi làng xóm của thôn quê, mọi ngõ ngách của thành thị rồi “di tản” ra ngoại quốc để ve vuốt nỗi cô đơn của vài triệu người sống lưu vong.
Cuộc “trở về quê” của ông chỉ tổn thương cho thanh danh của cá nhân ông, không có ảnh hưởng đáng kể tới tinh thần chống cộng của quần chúng. Chả có ai “hòa giải dân tộc” với VC chỉ vì Phạm Duy đã hồi hương. Sự hòa giải ấy sẽ không bao giờ xảy ra. Nói cách khác, chỉ có hòa giải khi nào chính thể CS bị giải thể hoàn toàn. Còn nữa, chỉ có lực lượng của quần chúng ở trong nước mới có khả năng giải thể chúng. Vậy thì chả nên qúa quan tâm tới cái sách lược “Hòa Giải Dân Tộc” của chúng. Nó đã chết ngay sau khi vừa sinh ra. Chả nên chia sớt bớt nỗi căm thù VC rồi xối vào những ca nhạc sĩ như Phạm Duy, Từ Công Phụng, Khánh ly, Lệ Thu, Chế Linh v.v... Có một cái gì “bất đắc dĩ” trong viêc trở về của họ (như đã nói ở trên). Vả lại, họ không đem đô-la về nước để góp thêm ngoại tệ cho VC (như một số thương gia và những kẻ ham du hí) mà còn tiêu bớt ngoại tệ của chúng (lãnh thù lao bằng đô-la). Hãy thông cảm cho họ (thông cảm không có nghĩa là cổ võ cho người khác trở về) miễn là họ chỉ thân thiện với dân, chỉ hát cho dân nghe những bài ca mà chúng ta chấp nhận và không nói lảm nhảm, súc phạm tới tinh thần chống Cộng.
Riêng đối với Phạm Duy, hãy để cho ông yên nghỉ, gọi là đáp lễ những bài ca bất hủ mà ông đã cống hiến trong suốt cuộc đời ông. Nghĩa tử là nghĩa tận. Có cả ngàn người (phần lớn là thường dân) đã tiễn đưa ông tới nơi an nghỉ cuối cùng. Vài nhóm trong số người này vừa khóc vừa đồng ca trước mồ ông một số bài chọn lọc, trong đó có bài Tình Ca và một bài chưa được chính quyền VC cho phép (Những Gì Sẽ Đem Theo Vè Cõi Chết). Từ vạn dặm, chúng ta hãy gửi tới ông một chút thương cảm, một chút ngậm ngùi, một chút vị tha. Người yêu chuộng tự do lúc nào cũng tôn trọng tự do ngôn luận (trong đó có tự do chọn lựa lối sống) hơn bất cứ điều gì trên đời.
Bác sĩ Nguyễn Văn Bảo
NS Phạm Duy Qua Đời
Nhạc sĩ Phạm Duy qua đời
Bà Mẹ Quê / Thái Hằng
Con Đường Cái Quan / Paris By Night / Phạm Duy
(Dân trí) - Cây đại thụ của làng nhạc đã qua đời lúc 14h30 trưa nay 27/1 tại bệnh viện 115, hưởng thọ 93 tuổi. Ông ra đi để lại cho đời rất nhiều tác phẩm âm nhạc có giá trị, trong đó còn khá nhiều tác phẩm chưa được công bố.
Nhạc sĩ Phạm Duy tên thật là Phạm Duy Cẩn, ông sinh ngày 5/10/1921 tại phố Hàng Cót, Hà Nội. Phạm Duy được biết đến với vai trò ca sĩ và nhà nghiên cứu âm nhạc nhưng nổi bật nhất là nhạc sĩ với lượng sáng tác đồ sộ về số lượng và nhiều tác phẩm rất nổi tiếng.
Nhạc sĩ Phạm Duy có tiểu sử bệnh tim và đã từng hai lần trải qua phẫu thuật. Tuy nhiên, lần gần nhất ông xuất hiện trước công chúng, nhạc sĩ vẫn tỏ ra khá khoẻ mạnh và minh mẫn. Bởi vậy tin tức bất ngờ về việc ông qua đời đã gây rúng động trong giới nghệ sĩ cũng như những người yêu mến ông.
Một nhạc sĩ thân cận của Phạm Duy cho biết, sự ra đi của cậu con trai là ca sĩ Duy Quang cách đây chưa lâu (tháng 12/2012) đã ảnh hưởng rất nhiều đến tinh thần và tâm lý của ông. Đó cũng được cho là một trong những nguyên nhân khiến sức khoẻ của ông giảm sút nặng nề.
Hiện chưa có thông tin về lễ tang của nhạc sĩ Phạm Duy.
Phan Anh
Nhạc sĩ Phạm Duy tên thật là Phạm Duy Cẩn, sinh ngày 5.10.1921, tại phố Hàng Cót, Hà Nội.
Ông được xem là một trong những nhạc sĩ lớn của nền tân nhạc VN với số lượng nhạc phẩm đồ sộ cũng như đa dạng thể loại (nhạc cách mạng, nhạc quê hương, nhạc tình đôi lứa, trường ca, rong ca, đạo ca, thiền ca, tâm ca...). Cùng với sáng tác, ông còn có nhiều công trình khảo cứu về âm nhạc VN có giá trị.
Sau năm 1975, Phạm Duy sang sinh sống tại Hoa Kỳ. Đến tháng 5.2005 ông chính thức trở về Việt Nam định cư. Nhiều ca khúc của ông cũng dần được cấp phép phổ biến trở lại như Mùa thu chết, Giọt mưa trên lá, Tạ ơn đời, Tiễn em, Đi đâu cho thiếp theo cùng (đến nay khoảng 60 bài)…
Mới đây nhất là 8 ca khúc trong 10 bài của tập Đạo ca vừa được cấp phép biểu diễn. Song, tâm nguyện cuối đời của ông, từng được ông chia sẻ trên giường bệnh, là "phát hành cuốn phim tài liệu Phạm Duy - nhạc và đời" đến nay vẫn chưa thành...
Cha của nhạc sĩ Phạm Duy là nhà văn Phạm Duy Tốn. Vợ của ông là ca sĩ Thái Hằng nhưng bà đã qua đời vào năm 1999. Các con của ông cũng là những ca sĩ, nhạc sĩ nổi tiếng như con trưởng là ca sĩ Duy Quang (vừa qua đời vào tháng 12.2012), ca sĩ Thái Hiền, Thái Thảo, nhạc sĩ hòa âm Duy Cường...
Đến cuối đời vẫn miệt mài sáng tác
Cách đây không lâu, khi tìm gặp nhạc sĩ Phạm Duy vào đúng dịp sinh nhật của ông (ngày 5.10.2012), vị nhạc sĩ lão làng này khiến chúng tôi khá bất ngờ vì sức khỏe dẻo dai và sự minh mẫn của ông.
Nhạc sĩ cho biết 30 năm ở ngoại quốc tưởng chừng đã khiến ông cạn kiệt nguồn cảm hứng. Thế nhưng từ khi trở về Việt Nam, ông “như sống lại” với những ý tưởng và cảm hứng dào dạt để cho “ra lò” gần 40 tác phẩm mới.
Ông khoe đã hoàn thành 10 bài Hương ca, 10 bài phổ nhạc từ thơ Bích Khê mang tên Dị khúc đồng thời hoàn tất Truyện Kiều với 37 khúc, dài gần 3 tiếng đồng hồ. Những tác phẩm này đều đang trong quá trình xin cấp phép để phát hành rộng rãi.
Ngoài ra, khi đó nhạc sĩ Phạm Duy cũng cho biết đang thực hiện một quyển sách tập hợp các kinh nghiệm mà ông học hỏi được trong suốt 30 năm ở xứ người, cũng như toàn bộ những tinh hoa ông chắt lọc được trong hành trình đến với âm nhạc.
Đồng thời, ông còn dự định phát hành quyển sách mang tên Vang vọng một thời viết về xuất xứ, hoàn cảnh ra đời của các ca khúc.
“Tôi mắc bệnh… nghiện làm việc dù sức khỏe đã không còn được như xưa. Lúc trước tôi ngồi 5 tiếng trước máy vi tính, giờ thì chỉ 2 tiếng thì phải nghỉ tí rồi mới làm tiếp được”, nhạc sĩ Phạm Duy tâm sự khi gặp chúng tôi vào dịp sinh nhật của ông năm vừa rồi.
Vào khoảng tháng 11.2012, nhiều nguồn tin cho biết sức khỏe nhạc sĩ Phạm Duy đã suy giảm rất nhiều. Khi đó, Thanh Niên Online đã lập tức liên lạc với ông. Qua điện thoại, người nhạc sĩ già vẫn tỉnh táo và trả lời rành rọt rằng: “Tôi bị bệnh tim tái phát, nằm viện được gần một tuần thì xin bác sĩ về nhà vì nằm viện tốn kém quá…”.
Khi ấy chỉ vừa xuất viện được ít ngày, vẫn phải nhờ đến xe lăn để di chuyển nhưng nhạc sĩ Phạm Duy đã liền bắt tay vào công việc soạn nhạc. Trong mail gửi cho bạn bè thân hữu, ông viết: “Moa đã ra viện. Lại làm việc như thường”.
Từng “hỏi gở” nhạc sĩ Phạm Duy về sự ra đi, khi ấy ông cười bảo: “Tôi không bao giờ nghĩ đến chuyện tôi sẽ chết vì tôi sẽ không bao giờ chết được cả. Tôi có chết đi chăng nữa thì nhạc của tôi vẫn sẽ hiện hồn trên môi những người ca hát. Vậy thì làm sao tôi chết được? Còn cái chết xác thịt thì ai cũng phải chết thôi. Tôi sống đến giờ cũng hơi lâu rồi...”.
Nhạc sĩ Phạm Duy qua đời
27/01/2013 15:40(TNO) Sau thời gian điều trị các bệnh về tim, gan, gút, nhạc sĩ Phạm Duy đã trút hơi thở cuối cùng vào chiều nay 27.1 tại phòng cấp cứu Bệnh viện 115, TP.HCM, thọ 92 tuổi. Gia đình của nhạc sĩ Phạm Duy đã xác nhận với Thanh Niên Online thông tin trên.
Nhạc sĩ Phạm Duy - Ảnh: Thiên Hương |
Ông được xem là một trong những nhạc sĩ lớn của nền tân nhạc VN với số lượng nhạc phẩm đồ sộ cũng như đa dạng thể loại (nhạc cách mạng, nhạc quê hương, nhạc tình đôi lứa, trường ca, rong ca, đạo ca, thiền ca, tâm ca...). Cùng với sáng tác, ông còn có nhiều công trình khảo cứu về âm nhạc VN có giá trị.
Sau năm 1975, Phạm Duy sang sinh sống tại Hoa Kỳ. Đến tháng 5.2005 ông chính thức trở về Việt Nam định cư. Nhiều ca khúc của ông cũng dần được cấp phép phổ biến trở lại như Mùa thu chết, Giọt mưa trên lá, Tạ ơn đời, Tiễn em, Đi đâu cho thiếp theo cùng (đến nay khoảng 60 bài)…
Mới đây nhất là 8 ca khúc trong 10 bài của tập Đạo ca vừa được cấp phép biểu diễn. Song, tâm nguyện cuối đời của ông, từng được ông chia sẻ trên giường bệnh, là "phát hành cuốn phim tài liệu Phạm Duy - nhạc và đời" đến nay vẫn chưa thành...
Cha của nhạc sĩ Phạm Duy là nhà văn Phạm Duy Tốn. Vợ của ông là ca sĩ Thái Hằng nhưng bà đã qua đời vào năm 1999. Các con của ông cũng là những ca sĩ, nhạc sĩ nổi tiếng như con trưởng là ca sĩ Duy Quang (vừa qua đời vào tháng 12.2012), ca sĩ Thái Hiền, Thái Thảo, nhạc sĩ hòa âm Duy Cường...
Nhạc sĩ Phạm Duy giao lưu trong chương trình Tạ ơn đời mừng sinh nhật ông vào ngày 5.10.2012 - Ảnh: Thiên Hương |
Cách đây không lâu, khi tìm gặp nhạc sĩ Phạm Duy vào đúng dịp sinh nhật của ông (ngày 5.10.2012), vị nhạc sĩ lão làng này khiến chúng tôi khá bất ngờ vì sức khỏe dẻo dai và sự minh mẫn của ông.
Nhạc sĩ cho biết 30 năm ở ngoại quốc tưởng chừng đã khiến ông cạn kiệt nguồn cảm hứng. Thế nhưng từ khi trở về Việt Nam, ông “như sống lại” với những ý tưởng và cảm hứng dào dạt để cho “ra lò” gần 40 tác phẩm mới.
|
Ngoài ra, khi đó nhạc sĩ Phạm Duy cũng cho biết đang thực hiện một quyển sách tập hợp các kinh nghiệm mà ông học hỏi được trong suốt 30 năm ở xứ người, cũng như toàn bộ những tinh hoa ông chắt lọc được trong hành trình đến với âm nhạc.
Đồng thời, ông còn dự định phát hành quyển sách mang tên Vang vọng một thời viết về xuất xứ, hoàn cảnh ra đời của các ca khúc.
“Tôi mắc bệnh… nghiện làm việc dù sức khỏe đã không còn được như xưa. Lúc trước tôi ngồi 5 tiếng trước máy vi tính, giờ thì chỉ 2 tiếng thì phải nghỉ tí rồi mới làm tiếp được”, nhạc sĩ Phạm Duy tâm sự khi gặp chúng tôi vào dịp sinh nhật của ông năm vừa rồi.
Vào khoảng tháng 11.2012, nhiều nguồn tin cho biết sức khỏe nhạc sĩ Phạm Duy đã suy giảm rất nhiều. Khi đó, Thanh Niên Online đã lập tức liên lạc với ông. Qua điện thoại, người nhạc sĩ già vẫn tỉnh táo và trả lời rành rọt rằng: “Tôi bị bệnh tim tái phát, nằm viện được gần một tuần thì xin bác sĩ về nhà vì nằm viện tốn kém quá…”.
Khi ấy chỉ vừa xuất viện được ít ngày, vẫn phải nhờ đến xe lăn để di chuyển nhưng nhạc sĩ Phạm Duy đã liền bắt tay vào công việc soạn nhạc. Trong mail gửi cho bạn bè thân hữu, ông viết: “Moa đã ra viện. Lại làm việc như thường”.
Từng “hỏi gở” nhạc sĩ Phạm Duy về sự ra đi, khi ấy ông cười bảo: “Tôi không bao giờ nghĩ đến chuyện tôi sẽ chết vì tôi sẽ không bao giờ chết được cả. Tôi có chết đi chăng nữa thì nhạc của tôi vẫn sẽ hiện hồn trên môi những người ca hát. Vậy thì làm sao tôi chết được? Còn cái chết xác thịt thì ai cũng phải chết thôi. Tôi sống đến giờ cũng hơi lâu rồi...”.
"Ba đi đây, để gặp thằng Duy Quang..." Tiếp xúc với phóng viên Thanh Niên Online tại nhà riêng của nhạc sĩ Phạm Duy (ở Q.11, TP.HCM), nhạc sĩ Duy Cường, con trai nhạc sĩ Phạm Duy không nén được sự xúc động, anh chia sẻ về những trăng trối cuối cùng của nhạc sĩ Phạm Duy trước khi qua đời. Nhac sĩ Duy Cường cho biết từ mấy tháng nay sức khỏe của nhạc sĩ Phạm Duy đã yếu dần, anh thường xuyên đưa ba mình vào bệnh viện nhưng không ngờ lần này bệnh lại trở nặng.
Ca sĩ Ánh Tuyết cho biết khi đến thăm nhạc sĩ Phạm Duy gần đây, cô cũng nhận ra sự rắn rỏi của người nghệ sĩ ngoài 90 tuổi này, khi ông cố nén đau thương để nghĩ về những dự án âm nhạc của mình.
Nhạc sĩ Duy Cường cho biết vì nhạc sĩ Phạm Duy tuổi tác đã cao nên gia đình cũng đã sớm chuẩn bị tinh thần. Gần đây anh đã chuẩn bị được một nơi thích hợp cho ba mình an nghỉ nếu chẳng may có chuyện. "Nơi đó là nghĩa trang Công viên Bình Dương. Đó là một nơi thanh bình, đẹp, rộng rãi và quan trọng là ba được gần mẹ", nhạc sĩ Duy Cường chia sẻ. Dù đã chuẩn bị trước nhưng gia đình nhạc sĩ Phạm Duy cũng không tránh được cú sốc khi ca sĩ Duy Quang, con trai trưởng của nhạc sĩ Phạm Duy chỉ mới mất chưa được 49 ngày. "Câu nói cuối cùng mà ba tôi nói trước khi qua đời là "Ba đi đây, để gặp thằng Duy Quang...", anh Duy Cường chia sẻ. Sau khi qua đời tại Bệnh viện 115 (TP.HCM), nhạc sĩ Phạm Duy đã được gia đình đưa về nhà.
Thiên Hương - Hoàng Quyên
|
Ca sĩ Đức Tuấn khóc rất nhiều khi nghe tin nhạc sĩ Phạm Duy qua đời Nghe tin nhạc sĩ Phạm Duy qua đời, Đức Tuấn, ca sĩ trẻ từng được nhạc sĩ Phạm Duy dành những lời khen tặng khi anh thể hiện thành công các bài hát của ông, từ Pháp chia sẻ với PV Thanh Niên Online qua điện thoại: “Tôi xem nhạc sĩ Phạm Duy như người thân trong gia đình. Khi nhạc sĩ đi cấp cứu, gia đình nhạc sĩ có nhắn tin cho tôi nhưng không ngờ ông lại ra đi sớm như vậy. Hiện tôi đang ở Pháp. Tôi sẽ cố gắng sắp xếp thời gian để về đưa tiễn nhạc sĩ Phạm Duy”. “Trước khi nhạc sĩ Phạm Duy mất, tôi đang ấp ủ một dự án tâm huyết về nhạc sĩ nhưng nay...”, ca sĩ Đức Tuấn nghẹn ngào. Ca sĩ Cẩm Vân: "Nhạc sĩ Phạm Duy là người tài ba, lỗi lạc" "Tôi chỉ mới hát nhạc Phạm Duy nhân dịp mừng thọ ông vào năm ngoái. Nhạc sĩ Phạm Duy là một người tài ba, lỗi lạc của nền âm nhạc Việt Nam. Sự ra đi của ông thực sự là niềm tiếc thương của ca sĩ chúng tôi và người hâm mộ. Tuy không có nhiều kỷ niệm với ông nhưng tôi có thể cảm nhận được niềm hăng say lao động hết mình cho âm nhạc của nhạc sĩ Phạm Duy", ca sĩ Cẩm Vân chia sẻ. Ca sĩ Cẩm Vân - Ảnh: B.N “Trước đó, tôi cũng nghe tin sức khỏe nhạc sĩ không tốt nhưng trong lần mừng thọ 92 tuổi của nhạc sĩ Phạm Duy, tôi thấy ông vẫn còn nhanh nhẹn nên không nghĩ ông đi sớm như vậy. Không chỉ tôi mà những nghệ sĩ khác đều cảm nhận nhạc sĩ Phạm Duy là một con người rất nghệ sĩ, lãng tử, một nhạc sĩ tài hoa của dân tộc. Ông luôn tạo điều kiện cho thế hệ trẻ, những người hát nhạc của ông, không nhất thiết phải theo khuôn khổ nhất định mà luôn khuyến khích họ sáng tạo”, ca sĩ Thanh Thúy tâm sự. Ca sĩ Ánh Tuyết: "Nghe tin ông qua đời, người tôi như tan chảy..." Từ khi học lớp 2, lớp 3 tôi đã rất mê và hay hát bài Tình ca Quê Hương nhạc của Phạm Duy. Qua bài hát này, tôi hiểu được quê hương là gì. Đó là những hình ảnh rất dân dã, là con trâu, ruộng lúa, con đê; là những người nông dân đi cày, “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” trên đồng ruộng. Rồi khi hát Tình ca, Mơ rừng bên sông... có cái gì đó hun đúc trong suy nghĩ của tôi về nhạc sĩ này dù chưa một lần gặp mặt. Đến năm 2000, lần đầu tiên tôi gặp ông khi nghe tin ông về Việt Nam và có làm một buổi tiệc đón tiếp ông, trong đó có mời những bạn bè, thân hữu và những người bạn nhạc sĩ lớn tuổi của nhạc sĩ Phạm Duy. Tôi đang cố gắng làm một thứ gì đó cho người nhạc sĩ mà mình yêu mến vì âm nhạc của ông quá lớn, đồ sộ. Tôi đang thực hiện dự án âm nhạc gồm 3 album của nhạc sĩ Phạm Duy là: Quê Hương, Tình Ca, Thân phận... Tôi chỉ mới hát nháp được 5 bài trong album Thân phận và ông tỏ ra khá hài lòng dù chưa được hòa âm, phối khí.
Bản thân tôi không đủ sức nhận xét về con người của nhạc sĩ Phạm Duy, nhưng trong âm nhạc, tôi có thể cảm nhận ông là một con người mạnh mẽ, hiên ngang dù ông có những nỗi đau giấu kín. Ông đã để lại một gia tài âm nhạc đồ sộ.
Thiên Hương ghi
|
Trước khi qua đời, nhạc sĩ Phạm Duy đã dành cho Thanh Niên những giây phút trải lòng trong loạt bài 7 kỳ "Phạm Duy và bạn thơ". Mời độc giả xem thêm:
|
NHỮNG KẺ TRẮNG TAY
Nếu
công nhận dịch loạn là kết quả của kém năng lực, lười suy nghĩ, tự lừa
dối bản thân, coi thường người đọc, trí trá tự biện, xu phụ, tâng bốc,
hống hách thì hãy nên trách nền giáo dục đã cho ra những con người ấy.
Những bản dịch ấy tồi trước hết vì người dịch không giỏi tiếng mẹ đẻ nên buộc phải làm nô lệ cho ngoại ngữ của bản gốc. Nếu đồng ý với học giả Phạm Quỳnh rằng “tiếng ta còn, nước ta còn”, thì có phải nước ta nay đã mất rồi
không? Vẫn còn đấy những con người tóc đen, da vàng, mũi tẹt nhưng hồn
vía đã vong căn thất cước từ lâu, không thể nào cảm thụ được cái hay,
cái đẹp của tiếng Việt nữa dù họ có thể đọc được vài ngoại ngữ.
Lùi
lại một chút để nhìn: Trong vụ án Nhân văn-Giai phẩm, dường như chỉ có
Hữu Loan và Thụy An là những người sống khí phách, bất khuất và im lặng
đến cùng,[1]
những người còn lại hầu hết vẫn cố sống với tinh thần “bị đánh đến chết
vẫn cúi lạy cây roi”: vẫn vui vì “được cho” sinh hoạt trở lại ở hội nhà
văn”, “được cho” chế độ lương bổng”; Hoàng Cầm còn viết “Về làng Sen”,
vân vân.
Là một nạn nhân của “vụ Xét lại chống đảng”, nhà văn Bùi Ngọc Tấn đến nay vẫn còn buồn vì “lương
hưu của ông chỉ được tính năm từ 5/1975, không tính 14 năm công tác
trước khi hoạn nạn, thời điểm về hưu là 160.000 đồng, nay là 1,4 triệu
đồng”. [2]
Có cha bị Việt Minh thủ tiêu mà nhạc sĩ Phạm Tuyên vẫn có thể viết “Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng”, rồi tâm sự “tới nay gia đình ông vẫn luôn mong muốn có
một tuyên bố sửa sai chính thức về cái chết của thân phụ ông, học giả
Phạm Quỳnh (1892-1945), người đã bị cách mạng hành quyết chỉ vài ngày
sau khi Tuyên ngôn Độc lập được đọc ở Hà Nội hôm 2/9/1945”, và ngay lập tức biết thân biết phận nhún nhường: "Đó là mong muốn thôi, còn bây giờ các vị đang lo chuyện kinh tế với các thứ nhiều quá, không biết là đến bao giờ”. [3]
Nhạc
sĩ Phạm Duy viết hồi ký xong là chạy về Việt Nam xin ở hẳn, cặp kè bên
các quan văn nghệ trong các buổi diễn và toe toét khoe cái dấu ấn “cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”:
Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn cho đến lúc lìa đời vẫn vác đơn xin được cho phổ biến loạt Ca khúc Da Vàng,
sau khi đã cố nặn ra những “em ở nông trường em ra biên giới”, “dòng
điện như dòng sông cho đời một tấm lòng”, “Sài gòn hai mươi mùa nắng
lạ”, mà vẫn bị từ chối lạnh lùng.
Dương cầm thủ Đặng Thái Sơn với giải thưởng Chopin nhiều điều không minh bạch[4] chắc đã quên những gì xảy đến với cha mình - nhà thơ Đặng Đình Hưng - trong vụ án Nhân văn-Giai phẩm, nên vẫn đều đều về Việt Nam biểu diễn và còn sẵn sàng xuất hiện trong những sự kiện vui nhộn.[5]
Giáo sư Ngô Bảo Châu vừa có chút
tiếng tăm đã ngửa tay nhận ngay hai cái nhà, một cái để cha mẹ ở, một
cái để làm viện toán cao cấp (?) dù đã bị “vỗ mặt” bằng bài báo kết tội
ngộ nhận trên tờ Công an Nhân dân.[6]
Nhìn
các ca sĩ Việt kiều đang tấp nập xin phép về Việt Nam biểu diễn, chỉ
được hát những bài nhà cầm quyền cho phép và đóng thuế cho nhà nước Việt
Nam, tôi thấy dường như chỉ mới hôm qua họ còn lên báo đài nước ngoài
kể chuyện vượt biên chín phần chết chưa có một phần sống, rằng những
người thân của họ còn kẹt lại trong nước cũng bị liên lụy khổ sở như thế
nào; dường như chỉ mới hôm qua họ còn nức nở “Anh không chết đâu anh!”
thì hôm nay họ đã có thể quên phứt thảm cảnh của hàng ngàn người lính
Việt nam Cộng hòa vẫn còn đang phải rên xiết đâu đó chốn rừng sâu nước
độc hay nơi đầu đường xó chợ. Muốn trách họ nhưng nhìn lại những bậc cha
ông anh chú của họ trên kia, ta còn có thể nói gì đây?
Những
nạn nhân của Nhân văn-Giai phẩm và Xét lại chống đảng thì còn bảo họ
sống trong khủng bố, đọa đày, tẩy não đến mất hết khí phách, nhưng đến
những Phạm Duy và Trịnh Công Sơn sinh ra, lớn lên và thành danh trong
không khí tự do của miền Nam, riêng Phạm Duy còn sang Mỹ tị nạn gần 30
năm, sao vẫn sẵn sàng biến mình thành kẻ “hàng thần lơ láo”?
Phải
chăng văn nghệ sĩ-trí thức Việt Nam chỉ rất có tài trong lĩnh vực
chuyên môn mà thôi, còn nói đến khí phách anh hùng và nhận thức hành vi
trong cái nhìn chính trị thì họ chịu? Có dân tộc nào như dân tộc Việt
với những cô đào mang cờ quạt đi đón đoàn quân tiến về cướp nước mình
như Thẩm Thúy Hằng, soạn bàn thờ cúng lãnh tụ của đoàn quân ấy như Thanh
Nga,[7]
phỉ nhổ luôn cái xã hội đã nuôi dưỡng nên mình là “vực thẳm” và tung hô
cái thiên đường vẽ của kẻ cướp là “chiều cao” như kỳ nữ Kim Cương,
không ngần ngại quỳ gối “đài hoa dâng bác” như anh kép Út Trà Ôn? Vậy
thì trách
gì những kẻ cuồng tín sẵn sàng “đốt cháy cả dãy Trường Sơn” như Đặng
Thùy Trâm và Nguyễn Văn Thạc? Bùi Tín và Dương Thu Hương khi tỉnh bùa mê
rồi vẫn không dám tự nhận một viên đạn vào đầu, dù thảm cảnh của miền
Nam có bàn tay họ tiếp sức. Dân tộc nào trên thế giới cũng có những Trần
Ích Tắc, nhưng nếu ở mức độ phổ biến ngay trong giới văn nghệ sĩ-trí
thức như dân tộc Việt thì phải đặt câu hỏi rằng liệu dân tộc ấy có xứng đáng được hưởng hạnh phúc không?
Nhìn
cảnh nhạc sĩ Phạm Duy nhe răng cười khoe cuốn sổ hộ khẩu và cái giấy
chứng minh nhân dân, tôi tự hỏi: Phải chăng đây là Phạm Duy khác chứ
không phải ông Phạm Duy đã viết “Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra
đời”? Phải chăng ông Phạm Duy ấy đã chết? Ông Phạm Duy này ngược 180 độ
với ông kia nên có thể toe toét khoe cái dấu ấn khổ nhục của chín mươi
triệu người dân trong nước mà nếu thiếu nó lập tức người ta bị coi như
công dân hạng hai, còn ông thì được ban cho như ân sủng cùng tiếng gọi
trìu mến “Việt kiều yêu nước”? Tôi như đã hiểu được tâm trạng của người
miền Nam lúc nghe Trịnh Công Sơn hát “Nối vòng tay lớn” trưa ngày
30/04/1975, khi nhìn bức hình này của ông.
Phải chăng nước Việt không thể có
những văn nghệ sĩ tuyên bố không về nước biểu diễn chừng nào còn chế độ
độc tài vô nhân tính, không cho phổ biến tác phẩm trong các sự kiện
quốc doanh, đòi hỏi phải có cải chính và xin lỗi công khai chứ không chỉ
âm thầm cho in lại tác phẩm và cho
một phần quyền lợi (vốn bị cướp đi) là xong, như đồng nghiệp của họ vẫn
làm trên khắp thế giới? Đó là hành động tích cực nhất họ có thể làm để
chia sẻ với đồng bào của họ, dân tộc của họ và tỏ rõ chí khí của người
có lẽ phải, nhưng họ đã và đang không làm hay không muốn làm.
Vậy nên việc đòi hỏi những Nhạc
Bất Quần biết xấu hổ mà bỏ nghề, từ chức, dẹp tiệm hay ít nhất là tổ
chức họp báo cũng trang trọng như lúc giới thiệu hàng dỏm[8]
để công khai cúi đầu xin lỗi khách hàng là chuyện không tưởng, vì họ là
sản phẩm của xã hội cha Liên xô, mẹ Tàu, anh chị em Cuba và Bắc Hàn chứ
không phải của xã hội văn minh! Khi cần quảng cáo sản phẩm thì họ không
ngại khua chiêng gõ mõ ầm ĩ, nhưng khi bị la ó vì bán đồ dỏm thì họ rắp
tâm bịt miệng khách hàng kiểu “bách hóa mậu dịch”[9]
và phi tang bằng chứng. Bịt miệng không xong thì đành xin lỗi và đổi
hàng (hàng mới không phải do họ tự biết lỗi để sửa) cho yên chuyện, thế
là lịch sự hơn chán vạn mấy anh quốc doanh rồi còn đòi hỏi gì nữa! Họ sẽ
vẫn cứ dịch, cứ in, sai thì “tái bản có sửa chữa”, ai biết đấy là đâu,
làm gì được nhau, cần đọc bản tiếng Việt có mua không thì bảo?!
Những dịch loạn giả hôm nay chỉ là cái tất yếu phải đến trong một xã hội đầy rẫy những bác sĩ đồ tể, giáo viên râu xanh, tiến sĩ giấy, nhân viên hành là chính
mà thôi. Với những con người ấy, tinh thần khí phách ấy, năng lực hiểu
biết ấy, trình độ xã hội ấy, chẳng phải dịch hạch đã lan tràn khắp mọi
miền và ăn sâu vào từng tế bào rồi sao? Chẳng phải cả dân tộc Việt đều
là những kẻ trắng tay hay sao?
PHẠM DUY, LÀ AI?
Tâm Bút: Trần Thị Bông Giấy
I.
Mối giao thiệp giữa giáo sư Lê Hữu Mục và tôi tuy chỉ ngắn ngủi qua một
lần gặp nhau chớp nhoáng tháng 1/1996 tại Santa Ana và các cuộc trò
chuyện viễn liên California & Montréal, nhưng tình thân bác cháu,
hơn nữa, một bậc tiền bối và một hàng đàn em, có thể gọi là đáng nhớ.
Ông hay cho tôi những lời khuyên hữu ích về cuộc sống, về văn chương, và
ngay cả những lời chân tình về nỗi đau khổ riêng trong đời sống tôi.Ông
là một trong rất ít người thuộc văn giới hải ngoại đã tạo được nơi tôi
lòng kính trọng thật sự. Khi biết ra ông là bạn thân vị giáo sư violon
tôi theo học từ bé cho đến khi tốt nghiệp trường Quốc Gia Âm Nhạc
Sàigòn, thầy Tạ Văn Toàn, tình
cảm quý nói trên càng thêm mạnh mẽ. Một sáng tháng 1/1997, tôi gọi qua
Montréal thăm ông. Vẫn giọng nói vui vẻ của lần đầu gặp gỡ tại Santa Ana
, ông hỏi han rất ân cần về tình hình tờ Văn Uyển, và cả đời sống tôi.
Khi nhận biết từ tôi một vài dấu nét chán nản nào đó, ông an ủi: – “Dẫu
gì, Bông Giấy cũng đừng bao giờ nên để mất niềm tin về cuộc đời. Sức
mạnh chính là nằm ngay trong niềm tin ấy.
GS. Lê Hữu Mục
Đánh
mất niềm tin có nghĩa tự mình hủy diệt. Với Bông Giấy, bác luôn nghĩ
Bông Giấy là người có được cái sức mạnh vừa kể.” Đây là lời nói đầy chia
xẻ của một người cha. Tôi cảm ơn ông. Trong câu chuyện, ông cho biết là
vừa ở Cali về: – “Bác chờ dịp lên San Jose thăm Bông Giấy mà mãi chẳng
có. Phải ở lì Santa Ana . Rốt cuộc tới ngày về, cứ tiếc mãi.” Tôi nói
qua điện thoại:- “Lúc này cháu tu bác ạ. Đóng cửa đọc sách, không giao
tiếp thiên hạ. Nhân tình thế thái làm cháu chán ngán. Bác qua Santa Ana
thấy có gì
vui?”
Ông
đáp: – “Vui thì vui nhưng cũng lắm chuyện kỳ cục.” “ Cali là đất luôn
nảy ra những điều kỳ cục”, tôi đồng ý. “Nhưng theo bác, kỳ cục thế nào?”
Giọng ông sôi nổi: – “Kỳ cục nhất là các câu tuyên bố của ông Phạm
Duy.” Tôi cười:- “Tưởng ai, té ra ông Phạm Duy! Ông ấy vốn ăn nói bậy bạ
từ khuya, cả nước đều biết!” Ông Lê Hữu Mục la to: – “Lần này
khác.Trong một buổi gặp nhau tại nhà ông ấy có mặt bác, ông Cao Tiêu,
Đại tá Chiến Tranh Chính Trị và ông Tiến sĩ Nguyễn Khắc Hoạch, giáo sư
khoa trưởng Đại Học Văn Khoa Sàigòn thời cũ, Phạm Duy đã nói lên những
điều vô cùng kỳ cục. Ví dụ ông ấy bảo:
‘Chúng nó sao cứ thích nhạc của tôi mà không biết rằng các ca khúc
trước kia, tôi đều chỉ sáng tác trong chuồng xí! Bây giờ tôi làm nhạc
opéra, sang hơn nhiều. Opéra của tôi mà về Việt Nam thì tôi có tới 8 Ái
Vân hát chứ không phải một Ái Vân như ở hải ngoại. Chỉ Việt Nam mới có
nền nhạc chân chính, còn nhạc hải ngoại chỉ là nhạc tào lao’!”Tôi kêu
lên: – “Qua tư cách bác và cả ‘tư cách’ ông Phạm Duy, cháu tin lời bác
là thật. Ông ta là một khuôn mặt nổi của nền ca hát Việt Nam , cháu khó
thể nghĩ được lối nói ông ta lại hồ đồ như vậy.” Ông Lê Hữu Mục tiếp: –
“Một câu khác:
‘Người ta cứ bảo tôi chống Cộng nhưng thật thì tôi chống gậy!’” Nói
xong, ông Lê Hữu Mục cười to.
Tôi
nhớ nhanh ba chữ “tên dâm tặc” một lần Nguyễn Tất Nhiên đã dùng khi
nhắc đến Phạm Duy trước mặt tôi và Trần Nghi Hoàng. Tôi cũng nhớ đến câu
của Mai Thảo bình về Phạm Duy trước một số đông người tại nhà Như Hảo:
‘Phạm Duy già như thế còn làm được cái chuyện ấy thì nó không phải
người, mà chính là quỷ!’” [Đầu tháng 9/1995, trong một buổi tiệc tại nhà
tôi, có mặt Văn Thanh và vợ chồng Như Hảo, khi nói về cuốn Một Truyện
Dài Không Có Tên, Văn Thanh nhận định:
"Trong
đêm Hai Mươi Nam Văn Học Hải Ngoại do Du Tử Lê tổ chức tại Santa Ana ,
tôi gặp gần 150 văn nghệ sĩ nhưng nhận xét rằng chẳng ai có được cái
Dũng của Bông Giấy trong ngòi viết, kể cả tôi nữa. Này nhé, bây giờ nói
cụ thể về buổi họp mặt tại nhà chị Như Hảo, ông Mai Thảo nói cũng hay và
ông Phạm Duy nói cũng hay, bao nhiêu người đều nghe rõ.Vậy mà khi tôi
tươm lên báo những gì hai ông ấy nói thì ông Phạm Duy nhảy chồm chồm
lên, đe là sẽ cho cái tụi đàn em nó đánh tôi. Rồi ông ấy gọi cho chị Như
Hảo bảo không được đăng bài viết của tôi trên báo chị. Ông nói thẳng
rằng không muốn có tên Mai Thảo đứng chung với tên ông
ấy. Phạm Duy là một nghệ sĩ lớn mà tâm địa hẹp hòi quá! Tôi ca ngợi
Phạm Duy thì phải để cho cuộc đời ca ngợi Mai Thảo, sao lại đòi đập
tôi?"
Và
Văn Thanh kể:- "Hôm đó, tôi định tổ chức ra mắt cuốn Gái Hà Nội Khóc
Ai, có mời cánh Mai Thảo & Du Tử Lê và cánh Phạm Duy lên San Jose.
Thì cả hai cánh, trừ Du Tử Lê, đều có mặt, luôn cả Khánh Trường các thứ.
Cuộc tổ chức không thành, cả bọn kéo nhau đến nhà Như Hảo chơi. Tôi
ngồi giữa Mai Thảo và Phạm Duy, nhưng không rõ chút gì chuyện hai người
này rất ghét nhau. Mai Thảo biết tôi là dân miền Bắc nên hỏi thăm tôi về
các văn nghệ sĩ miền Bắc, lại bảo rằng rất thân với Hữu Loan.Phạm Duy
mới kêu tôi ra riêng mà nói: 'Cái thằng Mai Thảo thì biết chó gì. Chỉ có
tôi mới là thân với anh em ngoài ấy.' Xong, Phạm Duy tiếp: 'Này, tôi
bảo cho chú nghe, một người
nếu không có tài thì đừng nên làm nghệ sĩ để mà phải đi xin. Như tôi
đây, cả đời tôi sống bằng tiền tôi làm ra. Cho đến bây giờ tôi vẫn sống
bằng nhạc của tôi chứ không đi xin của ai để mà sống hết. Bây giờ về
Việt Nam bảo Văn Cao, Hoàng Cầm lên sân khấu hát xem có ai thèm đi nghe
không? Nhưng tôi về hát, vẫn có nhiều người đến dự.
Như
vậy chứng tỏ tôi được nhân dân yêu vì tôi có tài.' Khi ấy tôi đâu hiểu
câu nói của Phạm Duy là muốn ám chỉ Mai Thảo, lại cứ tưởng ông ấy mắng
mỏ mình. Ừ thì thôi mình là đàn em, các ông ấy đàn anh, có mắng cũng
được đi. Nào dè sau mới hiểu. Khi Như Hảo kể cho Mai Thảo nghe chuyện
đài Mẹ Việt Nam của chị phải bị dẹp tiệm vì sở hụi chi ra quá nặng, Mai
Thảo nói câu nghe rất cảm động: 'Ở đời này không có tiền thì không làm
gì được.' Lúc Mai Thảo đã ra về, anh em còn ngồi lại với nhau.Nguyễn Bá
Trạc mới bảo Phạm Duy: 'Nãy giờ anh tra tấn anh em nhiều rồi (ông ấy bắt
anh em xem cuốn hồi ký của ông
ấy đến hai tiếng đồng hồ) thì bây giờ anh em bề hội đồng lại anh. Tôi
đề nghị mỗi người có quyền hỏi anh vài câu, anh đồng ý chứ?' Phạm Duy
đồng ý. Nguyễn Bá Trạc xin hỏi trước hai câu.
Câu
1/: 'Anh luôn luôn hô hào dân chủ. Mấy chục năm nay anh bắt anh em yêu
anh nhiều quá, giờ vẫn muốn anh em yêu anh. Vậy thì anh là độc tài hay
dân chủ?' Phạm Duy trả lời câu rất hay: 'Bây giờ các anh bảo Đỗ Mười yêu
tôi xem nó có yêu không?' Câu hai của Trạc: 'Lúc nãy, trước khi Mai
Thảo ra về, tôi có nghe ông ấy nói: Phạm Duy già như thế còn làm được
cái chuyện ấy thì nó không phải người, mà chính là quỷ!
Anh
nghĩ sao về câu nói đó?' Phạm Duy đáp: 'Có những điều tôi làm được mà
Mai Thảo không làm được. Một trong những điều là chuyện cái ấy ấy.'
Khánh Trường đang ngồi cạnh Lê Thị Thấm Vân, la to: 'Anh Phạm Duy bảo
làm cái ấy ấy là cái gì vậy?' Phạm Duy đáp tỉnh bơ: 'Muốn biết thì về
hỏi bà xã tôi, bả trả lời cho mà nghe!' Sau đó, tôi viết bài ký sự về
buổi này. Như Hảo đọc, tâu bẩm sao với Phạm Duy, ổng bèn bắt tôi fax
xuống miền Nam Cali cho ông ấy đọc ngay.
Đọc
xong, ổng fax ngược lên cho tôi một bài dài 9 trang, trong ấy cắt đi
gần trọn các đoạn nói về Mai Thảo. Nghĩa là Phạm Duy không muốn cho tên
Mai Thảo đứng cạnh tên ông ấy. Tôi vẫn đăng, cứ để tên Mai Thảo có mặt
trong buổi đó, chỉ bỏ những đoạn Mai Thảo nói mà Phạm Duy buộc phải cắt
đi. Bài tung ra, Phạm Duy giận lắm, gọi xuống tôi đe dọa: 'Tao bảo cho
mày biết, không phải chỉ mỗi mày mới là người cầm cây viết.
Mày
mà xuống Santa Ana , tao sẽ cho tụi đàn em chúng nó đánh mày nát
xương!'] Bấy giờ, tôi hiểu ra chữ “chống gậy” của Phạm Duy và cái cười
to của ông Lê Hữu Mục qua điện thoại. Lại nghe ông tiếp:- “Tuy nhiên,
một câu nữa của Phạm Duy làm bác phẫn nộ hơn cả: ‘Tôi không đồng ý với
anh về chuyện anh viết Ngục Trung Nhật Ký chống Hồ Chí Minh. Nếu bây giờ
tôi về Việt Nam mà Cộng Sản cho tôi mười ngàn đô la, bảo tôi ca tụng Hồ
Chí Minh, tôi sẽ ca tụng hết mình.’” Ông Lê Hữu Mục thở ra: – “Hôm sau,
anh Cao Tiêu mời bác và một số anh em gồm anh Nguyễn Sỹ Tế, anh Lê Văn
Khoa (khoa trưởng trường Đại Học Sư Phạm Sàigòn),
chú Lê Ngọc Linh (em của bác, Trung tá Chiến Tranh Chính Trị), đến dùng
cơm ở quán Nguyễn Huệ.
Ông
cũng điện thoại mời ông bác sĩ Trần Ngọc Ninh, ông này nói cố gắng tới
nhưng cuối cùng không tới được. Đưa vấn đề ra trước anh em, ai cũng đều
khó chịu. Phạm Duy là một khuôn mặt lớn của nền ca hát Việt Nam . Lập
trường chính trị của ông phải rõ rệt, không thể lèng èng như thế. Anh em
bàn với nhau là cần phải có người lên tiếng về những gì Phạm Duy đã
tuyên bố. Nhưng cái khổ là ai cũng già, tánh hay cả nể, thành ra không
biết sự việc sẽ đi đến đâu?” Tôi hỏi: – “Xin bác cho biết tại sao bác
tin mà kể cháu nghe những điều như vậy? Bác không sợ cháu sẽ viết cả ra
trên giấy trắng mực đen
sao?”
Ông
Lê Hữu Mục la to: – “Thật thì bác cũng đã có ý đó. Bác nói chuyện này
với một ông bạn Tiến Sĩ Toán ở Montréal. Ông ấy bảo: ‘Chúng mình đều lớn
tuổi, há miệng mắc quai. Cái tâm Bông Giấy sáng hơn nên cô ấy dám viết
ra mọi sự thật. Mình thua Bông Giấy điểm đó.’” Và ông Lê Hữu Mục kể: –
“Vài tháng trước, vợ chồng ông Hà Thượng Nhân qua Canada , có tìm đến
thăm bác. Trong câu chuyện, bác hỏi: ‘Tôi thấy anh vẫn ưu ái Bông Giấy.
Vậy, nơi Bông Giấy có gì đặc biệt để anh phải đối xử như thế?’
Ông
Hà Thượng Nhân trả lời: ‘Bông Giấy là người làm được cái việc mà đám
già như chúng mình chẳng ai dám làm cả. Đó là viết ra những sự thật dơ
bẩn của giới văn nghệ Việt Nam . Bông Giấy hơn chúng mình điểm ấy.’”
II.
Câu chuyện điện thoại với ông Lê Hữu Mục để lại trong tôi một ấn tượng
khá nặng nề, kéo dài suốt nhiều tháng ngày kế tiếp. Đúng, Phạm Duy là
một khuôn mặt nổi của nền ca hát Việt Nam từ thời Kháng Chiến chống Pháp
trở lại đây. Nhưng có một điều đúng hơn mà ít người biết: “Kể riêng về
mặt âm nhạc, Phạm Duy không thật sự lớn như quần chúng đã ưu ái suy tôn
ông.”
Tôi
là một được người sinh ra và lớn lên trong cái nôi âm nhạc truyền thống
của gia đình. Tôi tốt nghiệp violon nhạc cổ điển Tây Phương trường Quốc
Gia Âm Nhạc Sàigòn năm 1967, dưới quyền giám đốc của ông Nguyễn Phụng,
trực thuộc Phủ Quốc Vụ Khanh Đặc Trách Văn Hóa thời ông Mai Thọ Truyền.
Từ đó đến nay, tôi vẫn tiếp tục học và nghiên cứu âm nhạc qua nhiều hình
thức và với nhiều vị giáo sư khác nhau, từ Việt Nam đến Âu Châu. Trên
lãnh vực âm nhạc, được giao tiếp với nhiều người tài giỏi, nhìn lại ông
Phạm Duy, tôi không cho rằng ông xứng đáng với ba chữ “khuôn mặt lớn”
của nền ca hát Việt Nam.
Một nhạc sĩ sáng tác lớn phải hội đủ những điều kiện sau:
1/ Thông Suốt Ký Âm Pháp.
Trong
nhạc Đông Phương, nói về Thúy Kiều, Nguyễn Du đã viết: “Cung, Thương
làu bậc ngũ âm”, thì phía nhạc Tây Phương, Mozart, Beethoven, Schubert…
khi viết các symphonie, concerto, opéra, và nhiều thể loại khác, đã
chứng tỏ được sự siêu đẳng của mình trên phần ký âm pháp. Cá nhân Phạm
Duy cho thấy không có được trình độ như vậy. Sáng tác của ông chỉ quanh
đi quẩn lại là các ca khúc rất đơn giản, âm sắc bình thường, bài nào
cũng giống nhau một cách đơn điệu nhàm chán.
Phần
kỹ thuật chẳng đưa ra được tính phá cách cần thiết trong nghệ thuật
sáng tạo. Nói cho đúng, ca khúc của ông thành công là do thinh điệu
phong phú của tiếng Việt, hay do sự đẩy đưa ngân nga trong cách trình
bày của ca sĩ. Nếu che đi hết phần lời trong các ca khúc, chỉ tấu lên
phần mélodie bằng âm thanh một nhạc khí nào đó, người ta sẽ dễ dàng nhận
ra sự nghèo nàn trong âm nhạc Phạm Duy.
2/ Điêu Luyện Nhạc Khí.
Trong
khi Thúy Kiều của Nguyễn Du “Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương”, thì
các soạn nhạc gia quốc tế, từ cổ sang kim, từ Beethoven, Chopin, Mozart,
Schubert…. đến John Lennon, Nat King Cole, Ray Charles… đều là những
tay instrumentiste chuyên nghiệp, mỗi người có thể sử dụng vững vàng từ
một đến hai, ba thứ nhạc khí.
Riêng
Phạm Duy, thử hỏi ông thông làu được nhạc khí nào, nếu không chỉ là các
hợp âm guitare loại “son đố mì” ông có từ thời còn làm nghề hát dạo?
Hơn nữa là vài ngón dương cầm võ vẽ học lóm được trong một lớp dự thính
tại Conservatoire de Paris nhờ sự quen biết của ông anh Phạm Duy Khiêm
gửi gấm, ông mới được có mặt? Dạo về sau ông cũng biết sử dụng chút ít
keyboard, loại nhạc khí thời trang mà mọi phần hòa âm phối khí trên ấy
(viết ra và ghi lại từ tài năng kẻ khác) đều đã được lắp ráp sẵn?
3/ Sáng Tác.
Sáng
tác đây đề cập ở hàng giá trị thật sự và có tầm vóc lớn. Giống như lời
ông Hàn Vĩ từng viết ca tụng và đăng trong tác phẩm Bầy Chim Bỏ Xứ của
Phạm Duy: “Tác phẩm của anh Phạm Duy phần lớn mang thể loại ca khúc, dù
là những tác phẩm có tầm vóc lớn như những thể loại trường ca và tổ khúc
cũng đều mang tính chất của loại nhạc có lời ca…”, thì rõ ràng các sáng
tác của Phạm Duy, dẫu dựa trên nhiều đề tài, từ tình yêu trai gái đến
tình tự dân tộc, chỉ đều là những sáng tác phải cần đến lời ca mới tới
được gần quần chúng. (Rất nhiều bài phổ từ thi ca của các thi sĩ).
Giá
trị âm nhạc thật sự hoàn toàn thiếu, đừng nói gì đến những từ ngữ sáo
rỗng như “vua nhạc” (lời Đào Mộng Nam ), “đại tác phẩm”, “đệ nhất nhạc
sĩ trong làng nhạc Việt Nam ”, “một điểm ‘chúng ta’ (sic!) có thể khẳng
định là không ai, cho tới hằng trăm năm sau có thể làm được những lời
hát tuyệt vời như một Phạm Duy” (lời Nguyên Thi) v.v.. và v.v… được đa
số các người mà “một note nhạc bẻ làm đôi cũng không biết” đã trơ trẽn
gán cho ông ta.
Có
lẽ chính ngay tác giả của những từ ngữ đó khi đặt bút thành bài ca tụng
Phạm Duy, cũng chẳng biết mình đang viết cái gì nữa! Giống như các
trường ca khác, trong trường ca Hàn Mặc Tử (khiến Phạm Duy rất đắc ý),
sự hợp nhất của tư tưởng âm nhạc hoàn toàn hỏng khi mà phần hòa âm lại
do Duy Cường, con trai ông soạn, dựa theo phần ca khúc của ông. Ngoài
ra, phần basse trở thành què quặt. Chant de basse không có.
Riêng
với Minh Họa Kiều, hòa âm cũng do Duy Cường soạn, chèo cổ không ra chèo
cổ, ả đào không ra ả đào, tân nhạc chẳng ra tân nhạc, ngâm thơ chẳng ra
ngâm thơ. Có thể gọi đó là một loạt âm thanh tạp-pí-lù, vô hồn, trộn
lẫn giữa tiếng vang của các nhạc khí dân tộc với tiếng vang của âm nhạc
điện tử. (Âm thanh vô hồn có nghĩa rằng âm thanh được cấu tạo bằng MÁY
mà không là truyền đạt từ trái tim và đôi bàn tay người nhạc sĩ trình
diễn).
Có
nhiều đoạn chát tai vì tiếng rít của cái keyboard được vặn lên ở mức độ
cao. Ngồi nghe suốt một cuốn băng cassette dài 60 phút, thấy phần hát
(rút từ lời thơ của cụ Nguyễn Du) quá nặng so với phần đàn, Minh Họa
Kiều chỉ gợi cho tôi cảm giác đơn điệu buồn nản, chẳng chút rung động và
không thể tìm ra được điều gì mới lạ. Tóm lại, qua nhạc phẩm Phạm Duy,
nhất là ở các trường ca, chủ đề Đông Phương không ăn khớp với phần hòa
âm cóp nhặt của Tây Phương, làm nên một kiểu âm nhạc “ông nói gà bà nói
vịt”, tạo cho người nghe cảm giác khó chịu và giả tạo.
Mozart
khi viết một symphonie hay một opéra, đâu chỉ viết riêng phần violon
hay soprano thôi, mà còn viết các phần khác bằng chính ngay tư tưởng và
tài năng ông có. Do đó, bản sáng tác mới thống nhất được cái tuyệt diệu
của nó, trở thành một khối âm thanh diễn tả sự thuần nhất tư tưởng và
tình cảm của tác giả. 4/ Nhạc Lượng (valeur musicale)
Nói về tài đàn của Thúy Kiều, Nguyễn Du viết: “Khúc nhà tay lựa nên xoang
Một
thiên Bạc Mệnh lại càng não nhân.” Sự rung động đánh ngay vào tâm hồn
thính giả là điều rất cần thiết trong âm nhạc. Xưa, nghe Prélude N.5
cung Ré bémol Trưởng của Chopin, người ta đâu cần ông phải viết thành
lời mới có thể cảm thấy buồn rười rượi theo từng note phát ra từ chiếc
dương cầm, vang lên như tiếng mưa rơi ngoài hiên lạnh; hay cùng ông
tưởng tượng tiếng mưa đang rớt xuống từng giọt trên nắp chiếc quan tài?
Nghe
đoản khúc Le Cygne trong sáng tác Carnaval des animaux của Saint Saens,
đâu cần có lời mới biết được sự giẫy chết đau đớn cuối cùng của con
thiên nga trên chiếc hồ rộng? Nghe Ouverture Egmont của Beethoven, đâu
cần lời mới hình dung ra được sự hùng tráng của một cuộc chiến ngoài
trận địa? Đọc Nguyễn Du, thấy tài âm nhạc của Thúy Kiều đã lên đến hàng
tột đỉnh:
“Khúc đâu Hán Sở chiến trường
Nghe ra tiếng sắt tiếng vàng chen nhau
Khúc đâu Tư Mã phượng cầu
Nghe ra như oán như sầu phải chăng!
Kê Khang này khúc Quảng Lăng
Một rằng lưu thủy, hai rằng hành vân
Quá quan này khúc Chiêu Quân
Nửa phần luyến chúa nửa phần tư gia
Trong như tiếng hạc bay qua
Đục như tiếng suối mới sa nửa vời
Tiếng khoan như gió thoảng ngoài
Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa.”
Tài âm nhạc này đã làm cho Kim Trọng
“… phải ngơ ngẩn sầu
Khi tựa gối khi cúi đầu
Khi vò chín khúc, khi chau đôi mày.”
Hay khi đàn cho vợ chồng Thúc Sinh nghe, thì:
“Bốn giây như khóc như than
Khiến người trên tiệc cũng tan nát lòng.”
Tài đàn đã đến độ:
“Một cung gió thảm mưa sầu
Bốn giây nhỏ máu năm đầu ngón tay
Ve ngâm vượn hót nào tày”
đến khiến Hồ Tôn Hiến phải “nhăn mày châu rơi!”
Thử
hỏi, trong quá trình nhạc Phạm Duy, có bài nào gây được trong tâm hồn
thính giả những rung động đích thực và dữ dội như các nhà soạn nhạc kia,
và cả Thúy Kiều, đã tạo?
5/ Chủ Đề.
Nguyễn
Du khi viết về tài âm nhạc của Thúy Kiều đã không chỉ đóng khung trong
việc Thúy Kiều tài ba trên ngón đàn thôi, còn là tài ba trên cả sự sáng
tác và chủ đề sáng tác.
Thiên
Bạc Mệnh của Thúy Kiều, cũng như Symphonie Pathétique của Tchaikovski,
Revolutionnaire của Chopin, Symphonie Inachevée của Schubert, Marriage
de Figaro của Mozart, Symphonie số 5 của Beethoven. v.v đều dựa trên
những chủ đề lớn của nhân loại (Thiên Nhiên, Định Mệnh, Con Người).
Trong Symphonie số 9, dẫu chủ đề là Niềm Vui hay Tình Bạn, và có cả lời
ca, nhưng lời ca này đã được Beethoven viết ra bằng một trong những thể
loại cao của âm nhạc là choeur (đồng thanh).
Chủ
đề trong âm nhạc Phạm Duy không nói lên được tính chất vĩ đại của nhân
loại, mà chỉ quanh đi quẩn lại với cái tôi của những cặp tình nhân (Nếu
Một Mai Em Sẽ Qua Đời, Kiếp Nào Có Yêu Nhau, Nghìn Trùng Xa Cách…), cái
tôi của chính ông (các bài Tục Ca). Riêng các bài dân ca, ông luôn luôn
“lập lờ đánh lận con đen” khiến thính giả cứ ngỡ phần lời là do chính
ông soạn chứ không phải rút từ ca dao. Ví dụ bài Cái Trống Cơm.
Thảng
hoặc có bài phô bày một bối cảnh xã hội, như Áo Anh Sứt Chỉ Đường Tà
thì ông cũng phải mượn từ bài thơ nổi tiếng của Hữu Loan mới hoàn thành
được sự nổi tiếng cho phần nhạc. Hoặc tệ hơn, bài Kỷ Vật Cho Em vẽ ra
phần nào hình ảnh tang thương của cuộc chiến Nam Bắc Việt Nam, ông đưa
phần nhạc thê thiết vào với những lời thơ ủy mị tang tóc (mà ông cố ý
“cầm nhầm”) của tác giả Linh Phương, tạo nên một ảnh hưởng vô cùng bất
lợi cho phía quân đội Việt Nam Cộng Hòa khi ấy đang ở vào giai đoạn
chiến tranh sôi bỏng nhất. Riêng những ca khúc được giới sinh viên học
sinh yêu thích như Em Hiền Như Ma Sơ, Thà Như Giọt Mưa, Năm Năm Tình Lận
Đận,
Phạm Duy phổ từ thi ca Nguyễn Tất Nhiên, lại là kết quả của một vụ kiện
tác quyền đầu tiên mà ông ta phải đền cho thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên.
Vụ
kiện này xảy ra vài tháng trước khi miền Nam Việt Nam bị mất vào tay
Cộng Sản, và cho đến nay các nhà văn, nhà báo hải ngoại vì nể nhà nhạc
sĩ “lớn họng” mà quên đi luôn tâm huyết của một thi sĩ “bé miệng” đã quá
cố. Vào thời điểm ấy, Nguyễn Tất Nhiên yêu cầu Phạm Duy phải ghi tên
mình vào trên những bản nhạc đã lấy từ thi ca Nhiên mà phổ, nhưng Phạm
Duy vẫn lờ đi, lại còn cả tiếng mắng rằng “Không có tao thì ai biết đến
mày!” Lúc đó Nguyễn Tất Nhiên còn rất trẻ nhưng gia đình ông uất ức vì
thái độ xấc xược của Phạm Duy nên đâm đơn kiện ông ta. Kết quả, Phạm Duy
phải đền cho Nguyễn Tất Nhiên một khoản tiền không nhỏ! (*)
Trên
phương diện chủ đề, chưa kể các nhạc sĩ tiền chiến khác, so với Phạm
Đình Chương hay Trịnh Công Sơn, Phạm Duy cũng đủ bị xếp vào hàng DƯỚI.
Năm 1960, trong một buổi đại hội, giới sinh viên Văn Khoa Sàigòn từng
tuyên bố: “Phạm Duy đã chết!” Báo chí phỏng vấn điều này, sinh viên trả
lời: “Nhạc Phạm Duy bây giờ ủy mị quá; ông chỉ viết theo thị hiếu quần
chúng mà chẳng nói lên được tư tưởng nào mới, không còn lành mạnh như
những bản trong thời Kháng Chiến ông đã làm ra.”
Năm
64-65, Trịnh Công Sơn được bạn hữu tổ chức buổi ra mắt đầu tiên trước
quần chúng tại khu đất trống sau lưng trường Văn Khoa Sàigòn cũ (nay là
Thư Viện Quốc Gia). Trước mặt đám đông đến mấy nghìn người gồm đủ thành
phần văn nghệ sĩ, trí thức, sinh viên, học sinh, Trịnh Công Sơn xuất
hiện với cây đàn guitare trên tay, cất lên giọng hát mình trong hai mươi
ca khúc nói về quê hương, ước mơ hòa bình. Những bản nhạc về sau được
mệnh danh là “nhạc phản chiến”. Buổi hát rất thành công, để lại một ấn
tượng tốt đẹp cho người trình bày lẫn người nghe. Trong phần giải lao,
Phạm Duy xuất hiện trên bục gỗ, xin hát một bài góp vui.
Trong
không khí đang trầm lắng sau những bài hát nói về bom đạn và những vết
thương trên thân thể quê hương, Phạm Duy đã cùng khoảng vài chục đệ tử
trong nhóm Du Ca của ông đồng hát bài Sức Mấy Mà Buồn, một bài nhạc mang
đầy tính khôi hài và giễu cợt một cách thiếu đứng đắn.
Về
sau, trên tạp chí Văn lúc ấy có tường thuật buổi trình diễn của Trịnh
Công Sơn và cũng đã nghiêm khắc lên án trò đùa và phá phách không đúng
chỗ của một người đã quá nổi tiếng lúc bấy giờ. Tôi cũng được nghe một
câu chuyện từ giáo sư Lê Hữu Mục: “Phạm Duy một lần nói với ông Tiến sĩ
Trần Văn Đoàn, giáo sư trường Đại Học Đài Loan: ‘Nếu tôi ở Nhật, người
Nhật sẽ nuôi tôi suốt đời vì tài âm nhạc của tôi.’
Ông
Trần Văn Đoàn hỏi lại: ‘Thế anh có biết chính phủ Nhật đã nhiều lần mời
Trịnh Công Sơn sang Nhật và trả cho Sơn một giá rất hậu chăng? Anh bảo
anh có tài, tại sao họ chẳng mời anh?’”
III.
Trình bày 5 tiêu chuẩn tiêu biểu trên, tôi chỉ muốn đưa ra một chứng
minh nhỏ rằng Phạm Duy chưa xứng gọi là khuôn mặt lớn NHẤT của nền âm
nhạc Việt Nam như ông luôn luôn huênh hoang tự nhận và như lời ca tụng
của nhiều người bạn ông. Ở đây, tôi không hoàn toàn chối bỏ khả năng âm
nhạc của Phạm Duy, nhưng cái khả năng đó CHƯA THỂ GOÏI LÀ ĐỦ để tạo cho
ông một chỗ đứng xứng đáng trong làng âm nhạc quốc tế.
Địa
vị mà ông đạt được hiện nay trong riêng Miền Nam trước 1975 và cộng
đồng người Việt hải ngoại, phải kể rằng phần lớn nảy sinh từ tính dễ dãi
của quần chúng Việt Nam. Dân tộc Việt Nam vốn nổi tiếng hiếu hòa; dưới
cái nhìn quốc tế, người Việt Nam thường được xem là biểu tượng của sự
vui vẻ và rộng lượng. Sự rộng lượng này được chứng minh trên nhiều hình
thức, cơ hội.
Điển
hình, trong một cuốn vidéo tape bày bán công khai, quay buổi trình diễn
tái ngộ của bà ca sĩ Thái Thanh với thính giả Việt Nam hải ngoại, tổ
chức tại Santa Ana, Thái Thanh lên sân khấu hát bản Dòng Sông Xanh, một
nhạc phẩm của J. Strauss, Phạm Duy phổ lời Việt.
Bản
này vốn cung Ré Trưởng, có những note rất cao dành cho phần premier
violon. Qua giọng Thái Thanh, nhạc sĩ phải chuyển xuống thành Si bémol
Trưởng; giọng hát bà ở vào thời kỳ tàn tạ, không lên đúng cao độ, nên
nghe rất “phô”. Thế nhưng khi dứt bản nhạc, gần như toàn thể khán giả
đều bắt chước đám quan khách thân cận cò mồi của gia đình Phạm Duy, ngồi
ở hàng ghế đầu, đứng bật cả lên để vỗ tay ca ngợi bà.
Điều
này cho thấy tinh thần người Việt Nam , ngay cả những người đang ở nước
ngoài, vẫn tỏ ra dễ dãi và rộng lượng trước nghệ thuật và nghệ sĩ. Song
song với cái nghèo và sự chậm tiến truyền đời của dân tộc, những đức
tính kể trên của quần chúng Việt Nam đã tạo được cho Phạm Duy một chỗ
đứng rất cao từ biết bao chục năm qua. Cuộc sống cá nhân và gia đình ông
cũng được ưu đãi từ đó. Nhưng thử hỏi, ông đã trả lại được những gì cho
quần chúng? Tên tuổi ông nổi lên nhờ quần chúng thì ông lại bảo các bản
nhạc quần chúng yêu thích xưa nay của ông chỉ là làm trong chuồng xí!
Quê
hương rơi vào tay Cộng Sản, gần hai triệu người phải bỏ ra đi, sống lây
lất khắp nơi trên thế giới, có những người rất cùng túng, trong khi ông
và gia đình vẫn phè phỡn trong một cảnh sống sung túc ở miền Nam Cali,
thì ông lại bảo: “Nếu Cộng Sản cho tôi mười ngàn đô la mà bảo tôi ca
tụng Hồ Chí Minh, tôi sẽ ca tụng hết mình!” Đó là những cái tát phũ
phàng của Phạm Duy vào mặt quần chúng miền Nam Việt Nam, những người đã
đưa tên tuổi ông lên từ mấy chục năm qua. * * * Sĩ khí là điều rất cần
thiết cho một nghệ sĩ, nhất là với một nghệ sĩ lớn.
Nhưng
đáng tiếc thay, điều này không có trong ông Phạm Duy. Ông luôn luôn tự
hào, và được bạn bè ông bốc thơm, rằng ông là một “đại nghệ sĩ”, nhưng
ông sẵn sàng ngửa tay nhận 5,000 đô la một cách khúm núm, để rồi vào đêm
29/12/1996, cùng với một số ca nghệ sĩ “lớn” (?!) của thủ đô tị nạn Nam
Cali làm cái hành động đứng giữa sân khấu Long Beach Convention Center,
xưng tụng một mụ đàn bà điên khùng không ra gì như bà Thanh Hải bằng
những danh từ vô cùng bóng bẩy.
Khoảng
hơn một tuần sau, ông lại lên một đài phát thanh Việt ngữ ở Nam Cali,
ca ngợi không tiếc lời những dòng “thi ca” trác tuyệt của bà này, điều
dễ dàng làm đỏ mặt bất cứ ai còn có chút tự trọng trong mình. Và nghệ sĩ
vốn thường mang cá chất cao ngạo. Nhưng với ông Phạm Duy, chữ cao ngạo
này trở thành tự cao tự đại một cách hợm hĩnh, giả trá. Có lần tôi được
giáo sư Lê Hữu Mục kể: “Trong một buổi trình diễn ở Đức, Phạm Duy tuyên
bố giữa nhiều người: ‘Nhạc của tôi không thua gì các symphonie của
Bee-thoven.’
Ông
giáo sư Tiến sĩ Trần Văn Đoàn bèn hỏi Phạm Duy: ‘Anh bảo nhạc của anh
không thua gì các symphonie của Beetho- ven. Vậy xin hỏi, anh có phân
biệt nổi thế nào là một symphonie và thế nào là một concerto không?’
Phạm Duy cứng họng không trả lời được.” Cũng theo lời ông Trần Văn Đoàn,
lần khác, có mặt Đặng Thái Sơn, dương cầm thủ đoạt giải nhất Chopin ở
Nga năm 1983, Phạm Duy hỏi Sơn: ‘Tại sao cháu chỉ đàn nhạc Chopin mà
không đàn nhạc của bác (là Phạm Duy)?’ Đặng Thái Sơn ngoảnh mặt bỏ đi,
không thèm trả lời.
Những
điều trên, ông Trần Văn Đoàn kể lại cho giáo sư Lê Hữu Mục nghe nhân
dịp gặp nhau mới đây giữa hai người tại Đại Học Hè Thụy Sĩ 1997. Ông
Trần Văn Đoàn phê bình: “Phạm Duy hỗn! Đến ngay quê hương Beethoven mà
lại dám bảo nhạc của mình không thua gì nhạc Beethoven!” Cách đây ba
năm, trong một buổi trình diễn nhạc Phạm Duy tại Texas, đa số khán giả
đã phẫn nộ khi nghe Phạm Duy tuyên bố giữa sân khấu: “Văn Cao sao bằng
được tôi?” Hôm ấy có tin nhạc sĩ Văn Cao từ trần tại Hà Nội.
Hình
ảnh nhà nghệ sĩ chân chính sống trong nghèo túng, không có đất đứng,
bước đi xiêu vẹo giữa xã hội Cộng Sản qua những cuộn băng vidéo phổ biến
tại hải ngoại đã khiến cho mọi người thật ngậm ngùi khi nhìn lại khuôn
mặt trâng tráo bóng nhẫy đầy vẻ xôi thịt của Phạm Duy. Họ đứng lên ra về
ngay. Tiếc thay, điều ấy hình như cũng chẳng dạy được cho Phạm Duy bài
học nào!
IV.
Nói về sự tự cao tự đại của Phạm Duy, không bút mực nào viết cho hết.
Tuy nhiên, khi sự tự cao tự đại lên đến hàng tự nhận “Các ca khúc quần
chúng yêu thích và tôn vinh xưa nay của tôi đều chỉ được viết ra trong
chuồng xí!” thì quả thật tôi không còn ý kiến.
Ngày
xưa Cao Bá Quát lừng lẫy về thi tài lẫn cả nỗi cao ngạo, nhưng thật sự,
đối tượng cho nỗi cao ngạo của Cao Bá Quát chỉ hạn chế trong giới vua
chúa cầm quyền chứ không là quần chúng. Chưa một bài thơ, một lời nào
của Cao Bá Quát lưu lại trong sử sách cho thấy rằng ông có chút nhỏ lòng
khinh miệt hay chống lại quần chúng. Phần Beethoven, khi nghe tin
Napoléon tự phong mình là Hoàng đế, đã nổi giận giẫm nát bản Symphonie
No. 3 lúc trước được đề tặng cho Napoléon.
Thế
nhưng, trong suốt dòng nhạc vĩ đại của Beethoven, chẳng bất cứ sáng tác
hay tư tưởng nào cho thấy có sự phản bội lại quần chúng đã yêu thích
ông. Như đã nói, quần chúng Việt Nam vốn dễ dãi và rộng lượng. Người dân
Việt Nam , dẫu ra tới hải ngoại rồi, vẫn còn lưu giữ trong tâm hồn cái
truyền thống trọng Kẻ Sĩ của người xưa. Dưới mắt họ, Phạm Duy điển hình
cho một Kẻ Sĩ. Chỉ một điều buồn là Phạm Duy không đạt được tới chút nhỏ
giá trị cao quý của hai chữ Kẻ Sĩ. Ông không phải là một Kẻ Sĩ trên đủ
mọi mặt. Ông không có được cái Dũng, cái
Chân, cái Nhân và cái Thiện rất cần thiết cho một nghệ sĩ chân chính.
Ông
chỉ biết tôn thờ cái Tôi của chính ông. Ông khai thác tối đa cái Tôi ấy
trên nhiều hình thức. Đó là quyền của ông. Nhưng ông không có quyền
phản bội lại quần chúng đã ưu ái ông, đem miếng ăn, đem cả hào quang cho
ông để mà tự hãnh. Ông không có quyền chà đạp lên sự đau khổ của nhân
dân miền Nam bằng một câu nói rất là ít hiểu biết và vô trách nhiệm so
với tên tuổi ông: “Nếu Cộng Sản cho tôi mười ngàn đô la mà bảo tôi ca
tụng Hồ Chí Minh, tôi sẽ ca tụng hết mình.”
Ngoài
tính dễ dãi và rộng lượng của quần chúng Việt Nam trong cái nhìn về
nghệ thuật, phải nhấn mạnh thêm về sự THIẾU HIỂU BIẾT của những người
chung quanh gần cận Phạm Duy; do đó, danh vọng ông mới có và đứng vững
được suốt mấy chục năm qua. Mới đây, tôi được đọc một bài báo đăng trên
tờ nguyệt san Việt Nam, xuất bản tại Canada, số 11 tháng 8/1997, có đoạn
như sau: “Minh Họa Kiều thật sự là một symphonie Việt Nam có khả năng
tạo thêm sinh lực đưa Truyện Kiều của cụ Nguyễn Du đi xa hơn vào tương
lai trong thế giới văn minh kỹ thuật hiện đại…”
(Trích bài Phạm Duy Trung Tâm Sinh Hoạt Văn Hóa và Lời Cảm Ơn)
Đọc
câu trên, những ai có lòng tự trọng không khỏi khó chịu và nổi giận
thầm. Nguyễn Du là người duy nhất đã dám đi ngược lại và đương đầu với
phong trào tư tưởng Nho giáo suy đồi thời đó để xây dựng một nền tư
tưởng có tính Việt Nam ; người đã một mình canh tân thể thơ lục bát, làm
mới tiếng Việt. Bây giờ những gì ông đưa ra cách đây hơn 200 năm vẫn
hợp thời, và ông được cả thế giới công nhận là đại thi hào.
Tác
phẩm Truyện Kiều của ông, năm 1967, đã được UNESCO xếp vào hàng một
trong 7 tác phẩm lớn của thế giới. Còn Phạm Duy? Thử hỏi ông đã làm gì
để rạng rỡ cho dân tộc Việt Nam trước cái nhìn quốc tế? Những ca khúc
hay trường khúc được ông tự nhận và bạn bè ông ca tụng là sự “xây dựng
một nền âm nhạc mới cho Việt Nam ”, điều đó có đúng chăng? Có nên kể
rằng những bản nhạc lai căng nửa Tây nửa Việt, cóp nhặt chỗ này một ít
ngũ cung, chỗ kia một ít hợp âm Âu Mỹ, là độc đáo, mang bản sắc dân tộc,
hoặc là một nghệ thuật mới?
Tôi
khẳng định KHÔNG! Vì vậy, đọc những lời ca tụng đại loại như trên, tôi
thật rất buồn cho chữ nghĩa Việt Nam và cái “sĩ khí” của những người còn
biết cầm cây viết để viết lên những dòng chữ bằng tiếng Việt Nam! Ở
dây, khoan kể đến câu “Hiểu thế nào là một sym- phonie?” như ông Trần
Văn Đoàn đã hỏi Phạm Duy một lần ở Đức, nội cái việc đưa tên tuổi Phạm
Duy đứng cạnh tên tuổi cụ Nguyễn Du cũng đã là một việc nhục nhã và
chẳng nên làm chút nào đối với những ai còn chút liêm sỉ trong người.
V.
Chuyện ông Phạm Duy là một loại truyện dài Nhân Dân Tự Vệ. Tôi là một
người Việt Nam 100% nên cũng có tinh thần dễ dãi truyền đời trong máu
huyết. Từ lâu tôi chán không muốn nghĩ đến, và cũng cả chán không muốn
nghe các bản nhạc từ 1960 trở đi của ông.
Nhưng
đến một lúc nào, tôi ngạc nhiên tự hỏi, một người đã quá già như thế
(ông tự nhận là bạn cùng thời phiêu bạt với ông thân tôi, đã chết cách
đây 40 năm) sao tư cách lại còn có thể làm cho đám hậu sinh như tôi phải
đặt vấn đề như thế? Thật sự, tôi không phủ nhận sự đóng góp của ông
Phạm Duy đối với dân tộc trên lãnh vực âm nhạc.
Việt
Nam là một quốc gia nghèo nàn, chậm tiến. Tất cả các đóng góp của mọi
người dân đều cần thiết. Thì với Phạm Duy, tuy rằng khả năng ông (tôi
dùng chữ “khả năng” mà không là “tài năng”) chỉ thu hẹp trong một giới
hạn nào đó, cũng là điều đáng hoan nghênh. Nhưng nếu ông chịu nhận biết
mình đang ở mức độ nào trong sự đóng góp và vị trí nào trong thế giới âm
nhạc phong phú, là điều đáng quý; quần chúng và cả tôi nữa, sẵn sàng
hết lòng ủng hộ ông.
[Trong
lịch sử âm nhạc Việt Nam, có những ngôi sao xuất hiện không lâu trên
bầu trời ca khúc, nhưng không ai chối bỏ rằng các ngôi sao ấy đã sáng và
sẽ còn sáng mãi -như Văn Cao, Đặng Thế Phong, Dzoãn Mẫn, Nguyễn Văn
Thương, Phan Huỳnh Điểu, Đoàn Chuẩn, Từ Linh..v.v..] Nhưng bởi vì Phạm
Duy tự đem mình so sánh với Beethoven, và có những người đặt ông cao
bằng Nguyễn Du thì ông phải có bổn phận chứng minh cho quần chúng thấy
được cái “vĩ đại” của ông một cách cụ thể. Bài viết này không đi ra
ngoài mục đích đó.
VI.
Nhìn lại dòng thời gian từ 1954 trở đi, Việt Nam có cái gì mới đáng để
hãnh diện với thế giới? Và từ 1975 trở lại đây, vô số người Việt Nam đã
đặt chân được tới bến bờ tự do, tiếp xúc biết bao trào lưu văn học nghệ
thuật mới của thế giới, nhưng nói riêng về ngành âm nhạc và nói chung về
các ngành nghệ thuật, miền Nam Việt Nam có được sự tiến bộ nào chăng?
Xin trả lời KHÔNG!
Trong
một buổi họp mặt âm nhạc do giáo sư Tạ Văn Toàn tổ chức năm 1985 tại
Montréal, có cả sự hiện diện của giáo sư Lê Hữu Mục, một vị khách ngoại
quốc đã đưa ra câu hỏi: “Tại sao trong nhạc Việt Nam chẳng thấy có sáng
tác nào lớn ngoài những ca khúc không quá hai trang giấy nhỏ?” Giáo sư
Tạ Văn Toàn trả lời: “Việt Nam chỉ có các ca khúc chứ đâu đã thực sự có
âm nhạc.
Vì
vậy nhạc phẩm lớn làm sao xuất hiện được?” Lỗi này do ai? Tôi cho rằng
phần lớn là do những người có cơ sở, có thế lực, địa vị trong các lãnh
vực này. Quần chúng Việt Nam hải ngoại ưu đãi, tôn vinh họ, dành cho họ
những chỗ đứng xứng đáng, nhưng đáp lại, họ chẳng làm gì để trả lại cho
quần chúng ngoài sự vinh thân phì gia của chính họ và những cái tát phũ
phàng nào đó trong sự bắt tay NGẦM hay CÔNG KHAI với phía ngoại bang hay
với Cộng Sản.
Thực
sự, tôi không tin ông Phạm Duy là một người thân Cộng, nhưng ông cũng
không phải là người chủ trương chống Cộng. Ông từng tự nhận mình chỉ là
người “chống gậy!” mà không chống Cộng! Theo như ông Lê Hữu Mục nhận
định, đường lối chính trị của Phạm Duy rất lèng èng, không rõ rệt.
[Trong tổ khúc Bầy Chim Bỏ Xứ, Phạm Duy phân biệt hai loại chim hiền và
chim ác, ví như hai phía quần chúng quốc nội (trong có các người Cộng
Sản thứ thiệt) với quần chúng hải ngoại. Chim ác ở lại. Chim hiền bỏ tổ
bay đi.
Nhưng
đến một hồi, ông Phạm Duy lại kêu gọi hai bầy chim vầy họp lại với
nhau!] Cá nhân tôi nghĩ, do bởi trình độ tư tưởng chính trị thấp kém và
bởi không có kiến thức về các danh từ chính trị và ngoại giao mà Phạm
Duy đã vô tình bị Cộng Sản lợi dụng bằng chính những danh từ. Ví dụ, đối
với người Quốc Gia, Hòa Bình có nghĩa là chấm dứt chiến tranh.
Nhưng
đối với Cộng Sản, Hòa Bình phải là chấm dứt tư bản, làm tư bản tan rã.
Cộng Sản đề ra chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa yêu nước, nhưng thật sự đó
chỉ là những cái mặt nạ che giấu mưu đồ tồi tệ, làm lợi cho lực lượng
cầm quyền Cộng Sản và mở rộng quan điểm xã hội chủ nghĩa của họ. Còn
trên thực tế Việt Nam từ xưa đến nay chỉ có lý tưởng dân tộc chứ làm gì
có chủ nghĩa dân tộc? Tính dân tộc thuần túy trong lòng người Việt Nam
và chủ nghĩa dân tộc do Cộng Sản đề ra, khác nhau xa.
Một
người mang tính dân tộc thì lúc nào cũng nghĩ đến dân tộc, điển hình
qua các hình ảnh thân thiết của quê hương. Nhưng chủ nghĩa dân tộc lại
được giải thích theo Duy Vật sử quan, và các khái niệm về dân tộc đã bị
bóp méo hoàn toàn. Cộng Sản thường đưa ra những hình ảnh dễ đi vào lòng
người, dựa trên Truyện Kiều, trên ngũ cung, trên dân gian. Cộng Sản hay
nói đến hình ảnh người nông dân, nhưng trên thực tế có bao giờ thấy họ
đề cao dân quê?
Đối
với họ chỉ có công nhân là quan trọng, còn dân quê bị liệt vào hàng có
tội với nhân dân vì đã sản xuất lúa gạo cung ứng cho giặc, cho tư bản.
Muốn được nhìn nhận, người nông dân phải vào hợp tác xã do nhà cầm quyền
làm chủ. Cũng vậy, lòng yêu nước và chủ nghĩa yêu nước khác nhau. Một
người mang lòng yêu nước thì lúc nào cũng mong làm sao cho đất nước tiến
lên trên đủ mọi mặt.
Nhưng
trong chủ nghĩa yêu nước mà Cộng Sản đề ra là đã có sự giết người, khát
máu. Dân tộc Việt Nam vốn tính hiếu hòa, nhưng khi có ngoại xâm thì
cũng sẵn sàng chiến đấu bảo vệ quê hương. Tuy nhiên, qua lối phân tích
của Cộng Sản, người Việt Nam bao giờ cũng hiếu chiến (chống Tàu, chống
Pháp, chống Mỹ, thậm chí chống luôn tất cả những ai cùng màu da huyết
thống, nếu không là Cộng Sản thì phải là Ngụy!).
Kiểu
nói của Cộng Sản là kiểu nói khích động quần chúng, khai thác triệt để
lòng hiếu chiến của quần chúng. Phong trào quần chúng cũng bị Cộng Sản
giải thích sai. Trong quần chúng, có những nhóm ô hợp nhưng cũng có
những nhóm nổi lên vì chính nghĩa. Tất cả những việc lao động của dân
đều mang tính chất góp phần vào lực lượng sản xuất chung; thì tinh thần
này lại bị Cộng Sản cho là phục vụ kẻ bóc lột.
Phạm
Duy không hiểu những điều như vậy, không am tường ý nghĩa các danh từ
mà Cộng Sản đã đề ra. Ông cứ ngỡ Cộng Sản nghĩ về Dân Tộc hay Lòng Yêu
Nước cũng giống như những người Việt thuần túy đã nghĩ. Ông không biết
rằng Cộng Sản chỉ muốn đánh lừa người dân Miền Nam, nhất là người Việt
hải ngoại, bằng các hình ảnh rất dân tộc, mà thật thì chỉ là muốn tiêu
diệt người Quốc Gia. Vì vậy, ông bị lầm và bị lợi dụng một cách vô tình
hay hữu ý. Ông đưa ra trong âm nhạc của ông những hình ảnh như Truyện
Kiều, Mẹ Việt Nam, người dân quê…
Ông
kêu gọi mọi người ngồi lại với nhau (Việt Nam Việt Nam ! Bầy Chim Bỏ
Xứ) [Cũng có thể ông Phạm Duy tự cho mình là thiên tài, nên có quyền
vượt lên trên tất cả mọi chính kiến. Nhưng ông quên một điều, dẫu cho có
là thiên tài thật chăng nữa thì ông vẫn là một con người có xứ sở, quốc
gia, chứ không thể giống như con khỉ Tôn Ngộ Không, từ đất từ núi mà
nảy sinh trong cuộc đời!] VII. Ở đây, tôi đồng ý rằng đến một lúc nào
trên cái nhìn chung về dân tộc, vấn đề hợp lưu cần được nêu lên.
Nhưng
hợp lưu có nghĩa là NGỒI LẠI VỚI NHAU MỘT CÁCH NGANG HÀNG, chứ không là
van xin quỵ lụy một chiều. Phạm Duy đã viết ra những lời nhạc không
bằng lòng yêu nước hay bằng tinh thần người Việt Quốc Gia chân chính, mà
là bằng lối suy nghĩ của Cộng Sản hay của một thế lực ngoại bang. Quần
chúng bị ông lôi cuốn vào sự suy nghĩ sai lầm riêng nên cũng suy nghĩ
theo lối suy nghĩ của Cộng Sản hay ngoại bang hồi nào không biết.
Thực
hơn hết, theo tôi, Phạm Duy chỉ là người “chống chống Cộng” đúng đường
lối của Mỹ. Trước kia, Mỹ là quốc gia chống Cộng hàng đầu thế giới,
nhưng bây giờ, chính sách ngoại giao của Mỹ đã thay đổi. Những người
Việt Nam làm việc và ăn lương của Mỹ cũng phải thay đổi luôn. Có nên
nghi ngờ Phạm Duy cũng là một trong những người của số Việt Nam này
chăng? Mới đây, tôi được nghe giáo sư Lê Hữu Mục kể rằng: “Phạm Duy có
nhắn lời với một người bạn bên Tây của bác và cũng với chú Lê Ngọc Linh
em trai bác rằng sẽ kiện bác ra tòa và sẽ bảo đàn em
tìm bác mà đập cho một trận.”
Đây
cũng là một điều làm tôi phải suy nghĩ. Tự hỏi, Phạm Duy, một nhạc sĩ
nổi tiếng và đã lớn tuổi, sao lại tỏ ra côn đồ thô bạo như thế, hết đe
đánh Văn Thanh vì một bài viết, tới đòi đập giáo sư Lê Hữu Mục vì những
lời tố cáo. Tư cách văn nhân nghệ sĩ của ông ở đâu? Quần chúng liệu có
nhìn ra điều ấy?
Hay
là ông dựa vào một thế lực nào ghê gớm mới có thể phô bày sự hống hách
ngay chính trên một đất nước rất tôn trọng nhân quyền và luật pháp như
xứ Hoa Kỳ? Đọc lịch sử Việt Nam, thời thực dân, thấy có ba nhân vật ra
hợp tác với Tây là Tôn Thọ Tường, Trương Vĩnh Ký và Nguyễn Trường Tộ.
Mỗi người đều có thái độ và ý nghĩ khác nhau trong hành động của mình.
Nguyễn Trường Tộ chỉ trong mấy tháng ra làm việc mà về sau cứ hối hận
mãi theo điều ấy. Ông chuộc lỗi với dân tộc bằng cách cố lòng tranh đấu
cho Việt Nam, viết 150 bản điều trần dâng lên vua Tự Đức với ước nguyện
mong thay đổi khá hơn cho đất nước.
Trương
Vĩnh Ký hợp tác với Tây hoàn toàn trên phương diện văn hóa, cũng mang
lòng hối hận khôn nguôi. Riêng Tôn Thọ Tường chẳng những đã vênh váo vì
cơm no áo ấm trong khi đồng bào rất đói khổ, lại còn hết lòng hết dạ ca
tụng sức mạnh văn minh của bọn thực dân. Tôi tự hỏi, không biết ông Phạm
Duy thuộc hàng nào trong số ba con người lịch sử hợp tác với ngoại
bang, ở trên tôi vừa kể?
Trần Thị Bông Giấy
oOo
Adieu Phạm Duy!
Tác giả/Nhân vật: Nguyễn Văn Chức Suốt Một Đời Không Thèm Khát
Suốt Một Đời Không Vô Liêm Sỉ
Suốt Một Đời Không Vô Lễ Giáo
Và Suốt Suốt Một Đời Không Hèn
Phạm Duy
Tôi
viết về Phạm Duy lần đầu tiên năm 1987, tức là cách đây gần hai mươi
năm. Tháng 8 năm đó, một nhóm người đòi bỏ bài Quốc Ca Việt Nam “Này
Công Dân Ơi”, để thay vào đó bài “Việt Nam Việt Nam” của Phạm Duy. Nhóm
người gồm các ông Thái Chính Châu, Nông Anh Ngọc, Vũ Trung Hiền, Bùi Duy
Tâm, Phan Quang Đán,v,v…
Cuộc
họp “lịch sử” diễn ra tại nhà BS Bùi Duy Tâm ở Cali . Đêm đó, họ đồng
ca bài quốc ca Này Công Dân Ơi lần cuối, để vĩnh biệt ngày xưa … Rồi họ
đồng ca bài quốc ca mới, tức bài Việt Nam Việt Nam để ăn mừng kỷ nguyên
mới. Duyên Anh lúc đó đang say khướt trên lầu, thì được dưới nhà gọi
lên:
- “Duyên Anh ơi xuống đây chứng kiến giờ lịch sử.”.
Duyên Anh ngất ngư lò mò từ trên gác xuống, hát cà lăm:
- “Cái nhà là nhà của ta, ông cố ông cha lập ra. Moa đíu chơi với các cậu. Moa đi ngủ tiếp đây”.
Hai hôm sau, Duyên Anh gọi cho tôi, kể cho tôi nghe, rồi cà lăm:
- “Ông ơi, ông đánh bỏ mẹ chúng nó đi.Chỉ có ông mới đánh được chúng nó thôi”.
Và tôi đã lên tiếng để “đánh chúng nó”… Bài lên tiếng của tôi gồm 5 điểm. Riêng điểm 5 dành cho Phạm Duy, như sau:
“Bài
Việt Nam Việt Nam của Phạm Duy đã được nhóm người đưa ra cùng một lúc
với vấn đề thay đổi quốc ca. Riêng Phạm Duy cũng đã có lần chỉ trích
nhạc của bài Quốc Ca. Trong vụ đòi thay đổi quốc ca, ông im lặng. Dư
luận không khỏi nghĩ rằng ông là một trong những kẻ đứng đàng sau.
Phạm
Duy là một tài hoa. Điều đó không ai chối cãi. Cũng không ai chối cãi
việc Phạm Duy bỏ bưng về tề cuối thập niên 1940 là một điều hay cho
Người Quốc Gia. CSVN đã mất một thiên tài, người Quốc Gia có thêm một
tài hoa, kho tàng nghệ thuật của người Quốc Gia có thêm những bài ca giá
trị. Tôi vẫn nghĩ: Người Quốc Gia nên biết ơn Phạm Duy. Ngược lại, Phạm
Duy cũng phải biết ơn Người Quốc Gia; ơn này mênh mang như biển cả. Bởi
vì nhờ môi sinh nhân bản của vùng quốc gia, Phạm Duy mới có điều kiện
phát huy tài năng. Văn Cao, tài nghệ đáng bậc đàn anh, nhưng vì phải
sống dưới chế độ súc vật cờ đỏ sao vàng, nên đành phải để tài hoa chết
yểu, chưa kể phải
sống như con vật, thèm từ củ khoai cọng sắn. Đó cũng là trường hợp của
nhiều văn nghệ sĩ dưới chế độ cộng sản. Phạm Duy có phước hơn. Một phần
tư sống trong vùng đất quốc gia, Phạm Duy đã tạo được sự nghiệp và tên
tuổi trong lãnh vực sáng tác ca nhạc. Người Quốc Gia hãnh diện vì có ông
và đã đối xử với ông thật tận tình. Ra đến hải ngoại, người Quốc Gia
cũng vẫn một tấm lòng đó đối với ông. Nhạc của ông vẫn được tập thể tỵ
nạn nâng niu, con người của ông vẫn được đồng bào quý mến. Các con của
ông đã có chỗ dung thân, phần lớn là do tấm lòng của đồng bào đối với
chính ông. Cho nên, nếu quả thật Phạm Duy đã tiếp tay cho việc đánh phá
bài Quốc Ca VN (Tiếng Gọi Công Dân) để thay vào đó bài Việt Nam Việt Nam
của ông, thì thật đáng buồn.
Riêng
về bài Việt Nam Việt Nam , không ai phủ nhận giá trị nghệ thuật của nó.
Nhưng đó cũng là giá trị độc nhất của nó. Nó chỉ có giá trị nghệ thuật,
không có giá trị lịch sử. Nó không mang tinh huyết của cuộc chiến đấu
ròng rã và đầy cam go của dân tộc VN chống lại bè lũ CS Hồ Chí Minh tay
sai CS quốc tế. Nó không có được một giờ trong dòng sinh mệnh của dân
tộc Việt Nam . Đang khi đó, bài Quốc Ca “Này Công Dân Ơi” đã có ít nhất
40 năm trong dòng sinh mệnh ấy.”.
***
Năm
1992, Phạm Duy cùng với Bùi Duy Tâm xuống Houston ra mắt đĩa nhạc thời
trang. Buổi họp mặt hôm đó khá đông. Đây là lần đầu tiên tôi có dịp diện
kiến người nghệ sĩ tài hoa. Gia chủ đọc tiểu sử Phạm Duy, rồi giơ tay
về phía buồng trong, giới thiệu:
- “Đây Phạm Duy”.
Phạm Duy từ trong buồng bước ra, giơ hai tay chào, lớn tiếng tự giới thiệu:
- “Đây, Alain Đầy Lông”.
Cả phòng họp họp vỗ tay.
Sau buổi trình diễn của Phạm Duy, là những giây phút hàn huyên. Tôi được hân hạnh ngồi gần ông. Tôi hỏi:
- “Nghe nói bác đang làm đơn xin về Việt Nam ?”.
Phạm Duy trả lời (nguyên văn):
-
“Về làm gì. Những thằng như Hoàng Cầm, sẽ ngửa tay xin tiền. Mình cho
nó một trăm đô, nó chê ít. Mà đâu chỉ có một thằng Hoàng Cầm, còn bao
nhiêu thằng khác, như một lũ ăn mày. Chúng nó tưởng mình bên Mỹ hốt bạc.
Về làm đéo gì. Còn chơi gái á, bên này thiếu gì.”.
Tối
hôm đó, chúng tôi đi ăn nhà hàng. Tôi lại được hân hạnh ngồi gần Phạm
Duy, hân hạnh mà tôi không nỡ từ chối. Con người thật của Phạm Duy hiện
lên trần truồng.
***
Năm
1993, tờ Far Eastern Economic đăng tin Phạm Duy làm đơn xin Việt Cộng
cho về Hànội để sống những ngày cuối đời, nhưng đơn xin đã bị bác. Phạm
Duy đã lên tiếng cải chính.
Hai
năm sau, năm 1995, một tờ báo Việt ngữ (tờ Ép Phê) tại Paris loan tin
cuộc gặp gỡ thân mật tại tòa đại sứ VC tại Paris ngày 7 tháng 1/1995 để
thảo luận về đề tài:
- “Chúng ta cùng hồi hương giúp nước.”.
Tờ
báo đăng tấm ảnh chụp Phạm Duy đứng giữa, một bên là tên đại sứ VC
Trịnh Ngọc Thái, và một bên là Trần Văn Khê. Tờ báo cũng đăng những lời
bợ đỡ Việt Cộng của Phạm Duy…
Phạm Duy đã lên tiếng cải chính.
***
Năm
1997, trong một buổi họp mặt tại Cali, có thi sĩ Cao Tiêu, cựu khoa
trưởng đại học Văn Khoa Sàigòn Nguyễn Khắc Hoạch, học giả Nguyễn Sĩ Tế,
bác sĩ Trần Ngọc Ninh, giáo sư Lê Hữu Mục v,v… Phạm Duy đã tuyên bố bốn
câu bất hủ, đựợc báo chí đăng tải. Câu một: “Tôi có chống cộng bao giờ
đâu, tôi chỉ chống gậy”.
Câu hai: “Ai ngu thì mới thích nhạc của tôi. Nhạc của tôi làm trong cầu tiêu mà”.
Câu
ba: “Tôi phải về Việt Nam . Tôi cần có 8 Ái Vân để hát những bản nhạc
mới của tôi. Ở đây chỉ có một Ái Vân, quả là không đủ.”.
Câu
bốn: “Tôi không đồng ý chống Hồ Chí Minh. Về Việt Nam , chỉ cần nhà
nước trả cho tôi 10 ngàn đô la, tôi sẵn sàng ca tụng Hồ Chí Minh”.
Phạm
Duy đã lên tiếng cải chính, chối không nói những câu vô liêm sỉ đó.
Trong dịp sống chung với GS Mục tại nhà anh Nguyễn Trọng (cựu phóng viên
của hãng Reurer) ở Oklahoma , tôi có hỏi GS Mục về vụ Phạm Duy. GS Mục
quả quyết Phạm Duy có nói những lời vô liêm sỉ.
Tôi tin giáo sư Mục.
Thứ
nhất: những câu nói của Phạm Duy thuộc ngôn ngữ và khẩu khí đặc biệt mà
chỉ Phạm Duy – một kẻ suốt đời không vô liêm sỉ, không vô lễ giáo và
không thèm khát – mới có.
Thứ
hai: giáo sư Mục đã kê khai tất cả những nhân chứng có mặt hôm đó, giáo
sư Mục không thể nào bịa đặt tên tuổi của những nhân chứng.
***
“Ta Tiếc Cho Một Phạm Duy…”.
Đó
là nhan đề một bài tôi viết năm 2002 để phê bình bài hát “ta ngắt đi
một cụm hoa thạch thảo” của Phạm Duy. Nhan đề của tôi bỏ lửng “ta tiếc
cho một Phạm Duy” nhưng nhiều người đã tìm ra hai chữ “cùi hủi” cùng âm
điệu với hai chữ thạch thảo.
Tôi viết bài đó, để thương hại cho một Phạm Duy cùi hủi.
Có ba cái đáng thương hại.
Cái đáng thương hại thứ nhất:
-
Phạm Duy phổ nhạc bài thơ Lá Diêu Bông của Hoàng Cầm, viết Hoàng Cầm
Ca, để ca tụng Hoàng Cầm, một tên văn nô cùi hủi Việt Cộng. Chẳng những
ca tụng Hoàng Cầm, Phạm Duy còn khen vợ cũ của Hoàng Cầm (Tuyết Khanh),
và khen con gái của Hoàng Cầm (Kiều Loan).
Trong
bài “Một Cảm Nhận Chệnh Choạng, Một Hiểu Biết Chệch Choạc”, Hoàng Cầm
từ trong nước đã lên tiếng chửi Phạm Duy thậm tệ. Mà chửi đúng.
Cái đáng thương hại thứ hai:
-
Phạm Duy lấy thơ của Apollinaire (bài Adieu), để làm lời ca cho bài “Ta
ngắt đi một cụm hoa thạch thảo”. Nhưng Phạm Duy đã hiểu sai thơ
Apollinaire. Phạm Duy không đủ trình độ để hiểu thơ Apollinaire.
Cái đáng thương hại thứ ba:
-
Sau quá nhiều tai tiếng, nhất là sau vụ “bốn câu bất hủ”, Phạm Duy đã
phải nhờ một văn phòng luật sư tại Canada lên tiếng minh oan cho cái vô
liêm sỉ của mình. Văn thư minh oan ấy đề ngày 28/9/1998 .
Chúng ta hãy nghe:
-
“Phạm Duy quan niệm và hành động như một người nghệ sĩ phóng khoáng
trong lòng dân tộc và đứng trên mọi thể chế chính trị đối nghịch nhau”.
Và chúng ta hãy nghe:
- “Nhạc sĩ Phạm Duy (cho biết) chỉ về Việt Nam khi đất nước có dân chủ và nhân quyền được tôn trọng”.
***
Mùa
thu năm 1978, tức là cách đây gần 30 năm, con thuyền tỵ nạn của gia
đình nhạc sĩ Ngọc Chánh tới bến Mã Lai. Trên thuyền, có ba người con
trai của Phạm Duy: Phạm Duy Minh 25 tuổi, Phạm Duy Hùng 23 tuổi, Phạm
Duy Cường 21 tuổi.
Khi
nghe tin các con đã cập bến Mã Lai và thoát nạn cộng sản, Phạm Duy đã
sáng tác hai bài ca cho người tỵ nạn, và cho chính nghĩa tỵ nạn.
Tài liệu còn đó, Phạm Duy không thể chối cãi.
Bài ca thứ nhất:
Hát Cho Người Vượt Biển
“Này đoàn người đang vượt biển Đông
Kiếp mong manh như áng mây hồng
Người gửi mình trong vùng đại dương
Treo mạng sống giữa hai sợi tóc
Người chập chờn giữa trời biển rộng
Đã bao nhiêu thành đám thây khô?
Này đoàn người đi tìm tự do
Cứu được người thật là khó.
Này loài người dưới mặt trời soi
Hãy giương to đôi mắt của người
Người và người tất cả ngược xuôi
Đi tìm lẽ sống trong trời đất
Người nào còn tin ở Trời Phật
Với đôi tay thành kính đưa ra
Mời đoàn người đi tìm tự do
Đến chia vui với người
Ôi niềm vui, ôi niềm vui
Của loài người biết thương nhau
Lậy Trời Phật cúi đầu mà coi
Bé thơ ngủ trong bão tơi bời
Lậy Trời Phật xin nhìn ngoài khơi
Ông bà lão nghiến răng cầm lái
Và con lậy xin Ngài Thần Biển
Đoái thương đôi trẻ mới xe duyên
Lậy loài người, tôi lậy tổ tiên
Hãy cho tôi thấy đất liền…”.
Bài ca thứ hai:
Hát Cho Quyền Làm Người
Loài người sinh ra như nhau cùng chung có quyền
Đây trước tiên là quyền sống có tự do
Nhưng sao hàng triệu nhân dân
Đương nhiên bị đoạt mất hết
Quyền ăn nói, tín ngưỡng, hay đi lại?
Từ ngày sinh ra chuyên môn đi cướp quyền
Trên thế gian bọn người khát máu thèm xương
Đi gieo hận thù đau thương
Ra tay độc tài áp bức đời sống dân lành
Thương cho quê hương nơi xưa sống thanh bình
Giờ thành trại giam, nhân dân bị tước nhân quyền
Gia tài tổ tiên, chúng nhóm lửa đốt hết
Trẻ già được liệt vào hàng của súc vật
Trên quê hương ta, ôi tan nát gia đình
Chẳng còn tổ quốc, chúng nó là lũ vô tình
Điên cuồng tự kiêu, chúng nó còn chém giết
Và còn đọa đầy một dân nước nghiệt oan
Loài nguời mau mau cùng xúm lại
Tranh đấu cho quyền người sống có tự do
Ta đang ở ngoài kêu to
Bên trong nổi dậy chiến đấu
ĐỂ GIẾT HẾT CỘNG NÔ
ĐỂ SẼ CÓ NHÂN QUYỀN
***
Như
mọi nguời đã biết: tháng 4 năm nay (2005), sau bao nhiêu lần chạy chọt
hèn hạ bợ đỡ, Phạm Duy đã đạt sở nguyện. Ông đã được Việt Cộng chấp
thuận cho về nước sinh sống, để tiếp tục làm kẻ suốt đời không thèm
khát, không vô liêm sỉ, không vô lễ giáo, không hèn hạ.
Và “ĐỂ GIẾT HẾT CỘNG NÔ”.
Và “ĐỂ SẼ CÓ NHÂN QUYỀN”.
Vĩnh Biệt Phạm Duy !
Du Lam
Thú
thật, tôi rất mê Phạm Duy tới độ gần như là con nghiện, và bên cạnh ông
sự tương hợp dường như có bàn tay mênh mông của tạo hóa xếp đặt nhiều
hơn nghệ thuật, hay một liên doanh kiếm tiền, đó là ca sĩ Thái Thanh,
nhạc Phạm Duy không ít người hát, nhưng những gì tồn đọng, trong lòng
người Việt chỉ từ Thái Thanh, như vật nặng đọng lại và kết dính dưới đáy
ly sau khi đã đổ đi phần nước, sự ví von có hơi khập khiểng, nhưng thực
tế là như vậy. Cũng với Phạm Duy mà Thanh Lan trong Mùa thu chết, cũng
chết khi hết mùa thu, những con cái ông như Duy Quang, Thái Hiền cũng
sống với thập niên 70 tới 75, những : Cô Bắc kỳ nho nhỏ, Hai năm tình
lận đận, Em hiền như Ma
soeur, Tuổi thần tiên, Chú bé bắt được con công, Tuổi hồng,.. v.v… rồi cũng ra đi như cả gia đình ông sau 75.
Cả
đời tôi cho tới hôm nay, vẫn mê nhạc Phạm Duy, nhưng có lẽ cả đời tôi
không có diễm phúc tạn mặt ông một lần, dù hiện tại ông gần tôi hơn cái
cộng đồng người Việt hải ngoại tới những 30 năm, có lẽ chẳng bao giờ tôi
có khả năng sở hữu chiếc vé vào cổng những 500 ngàn đồng tiền Việt nam
cho dù cũng ghiền lắm, với hạng bình dân lao đông thì tạn mặt ông mỗi
lần một tạ gạo cũng loại gạo bình dân, ông đang “Hát rong” ở đất nước
nầy, tôi cũng đang sống ở đất nước nầy. Nhưng đối tượng ngày trở về của
ông không có những thằng tôi, hóa ra ghiền và được thỏa cơn là hai phạm
trù đôi khi trái dấu.
Tôi
biết mặt ông khi tôi còn nhỏ lắm, mười mấy tuổi ngày xưa còn bé lắm,
nhân một tối anh chị tôi dẫn đi xem chiếu bóng miễn phí bỡi đoàn công
tác Dân sự vụ Hoa kỳ về chiếu trong làng, làng quê tôi không chịu ảnh
hưởng chiến tranh nhiều lắm, nên thường có những buổi như thế, cả người
chiếu bóng lẫn người xem không sợ Plactis (chất nổ) của phía bên kia,
tôi được xem Phạm Duy hát bài Giọt mưa trên lá với một người Mỹ, cả hai
cùng mặc bộ bà ba đen cổ kiềng, bộ áo quần ấy không hề giống người dân
quê Việt nam đương thời, mà là sự rập khuôn của cán bộ Bình đình xây
dựng nông thôn; một lần khác, đúng ra tôi có thể gặp Phạm Duy bằng xương
bằng
thịt, khi ông tới Thị xã Đà nẵng hát cho sinh viên học sinh (SVHS), tôi
cũng là một học sinh nhưng của trường huyện lỵ, thế là tôi tới hơi trể,
và chương trình cũng có thay đổi nên lại ôm hận.
Số
là vào năm 1972, hôm ấy theo dự kiến Phạm Duy sẽ tự hát nhạc mình ở
trường Phan Chu Trinh (PCT) – Đà nẵng, theo sự sắp xếp của thị trưởng là
Đại tá Nguyễn Ngọc Khôi, vì là trường lớn và giỏi của thị xã, nhưng vào
giờ chót do chuyến đi được tài trợ của Hội Việt Mỹ, mà hội nầy có cours
bên Nữ trung học Hồng đức nên ông phải sang diễn tại đây, chúng tôi kéo
từ PCT sang Hồng đức thì đã chật ních người, không tài nào chen lọt,
thế là đành đứng ngoài đường Thống nhất (Lê Duẫn bây giờ) nghe ông hát
được nữa bài Ngày trở về thì “chiến tranh” ập tới, bom trứng gà và cà
chua dù không thối, ném từ khán giả lên khán đài, tuy có hàng rào an
ninh do
nhưng Cảnh sát và Quân cảnh họ cũng làm chiếu lệ, bỡi họ biết nguyên
nhân, chứ không phải phá hoại của Việt cộng, những câu chửi bới lớn
giọng, đúng mà sai sai mà đúng, Phạm Duy bán nước, Phạm Duy theo Mỹ,..
v.v… mà những ngày sau tôi mới hiểu ra rằng đó là sự kích động, đúng là
HSSV thời bấy giờ dị ứng với người Mỹ, hai là chuyện tự ái của PCT về
cuộc di tản không bài hát của ông theo yêu cầu Hội Việt Mỹ. Từ đó về sau
nhạc sĩ tài hoa nầy không dám tới miền Trung, còn tôi thì đi học, không
thể có một dịp nào hãn hữu mà vô duyên hơn thế nữa.
Dòng
dời trôi dạt, tôi vào Sài gòn chuẩn bị cho mùa thi Đại học thì miền Nam
rơi vào tay CS, sau 30/4/75, ông ra nước ngoài, tôi trở về với ruộng
vườn quê nhà, trong những ngày bài trừ văn hóa miền Nam dưới tiêu đề
“Bài trừ văn hóa nô dịch, phản động, đồi trụy” trong cả tủ sách phải nộp
cho chính quyền Quân quản, có duy một quyển tôi tiếc tới ngậm ngùi, đó
là Phạm Duy còn đó nỗi buồn của nhà văn Tạ Tỵ; nhưng tôi vẫn âm thầm dấu
lại di sản của cặp bài trùng, đó là cuốn băng cassett Thái Thanh hát
nhạc của ông, những Nghìn trùng xa cách, Còn chút gì để nhớ, Chuyện tình
buồn, Mùa thu chết… mỗi khi nữa đêm, lắng nghe chùng, thấy hay, ngọt
ngào, như cái ngon
của người ăn vụng.
Thời
gian cứ trôi đi như thế, tôi phải kiếm việc làm nuôi miệng, tôi vào làm
cu-li cho nghành đường sắt, cuộc đời rày đây mai đó trên các tuyến, mà
hầu hết ở miền quê, hay vào sâu những vùng còn hoang sơ, cứ đêm về,
chúng tôi lại cùng nhau ôm cây guita cũ rích, nứt thùng, hát cho nhau
nghe những tác phẩm của ông, mặn mà tình tự, bên những chén rượu nấu từ
mật mía, những thứ tiện nghi nho nhỏ ấy làm vơi đi kiếp lưu đày hằng
ngày chúng tôi phải sống, mong cho đêm về trút hết bằng những lời ca,
cũng nhờ thế mà cuộc đời có thể vượt qua và ông thành tri kỷ, một thứ
tri kỷ nhận vơ qua những tiếng đàn.
Tôi
lại mang theo ông ra tới chiến trường biên giới, từ những ngày đầu năm
1977, tôi vào bộ đội, tôi mang ông theo trong trí nhớ có thiên vị của
mình, so với Vũ Thành An và mười bài không tên, hay Từ Công Phụng, Ngô
Thụy Miên, cũng là những người tôi thích, nhưng họ chỉ chiếm một phần
nào, thời bấy giờ tôi nghiễm nhiên là quân nhân Cách mạng (CM), anh bộ
đội cụ Hồ, tôi hát thoải mái hơn vì không ai chụp cho tôi chiếc mũ đen
phản động, tôi đang cầm súng trong chiến hào cộng sản (CS), làm sao có
thể phản động được kia chứ? Thời gian nầy tôi đặc biệt dị ứng với Trịnh
Công Sơn đã một thời phản chiến làm đời tôi chung với nhiều cuộc đời tàn
tạ, nhất là
tôi tạn mặt anh ta trên chuyến tàu thống nhất đầu tiên ra bắc buổi
khánh thành. Với suy nghĩ cực đoan của tôi anh ta là kẻ xu thời, một thứ
CM ba mươi như cả miền Nam vẫn gọi.
Những
bài ca tình tự của Phạm Duy với tôi khi làm người lính có nhiều hạn
chế, lính miền Nam NVQS (?) còn sợ sệt chính trị viên, nhất là lúc dừng
quân sau một trận đánh, sợ cho là làm “Yếu lính” với sự ủy mị, cũng
chẳng thể cây dài bóng mát gì ở xứ Chùa Tháp Ăng co trong mùa khô, mùa
tổng phản công, những cánh rừng tàn tạ, nước khô kiệt, có khi phải đái
vào khăn tay rồi vắt uống lại cho đỡ khát, nhưng Phạm Duy thần tình, lỗi
lạc, hợp cảnh hợp tình, với Áo anh sứt chỉ đường tà phổ Màu tím hoa sim
của Hữu Loan, hay Bà mẹ Gio linh, hoặc xa tới đồng bằng Bắc bộ với
Tiếng hát sông Lô, với Thương binh, Mùa đông binh sĩ, và làm mũi lòng
người lính cả ngài
Chính trị viên cũng không bỏ dỡ với Ngày trở về, chiến cuộc phải hay
quấy thuộc về các nhà chính trị cấp trung ương (TW), còn người lính, đạn
bom không cần biết đúng sai, không chọn người mà gặp, nghĩ thân phận
mình ai cũng mũi lòng nếu… ngày trở về, anh bước lê trên quãng đường đê,
đến bên lũy tre… rất Việt nam, khác với những rừng thốt nốt.
Rồi
chiến tranh cũng dần im ắng, chúng tôi buồn, buồn lắm ở chỗ không phải
một mà quá nhiều người nằm xuống, bài Cho người vừa nằm xuống như lời từ
giả bạn bè, đồng chí, đồng hương chưa mang xác về quê nhà. Chúng tôi
hồi hương vào nữa đầu năm 80, bỏ bạn bè còn nằm đó những nấm mồ chưa có
cỏ, chẳng dám có tên mà chỉ có một bảng số cho mỗi con người. Hành quân
về tới Thanh An là căn cứ đồn Tàm trước 75 khốc liệt của Cao nguyên đất
đỏ, chúng tôi biết mình còn sống, dừng lại một đêm nhìn khoảng trống
mênh mông của nghĩa trang quân đội tạm thời cũng toàn biển số, mà nơi
đây, hôm nào đi qua là những cánh rừng còn hoang sơ như chưa có bóng
người,
không phải chỉ bạn mình mà người trong cả nước, họ còn nằm đây cả, đêm
đó chúng tôi không ngủ, lại tới với Phạm Duy, ngày mai chúng tôi sẽ tới
với … Em Pleiku, má đỏ môi hồng, ở đây buổi chiều quanh năm mùa đông…
thế là không ai bảo ai, bài hát ấy thành bài đồng ca đậm hơi, thuốc lá
đá thuốc Lào, chúng ta những người còn sống, ngày mai chúng ta diện kiến
với còn chút gì để nhớ, làm…anh khách lạ, đi lên, đi xuống, ..những một
tháng trời an dưỡng trước khi ra quân thì … May mà có em, đời còn dễ
thương… những ngày trú tại Pleiku là đế vương của lính thật, cà phê
ngon, không gian ấm cúng, trời se se lạnh, đúng là ông Hữu Định hòa
quyện với nốt nhạc tài hoa của Phạm Duy có tới đây rồi mới thấy, các em
Pleiku cứ giạt ra trước
cửa rạp chiếu bóng Diệp kính, nhường đường cho mấy “chú bộ đội” xem
phim chùa không mất tiền mà lại ưu tiên, lính chiến về thành phố cũng có
cái hay ấy, chúng tôi cứ ngông nghênh bất cần đời, và lúc nầy cũng cực
đoan, cứ áo xanh (lính) ở đâu thì áo vàng (công an) trốn biến, còn không
là có chuyện nổ súng.
Ngày
tháng đi qua không nhanh với nỗi sốt ruột, mong gặp cha mẹ để mừng,
nhưng không thể chuồn được, chín đấm chịu rồi còn một đá có trẹo hông
cũng phải theo, thế là những …Gánh lúa, Bà mẹ quê được soạn ra để dỗ
dành lòng mình nên cố gắng, ngày xuống núi rồi cũng tới. Họ khôn thật,
một tháng ăn chơi trên cao nguyên, chúng tôi như giũ sạch chiến tranh,
mập, trắng ra, áo quần mới tinh tiến về đồng bằng, quê nhà tôi, bà mẹ
quê có già đi vì chờ đợi, giọt nước mắt mừng rỡ ứa ra của cả hai mẹ con,
thế là mẹ tôi không bao giờ làm Bà mẹ Gio linh…
Từ
đó cho tới mấy năm sau tôi cứ sáo mòn với những bài trước 75 của Phạm
Duy, không từ một bài nào tôi thuộc, những tháng ngày thổ tả, cơm không
đủ no ông lại cần thiết hơn như vị cứu tinh làm vơi cơn đói, cả nước họ
đều như vậy thì mình cũng chẳng thể hơn; Cho tới một ngày, có người quen
từ Sài gòn ra cho một cuốn băng, cũng nhạc Phạm Duy như cũ, tiếng hát
Thái Thanh nhưng không nghe mặn mà gì, có thể bà ấy có tuổi, cũng có thể
bà ấy không có không gian Việt nam tăng thêm diễn cảm, và cũng có thể
tôi chưa kịp cập nhật thứ nhạc cụ điện tử ở Hải ngoại họ hòa âm, phối
khí chăng? Tôi cất giữ nhưng không thường nghe như cuốn băng của tôi
từng cất
giấu, nhạc hải ngoại du nhập nhiều hơn và nhà nước cũng không còn căng
thẳng với nó, có quen dần nhưng vẫn không thấy hay, do Thái Thanh hay do
Phạm Duy thiếu thiếu một cái gì không hình dung được… những Mẹ năm
2000, hay Một mai tôi sẽ chết,… v.v… tôi không chú ý nên chẳng nhớ
nhiều.
Tới
hôm nay, nghe tin ông trở về ở luôn quê nhà trước tin ông “Chết” tôi
ngậm ngùi, tôi nuối tiếc một thiên tài âm nhạc, tôi không rõ vì sao ông
trở về? Bên nước Mỹ bây giờ cũng ăn cơm bằng đũa như ở VN, cũng có phở
với giá trụng hơi sông sống, cuộc đời từng có lúc làm du ca, hay ông
chưa thỏa mãn với kiếp du ca ngắn ngũi trước 75? Hay ông cần tiền với
giá vé nữa triệu một ghế? Cũng bộn xu thật, hay chính ông muốn nắm xương
mình chốn trên đất mẹ VN? Ông đã chết ! mọi lý giải đều vô ích, tôi
không tự tìm ra cho mình một lời giải thích nào tương đối hợp lý, nhưng
tôi tiếc cho một kiếp người tài hoa lại bạc mệnh lúc cuối đời, chết mà
không hề trăn
trối với những ca sĩ, nhạc sĩ nghiệp dư như tôi, một con nghiện nặng đô
chưa từng thỏa mãn cơn ghiền, nghe tin ông tự tử, trước khi chết.
Ông
không trăn trối gì, ông chỉ nói những điều vớ vẫn với bọn người vớ vẫn,
họ không cần ông gần cả đời ông, bỡi quảng thời gian ấy họ căm thù ông
là tên phản động, một lần bỏ kháng chiến theo giặc vào Nam, còn gọi là
“Quân đuổi Pháp quá đà” rồi lần khác sau 20 năm ông đói bơ khát sữa, ông
không giống họ bao giờ, mà khác nhau như hai thái cực, ông nghệ thuật
vị nghệ thuật, họ nghệ thuật vị nhân sinh, làm thế nào mà cuối kiếp
người ông lại vị nhân sinh một cách hoang phí như thế nhỉ?
Thôi
thì cứ đổ tại số trời, ông chết đi thay vì để lại lòng thương cảm từ
những người đi cùng ông xa xứ, ông cũng nên cảm ơn 30 năm qua chính họ
góp tiền nuôi sống, là vé máy bay cho cả gia đình ông tới nữa vòng trái
đất, là nhà ông mới mua ở đất Sài gòn, tôi không tin CS sẽ L’amour c’est
pour rien, Tình cho không với ông những tiện nghi hôm nay ông đang có,
thế thì tại sao ông lại nói ra những lời vớ vẫn phụ tình? Hay thời trai
tráng ông có quá nhiều những cuộc tình với cả Tây trong Mùa thu Paris,
Tiễn em, hay thân tình gần gũi với Tạ Tỵ nói ra, để rồi bây giờ ông bị
mắc lời nguyền nên ông tự sát?
Cũng
còn cố gắng níu kéo với ông một điều đôi khi tuổi già làm con người
nghễnh ngãng không kiểm soát hành vi? Thế là, cả đời tôi với ước mơ một
lần tạn mặt, chẳng còn bao giờ có thể khi ông đã ra đi, tôi mong ông một
chiến sĩ chiêu hồi, một lần bên nầy và một lần bên kia, thi thể ông sẽ
được chôn trong nghĩa trang Mai dịch, nơi những công thần chế độ yên
giấc nghìn thu.
Vĩnh
biệt ông mà bên tai tôi còn văng vẵng giọng hát của ông cùng với Khánh
Ly trong Album 50 năm đời vẫn hát của chị,… một mai tôi sẽ chết trên
đường về nơi cõi hết, tôi sẽ đem theo với tôi những gì đây?… tôi không
đem theo với tôi được tiền tài hay danh vọng, tôi không đem theo với
tôi… những tượng đồng bia đá trắng… những khát vọng tiếng anh hùng…
DU LAM
Những gì đem theo khi về cõi chết / Phạm Duy
Giáo Sư Trần Văn Khê / Phạm Duy
Đời Sống Phạm Duy
Ái Vân / Chú Cuội
Phỏng Vấn
Phạm Duy: Cũng Một Kiếp Người!
Nguyễn Thiếu Nhẫn
Hỡi ơi! Cũng một kiếp người
Kẻ thì lưu xú, người thời lưu danh!
LTG: Theo tin báo chí trong nước thì nhạc sĩ Phạm Duy đã qua đời vào ngày 27-1-2013, hưởng thọ 92 tuổi.
Cách đây 18 năm, năm 1995, khi nhạc sĩ Phạm Duy tổ chức ra mắt Hồi Ký, tôi có viết bài “Phạm Duy vẫn ở thôn Đoài”, tựa lấy từ một bài viết của nhà thơ Trần Dạ Từ.
Năm 2005, tôi bổ sung thêm một số chi tiết sau khi nhạc sĩ Phạm Duy tuyên bố những lời nịnh bợ VC để xin xỏ về nước, trả lời phỏng vấn vung vít nhục mạ người Việt hải ngoại trên các báo ở trong nước. Và đổi tựa bài viết thành “Phạm Duy vĩnh biệt thôn Đoài”.
Mới đây, tình cờ đọc bài phỏng vấn Phạm Duy của trang mạng Việt ngữ của đài BBC, thấy những câu trả lời của Phạm Duy mà tội nghiệp cho nhân cách của ông ta.
Ai cũng biết cái trang mạng Việt ngữ của đài B(ọn) B(ọ) C(hét) là cái trang mạng của tên tay sai VC Nguyễn Giang.
Trang mạng này hết đưa bài viết của ả Tiến sĩ mén Đỗ Ngọc Bích, đến đưa bài phỏng vấn tên Tướng nằm vùng Nguyễn Hữu Hạnh để nhục mạ chế độ VNCH.
Mới đây, tên này lại viết bài ca tụng cuốn sách “Bên Thắng Cuộc” của ký giả VC Huy Đức lên tới tận mây xanh.
Tất cả những việc làm này đều có mục đích phân hoá cộng đồng người Viêt tỵ nạn cộng sản theo chủ trương, đường lối của nghị quyết 36.
Khi đài BBC hỏi: “Ở Phillipines, ông đã viết “Tị nạn ca”, “Nhục ca” có đúng không?”
Nghe Phạm Duy trả lời: “Những bài đó là những bài soạn ra trong lúc hoảng hốt, không nên nhắc đến làm gì. Tôi quên rồi”, nghe thiệt là tội nghiệp cho thân phận những kẻ hàng thần!
Đài BBC hỏi: “Bài “Quê nghèo” thì ông diễn tả điều gì?”
Phạm Duy trả lời: “Tôi không xa kinh kỳ sáng chói”, có những ông già “Cày bừa thay trâu” thì khổ quá. Đó là một bài mà nhiều người VN rất cảm động, rất thích, là bởi tôi nói được những cái đó lên”.
Rất là chua xót khi nghe nhạc sĩ Phạm Duy tự khoe mình là “nói lên được cái cảnh có những ông già cày bừa thay trâu từ mấy mươi năm trước”; nhưng nay nhạc sĩ Phạm Duy không chịu nói lên dùm những cái thảm cảnh của những phụ nữ mà cả mẹ con phải khoả thân để giữ lại mảnh đất để cày bừa sinh sống mà bọn công an VC nó vẫn nhẫn tâm lôi đi sềnh sệch như lôi những con vật để chiếm đất của người dân!
Và càng mỉa mai hơn khi trang mạng Việt ngữ của đài BBC đi cái titre: “Tôi về đây là vì tôi yêu nước” bên cạnh bức ảnh của một ông già trên 90 tuổi là nhạc sĩ Phạm Duy. (xem link: http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2012/12/121219_phong_van_pham_duy_phan_2.shtml)
Kẻ thì lưu xú, người thời lưu danh!
LTG: Theo tin báo chí trong nước thì nhạc sĩ Phạm Duy đã qua đời vào ngày 27-1-2013, hưởng thọ 92 tuổi.
Cách đây 18 năm, năm 1995, khi nhạc sĩ Phạm Duy tổ chức ra mắt Hồi Ký, tôi có viết bài “Phạm Duy vẫn ở thôn Đoài”, tựa lấy từ một bài viết của nhà thơ Trần Dạ Từ.
Năm 2005, tôi bổ sung thêm một số chi tiết sau khi nhạc sĩ Phạm Duy tuyên bố những lời nịnh bợ VC để xin xỏ về nước, trả lời phỏng vấn vung vít nhục mạ người Việt hải ngoại trên các báo ở trong nước. Và đổi tựa bài viết thành “Phạm Duy vĩnh biệt thôn Đoài”.
Mới đây, tình cờ đọc bài phỏng vấn Phạm Duy của trang mạng Việt ngữ của đài BBC, thấy những câu trả lời của Phạm Duy mà tội nghiệp cho nhân cách của ông ta.
Ai cũng biết cái trang mạng Việt ngữ của đài B(ọn) B(ọ) C(hét) là cái trang mạng của tên tay sai VC Nguyễn Giang.
Trang mạng này hết đưa bài viết của ả Tiến sĩ mén Đỗ Ngọc Bích, đến đưa bài phỏng vấn tên Tướng nằm vùng Nguyễn Hữu Hạnh để nhục mạ chế độ VNCH.
Mới đây, tên này lại viết bài ca tụng cuốn sách “Bên Thắng Cuộc” của ký giả VC Huy Đức lên tới tận mây xanh.
Tất cả những việc làm này đều có mục đích phân hoá cộng đồng người Viêt tỵ nạn cộng sản theo chủ trương, đường lối của nghị quyết 36.
Khi đài BBC hỏi: “Ở Phillipines, ông đã viết “Tị nạn ca”, “Nhục ca” có đúng không?”
Nghe Phạm Duy trả lời: “Những bài đó là những bài soạn ra trong lúc hoảng hốt, không nên nhắc đến làm gì. Tôi quên rồi”, nghe thiệt là tội nghiệp cho thân phận những kẻ hàng thần!
Đài BBC hỏi: “Bài “Quê nghèo” thì ông diễn tả điều gì?”
Phạm Duy trả lời: “Tôi không xa kinh kỳ sáng chói”, có những ông già “Cày bừa thay trâu” thì khổ quá. Đó là một bài mà nhiều người VN rất cảm động, rất thích, là bởi tôi nói được những cái đó lên”.
Rất là chua xót khi nghe nhạc sĩ Phạm Duy tự khoe mình là “nói lên được cái cảnh có những ông già cày bừa thay trâu từ mấy mươi năm trước”; nhưng nay nhạc sĩ Phạm Duy không chịu nói lên dùm những cái thảm cảnh của những phụ nữ mà cả mẹ con phải khoả thân để giữ lại mảnh đất để cày bừa sinh sống mà bọn công an VC nó vẫn nhẫn tâm lôi đi sềnh sệch như lôi những con vật để chiếm đất của người dân!
Và càng mỉa mai hơn khi trang mạng Việt ngữ của đài BBC đi cái titre: “Tôi về đây là vì tôi yêu nước” bên cạnh bức ảnh của một ông già trên 90 tuổi là nhạc sĩ Phạm Duy. (xem link: http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2012/12/121219_phong_van_pham_duy_phan_2.shtml)
Xin thưa ngay đây chỉ là cái tựa của một bài viết để quý vị có quen biết với nhạc sĩ Phạm Duy khỏi thắc mắc, chất vấn vì ông ta ở Midway City mà ông ta thường dịch ra là “Thị Trấn Giữa Đường” chớ đâu có ở thôn Đông, thôn Đoài nào đâu mà bảo là Phạm Duy vĩnh biệt …thôn Đoài!
Vào năm 1995, chúng tôi có viết bài “Phạm Duy vẫn ở thôn Đoài”, lấy từ tựa đề do nhà thơ Trần Dạ Từ đặt, và tờ báo đăng tải bài viết này là tạp chí Thế Kỷ 21. Vào khoảng năm 1993, khi mới định cư ở Thụy Điển, nhà thơ Trần Dạ Từ được nhạc sĩ Phạm Duy nhờ viết lời giới thiệu cho quyển Hồi Ký. Trong bài viết đại ý nhà thơ ca ngợi là tù nhân ở nơi nhà thơ bị giam giữ là trại tù Phan Đăng Lưu rất “biết ơn” nhạc sĩ Phạm Duy đến nỗi cứ khi vắng mặt cai tù là các tù nhân bèn “ới” nhau “Phạm Duy đi”, tức mang nhạc Phạm Duy ra mà hát.
Dù thiên kiến đến thế mấy, chúng ta cũng không thể phủ nhận nhạc sĩ Phạm Duy là một thiên tài đã đóng góp rất nhiều cho nền âm nhạc Việt Nam. Chúng ta “mang ơn” Phạm Duy cũng như chúng ta đã “mang ơn” Nguyễn Trãi với “Bình Ngô đại cáo”: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân/Quân điếu phạt chỉ vì khử bạo”; mang ơn thái-sơn-lục-bát Nguyễn Du với “chữ tài liền với chữ tai một vần/Hải đường lả ngọn đông lân/Giọt sương treo nặng cành xuân la đà/Rằng trong lẽ phải có người, có ta”; mang ơn Nguyễn Đình Chiểu với “Trai thời trung hiếu làm đầu/Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình”; mang ơn Lam Phương với “em ơi nếu một không thành thì sao/Non cao đất rộng biết đâu mà tìm?... Tàu đưa ta đi tàu sẽ đón ta về. Quê hương sẽ sống lại yêu thương…” v.v…
Với bài viết này, người viết không làm chuyện khen phò mã tốt áo! Cũng không có ý đả kích nhạc sĩ Phạm Duy. Chúng tôi chỉ xin ghi lại những bài báo ở hải ngoại cũng như ở trong nước có liên quan đến nhạc sĩ Phạm Duy, để độc giả có cái nhìn chính xác về những việc làm của nhạc sĩ Phạm Duy.
*
-Bài thứ nhất là một trích đoạn trong bài “Buồn vui Cali”, tác giả là Người Cali, đăng trong tạp chí Dân Chủ Mới số 43, phát hành vào tháng 6 năm 1995, như sau:
“…Thêm một Phạm Duy, ngày xưa nhà cao cửa rộng, con cái toàn làm lính kiểng, nhờ những bài “Tình ca”, “Kỷ vật cho em”… chửi Cộng sản và mang tình tự dân tộc, giờ đã mấy phen xin về Việt Nam nhưng bị tụi Việt Cộng từ chối. Ông “già không nên nết này” đã trả lời cuộc phỏng vấn của nhật báo “Người Việt” ra ngày thứ Sáu 28-4-95 trong bài “Cảm nghĩ của người Việt hải ngoại về 30/4”, do ký giả Lý Kiến Trúc thực hiện rằng: “Trong hai mươi năm thế giới đã đổi thay, Berlin đã thay đổi thì tất nhiên Hà Nội cũng phải thay đổi. Và tôi, tôi cũng thay đổi cái suy nghĩ của tôi, cũng như một số người khác, về cuộc sống ở đây. Ví dụ như những năm đầu đến Mỹ, tôi nghĩ có lẽ tôi sẽ sống và chết ở đây, nhưng hôm nay tôi lại thấy tôi có thể về được. Đừng bắt tôi suy nghĩ như năm bảy mươi nhăm. Về cái cuộc sống của tôi, thì trước kia tôi chuẩn bị chết ở đây, còn bây giờ tôi chuẩn bị chết ở Việt Nam. Điều đó có ảnh hưởng đến công việc làm. Như trước kia, tôi cũng như mọi người, chống một cái gì đó đến tận cùng… cho đến bây giờ cái lối chống cũ nó không cải tiến được, nên cũng chẳng gọi là theo được.”
Để kết thúc bài phỏng vấn, nhật báo Người Việt hỏi nhạc sĩ Phạm Duy cảm tưởng về ngày 30-4, ông hoan hỉ trả lời: “Tôi rất vui mừng, vì tôi cảm thấy cái ngày tôi chết… tôi sẽ chết tại quê hương, chứ không phải tôi sống tại quê hương, không lâu đâu…”
Đó, những lời tâm huyết của một thiên tài âm nhạc của Việt Nam Cộng Hòa trước đây như thế đấy! Nhà thiên tài đã viết trong cuốn hồi ký của đời mình rằng ông ta đã từng “có hơn hai trăm mối tình mật thiết với đàn bà” trong thời gian ông ta nổi tiếng và đã có gia đình, “bỏ vùng Cộng sản về với Quốc Gia vì sinh kế, chứ không phải vì lý tưởng…”
-Bài thứ hai, được đăng ở trang 26, tạp chí Thời Sự số 2 ở Florida như sau:
“Nhạc sĩ Phạm Duy có chụp hình chung với Đại sứ Việt Cộng hay không?”
Gần đây có một vài tờ báo đưa tin nhạc sĩ Phạm Duy đã đến tòa Đại sứ CS Trịnh Ngọc Thái vào ngày 7-1-95. Tin này đã gây xôn xao dư luận không ít trong hàng ngũ những người Quốc Gia từng yêu mến một nghệ sĩ tài ba tên tuổi như nhạc sĩ Phạm Duy.
Chúng tôi đã gặp nhạc sĩ Phạm Duy và đã được nhạc sĩ cho biết như sau:
“Tôi xin khẳng định với quý anh là Phạm Duy này không hề quen biết với ông đại sứ Trịnh Ngọc Thái bao giờ để mà nói câu như thế, cũng chưa từng chụp hình với ông ấy. Bức hình mà một số báo đưa ra là hình tôi chụp với một người bạn thân tên Nguyễn Văn Tuyên tại nhà riêng của ông ấy, chứ không phải Đại sứ Cộng sản Trịnh Ngọc Thái.”
Nhạc sĩ Phạm Duy còn cho biết ông đã yêu cầu tờ Ép-Phê ở Paris do ông Trần Trung Quân chủ trương đăng tin sai phải đính chính, nếu không ông sẽ đưa ra tòa về tội vu cáo. Tạp chí Ép-Phê đã đăng lời “cáo lỗi” trên mặt báo, nguyên văn như sau:
“Cáo lỗi
Trong ấn bản số 4, phát hành tháng 2-1995, nơi trang 12, phóng viên Dương Thiện Ý đã viết: “Nhạc sĩ Phạm Duy tuyên bố: Tôi bỏ chiến khu đi ra thành chẳng qua vì cuộc sống kinh tế. Thực tâm mà nói, 40 năm nay tôi chẳng ưa thích gì ‘bọn ngụy miền Nam’, cùng với một tấm hình với lời ghi chú: ‘Từ trái qua phải: Đại sứ VC Trịnh Ngọc Thái, Phạm Duy và ông Trần Văn Khê.’
Nay phối kiểm lại, nhạc sĩ Phạm Duy cho biết ông chỉ chụp hình chung với ông Trần Văn Khê và một người bạn thân chứ không phải là đại sứ VC Trịnh Ngọc Thái, cũng như chưa bao giờ tuyên bố câu nói trên. Thành thật xin lỗi nhạc sĩ Phạm Duy về sự sơ suất ngoài ý muốn này
Tạp chí Ép-Phê.”
-Bài thứ ba là một trích đoạn trong bài “Từ Chế Lan Viên đến Nam Chi – 4 Điểm Chiến Thuật Trong Âm Mưu Du Kích Văn Hóa của Cộng sản” của tác giả Trần Ngọc Lũ, đăng trên tạp chí Tân Văn số Xuân Mậu Thìn như sau:
“… Có lần trong bài viết có tựa đề ‘Văn hóa thực dân mới chết hay chưa chết?’ đăng trên tạp chí Văn Học, Hà Nội số 5-6-1985. Chế Lan Viên quai mỏ ra chửi rủa Phạm Duy:
“Cái anh nhạc sĩ dân ca, dâm ca, tục ca từng tuyên bố: “Moa thì có lý tưởng mẹ gì ngoài tình và tiền”, anh ấy năm kia lại giở trò lý tưởng rồi. Đêm ấy tôi ở Bruxelles (Bỉ) đang nói chuyện với anh chị em Việt kiều, thì cách chỗ tôi một cây số thôi, Phạm Duy cùng đoàn nghệ thuật của anh ta đang thóa mạ Tổ quốc.”
Hai năm sau, trên tạp chí Sông Hương số 21, xuất bản tại Huế vào tháng 9-86, cũng lại Chế Lan Viên viết về Phạm Duy, nhưng giọng điệu khác hẳn. Tưởng như lúc này cuối năm 1986, Chế Lan Viên vừa viết vừa cầm khăn mù-xoa thút thít:
“Mất Phạm Duy, chúng ta tiếc lắm, vì anh có tài lớn. Nhưng chúng ta làm sao được! Anh ấy bỏ chúng ta chứ chúng ta đâu có bỏ anh. Hồi đi Bình Trị Thiên với tôi năm 49, anh viết “Bên ni, bên tê”, “Bà mẹ Gio Linh” rất xúc động. Nhưng anh đã “dinh tê” về Hà Nội…
Sau chiến thắng vĩ đại của ta hồi năm 75, hình như anh lại xúc động lại. Anh Trần Văn Khê ở Pháp về, hỏi ý kiến anh Tố Hữu, anh Tố Hữu bảo “bỏ khúc giữa, lấy khúc đầu và khúc đuôi.” Nghĩa là quên đi thời Phạm Duy theo Pháp và theo Mỹ, chỉ nhớ cái gì đẹp nhất trước kia và nên, sau này…
… Chúng ta kiên trì, nhưng biết làm sao được! Nếu Phạm Duy cóc cần sự kiên trì ấy, 1979 tôi đang ở thủ đô Bruxelles của Bỉ. Đêm ấy cách chỗ tôi 800 mét, đoàn của Duy đang biểu diễn và chửi rủa chúng ta. Tôi chỉ biết nhắn:
-Mọi người đều tùy thích có thể yêu thương hay nguyền rủa trong đời. Nhưng tổ quốc chúng ta đang ốm… Cần gì phải chửi, chờ cho mẹ khỏe ra, giàu lên rồi ai muốn đi đâu thì đi.”
Hai bài viết, cách nhau hai năm. Vẫn cũng một người viết về một người khác mà sao giọng điệu cứ như nước với lửa? Tôi không nói đến sự ngụy biện cố tình đồng hóa Tổ quốc với chế độ Cộng sản của Chế Lan Viên. Chỉ xin bạn đọc lưu ý sự khác nhau trong hai bài viết về cách gọi tên. Ở bài đầu, viết 1984, đăng báo 1985, là “cái anh nhạc sĩ”, “anh”, “anh ấy”…một cách trịch thượng hằn học, xấc láo. Ở bài dưới, viết và đăng cuối 1986, ngược lại, rất ngọt ngào. Hoặc gọi là “anh”, “anh Phạm Duy”. Ra vẻ kính mến. Hoặc gọi “Phạm Duy” không. Ra vẻ thân mật. Hoặc gọi là “Duy” thôi. Ra chừng âu yếm.
… Tại sao bỗng dưng Chế Lan Viên viết về Phạm Duy và đổi giọng ngọt nào với Phạm Duy?
Câu trả lời đầu tiên là: nhờ Trần Văn Khê.
Hãy để ý đến câu văn thật ngắn trong đoạn viết về Phạm Duy của Chế Lan Viên mới dẫn ở trên: “Anh Trần Văn Khê ở Pháp về, hỏi ý kiến anh Tố Hữu…” Trần Văn Khê hỏi ý kiến Tố Hữu về việc gì? Về Phạm Duy. Trước khi đi hỏi ý kiến, Trần Văn Khê làm gì? Báo cáo. Có lẽ nắm bắt được một nét giao động, buồn nản nào đó trong tâm lý Phạm Duy những ngày khắc khoải lưu xứ ở nước ngoài. Trần Văn Khê về báo cáo ngay với “lãnh đạo” bàn bạc ra lệnh. Kẻ thừa hành là Chế Lan Viên. Đoạn viết về Phạm Duy của Chế Lan Viên là một nỗ lực “chiêu dụ” trong âm mưu du kích văn hóa của Cộng Sản nhắm vào Việt kiều.
-Bài viết thứ tư, do tạp chí Làng Văn ở Canada đăng tải, đại ý cho biết trong lần gặp gỡ học giả Lê Hữu Mục ở Quận Cam, nhạc sĩ Phạm Duy đã tuyên bố là “ông ta sáng tác nhạc trong cầu xí”, là “ông ta không chống Cộng , chỉ có chống gậy mà thôi”, và “nếu ai cho ông ta 10 ngàn đô-la ông ta sẽ sáng tác nhạc ca tụng Hồ Chí Minh (sic!)”. Dư luận rùm beng lên. Nhạc sĩ Phạm Duy tuyên bố ông ta không có tuyên bố những lời bậy bạ như thế và cho biết sẽ mướn luật sư kiện tờ báo nào đã vu cáo cho ông ta, nhưng không hiểu vì sao, sau đó, mọi chuyện đều chìm xuồng.
Ít lâu sau, cũng theo tin báo chí, nhạc sĩ Phạm Duy đã được VC cho phép về Việt Nam. Khi trở lại Hoa Kỳ ông ta tuyên bố sẽ về Việt Nam mở hai quán cà phê lấy tên “Phạm Duy”, một tiệm ở Hà Nội, một tiệm ở Sàigòn thì tha hồ mà hốt bạc (sic!).
-Bài viết thứ năm là một bài phỏng vấn do phóng viên Nguyễn Đông Thức của tuần báo Tuổi Trẻ ở trong nước, có nội dung như sau:
Phóng viên (PV): 30 năm qua, ông vẫn sáng tác đều đặn?
-Phạm Duy (PD): Vâng. 30 năm ở Mỹ, tôi viết được khoảng 300 ca khúc. Và riêng trong 10 lần về nước bốn năm qua, tôi đã viết được tập Hương ca, gồm 10 ca khúc về quê hương, bắt đầu với Trăm năm bến cũ (phổ nhạc bài thơ Về thôi của Lưu Trọng Văn), Hương rừng (phổ vài câu thơ trong Hương rừng Cà Mau của Sơn Nam), Lời mẹ dặn (phổ thơ Phùng Quán)… và kết thúc bằng Tây tiến (thơ Quang Dũng), thể hiện sự hùng tráng của dân tộc Việt… Mong ước thứ ba hiện nay của tôi là được giới thiệu các ca khúc này với đồng bào trong nước.
-PV: Mong ước thứ ba, ở tuổi 85? vậy còn thứ nhì, thứ nhất?
-PD: Tôi vừa nộp đơn xin Nhà nước Việt Nam cho phép phổ biến 9 ca khúc cũ của tôi, gồm 5 ca khúc tôi viết trong thời gian dân tộc kháng chiến chống Pháp (Tình ca, Bà mẹ Gio Linh, Quê nghèo, Nương chiều, Ngày trở về) và 4 ca khúc phổ thơ (Áo anh sứt chỉ đường tà - phổ Màu tím hoa sim của Hữu Loan, Ngậm ngùi - thơ Huy Cận, Mộ khúc – thơ Xuân Diệu, Thuyền viễn xứ - thơ Hà Huyền Chi). Đây chính là mong ước thứ nhì của tôi. Nhưng điều mà tôi đang thiết tha mong đợi nhất chính là được trở về sống và làm việc hẳn ở quê nhà. Tôi mong được về hẳn, đưa tất cả con cái cùng sự nghiệp của mình về…
-PV: Vì sao và từ khi nào ông muốn về?
-PD: Năm 1994, tôi được anh Lưu Trọng Văn – là con của một người bạn tôi, nhà thơ Lưu Trọng Lư - tặng cho bài thơ Về thôi. Có mấy câu đã làm tôi hết sức xúc động và quyết định phải về: Về thôi… Làm gì có trăm năm mà chờ. Làm gì có kiếp sau mà đợi… Vâng, thật sự tôi đã muốn về từ lâu. Tôi đã quyết định chuyển sang bước sáng tác mới. Bài “Về thôi” của anh Văn càng cho tôi thấy rõ tôi chẳng còn được bao năm nữa, đã muốn làm gì thì phải làm ngay thôi…
-PV: Nếu được cho phép trở về, ông sẽ làm gì?
-PD: Tôi sẽ viết thêm một số ca khúc về quê hương sau một chuyến đi xuyên Việt, tiếp tục nghiên cứu dân ca và sẽ xin phép được… biểu diễn.
-PV: Ông vẫn có thể hát ở tuổi này?
-PD: Chứ sao!
Và nhạc sĩ Phạm Duy lập tức hát cho tôi nghe bài Trăm năm bến cũ. Tôi nhìn người nhạc sĩ già đang nhắm mắt say sưa hát và thầm nghĩ cuộc hành trình “nghìn trùng xa cách” về lại bến cũ của ông chắc chắn sẽ không chút dễ dàng, nhưng quả thật ông không còn nhiều thời gian để có thể chờ đợi lâu hơn. Dù ông đã có làm gì đi nữa thì tôi vẫn tin trong sự rộng mở của dân tộc Việt, sau cùng ông sẽ thực hiện được mong ước lớn cuối đời: về với quê nhà, với nơi chốn đã từng cho ông viết những câu “Tôi yêu tiếng nước tôi, từ khi mới ra đời…” và nhiều ca khúc nữa một thời đã làm rung động biết bao người.”
-Bài viết thứ sáu là bài “Nhạc sĩ Phạm Duy, những dự định, niềm vui và niềm tin” được đăng tải trên bán nguyệt san Trẻ, số 174, phát hành ngày 15-02-2005. Tạp chí Trẻ có tòa sọan tại Westmister, Nam California. Đây là một số trích đoạn trong bài phỏng vấn này:
-Bác nghĩ như thế nào khi 30 năm qua Nhà nước Việt Nam chưa cho phổ biến tác phẩm nào của nhạc sĩ Phạm Duy?
-Theo tôi nghĩ. Chính quyền nào cũng có một đường lối chính trị. Trong giai đoạn trước, đất nước đã có sự phân chia rõ rệt. Có người coi tôi là người của “quốc gia”, nhưng nói thế thì hơi quá. Suy cho cùng thì tôi cũng chỉ là một nhạc sĩ. Trong cuộc chia cắt đất nước suốt một quãng thời gian dài 20 năm, có thể có những tác phẩm của tôi không được sự đồng tình của bên này hay bên kia, nhưng với thời cuộc lúc bấy giờ, cũng như một số người khác tôi không thể chống lại chính quyền Sàigòn, có nhiều lúc tôi không thể làm gì khác ngoài cách viết để kiếm sống và để kéo “một đoàn tàu” gồm 1 vợ 8 con. Nếu xét về dĩ vãng thì ai cũng có tội hết. (do người viết bài này gạch đít).
-Thế trong 30 năm sống trên đất Mỹ, bác đã có tham dự những tổ chức nào chống lại Nhà nước Việt Nam, đã lên diễn đàn hoặc đã phát biểu trước giới báo chí những lời chống lại Nhà nước Việt Nam không?
-Ô không! Never and never! Tôi không quan tâm tới những chuyện đó, mặc dù gia đình tôi có nhận những lá thư mời gọi tham gia các tổ chức này nọ. Nhưng cả nhà chúng tôi không một ai tham gia một đảng phái chống đối nào. Với giới báo chí cũng vậy, tôi không hề phát biểu điều gì chống lại quê hương. Nếu quý vị biết có một tờ báo nào đã đăng tin tôi về điều này quý vị hãy cho tôi biết để tôi cải chính…
-Bác quả là một người lạc quan. Nhưng ngẫm lại chặng đường dài của cuộc đời mình, bác có thấy trong lòng còn điều gì ray rứt, buồn phiền hay phải hối hận không?
-Trước kia, có một người bạn là ông Tạ Tỵ đã viết quyển sách về tôi với tựa đề “Phạm Duy, còn đó nỗi buồn”. Có lần ông ấy hỏi tôi về nỗi buồn và tôi trả lời: “Tôi buồn vì tôi thành công mà đất nước thì chưa thành công. Tôi đã thành công và được công chúng đón nhận ngay từ tác phẩm đầu tay “Cô Hái Mơ” phổ thơ Nguyễn Bính, hồi ấy số lượng nhạc sĩ sáng tác khá ít ỏi, chỉ đếm trên đầu ngón tay. Còn đất nước lúc bấy giờ đang bị chia cắt hai miền, năm 72 chiến sự quyết liệt dữ dội kéo theo nhiều điều nghiệt ngã đau buồn. Theo tôi, đất nước chỉ thành công khi nào núi sông liền một dải, nhân dân được sống trong hòa bình, no ấm… Nhưng ông ấy không hiểu ý tôi nên đã viết một cách chủ quan tùy tiện về những chuyện tình cảm và chuyện vui chơi lan man. Mặc dù nội dung tác phẩm ông ấy hết lời ca ngợi Phạm Duy, nhưng theo tôi, đó chỉ là quyển “Phạm Duy còn đó nỗi buồn, cười”. Và tôi đã không muốn nhắc đến trong hồi ký của tôi.
-Thế, có còn niềm ray rứt nào làm nhạc sĩ Phạm Duy nặng lòng khi trở về Việt Nam?
-Tôi không quan tâm về thế chế chính trị. Tôi chỉ cần một quần chúng để tôi hát. Những lần về nước trước đây, thú thật tôi vẫn cảm thấy lòng buồn bã và khắc khoải. Vì thấy cái chỗ đứng của nhạc sĩ Phạm Duy trong lòng công chúng còn quá chông chênh. Vâng, tôi cảm thấy mình như một thân cây đã bị nhổ lên đem trồng ở một vùng đất khác, bây giờ đem về trồng lại trên mảnh đất cũ ngày xưa thì bộ rễ chưa thể cắm sâu vào lòng đất, nên thân cành vẫn chông chênh, nghiêng ngả. Bây giờ thấy Duy Quang được hát trước đông đảo khán giả Việt Nam, được hoan nghênh xem như là 50% tôi rồi. Tôi về đây xem như được 100% rồi…
-Bác đã ví mình như một thân cây đã nhổ lên đem trồng ở một vùng đất khác, giờ đem về trồng lại trên mảnh đất cũ thì bộ rẽ chưa thể cắm sâu vào lòng đất, nên thân cành vẫn chông chênh – đó là sự khắc khoải trong cảm nhận của những lần về nước trước đây. Còn bây giờ? Bác mong ước gì khi trở về VN lần này.
-Tôi rất vui khi thấy đất nước ngày càng có nhiều chính sách cởi mở thông thoáng với kiều bào, nhất là khi Nghị quyết 36 kêu gọi thực hiện sự nghiệp đại đoàn kết dân tộc, không phân biệt thành phần và lý do ra đi… Ở tuổi 85, mong muốn cuối đời của tôi là được trở về sinh sống trên quê cha đất tổ, theo quy luật mà ông bà ta đã đúc kết “lá rụng về cội” Là người nghệ sĩ, tôi tha thiết mong muốn được góp phần vào đời sống âm nhạc tại quê nhà…
-Trong cả gia tài gần một ngàn tác phẩm, bác nghĩ những tác phẩm nào của bác sẽ được các cấp có thẩm quyền xem xét đồng ý cho lưu hành?
-Tôi nghĩ nếu phải bỏ đi 50% tôi cũng thực sự vui lòng. Tôi nghĩ đó là một sự “gạn đục khơi trong” cần phải có. Cái gì đục thì mình mạnh dạn bỏ đi, những gì tinh khôi trong trẻo thì nên giữ lại.
-Bác có tin là ý nguyện của Bác sẽ được cấp có thẩm quyền chấp thuận?
-Trước kia thì không, nhưng bây giờ thì tôi rất hy vọng Nhà nước sẽ xem xét và sớm chấp thuận. Tôi thực sự cảm động khi vừa qua, con tôi là ca sĩ Duy Quang đã được Nhà nước cho phép được biểu diễn tại Việt Nam, điều đó tạo cho tôi một niềm tin rằng Chính phủ Việt Nam luôn rộng lượng đối với những người Việt Nam muốn trở về đóng góp xây dựng đất nước.”
*
Bài viết của nhà thơ Chế Lan Viên cách đây 20 năm nằm trong âm mưu “chiêu dụ những người có tài, có tầm ảnh hưởng lớn trong cộng đồng người Việt ở hải ngoại. Để họ động lòng đừng tiếp tục đấu tranh. Để họ làm ngơ mặc kệ bao nhiêu tội ác đang hoành hành trên quê hương khốn khổ. Để những tù nhân chính trị tại Việt Nam vẫn cứ “bình yên” trong các trại tù. Để hàng triệu người dân vô tội tiếp tục bị xua đi vùng kinh tế mới như những bầy súc vật. Để họ cứ tiếp tục hát tình ca, làm văn chương thuần túy dỗ giành nhau thiếp dần trong giấc ngủ lưu đày.”
Nhạc sĩ Phạm Duy là một người có tài, có tầm ảnh hưởng lớn trong cộng đồng người Việt ở hải ngoại. Việt Cộng tìm cách “chiêu dụ” ông là chuyện không có gì khó hiểu. Báo chí hải ngoại viết về ông là chuyện đương nhiên.
Khi nhạc sĩ Phạm Duy chối cãi và hăm dọa “kiện đứa nào” nói ông về Việt Nam, chúng tôi có viết bài “Phạm Duy vẫn ở thôn Đoài”. Bài viết này đã được phổ biến trên nhiều tờ báo tại hải ngoại, vào năm 1995
Mới đây, qua hai bài trả lời phỏng vấn của báo Tuổi Trẻ ở trong nước và bán nguyệt san Trẻ tại hải ngoại, đọc những câu nhạc sĩ Phạm Duy xum xoe, bợ đỡ Nhà nước VC, gửi đơn đến Bộ Thông Tin, Văn hóa, Cục Nghệ thuật biểu diễn và các cơ quan liên hệ xin xỏ để được “hoạt động thu âm, thu hình và phổ biến tác phẩm”, bắn tiếng dù cho Nhà nước VC có dẹp bỏ 50% sáng tác của ông thì ông cũng rất vui lòng… những người đã từng ái mộ nhạc sĩ Phạm Duy bỗng cảm thấy “thần tượng” của mình hoàn toàn… sụp đổ!
Nghe nhạc sĩ Phạm Duy cho biết là ông ta quyết định trở về Việt Nam vì được Lưu Trọng Văn tặng cho ông ta bài thơ “Về thôi” vào năm 1994, mọi người đều cảm thấy ngỡ ngàng; nhưng những ai có đọc bài viết “Quê hương, lối về” đăng trên tạp chí Pháp Luật số Xuân Nhâm Ngọ (năm 2000) ở Việt Nam, thì chẳng có gì ngạc nhiên.
Lưu Trọng Văn là nhà văn gốc bộ đội, con của nhà thơ Lưu Trọng Lưu, mà nhạc sĩ Phạm Duy khoe là bạn của ông ta. Trong bài viết “Quê hương, lối về”, Lưu Trọng Văn đề nghị lập ra một “Bộ người Việt Nam ở nước ngoài” để quản lý Việt kiều hải ngoại như sau:
“Chúng ta có các sứ quán nhưng trách nhiệm lớn nhất của các sứ quán là công tác ngoại giao nên không hề có bộ phận quản lý nhà nước giúp đỡ những công dân Việt hoặc Việt kiều ở nước sở tại. Chúng ta có Ủy ban Người nước ngoài nhưng Ủy ban này lại chưa được đặt ngang tầm một cơ quan lớn của chính phủ và cũng không có các văn phòng đặt ở nước ngoài. Nhiều bà con Việt kiều cho rằng Quốc hội cần lập ra một bộ, đó là ‘Bộ người Việt Nam ở nước ngoài.’ Tất cả các việc liên quan đến Việt kiều, bộ này có trách nhiệm lo. Khi hình thành ‘Bộ người Việt Nam ở nước ngoài’, chúng ta mới có bộ máy kinh phí để trước hết thống kê ba triệu người Việt Nam ở nước ngoài sinh sống ra sao, làm việc ra sao, có nhu cầu gì…”
Trong bài viết, Lưu Trọng Văn cho rằng Việt Nam ngày nay đổi mới rồi, và dẫn chứng những người “có vấn đề” với Đảng và Nhà nước bây giờ đã về Việt Nam rất thoải mái – như giáo sư Nguyễn Ngọc Giao, giáo sư Đặng Tiến, nhạc sĩ Phạm Duy. Sợ người đọc không tin, bài viết của Lưu Trọng Văn còn đăng kèm hình Đặng Tiến, Phạm Duy chụp chung với những cán bộ Cộng Sản thứ thiệt như Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường - những kẻ đã chít “dải khăn sô cho Huế” vào Tết Mậu Thân 1968. Trong bài viết, Lưu Trọng Văn còn quả quyết nhạc sĩ Phạm Duy có tới thăm mộ cha ông là nhà thơ Lưu Trọng Lư.
Để được thực hiện ước mơ cuối đời là được về sinh sống ở Việt Nam và “làm được một đêm nhạc ‘Phạm Duy cuối đời nhìn lại”, do chính ông ta đứng điều khiển từ đầu tới cuối,” qua hai bài phỏng vấn, nhất là bài phỏng vấn của bán nguyệt san Trẻ có toà soạn tại Westminster tại Hoa Kỳ, nhạc sĩ Phạm Duy đã phải nói những lời xum xoe bợ đỡ Nhà nước VC làm những người đã từng ái mộ ông lòng tràn ngập đắng cay. Thấy nhạc sĩ Phạm Duy biện bạch là trong 30 năm sống ở hải ngoại chưa bao giờ phát biểu những lời chống lại Nhà nước Việt Nam mà ngán ngẫm. Lại càng ngán ngẫm hơn khi thấy nhạc sĩ Phạm Duy đã phải biện bạch và bác bỏ quyển “Phạm Duy nỗi buồn còn đó” của nhà văn Tạ Tỵ đã viết để ca tụng ông ta vào năm 1972.
Tôi tin rằng nhạc sĩ Phạm Duy đã rất thành thật khi viết trong hồi ký là đã “bỏ vùng Cộng Sản về với Quốc Gia vì sinh kế, chứ không phải vì lý tưởng”. Khi hiệp định đình chiến ký kết vào năm 1954, nhạc sĩ Phạm Duy và gia đình đã cùng 1 triệu người miền Bắc lên tàu há mồm di cư vào Nam sinh sống và sáng tác, nay lại tuyên bố: “Có người coi tôi là người của “quốc gia”, nhưng nói thế thì hơi quá” nghe có vẻ chướng tai làm sao. Chuyện càng trái khoáy là vì muốn “minh định lập trường”, muốn chứng tỏ là mình đã “sáng mắt, sáng lòng” với Đảng và Nhà nước, nhạc sĩ Phạm Duy đã tự mâu thuẫn khi phủ nhận những gì mà nhà văn Tạ Tỵ đã viết về ông trong quyển “Phạm Duy nỗi buồn còn đó” khi phát biểu: “… Tôi buồn vì tôi thành công mà đất nước thì chưa thành công… Theo tôi, đất nước chỉ thành công khi nào núi sông liền một dải, nhân dân được sống trong hòa bình, no ấm”. Không biết nhạc sĩ Phạm Duy sẽ trả lời như thế nào khi Công an Văn hóa thành Hồ đặt câu hỏi: “Vào ngày 30-4-1975, đất nước đã thống nhất, núi sông liền một dải, nhân dân được sống trong hòa bình no ấm… vì sao ông và gia đình lại tìm mọi cách leo lên Đệ Thất hạm đội của đế quốc Mỹ để… chạy trốn tổ quốc cùng với bọn đĩ điếm, ma cô?”
Không ai trách gì một ông già 85 tuổi muốn về Việt Nam để chờ chết. Họa sĩ, nhà văn Tạ Tỵ là một cựu tù nhân chính trị, ở tù VC hơn 10 năm, ra hải ngoại đã viết hồi ký “Đáy Địa Ngục” để tố cáo tội ác của Cộng sản, về cuối đời đã về sống và chết tại Việt Nam.
Khổng Tử có câu: “Ngũ thập tri thiên mệnh”, tức “tới 50 tuổi mới biết mệnh trời”, và “Lục thập nhi thuận nhĩ”, có nghĩa “tới 60 tuổi nghe thấy đều thông hiểu cả”. Nhạc sĩ Phạm Duy tới 85 tuổi mới “tri thiên mệnh”, nhưng vẫn chưa “nhi thuận nhĩ”.
Vì chút quyền lợi cuối đời nhạc sĩ Phạm Duy đã trở về Việt Nam nói những lời xum xoe bợ đỡ, nịnh hót, nhận tội để xin xỏ Đảng và Nhà nước cho ông được “hoạt động thu âm, thu hình và phổ biến tác phẩm”, để làm một đêm nhạc “Phạm Duy cuối đời nhìn lại”.
Tiếc thay! Vì chút danh lợi cuối đời mà nhạc sĩ Phạm Duy đã tự mình… vĩnh biệt thôn Đoài!
Với cá nhân người viết bài viết này, không phải tới ngày 27-1-2013 nhạc sĩ Phạm Duy mới qua đời: Phạm Duy đã qua đời cách đây 8 năm, khi ông quay lưng chối bỏ căn cước tỵ nạn cộng sản để được về Việt Nam sinh sống.
Đó là cái đất nước Việt Nam bị cai trị bởi chế độ Cộng sản bạo tàn mà ông và gia đình đã phải hai lần chạy trốn!
NGUYỄN THIẾU NHẪN
San Jose 27-1-2013
Xuất Quân / Phạm Duy
Phạm Duy: 'Tôi về đây là vì tôi yêu nước'
Nhạc sỹ Phạm Duy kể lại những
biến cố trong cuộc đời mà ông đã trải qua, từ cuộc di cư từ Bắc vào Nam,
các sự kiện Mùa Hè đỏ lửa, tháng 4/1975 và chuyến vượt biên lênh đênh
qua Hoa Kỳ của ông.
Trong phần II của cuộc trao đổi với BBC, chương trình
Bấm
Your World, ông cũng dành thời gian nói về quan điểm sống,
quan niệm sáng tác, về kỷ niệm của nhiều ca khúc và đặc biệt nói về
chuyến trở về Việt Nam sau hàng chục năm sống ở xứ người.
Cũng vất vả lắm, nhưng cũng xong rồi. Đầu tiên tôi cũng không đi đâu được cả, bởi vì lúc đầu chỉ có 250.000 người Việt Nam ở rải rác khắp nơi, nhưng rồi nó lên đến 2 triệu người, thì tôi đi hát cho những người đó nghe.
BBC: Ông ở Philippines bao nhiêu lâu trước khi đến Mỹ?
Ở trong trại tị nạn hồi đó, đáng lý ra tôi phải đi ra ngoài ngay. Nhưng tại vì lúc đó tôi bị kẹt vì mấy người con còn ở lại. Thành ra tôi cũng nán lại. Nhưng hình như chỉ ở độ 3 hay 4 tháng thôi. Đi sang bên đó vào đầu tháng Năm, thì vào tháng Tám, tháng Chín thì tôi ra khỏi trại.
BBC: Và khi ông tới Mỹ thì có vấn đề gì không?
Không, không có vấn đề gì. Tôi không có coi cái gì là quan trọng cả. Tất cả giản dị lắm.
BBC: Khi đi Mỹ thì ông có tâm trạng như thế nào, ông có buồn không?
Đi Mỹ, phải đi Mỹ, thì vừa buồn, vừa vui. Buồn là vì phải bỏ nước ra đi, mất luôn cả mấy cái nhà nữa. Nhưng đi thì cũng là cơ hội để mình đi xem quốc tế, thế giới ra sao, lại vui.
BBC: Khi đi Mỹ, ông xuất bản cuốn “Musics of Vietnam” ra sao và việc biểu diễn âm nhạc của ông ở Mỹ thế nào?
Cái đó tôi viết lâu rồi, nhưng khi sang tới Mỹ, lúc đó mới kịp in ra. Cuốn “Musics of Vietnam” tôi viết từ lâu. Tôi đi gần như khắp nước Mỹ. Khổ nỗi là lúc đó tôi đã già rồi, đã trên 50 tuổi rồi, không đủ sức khỏe để đi nhiều thôi. Nhưng tôi sang bên đó, thì tôi đi hát chung với những người nhạc sỹ, ca sỹ Mỹ. Và đồng thời gia đình tôi cũng có mấy người đi hát với tôi. Hồi đó Khánh Ly cũng đi hát chung trong nhóm của chúng tôi. Chúng tôi vẫn đi luôn.
BBC: Thời gian ông đi Philippines, ông đã viết “Tị nạn ca”, “Nhục ca” đúng không?
Những bài đó là bài soạn ra trong lúc hoảng hốt, không nên nhắc đến. Tôi quên rồi.
BBC: Khi ông về lại Việt Nam, phản ứng của chính quyền thế nào, có vấn đề gì không?
"Đi Mỹ, phải đi Mỹ, thì vừa buồn, vừa vui. Buồn là vì phải bỏ nước ra đi, mất luôn cả mấy cái nhà nữa. Nhưng đi thì cũng là cơ hội để mình đi xem quốc tế, thế giới ra sao, lại vui"
BBC: Còn phản ứng của mọi người nói chung ra sao?
Rất tốt. Là vì khi tổ chức một đêm “Ngày trở về” ở Hà Nội, thì tất cả các ca sỹ thượng thặng đều tham gia hết.
BBC: Cảm xúc của ông khi trình diễn “Phạm Duy – Ngày trở về” ở Nhà hát lớn như thế nào?
Tôi rất mừng vì bao nhiêu năm nay, tôi tưởng người Việt Nam không ai còn hát nhạc của tôi nữa. Tôi về, tôi thấy là họ vẫn hát nhạc của tôi như thường. Vui lắm. Tôi còn nhớ là lúc còn trẻ, tôi làm bài “Nhạc tuổi xanh”. Trong đó có một câu là “Đường ta, ta cứ đi”, thì bây giờ thì “Đường về, ta cứ về thôi.” Giản dị. Hồi đó tôi cũng thấy bình thường thôi. Tôi đã đứng hát trên sân khấu Nhà hát lớn cách đây gần 60 năm rồi. Bây giờ tôi trở lại, tôi cũng vui chứ. Chỉ có vấn đề là hát không có hay như ngày xưa thôi, dở lắm.
BBC: Được biết là chỉ có 10% bài hát của ông được cho phép ở Việt Nam, cái này đúng không?
Đúng rồi, nước nào người ta cũng có những quy định về vấn đề cho phép hay không cho phép. Nói cho đúng ra, sở dĩ tôi chỉ có 1/10 sáng tác của tôi thôi, là cũng giản dị là vì tôi không đứng ra xin phép. Nếu tôi xin phép, có thể họ cũng cho ra đấy. Nhưng ở đây phải xin phép mới được. Thế thôi, không có gì khó cả. Rất giản dị. Những người ngoài thấy là hơi bất bình là vì tại sao tôi nhiều bài như vậy mà chỉ cho tôi có 100 bài thôi. Nhưng khổ nhất vấn đề là tôi phải đứng ra tôi xin thêm thì người ta mới cho chứ. Không xin thì người ta không cho.
BBC: Ông có không băn khoăn gì về chuyện phép tắc đó không?
Tôi nói rằng tôi về đây, cứ hát một bài của tôi là cũng xong rồi. Đừng nói là được hát 100 bài. Tôi về đây không phải là tôi đi tìm danh vọng, hay tôi tìm đồng tiền kinh tế. Không phải. Tôi về đây là vì tôi yêu nước thôi. Mà tôi phải về vì người già nào cũng muốn chết ở quê hương của mình, thế thôi.
BBC: Ông có viết một số bài gọi là “Hương ca” nói về cảm xúc của ông khi về nước đúng không?
Đúng, những bài đó là tâm tình của tôi đấy. Lúc tôi về nước, tôi làm 10 bài hương ca. Nhưng mới xin phép được 5 bài thôi. Bởi vì tôi chỉ mới xin phép 5 bài thôi. Ví dụ như bài “Hương rừng Cà Mau”. Đây là bài thơ của một thi sỹ tên là SơnNam. Tôi làm một bài để xưng tụng những người đầu tiên đi khai phá miềnNam.
'Đang xin phép'
BBC: Trước đây ông có một trường ca rất nổi tiếng là “Mẹ Việt Nam,” tác phẩm này có được phép không?
“Mẹ Việt Nam” và “Trường ca Miền Nam” là hai bài đang xin phép. Cũng mới gửi đi xin phép, thành ra không thể nói gì hơn được nữa. Nếu mà được thì càng tốt, bởi vì những bài đó xưng tụng sự thống nhất của đất nước và con người.
BBC: Ngoài bài “Mẹ Việt Nam”, cũng có bài “Việt Nam, Việt Nam”, Việt Kiều ở Mỹ nghĩ gì về bài đó?
"Người Việt Nam ở Mỹ, hay đi hải ngoại rồi, muốn nghĩ gì thì nghĩ, tôi không quan tâm"
BBC: Ông viết “Mẹ Việt Nam” năm 1965, tại sao lúc đó ông lại muốn viết bài này?
Đầu tiên nước Việt Nammình sinh ra là một nước theo chế độ mẫu hệ. Tức là xưng tụng người đàn bà nhiều hơn. Tôi cũng dựa vào cái đó để tôi nói về lịch sử ViệtNam. Lịch sử Việt Namthì cũng có những lúc chia rẽ nhau như thời Trịnh – Nguyễn phân tranh chẳng hạn. Thế nhưng cũng có thời họ thống nhất. Nước Việt Nam mình đã có thời kỳ chia cắt, thì phải có lúc thống nhất thôi.
BBC: Có người nói ông có công lớn với âm nhạc Việt Nam, ông nghĩ sao?
Không, không nói công với tội gì cả. Tôi sợ những cái đó. Ai khen tôi hay ai chê tôi, tôi đều sợ cả. Vì tôi làm việc cũng như người làm ruộng thôi. Làm ruộng thì phải cấy lúa, làm nhạc thì phải đánh đàn, giản dị thế thôi.
BBC: Có một số bài chưa nói tới như “Gánh lúa.”
Ô, bài ấy hay lắm. Bài ấy vui lắm. Bài ấy là bài cuối cùng của tôi làm trong khi còn ở Kháng chiến. Bài ấy tôi diễn tả một đoàn người nông dân đi gánh lúa để nuôi lính, nuôi quân. Hay lắm. Khi tôi hát bài dân ca, thì cũng có khi có những người hát thay tôi bài “Gánh lúa”. Nếu tôi không nhầm, thì tôi giữ được nhiều “versions” của những người này, người họ hát. Họ hát hay lắm, rất ViệtNam.
BBC: Rất nhiều ca sỹ đã trình bày các bài hát của ông, ông nghĩ gì về họ?
Nhiều lắm. Thái Thanh suốt đời hát nhạc của tôi. Còn Khánh Ly cũng hát. Ai cũng hát hết, những người nhạc sỹ già đó. Còn những người nhạc sỹ trẻ như Tấn Minh hay Đức Tuấn hay Mỹ Linh cũng đều hát nhạc của tôi hết. Tất nhiên là họ hát những bài đã được phép. Nước nào cũng có quy luật của nó chứ. Anh làm sao đi quá luật được.
BBC: Từ đầu 1960 so với Tết Mậu Thân, thì nhạc của ông có thay đổi không?
Cái đó thì phải để người khác người ta phê bình, chứ tôi không biết. Tôi chỉ biết làm thôi. Đại khái như bài nhạc của tôi làm hôm nay nó khác với bài trước như thế nào, thì tôi chịu chết (không thể biết được). Tôi không thể giải thích được. Người khác giải thích hộ tôi.
BBC: Nhưng có một số bài nói về thiên nhiên vào những năm 1950 và đầu 1960, như là bài ca “Sao” và “Chiều về trên sông”, ông có thể nói gì về quan hệ thiên nhiên và âm nhạc?
Lúc đó là lúc tôi bỏ qua trường hợp nhìn vào đất nước Việt Nam. Tôi muốn nhìn vào cuộc đời nhiều hơn. Tôi nói những câu chuyện về “Bài ca sao”, “Bài ca Trăng”, thì nó vượt ra khỏi nước Việt Nam rồi.
BBC: Từ năm 1954-1975 ở miền Nam, không khí âm nhạc thời đó như thế nào?
Tôi không nhớ được, quên rồi. Thời cuộc của Việt Nam thay đổi nhiều quá, thành ra tôi cũng quên mất.
BBC: Nhưng khi ông hát “Tâm phẫn ca”, sinh viên nghe thì họ thấy sao?
Cái đó thì họ phải thích chứ. Bởi vì cái đó cũng nói lên được lòng căm giận của họ cũng như của tôi, là vì chiến tranh kéo dài quá.
BBC: Về âm nhạc mà ông đã sáng tác sau khi về Việt Nam năm 2005, ông có thể nói về trường ca về “Minh họa Kiều”?
Về đây tôi mới sáng tác được toàn vẹn “Minh họa Kiều”. Vì “Minh họa Kiều” dài lắm. Nó dài phải đến hơn 2 tiếng đồng hồ mới hết. Tôi mới làm được 3 phần, về đây tôi làm nốt là phần thứ tư, về đây mới làm được, xong rồi. Tôi làm “Hương ca” là bản nhạc mới. Rồi tôi làm thêm những bài nhạc phổ thơ của thi sỹ Bích Khê. Đó cũng là những cái mới hết. Muốn biết nó ra sao thì phải mua đĩa để nghe thôi.
Trong “Hương ca” nó nói gì? Nó nói về tình yêu nước. Mà yêu nước của Việt Nam nay nó khác với yêu nước của ngày xưa rồi. Ngày xưa tôi làm bài “Tình hoài hương” là vào 1950, thì cái đẹp của đất nước nó khác cái đẹp của bây giờ. Ví dụ như là ngày xưa còn có những người đàn bà con gái răng đen, và đồng thời ăn mặc quần áo nâu. Bây giờ người con gái, anh đi về vùng quê anh coi, họ mặc hoàn toàn giống như những người mới, chứ không phải như người cũ nữa. Vậy thì tình cảm của tôi cũng phải khác đi.
BBC: Ông chọn một bài thơ để phổ nhạc như thế nào, ông có thể cho một vài ví dụ?
Tại sao tôi chọn bài thơ của ông Hoàng Cầm, là vì lúc đó ông Hoàng Cầm là nhà vô địch của những bài thơ kháng chiến. Tại sao tôi lại phổ thơ của ông Phạm Thiên Thư, là vì lúc đó, ông Phạm Thiên Thư đưa ra những loại nhạc lúc đó gọi là “Đạo ca”, là những cái mới hết. Ông Nguyễn Tất Nhiên là những bài ca ngộ nghĩnh, vui vẻ. Tôi chỉ có thể nói thế được thôi, còn đi vào chi tiết, không thể nói được.
BBC: Còn các bản “Tị nạn ca” thì sao?
“Tị nạn ca” là những bản nhạc nói chung về những vấn đề những năm không còn ở trong nước nữa. Đó là tị nạn chứ gì. Thế nhưng xong rồi thì tôi thấy là nó là những bản nhạc hơi “ảo ảnh quê hương”, chứ không phải là bản nhạc thật. Ngồi ở Bridgeway City mơ tưởng đến cánh đồng Việt Nam, thì nó hơi vô duyên quá (non-sense). Sau tôi quyết định tôi không nhắc đến nữa.
BBC: Giáo sư Trần Văn Khê sẽ viết về những tác phẩm nào của ông không?
Tôi không biết, chỉ biết là ông ấy đã viết được trên 100 trang rồi.
BBC: Ông là người rất nhạy về công nghệ, nhất là ứng dụng cho âm nhạc, ông đã sản xuất một CD đầu tiên ở Mỹ. Ông có thể nói gì về chuyện này?
Giản dị thôi, ngày xưa, tôi đi học ở trường Kỹ nghệ thực hành, thành ra những cái gì thuộc về vấn đề kỹ thuật, tôi thích lắm. Khi có được thời đại computer, năm 1982 là lúc computer ra đời, thì tôi vội vàng học ngay rồi. Từ đó tới nay, tôi áp dụng vào trong sáng tác nhạc, thì rất tốt. Nếu tôi không đi học được kỹ thuật, thì tôi không hiểu biết được kỹ thuật mới. Tôi nghĩ là tôi may mắn hơn những người khác là tôi thấy ngay được cái hay, cái ích lợi của computer và tôi dùng nó ngay.
BBC: Ông biết gì về phong trào “Hát cho đồng bào tôi nghe”? Âm nhạc của phong trào này khác gì với nhạc của ông?
Không, tôi không làm loại đó. Cái loại đó của người khác làm. Ông Tôn Thất Lập thì phải. Không phải tôi. Tôi không biết. Tôi không được nghe những bài đó. Tôi có biết là ông ấy có làm những bài hát là “Hát cho đồng bào nghe”, nhưng tôi không có ở trong tay để biết là bài đó ra sao. Tôi không dám phê bình.
'Sức mấy mà buồn'
BBC: Âm nhạc ở miền Nam Việt Nam ngày xưa có rất nhiều luồng, quan hệ giữa chúng ra sao?
Tôi cũng biết hết đấy, nói cho nó ngay ra mà nói là không biết thì không đúng, nhưng mà biết, nhưng nó không ảnh hưởng đến tôi gì cả. Tôi kính trọng những bài đó, thế thôi. Tôi không chê mà tôi cũng không khen.
BBC: Mục đích nhạc của ông những năm 1960 là gì?
Vẫn là con đường cũ tôi đi theo. Tức là vấn đề “khóc, cười theo mệnh nước”, lúc nào nước vui, thì tôi cười, thế còn lúc nào nước buồn thì tôi khóc.
BBC: Có sự kiện nào trong lịch sử làm cho ông buồn?
Không bao giờ tôi buồn cả, bởi vì tôi có bài hát gọi là “Sức mấy mà buồn”. Không bao giờ tôi buồn cả. Buồn làm gì, vô ích. Nếu có buồn, thì cũng chỉ buồn đại khái thôi, nói cho nó vui thôi chứ, không bao giờ tôi bị buồn cả.
BBC: Nhưng có một số bài buồn như là “Ngậm ngùi”?
“Ngậm ngùi” thì đâu có buồn. Đó là một bài hát an ủi. Ông ta làm thơ như vậy để khuyên mọi người trở về với đời sống bình thường thôi. Thì đó là an ủi nhau thôi chứ không có gì mà buồn.
BBC: Bài “Quê nghèo” chẳng hạn?
“Quê nghèo” thì thực sự là buồn. Đó là bởi vì chiến tranh. Tôi làm bài “Quê nghèo” đó là người ở quê là người dân nghèo, đói nhất ViệtNam, lại còn bị chiến tranh nữa. Thì tôi diễn tả đó thôi.
BBC:Bài “Quê nghèo” thì ông diễn tả điều gì?
“Tôi không xa kinh kỳ sáng chói”, có những ông già “Cày bừa thay trâu” thì khổ quá. Đó là một bài mà nhiều người Việt Nam rất cảm động, rất thích, là bởi vì tôi nói được những cái đó lên.
Hình ảnh đám tang của nhạc sĩ Phạm Duy
Ca sĩ Ánh Tuyết nghẹn ngào: "Sự ra đi của ông khiến trái tim tôi rỉ máu...", nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9, nhà thơ Phạm Thiên Thư túc trực bên linh cữu, hồi tưởng những ký ức về người bạn nhạc sĩ tài hoa.>> Nghe lại những ca khúc nổi tiếng của Phạm Duy tại đây
Tượng đài của làng nhạc Việt đã không đợi được đến mùa xuân cuối cùng của cuộc đời khi bất ngờ ra đi, sau hơn một tháng con trai ông, ca sĩ Duy Quang qua đời tại Mỹ.
14g30 chiều 27/1, nhạc sĩ Phạm Duy mất tại bệnh viện 115, Tp.HCM sau 3 ngày nhập viện cấp cứu. Người nhà đã làm thủ tục để chuyển thi hài người nhạc sĩ về nhà lo an táng ngay trong chiều hôm qua. Con trai Duy Cường luôn bên cạnh túc trực và chăm sóc cho ông trong những ngày cuối đời. Phút lâm chung, ông cũng ra đi trong vòng tay người thân, gia đình và bạn bè.
Một người thân của gia đình ông cho hay, sự ra đi của con trai là ca sĩ Duy Quang cách đây chưa lâu (tháng 12/2012) đã ảnh hưởng khá nhiều đến tinh thần của ông. Đó cũng được cho là một trong những nguyên nhân khiến sức khoẻ của ông giảm sút nặng nề. Trước đó, do sợ ông buồn và ảnh hưởng đến sức khỏe vốn dĩ không tốt của ông trong thời gian qua, người nhà đã giấu tin con trai Duy Quang mất. Nhưng ở tuổi 92, vị nhạc sĩ tài hoa vẫn rất minh mẫn. Ông ý thức được bệnh tình của nam ca sĩ Duy Quang sẽ khó qua khỏi nên chuẩn bị tâm thế đón nhận.
Sáng nay 28/1 lễ tang của nhạc sĩ Phạm Duy được cử hành tại tư gia ở Lê Đại Hành, phường 3, Quận 11, Tp. HCM. Ca sĩ Ánh Tuyết, nhà thơ Phạm Thiên Thư, nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9, ca sĩ Kyo York… đã đến từ rất sớm để chia buồn và hỗ trợ gia đình tổ chức tang lễ.
Nữ ca sĩ Ánh Tuyết là người có cơ hội gần gũi với ông nhất trong những ngày cuối đời. Cô cho biết, một tuần trước khi mất, ông vẫn còn viết thư cho cô để góp ý về việc thực hiện album nhạc của ông mà nữ danh đã ấp ủ bấy lâu. Cũng theo cô, nhạc sĩ Phạm Duy là những sống lạc quan kể cả khi sức khỏe có dấu hiện suy sụp.
Ánh Tuyết, và Kyo York đến từ rất sớm |
Chị chia sẻ thêm: “Tôi không biết sẽ có ai tiếp nối ông nữa hay không, dù biết rằng ông đã lớn tuổi, biết rằng ông bị bệnh nhiều nhưng sự ra đi của ông lúc này khiến trái tim tôi bị rỉ máu. Để nói về ông, có những người còn hiểu nhiều hơn tôi. Tôi chỉ hiểu đến chừng đó và nếu có hiểu nhiều cũng chỉ để trong lòng và không biết diễn tả thế nào. Đến giờ phút này tôi cảm thấy mình hiểu con người nhạc sĩ Phạm Duy nhiều hơn, ông rất kiên cường, đầy nghị lực và ham làm việc. Ở độ tuổi 92, ông vẫn muốn được làm việc, đó là điều chúng ta cần phải thừa nhận và học hỏi ở ông. Ông là người đầy tố chất để những người đi sau như chúng tôi cảm nhận được tình yêu quê hương rõ ràng đến thế. Hãy cho tôi một khoảng riêng để tôi giữ lại hình ảnh của người nhạc sĩ mà tôi đã đến gặp ông trong những ngày cuối đời”.
Nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9 cũng có những phút trầm tư về người nghệ sĩ tài hoa vừa qua đời: " Cũng như tất cả những người khác, sự ra đi của Phạm Duy là mất mát quá lớn với làng nhạc. Kỷ niệm đáng nhớ nhất trong đời tôi và ông, đó là khi tôi 20 tuổi chập chững bước vào nghề thì âm nhạc của Phạm Duy ảnh hưởng đến tôi rất nhiều. Ông tạo điều kiện cho tôi được hát. Dù tôi có nhiều thiếu xót nhưng ông vẫn bỏ qua, động viên tôi cố gắng. Nhờ những sự động viên và dạy dỗ đó, tôi có ngày hôm nay. Lúc nào trong lòng tôi cũng muốn gửi lời cảm ơn nhạc sĩ đã luôn giúp đỡ tôi".
Nhà thơ Phạm Thiên Thư |
Lễ nhập quan diễn ra lúc 9h ngày 28/1, lễ động quan lúc 6h ngày 3/2. Nhạc sĩ Phạm Duy sẽ yên nghỉ tại Hoa viên Nghĩa trang Bình Dương.
Một vài hình ảnh trong đám tang tại tư gia của nhạc sĩ Phạm Duy sáng nay:
Sự ra đi của Phạm Duy khiến nữ ca sĩ Ánh Tuyết bị sốc |
Nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9NS Phạm Duy: 'Đám tang tôi rùm beng là tôi ghét lắm'
"Đám
tang của tôi rùm beng là tôi ghét lắm" - Trả lời phỏng vấn gần 5 tháng
trước khi mất, nhạc sỹ Phạm Duy đã nói như vậy về tâm nguyện của mình.
Vào thời điểm ấy, sức khỏe ông đã xuống rất nhanh, khiến ông phải ngồi xe lăn, ăn uống khó khăn. Ông gần như thức trắng đêm và chỉ ngủ được vài tiếng vào ban ngày. Ngày bình thường của ông trôi qua trong căn nhà im vắng ở lưng chừng một con hẻm đường Lê Đại Hành. Căn nhà ấy thường chỉ đông vui vào cuối tuần khi con cháu, dâu rể về thăm hỏi, ăn uống. Ấy vậy mà, khi thần sắc đã trở nên mệt mỏi vì tuổi già, ông vẫn miệt mài sáng tác, và khoe với người viết ông vừa hoàn thành 10 ca khúc phổ thơ của thi sĩ Bích Khê. “Nếu được theo đúng thuyết nhà Phật, người ta ăn ở đức độ thì sẽ được tái sinh. Và nếu có sự tái sinh thì tôi sẽ không thích tái sinh nữa đâu. Bởi vì mệt quá rồi. Các nhạc sĩ ở đây sướng lắm, không ai mệt như tôi cả, không ai đi nhiều, hát nhiều và sáng tác nhiều như tôi cả. Khổ tâm lắm”, ông nói. - Thưa ông, vậy hẳn là ông đã viết di chúc. Cháu xin mạn phép được tò mò, điều gì làm ông tâm tư nhất trong bản di chúc ạ? Sự thực thì càng nhiều con bao nhiêu, người ta càng lo bấy nhiêu. Sự nghiệp của tôi để lại cũng nhiều. Tôi không chia cho ai cả. Tôi giao cho người con thứ hai của tôi, là đứa có hiếu nhất. Nó có bổn phận là chia cho các anh em. Như vậy thì đỡ rắc rối. - Vậy còn đám tang, ông có tâm nguyện gì về đám tang của mình?
Kinh nghiệm như nhà lưu niệm của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, tôi đến thì thấy vắng tanh như chùa bà đanh. Ca sĩ còn hát nhạc của tôi, nghĩa là tôi còn sống. - Ở tuổi xưa nay hiếm thế này, ông có còn cảm thấy mình mắc nợ gì với cuộc đời không? Nợ thì nhiều. Tôi tự thấy mình đã sống bừa bãi. Cách nay 10 năm thì tôi ổn định một tí. Còn trước kia tôi liều lắm, tôi làm những chuyện mà người ta không dám làm. Tôi lao vào những trò chơi làm ảnh hưởng đến tiếng tăm của mình. Tôi hối hận lắm nhưng đành chịu thôi. Tôi mong người ta đừng nghĩ nhiều về những hành động đó, mà nhìn vào những bản nhạc của tôi. Còn nói về người ngoan thì tôi không phải là người ngoan. - Cuộc đời đưa ông dường như luôn đứng trước những sự kiện phải chọn lựa giằng xé giữa hai thái cực, vậy có khi nào ông phải trả giá? Trả giá ghê lắm chứ, nếu tôi đừng bỏ nước ra đi thì chắc tôi vẫn còn 3 căn nhà trị giá 3 triệu USD. Còn 8 đứa con như vậy, gọi là để lại một gia tài thực sự thì ít nhất cũng phải 3 cái nhà chứ. Đó là một cái nhỏ thôi đấy. Còn những cái khác nữa. Trường hợp yêu người này mà không yêu người nọ cũng là một vấn đề nữa. Rắc rối lắm (cười). Và hôm nay, sau nhiều năm ở hải ngoại, ông đã trở về và đã an nghỉ trên đất mẹ, khép lại trăm năm nhỏ bé và bộn bề như lời ông đã viết trong “Hẹn em năm 2000”. Ông nói ông không phải là người theo lý tưởng sống để mà đi. Thế nên, những năm xứ người là những năm ông đau đáu ngày về. “Tôi là người Việt Nam thì tôi phải sống chết với nước Việt Nam chứ. Khi qua hải ngoại được vài năm, tôi đã viết bài “Rồi đây anh sẽ đưa em về nhà”. Nhưng lúc đó tôi không thể về nhà được ngay, đợi đến ba mươi mấy năm thì mới về được. Cả một đời người rồi còn gì”, ông nói. |
Khi Trịnh Công Sơn chết, tôi không
viết chữ nào. Không viết, vì không có gì để viết thêm.
Khi các anh Giang Châu, Trầm Tử Thiêng rồi
Ngô Mạnh Thu qua đời, tôi chưa viết được gì vì nghĩ rằng một vài đoạn hay một
bài viết ngắn không đủ để nói về họ, với những gì họ đã đóng góp cho văn học
nghệ thuật, bên cạnh những kỷ niệm, ơn nghĩa, tình riêng.
Khi anh Nguyễn Đức Quang từ trần,
tôi viết, vì anh gần tôi hơn, cả về tuổi tác lẫn sinh hoạt, và có với nhau những
kỷ niệm ngộ nghĩnh.
Phạm Duy, thì sao?
Dĩ nhiên là không vui, nhưng cũng
không buồn, chỉ bâng khuâng. Bâng khuâng, không vì sự vô thường của đời sống,
vì anh năm nay 93 tuổi ta, chết như vậy là bình thường, tính theo tuổi thọ
trung bình, còn dư được cả chục năm. Bâng khuâng, không vì sự thay đổi của đời
người mà vì sự thay đổi của con người: con người của anh.
Lớn lên là thanh niên trong thời loạn,
anh vào khu kháng chiến. Đẹp lắm. Anh gọi đó là giai đoạn của lãng mạn cách mạng,
vừa trả nợ non sông vừa được sống một cuộc sống cả phiêu lưu lẫn hào hùng theo
lý tưởng của tuổi thanh xuân thời đó.
Rồi anh bỏ kháng chiến, về thành.
Cũng vẫn đẹp. Anh đi theo tiếng gọi của lòng mình, khi con tim nhỏ không còn ôm
ấp hoài bão lớn, mà nó rung động theo những nhịp đập của tự nhiên.
Chỉ trong một đêm, anh viết lại lời
mới cho những bài hát cũ. Từ “Việt nam!
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà” thành “Vườn
rau, vườn rau xanh ngắt một màu”, cũng vẫn hay. Anh nhìn thấy cái đẹp mới,
cái đẹp hơn, thì anh theo. Không ai bắt anh ôm ấp mãi những cái đối với anh
không còn đẹp nữa. Có chăng, là một sự ngạc nhiên của bạn bè, như Văn Cao, bật
thốt lên: “Cái thằng, nó nhanh thật!”
Anh gia nhập hàng ngũ quốc gia. Anh
viết trường ca Con đường cái quan,
trường ca Mẹ Việt Nam, anh viết tâm
ca “Kẻ thù ta đâu có phải là người, giết
người đi thì ta ở với ai”, anh viết tục ca “Cầm c. cho nó đái”, anh viết “Đạo
ca”, anh viết “Huyền sử ca một người
mang tên Quốc”, anh viết cả nhạc phản chiến “Kỷ vật cho em”, anh viết bình ca, rồi sau 1975, anh viết “Tháng tư đen”, viết anh hùng ca “Võ Đại Tôn”, anh phổ nhạc ngục ca “sẽ có một ngày, con người hôm nay, vứt cùm
vứt Đảng”,.. rồi đột nhiên anh về Việt Nam, xoay ngang vòng nạng oan khiên…
Tôi không có nhiều kỷ niệm với anh.
Biết anh vào khoảng 1963, đi hát
chung với anh dăm ba lần trên sân khấu, CPS, trường Quốc Gia Âm Nhạc, du ca,..
Tôi đến nhà thăm anh mươi, mười lăm lần gì đó ở Phú Nhuận, lần đầu tiên với các
anh Đỗ Quý Toàn và Đỗ Ngọc Yến. Anh bảo tất cả chúng tôi gọi anh bằng “anh”, đối
xử với nhau như bạn vong niên. Anh uống trà bằng bình, hút từ vòi như người thiểu
số uống rượu cần, uống xong xoay vòi qua mời khách, rồi lại uống tiếp. Anh mua
bắp vườn mới nấu để đãi. Anh dùng xe gắn máy chở tôi đi ăn kem Broda ở góc Tự
Do và Nguyễn Thiếp.
Khi tôi còn nhỏ, anh khuyên tôi ba
điều. Một là bỏ học đi hát. Anh bảo: “Càng học càng ngu, cái học làm cho mình bị
gò bó, sáng tác không hay. Bỏ học, đi hát với thằng Duy Quang kiếm tiền sướng
hơn.” Tôi không nghe anh, vì tôi không mê hát, không ham tiền và tôi không cho
rằng “càng học càng ngu”, mà hiểu rằng càng học càng biết là mình ngu thì đúng
hơn.
Điều thứ hai anh khuyên tôi là đàn
ông yêu vợ, phải biết nói dối vợ. Anh nêu thí dụ là ông Tạ Tỵ viết sách khai hết
tất cả các mối tình lớn tình con của anh. Sách anh để ngay trên kệ. “Bà Hằng đọc
mà không biết gì hết”, anh nói. Vì Thái Hằng bận chăm sóc cho cả một bầy con,
chị không thể đọc một lèo từ đầu đến cuối, mà mỗi ngày chỉ đọc được vài trang rồi
làm dấu để đó. Mỗi ngày anh theo dõi xem chị đọc tới đâu; khi chị sắp đọc tới
chỗ “gay cấn”, anh dời cái dấu qua khỏi các trang nguy hiểm, thế là êm hết mọi
bề. Anh còn đưa thêm bằng chứng, là “có lần bà Hằng bắt gặp anh đang nằm trên bụng
con T. mà anh còn cãi được, anh bảo nó đau bụng đau bão nên anh phải giúp nó.”
Tôi không tin là “bà Hằng” khờ tới mức đó; chị chỉ cần một lời giải thích để bỏ
qua, thế thôi. Anh thường ca tụng Thái Hằng là “nữ thánh”, chắc vì lẽ đó.
Điều thứ ba anh khuyên, hợp với sự
giáo huấn của bà tôi và hợp với tâm tạng của tôi, nên tôi theo: “Đừng bao giờ
tin người cộng sản, vì người cộng sản hễ nói là dối.” Tiếc là cuối đời, anh đã
không làm được điều mà anh đã khuyên tôi lúc tôi hãy còn là một thiếu niên!
Anh có thói nói tục và chửi tục.
Ghét ai, anh bảo ngay nó là “thằng mặt l.” Tôi thật tình không hiểu tại sao người
ta lại đem cái chỗ chúa dấu vua yêu ông nào cũng thích vào trong câu chửi, kể cả
Việt Nam lẫn Ăng-lê!
Có lần tôi cùng với
Nguyên Hương tới nhà anh ở đường Chi Lăng. Anh đang bận phôn trên lầu, chúng tôi
ngồi chơi dưới cầu thang, Duy Minh lúc đó mới 7, 8 tuổi gì đó, tò mò chạy tới
làm quen với cô. Thấy cậu bé hay hay, Nguyên Hương tinh nghịch hỏi: “Bố có đánh
không?” Minh cười, lắc đầu. Lại hỏi: “Thế bố có chửi không?” Cậu nhỏ gật đầu rất
quả quyết. Hỏi tiếp: “Bố chửi thế nào?” Cậu nhỏ đáp ngay: - “Bố chửi địt mẹ.”
Chúng tôi nhìn nhau tủm tỉm cười. Các cụ mình ngày xưa bảo “đi hỏi già về nhà hỏi
trẻ” quả là hay. Trẻ con không biết nói dối…
Tôi viết chung với anh bài hát “Màu dân chủ” phổ thơ Quách Thoại. Đúng
ra là tôi viết, anh sửa rồi ký tên chung. Bài này yểu tử. Tôi vượt biển, không
còn gì, chỉ nhớ trong đầu; hỏi anh, anh bảo còn giữ. Anh chưa lục ra và tôi
cũng chưa chép ra.
Ra hải
ngoại lại hát chung với anh vài lần, nhất là khi anh vừa soạn xong các bài “ngục
ca” và không còn sức để hát cho hay! Buổi sinh hoạt ấm cúng nhất có lẽ tại “Hầm
Lú” ở Montreal, lần đầu tiên tôi phải nhìn vào bản thảo và hát ngay, không kịp
tập dượt gì cả, may mà diễn tả được ý anh và ý tác giả các bài thơ.
Rồi anh phổ nhạc một bài thơ tình mà tôi ký
tên Cung Vũ, “Từ dạo ta buồn”. Bài
này cũng yểu tử. Tôi quả không có duyên với anh. Bài hát vẫn còn nằm trong tập
thơ “Cỏ biếc” và trên website của Hội
Nhà Văn Việt Nam Lưu Vong. Tôi còn giữ audio file do chính anh tự đệm đàn và
hát. Tôi chưa nghe lại, nhưng vẫn mường tượng tiếng đàn, tiếng hát của anh, và
bâng khuâng, vì dù anh đi đâu, về đâu, còn sống hay đã chết, nó vẫn là những dấu
chân còn in vết trên một đoạn đường chung.
Tôi tiếc cho anh, nhưng nói cho thật đúng, là
tiếc cho chính mình. Giá chỉ nhớ toàn kỷ niệm đẹp thì lòng mình nhẹ nhõm biết
bao!
Anh có nhiều khuyết điểm mà tôi không muốn nhớ
hết, nhưng bất cứ lỗi lầm nào, kể cả sát nhân, bản án có định mức, dù là án tử
hình. Người ta chỉ có thể giết phạm nhân một lần; nhưng một khi liên can tới phạm
vi chính trị, lập trường, thì sự kết án kéo dài vô hạn.
Với tôi, Nguyễn Cao Kỳ, Phạm Duy đã chết từ
lâu, từ lúc họ tự dẫm lên phẩm cách của chính mình. Nhưng với một nghệ sĩ, khi
tác giả chết, cái còn lại là tác phẩm, hay hoặc dở, đỏ hay vàng, bất tử hay yểu
tử, mỗi tác phẩm tự nó có một bản sắc, một sinh mệnh, những lời bàn nhắm vào
tác giả -- nói trắng ra là tư cách của tác giả -- có thể làm thay đổi mức độ tiếp
nhận tác phẩm nhưng không làm thay đổi giá trị của tác phẩm. Rồi tôi lại nghĩ,
có lẽ phải mất một thời gian khá lâu, có khi tới một hay hai thế hệ sau nữa,
người ta mới có thể tách rời tác phẩm ra khỏi những dấu vết lấm lem của tác giả.
Đó là lớp quần chúng không trực tiếp chịu ảnh hưởng những hệ luỵ chính trị của
thời đại này.
Quang Dũng
Nghệ Sĩ Kim Cương
Tuấn Ngọc, Thái Hiền
Ô Khuê bạn Phạm Duy
Phạm Duy:còn gì đâu trong cuộc được thua....
Nhạc sĩ Phạm Duy và Châu Đình An (1998)
Châu Đình An
Tháng 4 năm 1981 tôi bước chân xuống phi trường Los Angeles, California trong bỡ ngỡ của một “dân giả quê mùa” lần đầu tiên đặt chân đến thành phố sầm uất nổi tiếng của Hoa Kỳ. Đang long ngóng thì có tiếng reo “A! đây rồi…”. Một người đàn ông ăn bận giản dị, chân đi dép và mái tóc hoa râm đến bên tôi “Phải An không?”.
Tôi nhận ra nhạc sĩ Phạm Duy, ông dẫn tôi đến bên chiếc xe Buick cũ đời 1977 màu cam nhạt, cất hành lý vào khoang xe và trực chỉ về nhà ông ở Midway City, Quận Cam Cali.
Trên đường đi từ Los Angeles đến Midway City vào khoảng gần 1 tiếng lái xe, ông hỏi thăm tôi về cuộc sống mới đến Mỹ ra sao, và một vài chi tiết thân thế long đong của tôi. Quen biết ông qua sự giới thiệu của cựu dân biểu VNCH Nguyễn Văn Cội, và khi tôi gửi đến ông 10 ca khúc để nhờ ông giúp thực hiện một băng nhạc Cassettes. Những bài nhạc tôi viết từ trại tỵ nạn Hồng Kông cho đến khi qua định cư ở Kenosha, Wisconsin Hoa Kỳ vào tháng 10 năm 1980. Trong đó có những bài như Đêm Chôn Dầu Vượt Biển, Tâm Động Ca, Như Những Lời Ca Thép, Trại Tù Chữ S, Sẽ Có Sáng Mai Này, Như Một Lời Thề Nguyền…
Khi nhận được 10 bài nhạc, ông đã nhanh chóng hồi âm sau hai tuần lễ và một cuộc nói chuyện với ông dẫn tôi đến Los Angeles, mà tôi đâu biết đã bắt đầu đưa tôi bước chân vào giới nghệ thuật. Qua thư trao đổi, ông khen nhạc tôi có nét lạ của một người vừa vượt thoát từ Việt Nam sau 5 năm dưới chế độ cộng sản, và ông nhận lời đứng ra làm Producer, nghĩa là nhà thực hiện và sản xuất cho băng nhạc đầu tay trong đời sáng tác của tôi.
Bước chân vào căn nhà xinh xắn ở Midway City, tôi được chào đón bởi bà Thái Hằng, phu nhân của ông với một nụ cười hiền hậu, bà vui vẻ, dễ thương ân cần hỏi han và chỉ tay trên vách phòng ăn một bức hình tôi ở đấy. Ngạc nhiên thì bà bảo là “bác trai dán hình cháu để nhận diện đi đón cho dễ, mấy em ở nhà cứ thì thầm với bác là, có lẽ đây là con rơi hay sao mà bố lo lắng ân cần quá!” Mà cũng dễ nghi lắm, vì khuôn mặt tôi và Duy Minh có phần giống nhau. Tôi cười và cảm thấy gần gũi ngay với không khí gia đình ông bà Phạm Duy. Đến chiều Duy Quang đi làm về, lịch thiệp trong quần Jean và áo sơ mi trắng, nụ cười hiền hậu, Duy Quang thiện cảm chào tôi. Chúng tôi bắt tay nhau và Quang hỏi đã ăn uống gì chưa rồi không đợi tôi trả lời anh đưa tôi ra xe bảo là đi uống cà phê và thăm phố Bolsa cho biết cộng đồng mình. Mặc cho bà Thái Hằng căn dặn là chiều về ăn cơm cả nhà.
Đó là những kỷ niệm đầu tiên của tôi với gia đình nhạc sĩ Phạm Duy mà tôi còn nhớ. Đến chiều về, cả nhà đông đủ, lần đầu tiên tôi dự bữa cơm gia đình gồm có ông bà Phạm Duy và các con Quang, Minh, Hùng, Cường, Hiền, Thảo, Đức, Hạnh, 10 người ăn và thêm một miệng mới nữa là tôi. Bữa cơm rất ngon vì vui, và từ lâu tôi chưa hề có cái không khí gia đình, thân mật, ấm cúng.
Là một gia đình nghệ sĩ, các con của nhạc sĩ Phạm Duy nói chuyện thoải mái, đùa cợt với bố mẹ, nhưng vẫn có sự kính phục. Đây là một gia đình Bắc Kỳ chính hiệu có truyền thống và nề nếp. Cho dù 4 chàng con trai (Quang, Minh, Hùng, Cường) và 2 cô con gái (Hiền, Thảo) đã trưởng thành, nhưng vẫn ở chung với bố mẹ. Nhà nhỏ, nhưng ngăn chia nhiều phòng, có phòng thì hai người, chỉ riêng Duy Quang có riêng một phòng lớn là cái gara để xe trưng dụng thành phòng ngủ, và Duy Cường có một phòng riêng vì bận làm hoà âm cho nhạc. Ngoài công việc đi làm thường ngày, nhạc sĩ Phạm Duy và các con vẫn dựng lại ban nhạc The Dreamer và mỗi cuối tuần chơi nhạc tối thứ sáu, thứ bảy tại vũ trường ở Quận Cam thời bấy giờ.
Tôi ngụ lại nhà nhạc sĩ Phạm Duy suốt thời gian hai tuần lễ thực hiện thu âm cho dĩa nhạc, phải nói là ông rất chu đáo về tổ chức, ngày nào thu thanh ai hát, xem lại bài nhạc, xem lại hoà âm, và cuối cùng, trong tay chúng tôi có dĩa master nhạc Châu Đình An, và thời bấy giờ Master băng rất to, đến hai dĩa băng nhựa nặng tay.
Nhạc sĩ Phạm Duy liên lạc với hoạ sĩ Hồ Đắc Ngọc vẽ cho tôi cái bìa băng Cassettes, chở tôi đến nhà in An Nam của ông Lê Ngọc Ngoạn để xem giá cả và ấn loát, những buổi đi làm việc như thế chỉ có ông và tôi trên chiếc xe cũ của ông băng qua những con đường trong sương mù buổi sáng, và trong xe thì luôn phát ra các ca khúc mới toanh của tôi. Bạn tưởng tượng xem, tôi hạnh phúc và ngây ngất như thế nào bên một nhạc sĩ lừng lẫy nghe nhạc của tôi mới ra lò.
Ông còn thủ bút viết cho tôi những lời sau:
“Nhạc Châu Đình An vì có nội dung rất tích cực, hy vọng sẽ là người đại diện cho những ai vừa vượt thoát từ Trại Tù Chữ S, sẽ có ngày trở về dựng cờ Quốc Gia trên đất nước thân yêu”. Ký tên Phạm Duy
Ông không ngần ngại khen ngợi nhạc tôi viết hay, và ca khúc của tôi nhan đề Tâm Động Ca do Thái Hiền trình bày đã làm ông xúc động rưng rưng khoé mắt, lời bài hát tôi viết sau 5 năm tả tơi trong chế độ mới từ 1975 đến 1980:
“Khóc cho người ở lại Việt Nam
Một tiếng khóc thương cho đồng loại
Một tiếng khóc thương em khờ dại
Một tiếng khóc nhăn nheo mẹ già
Có tổ quốc, mà không có quê hương
Có đồng bào mà sao xa lạ
Có Việt Nam mà tôi mất đâu rồi
Có giòng sông mà con nước khô cạn
Có tình yêu mà không có bè bạn
Đứng bên này bờ biển đại dương
Nhìn chẳng thấy quê hương chỗ nào
Nhìn chỉ thấy thêm thương đồng bào
Lời tổ quốc trong tim dạt dào
Và nghe tiếng trong tôi thì thào
Giọt nước mắt lưu vong chợt trào
Tạm biệt
Tổ quốc thương yêu…
Của tôi”
(CDA 1980)
Ông xúc động và chắt lưỡi thốt lên “hay lắm!” không những vì giòng nhạc tôi mà còn vì giọng con gái ông là Thái Hiền cao vút kết thúc câu tạm biệt tổ quốc thương yêu của tôi. Đến bây giờ, tôi vẫn còn nhớ một hình ảnh của nhạc sĩ Phạm Duy ngồi sau tay lái chiếc xe và nỗi rung động thiết tha với quê hương đang đau khổ. Cứ thế, hằng ngày, những câu chuyện ông kể, từ đời sống âm nhạc của ông, lộ trình vượt thoát đến Mỹ, và đến nỗi đau đớn dày vò suốt bao năm tháng dài khi 4 người con trai còn kẹt lại quê hương. Ông cũng kể là cả hai ông bà in roneo, loại giấy copy để đóng thành tập nhạc dạy đàn guitar do Phạm Duy biên soạn để bán kiếm tiền sinh sống, và nhận lời đi hát dạo cho cộng đồng người Việt phôi thai hình thành. Ban nhạc gia đình với Phạm Duy, Thái Hằng, Thái Hiền, và Thái Thảo, ông luôn nghĩ là mình không lúc nào quên được cách để kiếm tiền, hầu có phương tiện tìm cách cứu thoát Quang, Minh, Hùng, Cường còn lại quê nhà. Bà Thái Hằng còn cho tôi biết, những ngày bận rộn sinh kế thì thôi, còn khi về đến nhà, là ông Phạm Duy nằm dài ra thừ người, đau đớn, ray rứt với 4 người con trai mà ông đang suy tính tìm đủ cách để đoàn tụ.
Ở đây tôi muốn nói đến tình yêu con quá sức nơi nhạc sĩ Phạm Duy, cả nhà 10 miệng ăn, và từ khi còn ở Việt Nam qua đến Mỹ, nhất nhất do bàn tay của ông làm ra, từ viết nhạc, viết bài và làm những việc liên quan đến âm nhạc để nuôi sống gia đình. Các con của ông dựa vào ông, chỉ vì yêu quá, săn sóc và lo lắng thái quá, do vậy đã dẫn đến tình trạng sau này, là ông đánh đổi tất cả sự nghiệp âm nhạc tiếng tăm, để chọn một lối thoát kinh tế cho các con khi về sinh hoạt trong một nước Việt Nam do cộng sản cai trị.
Đây là một sự thực mà ít ai hiểu được.
Trong email với nhà báo Hoàng Lan Chi, khi chị đề cập về thái độ và lời nói của ông trong các cuộc phỏng vấn của báo chí “lề phải” trong nước, đã dấy lên sự phản ứng bất bình của cộng đồng hải ngoại, về những bức ảnh ông cầm tấm thẻ “chứng minh nhân nhân”, “chứng minh hộ khẩu”, tôi đã trình bày cho chị về những điều tôi biết với nhà báo Hoàng Lan Chi, một người quen biết với gia đình ông.
Chế độ Việt Cộng và nhạc sĩ Phạm Duy chơi “game” với nhau, cả hai lợi dụng nhau, và cả hai đều có đường tính toán khác nhau. Chắc chắn một điều là Phạm Duy không thể nào theo cái gọi là chủ nghĩa cộng sản, và ông đã nhận ra chế độ hiện nay ở Việt Nam, không còn thứ cộng sản của thời Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, mà là cái vỏ bọc cộng sản che chắn cho cái thực chất là chế độ tư bản đỏ, độc tài toàn trị và cái ruột chính vẫn là mô hình tư bản kinh tế, hay rõ hơn là tham nhũng, bán tài sản quốc gia làm giàu cho các lãnh tụ và phe cánh. Ông Phạm Duy chọn một lối đi như tôi đã nói ở phần trên là, lối đi kinh tế cho các con của ông sau này, mà nhìn phiến diện đó là sự thoả hiệp dễ nhạy cảm phát sinh ra sự chê trách, chống đối từ phía cộng đồng người Việt quốc gia, cái nôi đã cho ông hít thở, phát triển gần như toàn diện sự nghiệp âm nhạc của ông. Do vậy, người ta giận dữ cũng chỉ vì tiếc cho ông, một tài năng, một biểu tượng văn hoá còn sót lại của Việt Nam Cộng Hoà.
Tôi đoan chắc là chỉ vì quá yêu thương các con, ông đã chọn về Việt Nam trong chế độ độc tài hiện hữu để có ba việc:
Thứ nhất: Cái chết của vợ là bà Thái Hằng đã làm ông hụt hẫng năm 1999, dù ai nói ra sao về cuộc đời tình ái phiêu lưu thêu dệt của người nhạc sĩ, nhưng, có lần ông cho tôi nghe ca khúc “Nắng Chiều Rực Rỡ” mà ông bảo là viết riêng cho bà, vì cả ngàn ca khúc của ông chưa có bài nào viết cho bà. Trong đó có câu “thế kỷ này, đang trong nắng ban chiều. Cho lòng mình bâng khuâng nhớ nhau”. Ông bắt đầu cô độc thực sự sau ngày bà ra đi.
Thứ hai: Người già cô độc, và đơn chiếc, dễ tủi thân mủi lòng, nếu ông mất sớm vào khoảng 70 tuổi thì thôi không có chuyện nói đến, và bây giờ Phạm Duy vẫn là thần tượng, nhưng ông sống đến trên 80 tuổi mà quê hương với ngày về thực sự vẫn xa vời vợi, chế độ cộng sản chưa sụp đổ như bao người trông chờ, không biết đến bao giờ quay trở lại cố hương. Ông mất sự kiên nhẫn, ông muốn về một lần rồi nhắm mắt xuôi tay ở cái quê hương khốn khổ đã cho ông nếm trải nhục vinh rồi ra sao thì ra.
Thứ ba: Sau hết là cuộc sống các con, khi ông chết rồi con mình sẽ ra sao, chẳng ai có nghề nghiệp cố định, chẳng ai có bằng cấp gì cả, chỉ hoàn toàn sống bằng âm nhạc của chính ông dạy dỗ, tạo dựng. Và môi trường hải ngoại thì không đủ điều kiện để các con sinh sống, làm thầy thì không được, làm thợ thì khó, do vậy, ông lợi dụng chính sách gọi là “nghị quyết 36” hoà giải dân tộc để trở về, mở đường máu tồn tại và nuôi sống “âm nhạc của ông và các con”, bất chấp sự phản đối, bất chấp, ông biết là người ta sẽ thất vọng vì sự sụp đổ hình ảnh thần tượng nghệ sĩ quốc gia nơi ông.
Người nghệ sĩ Việt Nam đứng giữa hai lằn đạn của hai chiến tuyến khác nhau trong mọi thời kỳ, dù chiến tranh hay hoà bình hiện nay. Và người nghệ sĩ trong một giây khắc xúc cảm rất dễ trở nên yếu đuối. Vì tâm hồn không yếu đuối, không thể là nghệ sĩ.
Cái còn lại, tôi nghĩ xa hơn, một khi tâm hồn chúng ta yếu đuối, cần có nơi nương tựa, cần có nơi chở che. Cộng đồng hải ngoại là nơi để nương tựa, nơi để thở than và mong nhận che chở. Dù sao thì, cộng đồng chúng ta ở hải ngoại khi thương thì hết lòng, khi ghét thì hết tình. Ngay như bản thân tôi về ở Orlando, Florida hơn 20 năm qua, chuyên làm kinh tế, nghĩa là lo đi làm ăn, mà vẫn không yên, tôi hiểu con người ta, chỉ có một thiểu số có sự ganh ghét, đố kỵ, chụp mũ và thiếu sự cảm thông. Do vậy, không riêng gì ông Phạm Duy, mà còn nhiều nữa, cộng đồng nói chung, đôi khi vì quá nhiệt tình, quá sôi nổi, quá bức xúc vì chế độ cộng sản Việt Nam, do vậy vô tình đã thiếu sự khoan dung, thiếu trái tim bao dung che chở, để làm nơi nương tựa cho những nhà văn hoá, chính trị, tôn giáo. Cuối cùng, vô tình, lãng quên, và người ta sống theo cách sống của họ là bất chấp, …và họ trở thành ích kỷ.
Ông Phạm Duy đã nằm xuống, nhắm mắt xuôi tay suốt 93 năm làm con người sống thở trên cõi đời này. Chắc chắn là các báo lề phải trong nước sẽ có nhiều bài “vinh danh” ông, ca ngợi sự nghiệp âm nhạc và con người ông. Chế độ cộng sản hiện nay luôn nhận vơ cho mình những khuôn mặt lớn của văn học nghệ thuật, từ Văn Cao, Trịnh Công Sơn và bây giờ là Phạm Duy là người của họ, là những kẻ thành danh do bởi chế độ, hoặc là tài sản chung của đất nước. Bởi vì có mất mát gì đâu, khi một cái “Game” mà chế độ lúc nào cũng là kẻ thắng bởi vì cầm quyền ban phát “xin và cho”.
Đây là một bài học cho giới làm nghệ thuật một khi thoả hiệp trong một trận đấu “Game”. Cuối cùng cái triết lý cùn là “sống dễ, dễ sống. Sống khó, khó sống”.
Ở sao cho vừa lòng người
Ở rộng người cười, ở hẹp người chê!
Châu Đình An
Thứ ba: Sau hết là cuộc sống các con, khi ông chết rồi con mình sẽ ra sao, chẳng ai có nghề nghiệp cố định, chẳng ai có bằng cấp gì cả, chỉ hoàn toàn sống bằng âm nhạc của chính ông dạy dỗ, tạo dựng. Và môi trường hải ngoại thì không đủ điều kiện để các con sinh sống, làm thầy thì không được, làm thợ thì khó, do vậy, ông lợi dụng chính sách gọi là “nghị quyết 36” hoà giải dân tộc để trở về, mở đường máu tồn tại và nuôi sống “âm nhạc của ông và các con”, bất chấp sự phản đối, bất chấp, ông biết là người ta sẽ thất vọng vì sự sụp đổ hình ảnh thần tượng nghệ sĩ quốc gia nơi ông.
NHỤC, HÈN, VÔ LIÊM SỈ...BỌN XƯỚNG CA VÔ LOÀI.