Mường Giang
“ Chiều buông
xuống bầy dế mèn inh ỏi
Ánh đèn dầu sáng
dưới mái tranh
Mẹ ngồi đan áo
cho cha
Thầm thì lời cầu
nguyện
Chữ A,B con đọc
Số Một, Hai con
đếm
Ðếm bao giờ cho
tới
Ngày nghĩ phép
cha về
Mùa đông đến áo
mẹ đan xong
Mong cha sớm trở
về
Mặc vào cho mẹ
vui
Vất vã mẹ không
nề
Hằng đêm bầy dế
mèn vẫn gọi
Con đếm từng
ngày mong đợi
Biết con học
giỏi cha mừng
Biết mẹ đan áo
cha vui
Chuyến hành quân
gian khổ
Không giấy mực
biên thư
Cha đành phải
quên lời
Không hẹn kỳ trở
lại
Hôm sau có người
đến
trao mẹ một món
quà
Tay run run nhận
lấy
Nước mắt mẹ trào
dâng
Con hồi họp muốn
biết
Món quà nào cho
Mẹ
Món quà nào cho
con
Chú quân nhân nghiêm
chỉnh
Con dại khờ
không hiểu
Mẹ đau lòng ngả
quỵ
Trên tay ôm lá
cờ
Mãnh vải phủ
thân người
Mẹ bảo đây là kỷ
Vật quý nhất của con
Bây giờ con mới
hiểu thứ gì quý nhất trên đời !!!
(Kỷ vật quý nhất
– thơ Cát Trắng) “
Đêm buồn đọc lại thơ của Cát Trắng, khiến cho người
lính già cảm động muốn khóc trước nổi đau lòng của người vợ lính, thãm thê đã
ngã quỵ khi nhận được tin chồng “ tử
trận “ , mà kỷ vật còn lại là “ Lá
Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ, đã phủ thây chàng “, chẳng khác gì “ da ngựa bọc thây “ người lính thú đời
xưa. Mẹ bảo đây là Kỷ vật quý nhất của con và bây giờ con mới hiểu thứ gì quý
nhất trên đời !!!.
Trong suốt cuộc chiến VN kéo dài gần
20 năm (1955-1975), những ai đã từng là người dân trong vùng chiến nạn, xôi đậu,
bị giặc chiếm hay là lính trận chiến đấu nơi sa trường, đồn nghĩa quân cheo leo
miền biên tái, những biệt chính, biệt kích cảm tử hoạt động riêng rẽ và các
quân nhân bị thất lạc trong lúc đụng trận, mới cảm nhận được “ sự thiêng liêng của lá cờ vàng ba sọc đỏ
và bản quốc ca hùng tráng, được thổi lên khi xung trận “.
Quốc
kỳ của Quốc Dân VN (chứ không phải của VNCH hay bất kỳ cá nhân nào dù đó là Bảo
Đại, Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu, Trần Văn Hương..) như một ngọn đuốc , soi
đường mở lối đấu tranh cho thanh niên nam nữ miền Nam trong suốt 20 năm đoạn trường
máu lệ, vì đất nước bị cọng sản đệ tam xâm lăng cướp đoạt. Cũng nhờ Lá Quốc Kỳ,
mà những người Việt lưu vong tị nạn khắp bốn phương trời, sau ngày mất nuớc
30-4-1975 đã ngồi lại với nhau để cùng sớt chia buồn vui vận nước. Ðó mới chính
“ là cấp lãnh đạo tối cao nhất của Cộng
Ðồng VN Tị Nạn Hải Ngoại “ hầu như từ truớc tới nay chưa có ai dám phản đối
hay xúc phạm.
Có
còn nhớ hay không những ngày tang tóc hỗn loạn của Tết Mậu Thân (1968), mùa hè đỏ
lửa 1972 tại An Lộc (Bình Long), Quảng Trị, Kon Tum, Bình Ðịnh.. Rồi những ngày
thi hành cái gọi là hiệp định ngưng bắn vào tháng 1-1973 và sau rốt là 55 ngày
cuối cùng của VNCH vào năm 1975, lá cờ lại đẳm thêm thịt xương, máu và nước mắt
Lính trận và hàng triệu người dân Việt Miên Nam, trên khắp các nẻo đường trốn
chạy sự truy sát có một không hai của bộ đội Bắc Việt.
Tại
chiến trường, để treo được ngọn cờ vàng ba sọc đỏ “ biểu tượng của quốc dân “ lên Kỳ Ðài Huế trong Tết Mậu Thân, trên ngọn
Ðồi Ðồng Long (An Lộc), Tòa Hành Chánh Kon Tum và nhất là tại Cổ thành Ðinh
Công Tráng-Quảng Trị.. đã có không biết bao nhiêu sinh mạng của lính, trong mọi
binh chủng từ NQ+DPQ, Bộ Binh, Biệt Ðộng Quân, Biệt kích Dù, Thủy Quân Lục
Chiến và Nhảy Dù, đã hàng nối hàng gục ngã, trong quyết tâm làm thang cho đồng đội,
tiếp nối hết lớp này tới đợt khác, mới đạt được thắng lợi cuối cùng.
Năm
1973, cọng sản Hà Nội qua đồng thuận của Mỹ, được công khai đóng quân trên lãnh
thổ VNCH theo tinh thàn hiệp ước ngưng bắn. Chúng đã cố gắng treo dán khắp nơi
từ cờ lớn tới cờ nhỏ, những lá cờ máu, khiến cho người lính VNCH, lại phải chịu
nhiều thương vong, dễ bảo vệ xóm làng, dân chúng, không để mất vào tay cọng
sản. Ðiều vinh hạnh nhất hiện nay tai hải ngoại, đối với những người lính già
mang mọi cấp bậc, thành phần, giai cấp xã hội.. ai mà chẳng mơ ước được Cộng Ðồng người Việt Quốc Gia và đồng đội, phủ
cho mình một Lá Quốc Kỳ Cờ Vàng Ba Sọc Ðỏ trên nắp quan tài, trước khi vĩnh
viễn bước vào cõi niết bàn thênh thênh không vướng bận.
Rồi
những ngày cuối cùng của tháng tư đen 1975, trong khi hầu hết bọn khoa bảng xôi
thịt chuyên lợi dụng sự tự do dân chủ của chế độ, để phá thối đất nước miền
Nam, ùn ùn tìm đủ mọi cách bỏ chạy trước ra ngoại quốc. Giờ vẫn chứng nào tật
nấy, vẫn sống bám vào mồ hôi nước mắt của người Việt Quốc Gia, vẫn “ áo thụng vái nhau khoe bằng cấp “ mỗi
khi có dịp xuất hiện trên diễn đàn, sân khấu nhưng cứ lại tiếp tục pha thối cộng đồng người
Việt tị nạn, tuyên truyền và bẽ cong ngòi bút, cứ đòi thay đổi lá cờ , hòa hợp hòa giải, nối vòng tay lớn, làm lợi cho
đế quốc CS đang cai trị VN, hầu kiếm chút danh cặn tiền bèo vào lúc cuối đời.
Trong
lúc đó, hằng vạn người lính chết hay bị thương, vì đã ở lại để bảo vệ thủ đô,
bến tàu, phi trường, xa lộ và những bãi đáp trực thăng, giúp Mỹ và hậu phương
bạc bẽo, có cơ hội chạy. Còn biết viết gì hơn, trước cảnh tượng những người đưọc
may mắn thoát được địa ngục trần gian, đầu thai trở lại kiếp người, hồ hởi kéo
nhau về quê hương đã đổi mới để ‘ vinh
qui bái tổ ‘.
Thử
hỏi trong giờ thứ 25, tính sổ lại xem có bao nhiêu tướng lãnh đã bỏ chạy ? Hay
nói đúng hơn gần hết đã ở lại chiến đấu với đồng đội thuộc cấp, cho tới lúc tàn
cuộc. Những danh tướng Lý Tòng Bá, Lê Minh Ðảo, Trần Quang Khôi, Phạm Văn Phú,
Lê Nguyên Vỹ, Lê Văn Hưng, Nguyễn Khoa Nam, Trần Văn Hai, Hồ Ngọc Cẩn, Ngô Tấn
Nghĩa.. há không có phương tiện để trốn chạy ra tàu Mỹ hay sao ? Nhưng họ là
thanh niên thời đại, là kẻ sĩ nên coi trọng khí tiết làm tướng, hơn sinh mạng
phù vân một đời.
Vì vậy biết ở lại sẽ bị giặc đày đọa lăng nhục
tới chết nhưng vẫn chấp nhận hoàn cảnh. Cuối cùng, kẻ thì tự tử, còn người bị
giam cầm nhiều chục năm nơi tận cùng biên tái, làm gương muôn đời cho hậu thế
soi chung, vì hai chữ hy sinh cao quý ‘
lưu thủ đan tâm, chiếu hãn thanh ‘, được tất cả mọi người từ dân tới lính,
thương mến trân trọng.
.
Hơn
80 năm qua, CSVN lúc nào cũng tìm đủ mọi cách để trương ngọn cờ máu trên lãnh
thổ Hồng Lạc. Hiệp định Genève năm 1954 chia cắt VN thành hai miền riêng biệt
tại vĩ tuyến 17, lấy con sông Bến Hải làm ranh giới. Theo quy định, mỗi một
miền được đặt hai đồn canh, dọc theo bờ sông giới tuyến : Ðồn Hiền Lương và Cửa
Tùng (Bắc Việt), Xuân Hòa và Cát Sơn (VNCH), cả hai phía đều có treo cờ hằng
ngày. Và đó là nguyên nhân đã làm hai phía đổ máu nhiều lần vì ‘ Lá Cờ ‘ được treo ở hai đầu cầu Hiền Lương.
Thời
gian đầu thi hành Hiệp định (1954-1956) còn có sự hiện diện của các toán kiểm
soát đình chiến, nên hai phía vẫn tôn trọng cở lá cờ được qui định 3,2x 4,8m.
Nhưng từ sau năm 1956, phía VNCH bên đồn canh Xuân Hòa luôn thay đổi khổ lá cờ
Vang ba Sọc Ðỏ , theo lệnh của các đơn vị trưởng trấn đóng miền giới tuyến. Thế
là trận giặc ‘ Chọi Cờ ‘ bùng nổ hai
bên bờ sông Bến Hải , mà phần thắng luôn về phía VNCH vì có đủ phương tiện và được
tự do quyết định hơn phía CSBV. Theo các tài liệu còn lưu trữ cho biết suốt 20
năm chia cắt, cả hai phía đã thay đổi cở ‘ cờ ‘ tới 267 lần để ăn thua, trong đó
nhiều lần cột cờ phía Bắc bị máy bay oanh tạc mà nặng nhất vào năm 1967, cả cột
cờ, đồn canh và cầu Hiền Lương về phía CS bị bom đánh xập.
Có hiểu thấu những câu chuyện bên lề lịch
sử, chúng ta mới thấy được tầm mức quan trọng và thiêng liêng của lá cờ. Cho
nên không ai có thể muốn người khác phải theo ý mình “ đứng chung dưới một ngọn cờ “mà trong thâm
tâm của họ, đã coi nó như là biểu tượng của một chế độ dã man, xấu xa bán nước
như lá cờ máu đỏ sao vàng của Cộng Ðảng VN.
Theo
sử liệu, thì quốc hiệu VIỆT NAM chính thức xuất hiện vào niên lịch 1802 là năm
mà Ðức Gia Long Hoàng Ðế, đã có công thống nhất được toàn cõi sơn hà từ Ải Nam
Quan cho tới Mũi Cà Mâu, sau hơn 300 năm nội chiến triền miên, giữa các dòng họ
Lê, Mạc, Trịnh, Nguyễn và Tây Sơn.
Thật
ra từ thế kỷ thứ XIV, hai tiếng Việt Nam
đã thấy xuất hiện trong nhiều tác phẩm lúc đó như “ Nam Thế Chí của Hồ Tông Thốc, Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí của Phan
Huy Chú, Du Ðịa Chí của Nguyễn Trải, Trình Tiên Sinh Quốc Ngữ Văn của Nguyễn
Bỉnh Khiêm..” Ngoài ra, các nhà khảo
cồ sau này, còn tìm thấy nhiều bia đá có niên lịch ghi trước thế kỷ XVIII ở Bắc
Việt. Trong tất cả các bia ký này, đều thấy có khắc hai chữ Việt Nam. Theo nhận
xét của các học giả, sử gia hiện tại, thì hai chữ Việt-Nam lúc đó, mang chung ý
nghĩa rất thiêng liêng, nhằm chỉ về một nước Việt ở Nam Phương. Ðể đối chọi với
sự mai mỉa khinh nhờn của người Tàu phương Bắc, mà suốt dòng lịch sử, luôn coi
VN như một quận huyện bản xứ, qua danh từ miệt thị ‘ An Nam hay Giao Chỉ ‘.Thời Pháp thuộc, thực dân cũng sử dụng những
danh từ hạ bạc của người Tàu trong quá khứ, mục đích cũng chỉ để làm nhục dân
tộc VN mà thôi.
Theo
Dự Am Thi Tập của Phan Huy Chú viết năm 1792, cho biết vào thời Quang Trung thứ
5 nhà Tây Sơn, đã ban chiếu đổi quốc hiệu An Nam thành Việt Nam. Tiếc thay
triều đại trên quá ngắn ngũi, nên việc sử dung quốc hiệu VN cũng theo vận nước
trôi vào quên lãng.
Riêng hai tiếng VN cũng đâu có khác gì thân
phận của dân tộc Hồng-Lạc nhược tiểu, luôn bấp bênh trong dòng sinh mệnh lịch
sử. Năm 1802 ngay khi thống nhất được đất nước, vua Gia Long đã cử Trịnh Hoài
Ðức và Lê Quang Ðịnh đi sứ sang nhà Thanh, trả lai ấn phong của vua Quang Trung
và xin nhận quốc hiệu cũ là Nam Việt.
Ta
biết Nam Việt là quốc hiệu của VN thời
nhà Triệu (207-111 trước tây lịch), có lãnh thổ rộng lớn, bao gồm Vân Nam,
Lưỡng Quảng, Hải Nam, Bắc Việt và ba tỉnh Thanh-Nghệ-Tỉnh phía bắc Trung Phần.
Do đó, chừng nào vua Càn Long mới chịu chấp nhận. Bởi vậy cho tới năm Gia Long
thứ 3 (1804), nhà Thanh mới sai Tế Bá Sâm, mang quốc ấn và chiếu phong vua Gia
Long, đồng thời cũng chấp nhận quốc hiệu của nước ta vào thời nhà Nguyễn là
Việt Nam thay vì Nam Việt. Tuy nhiên phải đợi tới cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ
XX, hai tiếng VN mới được cả trong và ngoài nước, sử dụng với tất cả ý nghĩa
thiêng liêng và toàn bích.
1
+ Cờ Ðỏ Sao Vàng Của Ðảng CSVN :
Về
lá quốc kỳ VN hiện tại, lại càng thêm phức tạp vì đang sử dụng hai lá cờ : Ðảng cọng sản quốc tế đệ tam đang đô hộ VN, được Bắc Bộ Phủ tại Hà Nội, xài lá cờ máu
đỏ sao vàng, nhái theo lá cờ của đảng cong sản Trung Hoa tỉnh Phúc Kiến.
Ngoài ra Việt Cộng còn xài thêm lá cờ đảng giống cờ nước VN xã nghĩa có vẻ thêm
búa liềm, theo nguyên mẫu lá cờ của Liên Bang Xô Viết cũ.
Căn
cứ các nguồn sử liệu hiện tại, thì lá cờ máu trên được gọi là Hồng Kỳ (Cờ Ðỏ),
do Nguyễn Hửu Tiến đã vẽ và xuất hiện lần đầu tiên vào tháng 11-1940. Tuy nhiên
Lá Cờ Ðảng đã xài từ sau ngày 20-7-1954 tới nay, đã khác với Kỳ Hiệu của Phong
Trào Việt Minh, vì các cạnh của Ngôi Sao Vàng không còn là đường cong, mà đã
trở thành đường thẳng, y chang Cờ Liên Xô và Trung Cộng
Tổng
hợp các tài liệu viết về phong trào đầu tiên của Cộng Sản Tàu tại Huyện Phúc
Châu (Fuzhou) tỉnh Phúc Kiến, vào năm 1934, đã tìm thấy Lá Cờ Ðỏ Sao Vàng, mà
CSVN đang sử dụng làm quốc kỳ từ đó đến nay. Ngoài ra Ðảng còn xài thêm Lá Cờ
Búa Liềm, đã sao chép của Liên Xô. Ðây
là những lá cờ của ngoại bang đem về, nên làm sao có thể bắt buộc mọi người
phải tôn trọng, trừ phi họ bị áp buộc và khủng bố .
2
+ Cờ Vàng Ba Sọc Ðỏ :
Quốc dân VN thì chính thức sử dụng lá cờ màu vàng ba sọc đỏ, xuất
hiện từ ngày 2-6-1948 cho tới tháng 7-1954. Sau đó, dù đất nước bị chia đôi nhưng
chính phủ VNCH ở phía nam vĩ tuyến 17, từ Ðồng Hà-Quảng Trị, vào tới Mũi Cà
Mâu, vẫn tiếp tục sử dụng quốc kỳ của quốc dân VN. Kể từ ngày 1-5-1975, tuy đất
nước VN bị cọng sản quốc tế đô hộ nhưng cũng từ đó, trên khắp mọi nẻo đường hải
ngoại, hơn ba triệu ngươì Việt tị nan cọng sản, vẫn theo truyền thống của ông
cha, trân quý và chấp nhận lá cờ vàng ba sọc đỏ, như một biểu tượng của Tổ Quốc
và Dân Tộc VN.
Tại
Úc và nhất là Hoa Kỳ, hai quốc gia tự do có nhiều người Việt tị nạn định cư,
sau bao chục năm đấu tranh liên tục, nên đã đạt được ý nguyện, thỉnh cầu chính
quyền sở tại, công nhận ‘ Lá Cờ Vàng
Ba Sọc Ðỏ ‘ của VN, như là một biểu
tượng tinh thần cao quý nhất của Cộng Ðồng VN tị nạn. Sự kiện mới đầy, chính
quyền tại Tiểu Bang California (Hoa Kỳ), ban hành quyết định công nhận Lá Quốc
Kỳ VN Hải Ngoại, là một chiến thắng lớn của người Việt, trên đường đấu tranh
quang phục đất nước.
Về
nguồn gốc của Lá Cờ, căn cứ theo tác phẩm ‘ Quốc Kỳ Việt Nam ‘ của tác giả Quốc Duy Nguyễn Văn An, thì quốc kỳ
VN được khởi đầu từ sáng kiến của Phan Thanh Giản. Năm 1863 khi làm Chánh sứ hướng
dẫn phái đoàn đi sứ sang Pháp, để xin chuộc lại ba tỉnh miền Ðông Nam Phần :
Gia Ðịnh, Biên Hòa và Ðịnh Tường, đã bị thực dân Pháp cưỡng chiếm vào năm 1862.
Khi tàu vào tới hải cảng, Pháp yêu cầu phái bộ VN treo quốc kỳ, để họ tổ chức
bắn súng đại bác chào đón theo nghi cách ngoại giao quốc tế. Vì không chuẩn bị
trước, nên Phan Thanh Giản phải lấy tạm chiếc khăn lụa màu vàng và dùng son đỏ
viết trên đỏ bốn đại tự ‘ Ðại Nam Khâm Sứ ‘.Cũng từ đó, lá cờ trên đã trở thành
Cờ Long Tỉnh, tượng trưng cho Triều Ðình Nhà Nguyễn, với lãnh thổ còn lại gồm
Bắc và Trung Phần.
Ngày
16-4-1945, học giả Trần Trọng Kim được Quốc Trưởng Bảo Ðại, ủy nhiệm lập Chính
Phủ với nội các gồm 10 Bộ Trưởng. Ngày 2-6-1945, Thủ Tướng Trần Trọng Kim quyết
định chọn quốc kỳ mới cho VN. Ðó là lá cờ nền vàng, ba sọc đỏ theo hình quẻ Ly
(–-)trong kinh Dịch. Ngày 30-6-1945, Ông lại chọn bài Ðăng Ðàn Cung làm Quốc
Thiều.
Tháng
2-1946, D’Argenlieu được cử làm Cao Ủy Ðông Dương, mục đích tái lập lại sự đô
hộ trên ba nước Việt-Miên-Lào, mà Pháp đã bị quân phiệt Nhật đánh đuổi khỏi
vùng vào ngày 3-9-1945. Ðể tiến tới ý đồ bất lương trên, thực dân mưu toan
nhiều lần tách hẳn Nam Kỳ của VN, để nhập vào lãnh thổ Pháp , đồng thời cai trị
Bắc và Trung Phần như trước tháng 3-1945. Tuy nhiên âm mưu xảo trá và nguy hiểm
của giặc, lần lượt bị quốc dân VN phát hiện và chống trả, khiến cho các chính
phủ Nguyễn Văn Thinh và Lê Văn Hoạch, cũng lần lượt sụp đổ theo ý đồ thâu tóm đất
đai của người Việt.
Ngày
8-10-1947, Nguyễn văn Xuân làm Thủ Tướng và lập nội các mới, trong đó Trần Văn
Ân được cử làm Thứ Trưởng Thông Tin. Trong giai đoạn này, hầu như tất cả các vị
trí thức yêu nước cũng như những đảng phái quốc gia, đều cực lực chống lại
chiêu bài chia cắt Nam Phần thành một miền tự trị thuộc Pháp.
Nương
theo lòng dân lúc đó, cụ Trần Văn Ân qua tư cách của một chính khách kiêm Thứ
Trưởng Chính Phủ, đã đề nghị Thủ Tướng Xuân, sử dụng danh xưng ‘ Nam Phần VN ‘,
để thay thế cái gọi là ‘ Nam Kỳ Cộng Hòa Tự Trị ‘, mà Pháp và bọn Việt Gian lúc
đó đã ngụy xưng một cách trơ trẽn. Ngoài ra ông cũng đã chọn Quốc Ca - Quốc Kỳ
cho cả nước.
Vào
thời điểm 1948, lúc đó trên lãnh thổ VN đang sử dụng năm lá cờ khác nhau : Ba
lá của ba kỳ Bắc-Nam-Trung, một của đạo Cao Ðài và lá thứ năm của Phật Giao Hòa
Hảo.
Trong thành phần Ủy Ban chọn Quốc Ca và Quốc
Kỳ cho Quốc Gia VN độc lập, lúc đó có Nguyễn Hữu Thiều là chủ tịch, cùng các đại
diện Ðổ Quang Giai (Miền Bắc), Trần Văn Lý (Miền Trung), Nguyễn Văn Xuân (Miền
Nam) cùng hai đại diện của Phật Giáo Hòa Hảo và đạo Cao Ðài. Cuộc triển lãm năm
mẫu cờ tại Phòng Khánh Tiết Sài Gòn. Cuối cùng Uỷ Ban đã quyết định chọn Lá Cờ
Nền Vàng Ba Sọc Ðỏ, làm Quốc Kỷ của Quốc Dân và Quốc Gia VN.
Sự kiện lịch sử trên, về sau được Cựu Hoàng
cũng là cựu Quốc Trưởng Bảo Ðại, đề cập tới trong tác phẩm ‘ Con Rồng Việt Nam (Le Dragon D’Annam)’,
xuất bản năm 1990. Ngày 5-6-1949, trên chiến hạm Duguay Trovin, bỏ neo trong
vịnh Hạ Long. Lúc đó trên tàu có sự hiện diện của Quốc Trưởng Bảo Ðại, Thủ tướng
Nguyễn Văn Xuân, Cao Uỷ Pháp tại Ðông Dương là Emile Bollaert đại diện nước
Pháp, thừa nhận nền độc lập của VN, mà quốc kỳ là lá cờ vàng ba sọc đỏ như
chúng ta hiện tại đang trân quý trên khắp mọi nẻo đường lưu vong hải ngoại và
cả trong hồn tim của triệu triệu người VN trong nước đang sống nơi xã nghĩa
thiên đàng.
Cho
nên Lá Cờ Vàng Ba Sọc Ðỏ có một ý nghĩ
khác biệt với Lá Cờ Máu của Cọng Sản VN, vì nó không phải là của riêng bất
cứ ai, từ Bảo Dại tới Nguyễn Văn Xuân, Ngô Ðình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu, Trần Văn
Hương hay Dương Văn Minh. Trong khi đó là cờ máu sao vàng, từ hình thức tới nội
dung là tài sản riêng của đệ tam cọng sản quốc tế, của Liên Xô, Trung Cộng và
Việt Cộng. Ðó cũng là lý do thiêng liêng
mà người Việt qua mọi giai đoạn lịch sử, từ trong nước cho tới cuộc sống lưu
vong, vẫn quyết tâm gìn giữ và đấu tranh để quốc tế công nhân, dù hiện nay ngươi
Việt quốc gia không có lãnh thổ, từ sau ngày 30-4-1975, quốc hận, gia vong, đổi
đời, súc vật lên làm chánh quyền, cai trị cả nước.
Lá
quốc kỳ VN là biểu tượng cao quý nhất trong linh hồn người Việt. Tháng 7-1954 hơn
hai triệu người đất Bắc và các tỉnh miền Trung bên kia vĩ tuyến 17 vì công nhận
lá cờ vàng ba sọc đó của quốc dân, nên cắt ruột gạt nước mắt, bỏ xứ vào Nam tìm
tự do dưới bóng lá quốc kỳ màu vàng. Ngày 30-4-1975 người Việt lại bỏ nước ra đi
vì không sống nổi đưới lá cờ máu của đảng cọng sản, cho tới ngày nay, lập trường
chính trị vẫn không hề thay đổi.
Lá
Cờ của quốc dân VN hiện tại, nền màu vàng, hình chữ nhật bề ngang bằng 2/3
chiều dài. Trên nền vàng, ở phần giữa là ba sọc đỏ có kích thước bằng nhau. Màu
vàng của lá cờ tượng trưng cho dân tộc VN, trong cộng đồng các dân tộc Châu Á
da vàng. Màu đỏ tượng trưng cho sự đấu tranh gian khổ, đẫm đầy huyết hận, nước
mắt đoanh tròng, trong suốt chiều dài của lịch sử chống ngăn ngoại xâm. Riêng
Ba sọc đỏ tượng trưng cho ba phần của đất nước VN.
Lúc đó, chính ký giả Nguyễn Kiên Giang (tên
thật Lý Thanh Cần ), giữ chức Giám Ðốc Phòng Báo Chí thời Thủ Tướng Xuân. Ông
là người được chính phủ giao phó thực hiện lá quốc kỳ. Song song Thủ Tướng Xuân
còn chấp nhận bài hát ‘ Thanh Niên Hành
khúc ‘ của Lưu Hữu Phước sáng tác làm Quốc Ca, vì lúc đó đương sự cũng như
hằng triệu triệu thanh niên nam nữ VN yêu nước, đang dấn thân đấu tranh chống
thực dân Pháp, trong hàng ngũ Việt Minh.. nên tim-óc, chữ nghĩa, chỉ hướng về
hồn nước, hồn người. Ðó cũng là lý do mà Chính phủ VNCH khi trước và Cộng Ðồng
Người Việt Quốc Gia Hải Ngoại hiện nay, không thay đổi bài hát nào khác, dù bài
‘ VN-VN của Phạm Duy, rất được nhiều người ưa thích nên đề nghị dùng nó để thay
thế bài hát của họ Lưu.
Cũng
liên quan tới Lịch sử Lá Quốc Kỳ, trong tác phẩm ‘ Việt Nam Nhân Chứng ‘, cựu tướng Trần Văn Ðôn đã viết là, chính ông
ta và tướng Lê Văn Kim, là tác giả đã đề nghị thực hiện quốc kỳ và quốc ca VN hiện
tại. Nhưng sự xác nhận trên, chẳng những bị cụ Trần Văn Ân là nhân chứng, tác
giả cờ và quốc ca, cực lực phản đối, mà còn bị nhiều người gạt bỏ không tin là
sự thật. Bởi vào năm 1948, Trần văn Ðôn cũng như Lê Văn Kim.. chỉ là sĩ quan
cấp nhỏ trong quân đội Pháp , thì chừng nào mới tới phiên được mời vào phòng
hội, để nghị sự một vấn đề trong đại của quốc gia lúc đó, chỉ có Nguyên Thủ,
các cấp Bộ Trưởng, Thủ Hiến ba kỳ và lãnh đạo cao cấp của của các giáo phái ..
mới được mời họp với ý kiến và quyết định.
Vậy
ta thử hỏi sau ba mươi bảy năm chiến tranh chấm dứt (30/4/1975 – 11/2012) kẻ
chiến thắng là CS đã làm được những gì, để mang tới phúc lợi, no ấm cho dân tộc
VN ?. Trong thời gian đó, đất nước chúng ta có được độc lập tự do hay không ?
cứ nhìn kết quả mà không cần phải đơi câu trả lời.
Thật
sự cho tới bây giờ, đất nước VN vẫn là một quê hương bị đọa đày tang tóc khổ đau.
Dân chúng đại đa số nghèo đói lạc hậu. Xã hội băng hoại, kỷ cương tan nát, đạo đức
suy đồi và oán thù chất ngất vì hố phân chia mọi thành phần trong nước, càng
lúc càng sâu thẳm không biết đâu mà so sánh. Trong lúc bọn cán bộ viên chức đảng
nhà nước, bọn Việt gian-Việt kiều cò mồi, bọn tư bản đỏ trắng tại VN càng lúc
càng giàu có vinh hiển tột cùng với tiền tỷ vàng tạ, thì người dân cả nước từ
nông dân, người đánh cá, cho tới kẻ lạo động, gần như kiếm ăn từng bửa. Như vậy
tám mươi năm qua, nói là đi làm cách mạng để giải phóng nước nhà và người dân
bị ngoại xâm kềm kẹp. Thế nhưng ba mươi bảy năm hòa bình, giờ tính lại sổ đời,
nước vẫn bị ngoại bang thao túng, không phải chỉ có Nga-Trung Cộng mà cả khối tư
bản Mỹ, Nhật, Âu Châu, Nam Hàn, Ðài Loan-Singapore.. Còn người dân thì cuộc
sống còn thua cả thời Pháp Thuộc, nói chi tới Hai mươi năm VNCH.
Hơn
ba mươi bảy năm đổi đời rồi, cho dù Bắc Bộ Phủ có gian ngoan xảo trá tới đâu,
bọn Việt gian biển lận thế nào, thì người trong nước cũng như ở hải ngoại, ai
nấy đều hiểu tất cả tấn thảm kịch VN. Tất cả chỉ do bàn tay đẫm máu của băng đảng
Hồ Chí Minh dàn dựng và thao túng mà thôi.
Ba
mươi bảy năm nói là thống nhất nhưng Bắc-Nam cũng vẫn là Nam-Bắc. Lúc nào cũng
to mồm lớn miệng nói là tự do-độc lập thế nhưng mọi việc lớn nhỏ của nước, đều
do bàn tay tối cao của Liên Xô-Trung Cộng, nay lại thêm bàn tay lông lá của lái
súng Mỹ quyết định giùm.
Gần hai trăm năm trước (1858), vua Tự Ðức
nhà Nguyễn vì thiển cận, không chịu nghe theo lời canh tân đất nước của các sĩ
phu trí thức thời đó như Nguyễn Trường Tộ, Ðinh văn Ðiền, Bùi Viện.. mà cứ chạy
theo ôm chân người Tàu lúc đó cũng lạc hậu yếu hèn, nên rốt cục dân tộc phải bị
thực dân Pháp đô hộ đày đọa gần 100 năm tủi nhục thương đau. Ngày nay Việt Cộng
cũng đã bước vào lối mòn năm cũ, đã và đang ôm chân Tàu đỏ lẩn Tàu trắng một
cách tận tuyệt, để có một chỗ dựa an toàn cho đảng sinh tồn. Rồi tháng lại ngày
qua làm ngơ nhắm mắt, mặc kệ cho đồng bào cả nước càng lúc càng lầm than đói
rách, qua cái vỏ phát triển tiến bộ, được sơn phết và tuyên truyền, khiến cho
bất cứ ai còn một chút hơi hám của con người, thấy ngó cũng phải đau lòng cho
vận nước, chỉ vì một gã Hồ Chí Minh trôi sông lạc chợ, đã làm cho non sông gấm
vóc phải tan hoang, không biết đến bao giờ mới được quang phục.
Ba
mươi bảy năm rồi, Việt Cộng vẫn là Việt Cộng dù ngày nay hình người có thay đổi
từ quần áo vải thô sang lụa tơ gấm nhiễu. Tất cả vẫn nguyên vết như cái thuở
hồng hoang mới rời hang Pắc Pó, rừng Bắc Sơn hay chui ra trong các hang Củ Chi,
Vĩnh Mốc. Vẩn đảng cọng sản là trên hết, còn nước thì nước xã hội chủ nghĩa. Vì
vậy cả nước, đều là tài sản của đảng, của cán bộ nên cứ ngang nhiên xén bán,
cầm thế, mà không cần biết tới hậu quả di hại cho con cháu mai sau.
Cũng không thể đứng nhìn đồng bào cả nước,
nhất là phu nữ đã phải bán trôn khắp thế giới để nuôi miệng, bán mạng để sống. Cũng không thể bắt người Việt hải ngoại cứ đổ
võ cho kẻ ăn ốc là bọn cọng sản và đám việt gian, việt kiều tay sai năm
vùng, bằng cách mỗi lần có thiên tai hoạn nạn, thì lại cứ nhân danh này này nọ
nọ, bắt đồng bào gửi tiền bạc về nước, để bọn lãnh đạo Bắc Bộ Phủ vểnh râu làm
giàu trên xương máu mồ hôi nước mắt của đồng bào tị nạn.
Cũng không thể để cho lá cờ máu và những tên
quốc tặc, hiện diện tuyên truyền, trong nhưng nơi chốn, có người Việt tị nạn
sinh sống, mà điển hình là vụ tên Trần Trường treo cờ máu và ảnh Hồ Tặc tại
Tiểu Sài Gòn, vào dịp Tết Kỷ Dậu 1999. Sau rốt cũng không cho VC tiếp tục lộng
hành, toa rập với đám tư bản bất lương Tây phương, Nam Hàn, Nhật Bản , Tàu
Trắng và tàn độc nhất là Trung Cộng, lũng đoạn kinh tế, phá nát kỷ cương và
chia xén lãnh thổ VN
Tám
mươi năm qua, người Việt đã trăm lần hòa hợp, hòa giải, hòa bình với cọng sản
nhưng trăm lần như một, lần nào cũng bị chúng xảo quyệt, lường gạt, đâm sau lưng,
mà lần cuối cùng đau đớn nhất là ngày 30-4-1975. Cho nên ba mươi bảy năm nay,
kể cả trẻ con cũng không còn ai tin vào sự hứa hẹn của cọng sản, trừ bọn cò mồi
không tim óc dù đã có cả núi bằng cấp và chữ nghĩa. Bởi vậy chỉ còn một cách
duy nhất, là cả nước đứng dậy phá tan xiềng xích nô lệ của đảng cọng sản, để đòi
lại những gì mà chúng ta đã mất, trong đó quan trọng nhất là quyền sống của
kiếp người.
Chừng
nào CSVN còn nắm giữ quyền hành và súng đạn trong tay, ngày đó đừng hòng chúng
san sẽ hay nhượng bộ bất cứ ai, nhất là giai đoạn đảng đang sống sướng trên núi
bạc rừng vàng, lại được cả Tàu và Mỹ hợp tác chia phần, nên chỉ cần ‘ đảng làm giàu mà thôi ‘, còn nhân
quyên, tự do dân chủ, chủ quyền đất nước, sinh mạng người dân..Tất cả coi như
là cỏ rác.
Viết từ Xóm Cồn Hạ Uy Di
Tháng 11-2012
MƯỜNG
GIANG
No comments:
Post a Comment